Tin Việt Nam
- Viết bởi Đức Thiện, VRNs tổng hợp
VRNs (06.03.2015) – Sài Gòn – Ghi nhận từ báo chí trong nước cho biết, chỉ có một số lượng nhỏ các quan chức đến tham dự hội thề không tham nhũng, khai mạc hôm 4/3 vừa qua tại Hải Phòng. Trong khi đó, lễ hội đền Trần và lễ hội Yên Tử lại được nhiều quan chức tham gia hưởng ứng.
Ông Nguyễn Trọng Khải, Chủ tịch UBND xã Thuận Thiên được tờ Thanh Niên dẫn lời cho biết, hằng năm đại diện chính quyền xã, huyện đều về tham dự lễ hội Minh Thề.
Diễn ra tại khu di tích chùa thôn Hòa Liễu, xã Thuận Thiên, H.Kiến Thụy, TP.Hải Phòng, lễ hội có nghi thức tuyên thề cho các bồi lễ và 12 lão niên của làng. Theo đó, các vị này thề với thần linh không lấy của công dùng vào việc tư, không ăn trộm ăn cắp, chứa chấp của gian tà…
Trong khi đó, tờ Tuổi Trẻ dẫn lời quan chức tổ chức lễ hội cho biết, đã có khá nhiều đại biểu công chức nhà nước đến dâng hương tại lễ hội đền Trần, Nam Định. Danh sách khách mời của Ban chỉ đạo lễ hội có gần 1000 đại biểu được mời.
Tại lễ hội Yên Tử, Quảng Ninh, xe đưa đại biểu về dự cũng đông ngoài dự kiến với số lượng trên 500. Ban tổ chức lễ hội đã phát ra hơn 1.900 giấy mời đến lãnh đạo các bộ, ban ngành, lãnh đạo một số tỉnh thành.
Cán bộ thề ‘là không đúng tập tục’
Bên cạnh việc ít quan chức tham dự, tờ Dân Trí còn tiếc nuối khi đặt vấn đề ‘Chỉ có dân thề!’ trong hội thề không tham nhũng.
Tờ Thanh Niên cũng có bài viết với tựa đề, ‘Sao quan chức không thề trong lễ hội chống tham nhũng ?’. Bài viết cho rằng, “nhiều người kỳ vọng lễ hội này cần được nâng cấp thành lễ hội cấp quốc gia, nhân rộng ra nhiều địa phương. ”
“Có ý kiến cho rằng những người dân tuyên thề trong buổi lễ là không đúng đối tượng bởi họ không có cơ hội để tư túi cá nhân. Đồng thời, cũng có ý kiến mong các cán bộ, lãnh đạo cùng uống chén rượu thề với người dân.”
Trả lời về vấn đề này, ông Nguyễn Trọng Khải, Chủ tịch UBND xã Thuận Thiên, cho rằng bản thân các cán bộ, công chức cũng đã phải hứa trước cơ quan, đơn vị khi được giao nhiệm vụ nên việc cùng làm lễ thề trước thần linh như cán bộ của làng là không đúng như tập tục.
Ông Lê Văn Quý, Bí thư Huyện ủy Kiến Thụy, tiếp lời, “ý tưởng đó rất tốt nhưng đây thuộc vấn đề nhạy cảm, ở chỗ đó là truyền thống của thôn. Bản thân cán bộ, đảng viên đứng trước lời thề của người dân như thế, dù chưa được thể hiện ra nhưng trong lòng cũng phải thề một cái gì đó trước thần linh, ông bà, nhân dân của mình làm điều ý nghĩa.”
Bạn đọc Phạm Anh Minh (
Bạn đọc dangloc (
Bạn đọc Tuân Thanh (
Trong khi đó, bạn đọc hữu lê (Huế) lại có ý kiến khác, tất cả cán bộ đảng viên đã thề khi vào Đảng rồi, thề trước thần linh chưa có bao giờ… Nhưng chỉ cần tâm sáng lòng trung thôi.”
Bạn đọc Công dân (TP.HCM) góp ý, “tất cả những việc làm dù xấu hay tốt là ở lương tâm mỗi con người, thề hay hứa thì cũng như nhau, quan trọng có đủ bản lĩnh để thực hiện được không?”
Trong bảng xếp hạng Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng 2014 (CPI 2014) được Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) công bố cuối năm 2014, Việt Nam đứng thứ 119/175 trên bảng xếp hạng toàn cầu và thứ 18/28 quốc gia và vùng lãnh thổ được đánh giá trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Bảng xếp hạng này dựa trên cảm nhận của các doanh nhân và các chuyên gia trong nước về tham nhũng trong khu vực công ở mỗi quốc gia / vùng lãnh thổ.
TI nói tham nhũng trong khu vực công vẫn là một vấn đề nghiêm trọng của Việt Nam.
Đức Thiện, VRNs tổng hợp
Nguồn: DCCT
- Viết bởi HT, VRNs
VRNs (04.3.2015) – Sài Gòn – Sáng nay ngày 04.03.2015, nhà cầm quyền xã Kon Thụp, huyện Măng Yang, tỉnh Gia Lai gây khó khăn cho dân làng cùi Đăk Pnan, sau khi họ lợp một mái hiên thô sơ bằng tre, bằng tôn trước nhà nguyện.
Một người sống trong làng cùi Đăk Pnan là ông Yáo phu Bơih cho biết: “Nhà nguyện Đăk Pnan có bề ngang 8m và dài 12m, nhưng chật quá, nên dân làng mới làm một cái mái hiên lợp bằng tôn, có trụ bằng tre với bề ngang 3m, dài 12m… Làm cái mái hiên này để che nắng che mưa cho bà con giáo dân, khi các ông cha vào dâng lễ cho dân làng, và [cũng là nơi] dân làng sinh hoạt cộng đồng nữa. Nhưng chính quyền không cho.”
Cũng trong buổi sáng ngày hôm nay, công an xã mời ông Bơih và hai Soeur -chăm sóc nhà nguyện- lên Ủy ban Nhân dân xã làm việc.
Ông Bơih thuật lại buổi làm việc với công an: “Thứ nhất, họ nói là, tối nay 12 giờ đêm, họ sẽ đến kiểm tra hộ khẩu, không cho các bà Soeur ở đây nữa vì các bà Soeur chưa đăng ký tạm trú. Thứ hai nữa họ nói là dân làng lập cái mái hiên qua mặt nhà cầm quyền, không thông báo cho nhà cầm quyền biết, nên họ cấm không cho phép làm [dựng mái hiên], bắt dân làng dỡ xuống, nhưng dân làng không dỡ, bởi vì nhà nguyện chật quá nên làm thêm một đoạn thôi.”
“Dân làng quyết không chịu dỡ mái hiên này đâu, cũng không cho các bà Soeur đi đâu hết.” Ông Bơih quả quyết.
Cách đây hơn 2 năm, khoảng cuối năm 2012, nhà cầm quyền xã Kon Thục đã từng gây áp lực buộc dân làng tháo dỡ ngôi nhà nguyện Đăk Pnan, nhưng cho đến nay, ngôi nhà nguyện vẫn được bảo toàn và số giáo dân ngày càng gia tăng.
Đak Pnan là một trong những làng cùi của vùng Măng Yang, tỉnh Gia Lai. Măng Yang là một trong những huyện có người Bahnar sống tập trung đông nhất.
HT, VRNs
Nguồn: DCCT
- Viết bởi Đức Thiện, VRNs tổng hợp
VRNs (03.03.2015) – Sài Gòn – Tờ Lao Động và Sức khỏe Đời sống cho biết, lần đầu tiên một Bộ trưởng cho biết sẽ “tiếp nhận những phản ảnh của quần chúng nhân dân” qua fanpage facebook.
Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã đưa fanpage vào hoạt động tại địa chỉ https://www.facebook.com/botruongboyte.vn
Bài báo cho biết, đây là fanpage duy nhất và chính thức của Bộ trưởng Y tế, đồng thời do chính bà Tiến trực tiếp quản lý và điều hành.
Theo đó, “mọi thông tin không đến từ trang Facebook này đều không chính xác và không đáng tin cậy.”
Cũng theo bài báo, fanpage được lập nên để tạo “kênh kết nối hữu hiệu, tức thời giữa cá nhân Bộ trưởng nói riêng, Bộ Y tế nói chung với quần chúng nhân dân. Với thông điệp ‘Lắng nghe & thấu hiểu’, fanpage hoạt động với 2 mục đích: cập nhật thông tin trong lĩnh vực y tế, tiếp nhận phản ảnh của quần chúng nhân dân.”
Tuy nhiên, bài báo không đề cập chi tiết việc những phản ảnh của quần chúng sẽ được giải quyết như thế nào.
Hồi tháng 7/2013, trên facebook xuất hiện một fanpage đề nghị ‘Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến hãy từ chức’, vì hàng loạt vụ bê bối của ngành. Fanpage này cho đến nay có trên 100 nghìn lượt like.
Hồi tháng 4/2014, bà Kim Tiến khẳng định bà “không nghĩ đến việc từ chức” trước những bê bối của ngành, vì tập trung khắc phục dịch bệnh thì quan trọng hơn.
Đức Thiện, VRNs tổng hợp
Nguồn: DCCT
- Viết bởi ĐT, VRNs
VRNs (04.03.2015) – Sài Gòn – Tờ Thanh Niên Online cho biết, một công an viên có liên quan đến vụ anh Nguyễn Văn Tình (39 tuổi, ngụ xã Kỳ Văn, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh) tử vong sau khi bị công an xã tạm giữ, nói rằng chỉ tát nhẹ” anh Tình trong quá trình điều tra.
Trưởng Công an xã Kỳ Văn Trần Khánh Dũng cho biết, công an viên Bùi Ngọc Sơn – một trong ba công an liên quan đến vụ việc – “khai chỉ tát nhẹ, không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe của anh Tình hoặc dẫn tới cái chết của nạn nhân.”
Ông Sơn cùng hai công an cơ động xã Kỳ Văn, tỉnh Hà Tĩnh là Nguyễn Văn Thanh và Cao Ngọc Thảo, đã được Cơ quan CSĐT Công an huyện Kỳ Anh triệu tập để điều tra về nguyên nhân tử vong của anh Nguyễn Văn Tình
Bài báo cho biết thêm, khoảng 4 giờ sáng 28/2, tổ công tác Công an xã Kỳ Văn gồm 3 công an trên bắt quả tang anh Tình và anh Cảnh đang đánh bạc tại nhà anh Cảnh.
Sau khi lập biên bản, anh Tình và anh Cảnh bị công an xã đưa về tạm giữ để điều tra tại trụ sở, vì có biểu hiện la hét, chống đối và gây mất an ninh trật tự.
Khoảng 8 giờ sáng cùng ngày, thấy sức khỏe của anh Tình có biểu hiện bất thường, mặt mày xanh tái nên công an xã đưa anh tới trạm y tế xã khám. Khoảng 1 giờ sau, anh Tình tử vong trên đường chuyển tới Bệnh viện đa khoa huyện Kỳ Anh cấp cứu.
ĐT, VRNs
Nguồn: DCCT
- Viết bởi Trần Thị Nga
VRNs (03.03.2015) – Hà Nam – Lúc 16giờ ngày 02/03/2015 công an phường Hai Bà Trưng Tp. Phủ Lý, Hà Nam dẫn theo gần 20 côn đồ “chúng là an ninh Tp. Phủ lý và an ninh tỉnh Hà Nam” xông vào nhà tôi tại tổ 8 phường Hai Bà Trưng để đàn áp, mục đích cướp tờ Biểu ngữ trước cửa nhà tôi với nội dung tố cáo hành vi ăn cướp của CSGT cùng an ninh Tp Phủ lý giả dạng côn đồ cướp xe máy và tài sản của tôi ngày 20/12/2013.
Xin tóm tắt vụ csgt cướp tài sản:
Khoảng 8 giờ ngày 20/12/2013, tôi chở con nhỏ đến Văn phòng tiếp dân tỉnh Hà Nam nộp đơn tố cáo hành vi của ông Vũ Hồng Phương, Phó trưởng phòng an ninh Tp. Phủ Lý, cùng ông Lê Thanh Nghị mặc thường phục giả dạng côn đồ chỉ đạo đồng bọn cướp máy ảnh và đánh vào bụng -khi tôi đang mang thai-, tại cửa nhà tôi, vào ngày 24/03/2012. Trên đường đi tôi bị nhóm an ninh côn đồ Tp Phủ Lý chỉ đạo cho CSGT Nguyễn Đức Hạnh mã số 347-221 và đồng bọn chặn cướp xe máy và tài sản trên xe của tôi.
Tôi đã nhiều lần làm đơn khiếu lại, tố cáo, trình báo, khởi kiện lên công an, viện kiểm sát và tòa án Tp Phủ lý và tỉnh Hà Nam nhưng họ không giải quyết, viện kiểm sát đẩy cho công an, công an ép tôi nhận tội mà tôi không phạm và họ không chịu nhận bằng chứng video tôi bị cướp xe. Tôi đưa đơn khởi kiện lên tòa án họ trả lại đơn với lý do “chị không được phép kiện công an vì công an là cơ quan hành chính của nhà nước”. Tôi yêu cầu họ đưa ra điều luật nào cho phép công an dùng con dấu đỏ và hội chứng bầy đàn ăn cướp tài sản của tôi mà tôi không được quyền kiện, thì họ ra văn bản trả lời là họ không đủ thẩm quyền để trả lời. Vì bị công an cướp tài sản tôi có quyền dùng tất cả mọi hình thức để đòi lại tài sản của mình.
Lúc 15h45 bạn Nguyễn Văn Kỳ từ Nghệ An ra Hà Nội đã ghé vào thăm tôi, hai chị em đang ngồi uống nước và ăn ổi thì công an, côn đồ kéo đến, kẻ trấn áp, kẻ quay phim đàn áp tinh thần chúng tôi. Công an gây sự kiếm cớ đòi kiểm tra tạm trú đối với Kỳ và đòi bắt Kỳ về đồn công an về tội không đăng ký tạm trú. Chúng tôi phản đối hành vi vô cớ vi phạm pháp luật đó của công an bởi vì không có một quy định của pháp luật nào yêu cầu bạn bè đến thăm nhau ban ngày có 15 phút mà phải đăng ký tạm trú.
Những tên côn đồ là công an Tp Phủ lý và công an tỉnh Hà Nam cà khịa ghé tai tôi dọa giết. Tôi đã nói với những người công an mặc sắc phục, hãy mở to mắt ra mà nhìn đồng đội của họ đang đe dọa giết tôi thì họ lảng chuyện.
Người dân kéo đến xem càng lúc càng đông, đa số người dân ủng hộ lý lẽ của chúng tôi thì lực lượng công an, côn đồ có vẻ xấu hổ, nên dần dần họ bớt đi sự hung hãn, họ tự lập biên bản, tự ký rồi kéo nhau lại cướp tờ biểu ngữ ở trên tường nhà tồi. Rồi từ từ họ bỏ đi.
Vào lúc 17giờ, tôi đã đuổi được họ ra khỏi cửa nhà. Tôi đã đóng được cửa lại, thì công an mặc sắc phục bỏ về, còn lại hơn chục tên công an tỉnh Hà Nam giả dạng côn đồ vẫn bao vây quay nhà tôi.
Vì sự an toàn của bạn Kỳ bởi những tên côn đồ công an đang vây quanh nhà tôi, nên chúng tôi đã quyết định đêm nay bạn Kỳ sẽ lánh nạn tại nhà tôi.
Lúc 18 giờ 40 tôi đã gọi điện cho công an phường Hai Bà Trưng số điện thoại 0351.3851761 báo lưu trú và thông báo với công an là nửa đêm đừng kéo côn đồ đến quấy nhiễu gia đình tôi.
Hiện tại là 21 giờ 36 phút, ngày 02/03/2015, gia đình tôi vẫn bình an và côn đồ vẫn bao vây bên ngoài.
Cảm ơn mọi người quan tâm.
Trần Thị Nga
Nguồn: DCCT
- Viết bởi CTNLT Chu Mạnh Sơn
VRNs (02.03.2015) – “Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai!”
Trẻ em là rường cột của quê hương đất nước, là tương lai của xã hội mai sau. Đầu tư cho trẻ em là đầu tư về lâu về dài. Các em là những cây non mỗi ngày mỗi lớn cao, tương lai các em sẽ là rường cột cho đất nước mình. Các em cần làm nên sự nghiệp vĩ đại hiển hách, đem lại hòa bình cho thế giới, đem lại hạnh phúc cho nhân loại.
Thế nhưng, chính quyền huyện Kỳ Anh – tỉnh Hà Tĩnh đã đuổi học 155 em học sinh Công Giáo thuộc Giáo Xứ Đông Yên – xã Kỳ Lợi – huyện Kỳ Anh trong độ tuổi Mầm Non, Tiểu Học và Trung Học Cơ Sở.
Trước khi bắt đầu năm học 2014 – 2015, các bậc Cha Mẹ của các em đã chuẩn bị đầy đủ hành trang cho các em cắp sách tới trường. Thế nhưng, khi đến ngày Khai Giảng năm học mới các bậc phụ huynh đưa con em của mình đến nhập học thì nhận được thông báo là các em không có danh sách trong lớp học của Trường.
Qua tìm hiểu sơ bộ, phụ huynh của các em thắc mắc tại sao lại không có danh sách của các em trong năm học mới này? Thầy Hiệu Trưởng của trường THCS Kỳ Lợi – huyện Kỳ Anh đã trả lời: “danh sách của các em đã chuyển đến chỗ tái định cư mới của người dân Đông Yên – xã Kỳ Lợi cách chỗ ở hiện tại khoảng 30 km.” Các bậc phụ huynh thắc mắc tại sao chúng tôi chưa chuyển lên chỗ tái định cư mới và hiện giờ vẫn đang ở tại thôn Đông Yên – xã Kỳ Lợi – huyện Kỳ Anh, vậy sao nhà trường lại bắt chuyển các em lên trên đó? Lên trên đó ở cùng với ai khi các em đang còn rất nhỏ? Thầy Hiệu Trưởng dường như cũng đồng cảm tâm trạng với các bậc phụ huynh nên đã thốt nên lời: “thật lòng chúng tôi không muốn như vậy vì các em cũng là những trò ngoan của mái trường nhưng vì lệnh cấp trên nên bắt buộc chúng tôi phải thi hành.”
Dù rằng hiện tại Trường THCS Kỳ Lợi – huyện Kỳ Anh vẫn để trống 6 phòng học vì không có đủ học sinh theo học. Tuy nhiên, vì các em không có danh sách trong lớp học nên khi đến trường thầy cô đã không cho các em vào lớp để tiếp tục học hành. Cho nên năm học 2014 – 2015 các em tại thôn Đông Yên – xã Kỳ Lợi trong độ tuổi 4 – 15 đã phải nghỉ học ở nhà không được cắp sách tới trường.
Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên?
Qua tìm hiểu được biết, vào cuối năm 2012 chính quyền huyện Kỳ Anh – tỉnh Hà Tĩnh triển khai cuộc di dân tái định cư đối với Giáo Dân xứ Đông Yên lên chỗ tái định cư mới. Cũng từ đây giữa chính quyền và người dân đã bắt đầu xảy ra những mâu thuẫn sâu sắc.
Trên mảnh đất mà người dân Đông Yên – xã Kỳ Lợi – huyện Kỳ Anh sinh sống đã có hơn 100 năm bề dày lịch sử. Chính nơi đây Ông Bà tổ tiên đã nhìn thấy những ưu đãi mà Thượng Đế ban tặng cho hậu duệ con cái mai sau và cũng chính vì thế mà họ đã quyết định dừng chân lập nghiệp trên mảnh đất màu mỡ này. Hôm nay (trước thời điểm di dời tái định cư) nhìn vào Giáo Xứ Đông Yên ai cũng phải trầm trồ thán phục bởi sự phồn thịnh về vật chất lẫn tinh thần của người dân nơi đây: nhà cửa cao tầng mọc lên san sát, đường làng ngõ xóm người dân tự vận động “nông thôn hoá”, thành lập các xí nghiệp chế biến hải sản,… thu nhập của người dân ngày càng tăng cao.
Tuy nhiên, khi chính quyền huyện Kỳ Anh – tỉnh Hà Tĩnh thực hiện chính sách di dời người dân thôn Đông Yên lên chỗ tái định cư mới nhưng không đạt được sự đồng thuận trong dân và cũng từ đó đã tạo nên Đông Yên ngày hôm nay. Một Đông Yên hoang tàn đổ nát, con người mất niềm tin vào cuộc sống, trẻ em bơ vơ không được tới trường,….
Khi tìm hiểu thực tế trong việc di dời TĐC (Tái Định Cư) mới hay, thôn Đông Yên nằm giữa hait hôn là Tân Phúc Thành và thôn Hải Thanh. Trong việc TĐC này thì hai thôn Tân Phúc Thành và Hải Thanh lại không bị ảnh hưởng gì, cuộc sống của người dân hai thôn này vẫn bình thường không xảy ra chuyện gì. Nhưng ngược lại, người dân Thôn Đông Yên – xã Kỳ Lợi (nguyên cả một Xứ Đạo có hơn 1000 hộ dân sinh sống) lại bị tàn phá tan hoang như bãi chiến trường sau chiến tranh. Phải chăng nhà cầm quyền Tỉnh Hà Tĩnh muốn xoá sổ Xứ Đạo có lịch sử hơn 100 năm hình thành và phát triển???
Nhà cầm quyền tỉnh Hà Tĩnh đã tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để hòng giải phóng mặt bằng. Thế nhưng khi người dân thôn Đông Yên tìm hiểu sự việc giải phóng mặt bằng để nhằm mục đích gì thì chính quyền huyện Kỳ Anh – tỉnh Hà Tĩnh đã không thể trả lời một cách chính đáng. Vì vị trí địa lý của thôn Đông Yên không thuộc vào vùng “đặc khu kinh tế Vũng Áng” cũng không vì lý do “an ninh quốc gia”. Vậy chính quyền huyện Kỳ Anh muốn giải phóng mặt bằng thôn Đông Yên để làm gì? Trong khi hai thôn Tân Phúc Thành và Hải Thanh nằm hai đầu của thôn Đông Yên lại không bị giải phóng mặt bằng là sao? Đây vẫn là câu hỏi lớn đối với chính quyền huyện Kỳ Anh – tỉnh Hà Tĩnh trong việc di dời TĐC đối với người dân thôn Đông Yên.
Cũng vì những khúc mắc chưa rõ ràng giữa người dân thôn Đông Yên với chính quyền huyện Kỳ Anh và nhất là trong việc đền bù chưa thỏa đáng nên 158 hộ dân vẫn chưa di dời lên chỗ TĐC mới. Qua tìm hiểu thực tế tại sao những hộ dân vẫn còn ở lại không chịu chuyển lên chỗ TĐC mới vì những lý do sau:
- Mục đích di dời , giải tỏa chưa được sáng tỏ.
- Chính quyền huyện Kỳ Anh – tỉnh Hà Tĩnh đã định mức tài sản vật chất của người dân không đúng giá bồi thường theo quy định của pháp luật.
- Chỗ ở nơi TĐC mới không đáp ứng những điều kiện sống căn bản về: y tế, giáo dục, công ăn việc làm, sinh hoạt tôn giáo,…
- Nơi đây (thôn Đông Yên) vẫn là quê cha đất tổ mà Ông Bà tổ tiên đã gầy dựng qua bao thế hệ và nay là con cháu tiếp tục nối dõi,…
Chính vì thế mà những hộ dân nơi đây không muốn rời bỏ xứ sở của mình để đến một vùng đất xa lạ để bắt đầu cuộc sống mới trong khi còn những bức xúc chưa được chính quyền huyện Kỳ Anh giải quyết một cách thấu tình đạt lý.
Một người dân đang ở lại chia sẻ: “chúng tôi không thể từ bỏ mảnh đất mà ông cha để lại cho con cháu để đi đến một nơi không bảo đảm các quyền lợi chính đáng. Trong khi ở đây chúng tôi có cuộc sống ổn định, có công ăn việc làm, cơ sở vật chất đầy đủ. Ngược lại, cuộc sống nơi TĐC không có việc làm, không có thu nhập,…” – ông Trần Việt Hoa chia sẻ.
Một người dân đã đi TĐC nhưng vẫn quay về chỗ ở cũ chia sẻ trong nước mắt: “lúc đầu nhà nước hứa hẹn nhiều điều, thế nhưng sau khi nhận tiền đền bù thì số tiền đó không đủ để dựng nhà dựng cửa, cuộc sống trở nên túng thiếu khi không có việc làm, không có thu nhập. Vì thế, chúng tôi phải quay về để tiếp tục nghề cũ để kiếm sống.Nếu ở trên đó (nơi TĐC) thì chỉ có chết đói cả nhà mà thôi.” – Chị Mai Thị Hoà
Một gia đình giấu tên chia sẻ cuộc sống của những gia đình nơi ở TĐC mới: “hầu hết mọi người không có công ăn việc làm nên sinh ra nhậu nhẹt, bài bạc, trộm cắp,…Vì thế mà cuộc sống của những người TĐC vô cùng khó khăn. Ai cũng muốn quay về quê hương nhưng về đâu khi chính quyền đã cho xe Cẩu đến phá nát nhà tan hoang đổ nát.”
Trước những khó khăn và tồn tại như vậy nên những hộ dân còn lại không muốn rời bỏ xứ sở để đến một vùng đất mới không có tương lai. Vì thế, chính quyền huyện Kỳ Anh đã dùng nhiều biện pháp để cưỡng chế người dân thôn Đông Yên chuyển lên khu TĐC mới. Tuy nhiên, 158 hộ dân còn lại quyết bám trụ quê hương đến cùng cho dù có phải mất tính mạng đi chăng nữa.
Chính quyền huyện Kỳ Anh – tỉnh Hà Tĩnh đã dùng đến biện pháp không cho các con em của 158 hộ gia đình còn ở lại được tiếp tục đi học ở trường THCS Kỳ Lợi. Với sự chỉ đạo của cấp trên, ban giám hiệu nhà trường đã chuyển danh sách của 155 em học sinh trong độ tuổi mầm non và THCS Kỳ Lợi lên nơi TĐC mới cách nhà 30 -40 km. Trong khi gia đình của các em vẫn còn bám trụ lại cuộc sống nơi đây thì mỗi ngày các em làm sao có thể vượt 30-40 km để tới trường?
Những Ước Mơ Của Các Em Nhỏ
Hiện giờ, toàn bộ 155 em học sinh đều phải ở nhà vì các em không được tới trường THCS Kỳ Lợi để cùng bạn bè học tập.
Tình cờ, tôi gặp một toán em nhỏ đang ngồi nhặt đá trước đống đổ nát của cảnh vật xung quanh và hỏi thăm về ước mơ của các em sau này sẽ làm gì?
Em Đậu Thị Tú Anh 13 tuổi chia sẻ: “Em muốn sau này sẽ trở thành Bác Sỹ để có thể giúp đỡ mọi người.”
Em Đậu Thị Mỹ Thương 12 tuổi nói lên mơ ước của mình: “em muốn sau này mình sẽ trở thành một Nữ Tu
Và mong ước hiện giờ của các em là sẽ được cắp sách tới trường như bao bạn bè, được học tập, được vui chơi, được thầy cô và bạn bè yêu mến, được ở lại trên mảnh đất thân thương này.
Nhìn những ánh mắt thơ ngây và hồn nhiên của các em không ai không suy nghĩ: “liệu rồi tương lai của các em sẽ về đâu khi không được học hành? Và tương lai của Đất Nước sẽ như thế nào khi tuổi trẻ được ươm mầm trong một môi trường xã hội như thế này?”
Kết
Đất Nước của chúng ta sau này như thế nào là tuỳ thuộc vào các thế hệ của tương lai. Vì thế mà Trẻ Em cần được chăm sóc và dạy bảo trong những điều kiện tốt nhất. Tuy nhiên, chính quyền Hà Tĩnh đã dùng “chính sách ngu dân” đối với 155 em học sinh thuộc xóm Đông Yên – xã Kỳ Lợi – huyện Kỳ Anh để ép những hộ dân còn lại phải ra đi đến nơi ở TĐC mới. Việc làm này hoàn toàn sai trái với Pháp Luật hiện hành và còn ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần của các em học sinh.
Vì vậy, chúng tôi tha thiết kêu gọi những tổ chức bảo vệ nhân quyền tiếp tục theo dõi và lên tiếng bảo vệ quyền lợi chính đáng cho những người có liên quan. Nhất là đối với 155 em học sinh không được tiếp tục cắp sách tới trường.
CTNLT Chu Mạnh Sơn
Nguồn: DCCT
- Viết bởi Ngô Nhân Dụng / Người Việt
Không phải chỉ trong hàng ngũ công an mới có người đang đặt câu hỏi trên. Tất cả những kẻ đang nắm quyền hành và hưởng lợi lộc nhờ chế độ Cộng Sản cũng ôm nỗi băn khoăn này.
Đảng mất mình đi đâu? Có người đã chọn rồi: Đi Mỹ! Trên mạng Internet đã thấy hình ngôi nhà một ông phó thủ tướng đương quyền mua ở Anaheim, California, USA. Cả hình bằng lái xe ở California của con trai ông ta. Trong đảng họ phá lẫn nhau cho nên mới tiết lộ cho bà con biết, còn hàng ngàn căn nhà khác vẫn được giữ kín “bảo vệ đảng.” Chắc chắn nhiều cán bộ cao cấp cũng tìm đường chạy từ lâu rồi. Và họ cũng biết một quy tắc của nghề đầu tư là “Không để trứng tất cả vào chung một cái giỏ.” Nếu rớt, trứng bể hết. Cho nên, những kẻ quyền cao nhất, thế mạnh nhất, “đông tiền” nhất, họ đều biết phải “phân tản” (diversify) các món đầu tư cho tương lai.
Một căn nhà ở Mỹ, một cái khác ở Đức, vài ba địa chỉ ở Úc, gửi tiền của đi chỗ nào xa xa nước Việt Nam đều tốt cả. Mà phải chọn những nơi an toàn. An toàn nhất là những nước dân chủ tự do. Chọn nơi nào có hệ thống tư pháp công bằng, trong sạch, tài sản của mình được luật pháp bảo vệ, không sợ có đứa nó ỷ quyền chiếm mất – như ở nước Việt Nam. Đem tiền sang các nước đó không những khỏi lo bị cướp mà dùng làm vốn sẽ sinh lợi cao hơn. Những nước có truyền thống dân chủ lâu đời cũng là những nước kinh tế lên cao nhất, nhờ tinh thần trọng pháp và luật lệ bảo vệ quyền tư hữu. Cho nên, các đồng chí chưa chắc đã mua nhà ở Quảng Châu, Côn Minh, Bắc Kinh, mà còn đem tiền sang các nước tư bản chính hiệu. Đó là tín hiệu con tàu sắp chìm, đàn chuột bỏ chạy trước.
Đảng mất mình đi đâu? Không phải ai cũng có tiền và có địa vị để chuẩn bị đường rút lai sang Tàu, sang Úc, Canada, Pháp, Đức, hay sang Mỹ.
Cho nên, đang lo lắng nhất bây giờ chắc là những người công an. Khẩu hiệu “Đảng còn thì mình còn” đã được nêu lên từ thời Trần Quốc Hoàn, Mai Chí Thọ. Công an tự nhận họ đóng vai “chó săn;” nhưng hãnh diện rằng họ “làm chó săn cho cách mạng!” Bộ máy tuyên truyền của Đảng Cộng Sản tài tình đã dựng hai chữ “cách mạng” như một vị thần hoàng để họ chui vào cung đình chia nhau ăn thủ lợn. Cái gì phục vụ“cách mạng” thì tốt, thì cao quý. Gán cho ai nhãn hiệu “phản cách mạng” thì xúi giục đám “quần chúng” côn đồ chửi bới, chém giết (Cải Cách Ruộng Đất), ám sát (Coi gương Khái Hưng, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm) ném phân vô cửa nhà người ta (Coi Hoàng Minh Chính, Trần Khải Thanh Thủy), hoặc đem vùi xuống đất đen (Coi Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần). Núp dưới bóng thần “cách mạng” đó, công an “phục vụ cách mạng” là công an an tốt, đáng tự hào. Họ có thể hãnh diện nhìn nhận công an an gắn bó keo sơn với đảng; họ hô to khẩu hiệu “Đảng còn thì mình còn” mà không thấy xấu hổ về cái vai trò ăn bám như loài ký sinh trùng.
Nhưng bây giờ, bức mặt nạ “cách mạng” đã rớt xuống. Đảng lệ thuộc ngoại bang đến mức không dám gọi tên những con tàu ăn cướp dân mình là Tàu Trung Quốc mà bắt các báo đài phải gọi là “tàu lạ.” Dân bèn chế nhạo: Coi chừng Người Lạ, Hàng Lạ! Chế độ gọi là “cách mạng” đã từng “học tập Mao Chủ Tịch” chia rẽ dân tộc, gây đấu tranh giai cấp, gây chiến tranh Nam Bắc, người Việt giết người Việt cho Trung Cộng thừa cơ chiếm quần đảo Hoàng Sa. Những công an dẫn đám côn đồ đàn áp các cuộc biểu tình đòi Hoàng Sa, Trường Sa của dân Sài Gòn, dân Hà Nội, phải tự nhìn thấy họ đang bị Đảng Cộng Sản xua đi phục vụ đế quốc đỏ Trung Hoa. “Mình còn” nhưng “Nước mất” thì ai sẽ trả lời cho con cháu đây?
Chính công an cũng thấy rõ chế độ bây giờ chỉ còn là một bộ máy cường quyền liên kết với tư bản đỏ tham nhũng, trục lợi. Đó là hậu quả không thể tránh được ở bất cứ nước nào do một chế độ độc tài đảng trị cầm quyền. Đảng còn ăn cướp được thì mình còn được ăn cướp. Nhưng họ cũng thấy hình ảnh những ngôi biệt thự xa hoa của những bí thư tỉnh ủy to lớn sang trọng hơn nhà mình trăm lần, ngàn lần. Họ đã thấy hình phòng khách trong nhà cựu Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu toàn bảo vật quốc gia. Gần đây là hình trong nhà Nông Đức Mạnh, tường cũng dát vàng với hai cái ngai vàng chạm hình rồng, bắt chước vua chúa đời xưa. Người có học nhìn cảnh đó phải cảm thấy thương hại đám cựu tổng bí thư đua đòi “trưởng giả học làm sang” bày trò khoe khoang nhơ nhuốc! Ngoài những “của nổi” này, các vua chúa đỏ còn bao nhiêu “của chìm” cất giấu trong các ngân hàng, trong thị trường chứng khoán và bao nhiêu ngôi biệt thự đã mua ở ngoại quốc? Công an vẫn phải đóng vai “chó săn,” nhưng bây giờ họ đang làm chó săn cho loài vua chúa nhố nhăng đó chứ chẳng có thứ cách mạng nào cả.
“Đảng còn thì mình còn nhưng đảng mất mình đi đâu?” Đó là câu hỏi đang ám ảnh những người công an biết suy nghĩ. Ở Việt Nam, Bắc Hàn và Trung Quốc.
Một mối lo ám ảnh nặng nề nhất là “ngàn năm bia miệng.”
Nhà văn Bùi Ngọc Tấn không phải là người nhỏ mọn. Nhưng trước khi qua đời ông không thể không nhắc đến tên một tay chỉ huy công an ở Hải Phòng, mà nhờ cuốn sách “Hậu Chuyện Kể Năm Hai Ngàn” của ông bây giờ cả nước biết họ biết tên. Họ và tên ông này là Trần Đông, thường vụ thành ủy, giám đốc sở công an Hải Phòng. Trần Đông đã vu cáo, đầy đọa nhiều nhà văn, chỉ để chứng tỏ mình tích cực tham dự chiến dịch vu cáo “nhóm xét lại chống đảng.” Bỏ tù mấy nhà văn làm lễ dâng công với Lê Đức Thọ, nhờ thế Trần Đông được thăng quan, lên làm tới chức thứ trưởng. Con cháu ông Trần Đông có cảm thấy nhục nhã khi biết cha, ông mình đã làm những việc thất đức đó hay không?
Bùi Ngọc Tấn không muốn thanh toán mối thù riêng. Ông phải viết ra vì món nợ chung với bao nhiêu bạn tù bị guồng máy độc tài hãm hại. Không kể hết thì những mối oan khiên không bao giờ được cởi. Nhà thơ Hoàng Hưng viết lá thư mở đầu cuốn sách đã thông cảm nỗi lòng Bùi Ngọc Tấn. Cho nên ông đã viết những lời hứa, những lời nguyền: “Còn một ngày cũng sống sao cho ra sống! Vì thế chúng ta phải viết! Họ không muốn ta viết, ta phải viết! Họ sợ ta viết, ta phải viết! Họ cấm ta viết, ta phải viết!…”
Những người không viết, họ có thể quay phim, có thể chụp hình. Vì vậy những bức ảnh ngai vàng trong nhà Nông Đức Mạnh mới được đưa lên mạng. Người phóng viên cầm máy ảnh trong tay chứng kiến cảnh vàng son lố bịch đó tự cảm thấy mình phải giúp tất cả đồng bào trông thấy cuộc sống xa hoa nhố nhăng của các vua chúa đỏ! Người biên tập trong tòa báo cũng đồng ý. Dòng họ Nông sẽ đi vào lịch sử không phải vì ông Nông Đức Mạnh làm lãnh tụ Đảng Cộng Sản một thời. Cả cuộc đời làm tổng bí thư của ông ta không ai nhớ Nông Đức Mạnh đã làm gì, đã nói được câu nào cho ra hồn. Nhưng từ nay ai cũng nhớ hình ảnh hai cái ngai vàng chạm đầu rồng trong nhà Nông Đức Mạnh!
“Đảng còn thì mình còn nhưng đảng mất mình biết trốn đi đâu?”
Không ai trốn được ngàn năm bia miệng!
Những người công an bây giờ biết nhiều hơn, nhìn lại các thủ lãnh đời trước cũng phải thấy nhục, phải xấu hổ: Cả ngành công an đã thối nát ngay từ thủa ban đầu, không phải chỉ vì những tên như Trần Đông. Trần Quốc Hoàn, trùm công an toàn quốc cũng “phục vụ cách mạng” bằng việc “dẫn gái” và giết người bịt miệng. Hoàn đã đưa cô gái từ miền thượng du về cho Hồ Chí Minh, hai bác cháu dùng xong rồi đem thủ tiêu người phụ nữ xấu số bằng tai nạn ô tô. Vũ Thư Hiên đã kể rõ chuyện trong Đêm Giữa Ban Ngày. Ngàn năm bia miệng, biết trốn đi đâu?
Tất cả các chế độ độc tài thối nát đều sẽ tan rã. Những người công an phải đọc được các tín hiệu báo trước chế độ đang tan rã. Một gia đình nông dân ở huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An đứng giữa chợ đả đảo chế độ Cộng Sản. Cậu con trai đã không ngần ngại hô khẩu hiệu “Tiêu diệt Đảng Cộng Sản!” “Tiêu diệt! Tiêu diệt!” Người mẹ còn hô to: “Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm!” Mà họ không chỉ hô một, hai lần! Lòng người dân phải chứa chất nỗi phẫn uất đến mức nào họ mới dám liều mạng hô to những tiếng “chết người” như vậy!
Chế độ độc tài chuyên chế nào cũng phải tan rã. Dân Việt Nam không ngu, không hèn hơn dân các nước Đông Âu. Công an mật vụ ở các nước này đã ngửi thấy mùi chế độ tan rã trước tháng 11 năm 1989. Cho nên khi chứng kiến cơn thủy triều dân chủ tự do dâng lên chính họ bỏ rơi Đảng Cộng Sản. Cuộc cách mạng ở Đông Đức không thể thành công nếu các công an Stassi đang gườm súng quyết định bắn vào đám biểu tình ngay trong ngày đầu ở thành phố Dresden. Dân thủ đô Praha nước Tiệp không thể tiến chiếm “Lâu Đài” nếu chính các công an không buông súng để ủng hộ. Đảng Cộng Sản Liên Xô tan hàng khi chính các sĩ quan KGB ngoảnh mặt đi, không cứu, dù chỉ bắn một phát súng. Trong cả ba nước đó, không một ai cất một ngón tay lên cứu Đảng Cộng Sản! Không một người nào nhỏ một giọt nước mắt tiếc thương! Tất cả cũng từng thuộc lòng câu: “Đảng còn thì mình còn!” Nhưng chính họ cũng nhiều đêm nằm vắt tay lên trán tự hỏi: “Đảng mất mình biết trốn đi đâu?” Và họ đã lựa chọn: Mình đứng về phía những người dân oan ức! Dân còn thì mình còn!
Ngô Nhân Dụng
(Đoạn video biểu tình chống chế độ ở huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An ngày 10 tháng Hai năm 2015 có nối kết trên mạng là http://youtu.be/uRW1SBR0zZ4 , nhưng có thể đoạn phim này đã bị tiêu hủy rồi. Chúng tôi mới mở ra và chỉ thấy một hình mở đầu, chúc quý vị may mắn hơn).
- Viết bởi Phạm Trần
VRNs (01.03.2015) – Washington DC, USA – Chuyện hòa hợp, hòa giải dân tộc sau 40 năm còn ngổn ngang trăm mối tơ vò lại rối ren thêm vào dịp Tết qua phát ngôn thiếu xây dựng và không đúng sự thật của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc và báo Quân đội Nhân dân.
Trước hết hãy bàn về Bài viết “Suy ngẫm đầu Xuân” của ông Sang đăng trên Tạp chí Quê Hương Online, Cơ quan ngôn luận của Ủy ban Người Việt Nam ở nước ngoài, phổ biến đúng ngày Mồng một Tết (19/02/2015).
Ông viết: “Trong thời kỳ Đổi mới, đồng bào ta ở nước ngoài tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc vận động nhiều nước gỡ bỏ hàng rào cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam; nhiều kiều bào trở thành cầu nối gắn kết, dẫn dắt các doanh nghiệp nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam. Với tấm lòng đau đáu vì sự phát triển của nước nhà, nhiều kiều bào trực tiếp về nước làm chuyên gia tư vấn, tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học, đầu tư công sức và tiền của để sản xuất kinh doanh, thành lập các công ty xuất nhập khẩu hàng hóa…”
Hoàn toàn sai với trường hợp của Mỹ. Hàng rào cấm vận Việt Nam từ 1975 đến 1994 do Hoa Kỳ chủ động và lãnh đạo nhằm cấm các nước có quan hệ với Mỹ giúp Việt Nam. Các Tổ chức quốc tế chịu ảnh hưởng lớn của Hoa Thịnh Đốn, tiêu biểu như Qũy tiền tệ Quốc tế (International Money Fund – IMF) và Ngân hàng Thế giới (World Bank – WB) cũng bị chi phối.
Lệnh cấm vận của Mỹ nhằm 2 mục đích chính: trừng phạt Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã xé bỏ Hiệp định Paris 1973, dùng võ lực đánh chiếm Việt Nam Cộng hòa, đồng minh của Mỹ. Thứ hai là chống cuộc xâm lăng chiếm đóng Kampuchea 1978 -1992 của quân đội CSVN.
Theo tài liệu chính thức, đến năm 1993, Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm các nước khác cho Việt Nam vay tiền trả nợ cho các tổ chức tài chính quốc tế. Năm 1994, Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn cấm vận Việt Nam và lập cơ quan liên lạc giữa hai quốc gia. Ngày 11 tháng 7 năm 1995, Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Như vậy, điều mà ông Chủ tịch Trương Tấn Sang bảo là “đồng bào ta ở nước ngoài tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc vận động nhiều nước gỡ bỏ hàng rào cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam”, trong trường hợp nước Mỹ là không có cơ sở. Bởi vì vào thời gian từ 1975 đến 1995, họat động của nhóm thiểu số được gọi là “người Việt yêu nước” thân Hà Nội ở Hoa Kỳ chỉ đếm trên đầu ngón tay và không có bất cứ khả năng vận động nào với Chính quyền Mỹ về chuyện bỏ cấm vận.
Có chăng là cuộc vận động tích cực của một số các Nhà lập pháp Mỹ cựu chiến binh Việt Nam, trong số có hai Nghị sỹ John McCain và John Kerry để đổi lấy hợp tác của Chính phủ Việt Nam trong công tác tìm kiếm quân nhân Mỹ còn mất tích tại 3 chiến trường Việt Nam, Lào và Kampuchea.
Ông Sang khoe “nhiều kiều bào trực tiếp về nước làm chuyên gia tư vấn, tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học”, nhưng số này không qúa 200 người đi về qua nhiều giai đọan từ khi có Nghị quyết 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị “về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”. Phần lớn người về giúp Việt Nam thuộc các tổ chức viện trợ Quốc tế hay giáo dục của các trường Đại học.
Ông Sang còn biểu dương: “Kiều hối không ngừng tăng, trở thành một trong những nguồn ngoại lực quan trọng đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Có thể khẳng định, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã thực sự góp phần không nhỏ vào thành công của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và sự vươn lên bắt nhịp mạnh mẽ của Việt Nam với khu vực và thế giới những năm qua”.
Sở dĩ người Việt ở nước ngoài gửi nhiều tiền về Việt Nam vì Nhà nước không đánh thuế trên khỏan tiền này, đồng thời giúp thân nhân có thể đầu tư vào ba ngành: dịch vụ, địa ốc và du lịch, hoặc gửi vào ngân hàng để lấy lời.
Nhưng nếu ông Sang cho rằng: “Những đóng góp đáng trân trọng và đầy tự hào đó của kiều bào ta đối với Tổ quốc xuất phát từ lòng yêu nước nồng nàn của mỗi người dân đất Việt, kết tinh trong truyền thống quý báu hàng ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam từ thuở Vua Hùng lập nước” thì đó là một ngộ nhận không phản ảnh trung thực mục đích giúp gia đình có cuộc sống khá hơn là chính.
Bởi vì “yêu nước” hay hướng về quê cha đất tổ luôn luôn là định hướng không bao giờ phai nhạt, dù trong bất cứ hòan cảnh nào đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Nhưng nếu coi hành động mỗi năm có hàng ngàn người Việt về thăm quê hương, dòng tộc, thăm mồ mả tổ tiên cũng đồng nghĩa với “yêu xã hội chủ nghĩa” hay chấp nhận đảng CSVN là một ý nghĩ cường điệu và sai lầm.
ĐẦU TƯ VÀ KIẾU HỐI
Theo thống kê của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngòai, hiện có 51/63 tỉnh, thành phố trong nước có các dự án đầu tư của người Việt Nam ở nước ngoài, với hơn 3,600 doanh nghiệp kiều bào với tổng số vốn đầu tư lên tới 8,6 tỉ USD.
Con số 8,6 tỉ USD không nhỏ, gần bằng một nửa nguồn vốn doanh nghiệp FDI (Foreign Direct Invesment, Đầu tư trực tiếp từ Nước Ngoài) vào Việt Nam năm 2014. (theo báo Giáo Dục Việt Nam, 19/02/2015).
Trong khi đó, số Kiều hối gửi về nước tăng trung bình 10-15%/năm, Năm 2009 là 6,83 tỷ USD, năm 2010 đạt mức 8,6 tỷ USD, năm 2011 là 9 tỷ USD, năm 2012 đạt 10 tỷ USD, năm 2013 đạt gần 11 tỷ USD.(theo Đài Tiếng nói Việt Nam,VOV ngày 20/09/2014).
Theo báo Giáo dục Việt Nam thì khỏan Kiếu hối lớn lao này đã “bù đắp được 92% chênh lệch cán cân thương mại. Trong năm 2012, dù tình hình kinh tế thế giới lẫn trong nước nhiều khó khăn nhưng lượng kiều hối vẫn có sự bứt phá, chạm mốc 11 tỷ USD. Hiện Việt Nam nằm trong số 10 nước nhận kiều hối hàng đầu thế giới”.
Các chuyên gia tài chính ở Việt Nam ước tính từ năm 1991 đến năm 2014, tổng số tiền 90 tỷ USD đã được người Việt ở nước ngoài gửi về Việt Nam, chiếm 1/3 tổng số vốn đầu tư của nước ngòai vào Việt Nam.
Phần lớn số tiền này do khối người Việt từ miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng hòa) ra đi từ năm 1975 đang định cư ở các quốc gia có nền công nghệ và giáo dục cao như Mỹ, Châu Âu, Canada và Úc Đại Lợi. Số còn lại là của khỏang 500,000 lao động Việt Nam được Nhà nước gửi ra nước ngoài làm việc, nhiều nhất tại Nam Hàn và Đài Loan.
Nhưng ở Việt Nam doanh nhân Việt kiều không có các dự án kinh tế lớn, đáp ứng nhu cầu tốt, mang lại lợi nhuận cao vì nhiều địa phương đã dành các địa bàn thuận lợi, lưu thông tốt, gần thành phố, các ngành dễ kiếm tiền cho các doanh nghiệp trong nước và của nhà nước.
Vì vậy nhiều doanh nhân Việt kiều không muốn “mang tiền đi đổ sông Ngô” vì nhà nước CSVN vẫn dành nhiều ưu đãi cho các nhóm lợi ích trong đảng.
Ngoài ra thủ tục hành chính rườm rà lại hay thay đổi, áp dụng tùy tiện, cán bộ coi Việt kiều như những con mòng béo mập nên làm gì cũng phái nạp tiền “bôi trơn” hay “phong bì” thì mới xong khiến doanh nhân nản chí.
Báo Giáo dục Việt Nam, GDVN (19/02/2015) phản ảnh: “ Ông Phạm Văn Thắng – một Việt kiều Đức trở về đầu tư trong nước 12 năm cho rằng Việt Nam có nhiều lợi thế thu hút đầu tư vào lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là dịch vụ, du lịch. Các cơ chế đầu tư ở Việt Nam khá thông thoáng, chi phí sinh hoạt rẻ, công nhân Việt Nam khéo tay, có năng suất lao động cao, với những người được đào tạo, không kém các nước khác.
Những khó khăn của doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài khi đầu tư vào trong nước chủ yếu liên quan đến chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, thủ tục hành chính, chính sách cần có định hướng lâu dài bền vững… Chính vì gặp nhiều khó khăn đặc biệt trong vấn đề thủ tục hành chính, những công nghệ ông Thắng đưa về Việt Nam không được lắng nghe áp dụng vì vậy doanh nhân này đang tính đường quay trở lại Đức để kinh doanh.”
Trong một bài viết đăng trên báo GDVN ngày 24/02/2015, ông Thắng thổ lộ: “Cách đây 12 năm khi trở về Việt Nam đầu tư, tôi ấp ủ nhiều dự định triển khai các công trình về công nghệ. Trong đó có công nghệ gia cố đất làm đường bằng phụ gia của Đức, công nghệ làm sạch, công nghệ làm vật liệu không nung của Đức… nhưng tất cả đều thất bại.
Thất bại vì nhiều lý do, trước hết phải khẳng định chính sách của Đảng và Nhà nước rất khuyến khích, rất mở. Tuy nhiên cơ chế tổ chức vận hành của toàn bộ cơ sở hạ tầng này vẫn ì ạch, trì trệ, không đáp ứng được với những yêu cầu của những doanh nhân Việt kiều. Chúng tôi quen cách làm việc hiện đại thông thoáng của những nước tiên tiến…..
….Cũng là kinh doanh nhưng bên kia không phải động tác phong bì… còn bên mình thì doanh nghiệp phải lo quá nhiều cái, mà không thế không được….Về đầu tư, văn bản pháp luật, chính sách thay đổi liên tục doanh nghiệp khó chạy theo, muốn làm cũng khó.
Tuy nhiên khi khoe khoang qúa lố công lao của đảng trong công tác Việt kiều, ông Sang đã sai lầm khi nói rằng: “Để có được những thành công đó, chúng ta tự hào có Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn quan tâm tới bộ phận máu thịt không thể tách rời là 4,5 triệu người con Việt Nam ở bốn phương trên khắp địa cầu. Vai trò và vị trí của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài luôn được ưu tiên trong chính sách của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài đã được cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương tích cực triển khai nhằm mục đích tạo thuận lợi nhiều nhất cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài”.
“Ưu tiên”, “quan tâm” và “tạo thuận lợi” cho Kiều bào ra sao thì ông Sang hãy đọc những lời trăn trở để rút khỏi Việt Nam của thương gia Phạm Văn Thắng.
Ông Sang cũng cần nhìn ra sự thất bại của Ủy ban Người Việt Nam ở nước ngoài, sau 10 năm thi hành Nghị quyết 36, đã không sao lôi kéo được thế hệ Việt kiều thứ hai ra đi sau 1975 mà cả với thế hệ thứ ba và thứ bốn sinh ra ở nước ngoài cũng không ai muốn về nước sống chung với chế độ Cộng sản còn tiếp tục tước đoạt các quyền tự do cở bản của người dân.
Do đó, ông Chủ tịch nước cũng không nên hờn dỗi nói rằng : “Mỗi dịp Xuân về, người Việt Nam dù ở bất cứ nơi đâu đều mong được trở về quê hương, thắp nén hương cho ông bà tổ tiên, thăm lại nơi chôn rau cắt rốn. Đó là truyền thống, đạo lý quý báu của ông cha ta truyền lại qua ngàn đời, được cả dân tộc gìn giữ và nâng niu. Nhưng chúng ta không khỏi chạnh lòng khi hàng chục triệu lượt kiều bào đã trở về thăm Tổ quốc, thì vẫn còn một bộ phận nhỏ chưa một lần về lại quê cha đất Tổ kể từ khi cất bước ra đi. Họ vẫn còn định kiến, mặc cảm của quá khứ. Họ có hiểu chăng đất mẹ luôn mở rộng vòng tay nhân ái cho mọi người con trở về trong đùm bọc và yêu thương. Tôi mong rằng sẽ sớm có một ngày 4,5 triệu người Việt Nam nước ngoài đồng lòng như một, hướng về Tổ quốc, chung tay góp sức làm rạng rỡ cho non sông gấm vóc Việt Nam.”
Ông Sang bảo chỉ “còn một bộ phận nhỏ” trong số 4.5 triệu Kiều bào không muốn thân thiện với nhà nước và đảng CSVN thì hoặc ông đã bị cấp dưới nịnh hót báo cáo sai, hay ông đã không dám nhìn vào sự thật để thất vọng thấy rằng nếu có một cuộc trưng cầu ý kiến thì sẽ thấy số người Việt ở nước ngoài muốn về Việt Nam sinh sống không có bao nhiêu vì có ai dại để đánh mất tự do bao giờ ?
LÝ LUẬN DƯƠNG TRUNG QUỐC
Bài viết thứ hai cần bàn tới là của Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc, Tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.
Ông Dương Trung Quốc, quê quán xã Bình Thắng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre, sinh năm 1947 và lớn lên tại Hà Nội.
Ông không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng được đảng chọn là Đại biểu Quốc hội của Tỉnh Đồng Nai từ các khóa XI, XII và XIII. Ông cũng là một trong số rất hiếm người đã có những phát biểu thẳng thắn trong các kỳ họp quốc hội.
Ông còn là một trong số 2 Đại biểu Quốc hội “không bấm nút chấp thuận bản Hiến pháp sửa đổi 1992 sáng ngày 28/11/2013”, với lý do ông đứng về phía những người dân “có ý kiến khác”, nhất là việc Quốc hội đã “luật hoá” Cương lĩnh của Đảng gọi là “Xây dựng đất nước trong thời ký qúa độ lên Xã hội Chủ nghĩa”.
Với tiêu đề “Hòa hợp dân tộc là quy tụ được nhân tâm” đăng trên báo Lao Động điện tử, Cơ quan của Tổng kliên đoàn Lao động Việt Nam, ngày 19/02/2015 (Mồng Một Tết), ông Quốc viết: “ Hiệp định Genève (20/07/1954) được ký kết tạm thời chia cắt đất nước, nhưng rồi sự tạm thời ấy không thể giải quyết vấn đề thì chúng ta lại phải tiếp tục sự nghiệp chiến đấu, ngay cả khi Mỹ can thiệp vào, chúng ta phải tiến hành kháng chiến chống Mỹ”.
Thiết nghĩ, là Nhà Sử học thì ông Dương Trung Quốc biết rõ hơn mọi người về sự khác biệt giữa “tiếp tục sự nghiệp chiến đấu” cho chính nghĩa hay “kháng chiến chống Mỹ” như “chống Pháp giành độc lập” trước đây.
Khác với cuộc chiến chống Pháp của toàn dân chứ không của riêng người Cộng sản, chủ trương “xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa” của đảng CSVN ở miền Bắc (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) sau Hiệp định Geneve 1954, là nguyên nhân của cuộc nội chiến nồi da xáo thịt đồng bào kéo dài 20 năm, 1955 -1975.
Ông Dương Trung Quốc đã thần thánh hóa nhóm chữ “sự nghiệp chiến đấu” và “kháng chiến chống Mỹ” để xóa đi tội ác xâm lược miền Nam của đảng CSVN. Từ Chính quyền Quốc gia Việt Nam sau Hiệp định Geneve 1954 (Ngô Đình Diệm) đến các Chính phủ Việt Nam Cộng hoà sau này (1956-1975), chưa khi nào Quân đội của miền Nam đã vượt Vỹ tuyến 17 chia đôi đất nước để trả đũa các cuộc tấn công của Bộ đội miền Bắc.
Ngược lại chính quyền Cộng sản miền Bắc đã bịa đặt ra chuyện đồng bào ruột thịt nhân dân miền Nam bị kìm kẹp trong gông cùm của Mỹ-Ngụy nên đã xâm nhập người và vũ khí vào Nam để mở ra chiến tranh dưới chiêu bài “giải phóng”!
Miền Bắc cũng đã mời 320,000 quân Trung Quốc vào giúp bảo vệ miền Bắc để cho bộ đội rảnh tay mang súng đạn của các nước thuộc khối Xã hội chủ nghĩa do Nga Sô lãnh đạo vượt Trường Sơn vào đánh phá VNCH.
Nhưng chắc ông Dương Trung Quốc, Nhà biên sử, làm sao có thể quên câu nói để đời của Tổng Bí thư Lê Duẩn : “Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta.” ? (theo Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, Nxb. Văn Nghệ, 1997, tr. 422, phần chú thích)
Như vậy thì chính nghĩa “giải phóng” cho ai và vì ai đã rõ chưa mà Đại biểu Dương Trung Quốc vẫn viết rằng: “Trong sự kiện 30.4.1975, ta dùng chữ “giải phóng” là rất đúng, nhưng giải phóng là hướng tới mục tiêu không chỉ độc lập dân tộc, mà quan trọng nhất, thiêng liêng nhất là thống nhất quốc gia. Ngày nay, rõ ràng chúng ta đang nối tiếp sự nghiệp ấy bằng việc bảo toàn sự toàn vẹn lãnh thổ, kể cả biển đảo. Tôi cho rằng, đương nhiên một cuộc chiến tranh có kẻ thắng người thua, nhưng quan trọng nhất là chúng ta đạt được mục tiêu. Mục tiêu không phải chúng ta chiến thắng đối phương, mà đó chỉ là phương thức để đạt tới mục tiêu thống nhất đất nước”.
Lý luận con loăng quăng của Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam chỉ để giảm thiểu tính gỉa dối của hai chữ “giải phóng” và phủi trách nhiệm lịch sử đối với những người, ở cả hai bờ chiến tuyến, đã nằm xuống.
Trong suốt 20 năm chiến tranh, dù phải đối phó với cuộc xâm lăng tàn bạo của bộ đội Cộng sản miền Bắc và du kích quân Cộng sản trong Nam do miền Bắc chỉ huy, nhân dân miền Nam chưa hề bao giờ bị ai “kìm kẹp, áp bức, bóc lột sức lao động hay thiếu ăn, thiếu mặc và nghèo nàn” như đồng bào miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa.
Nếu ông Quốc bình tĩnh lấy kính hiển vi soi lại mức sống và tình trạng xã hội của miền Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì ông sẽ thất vọng khi biết đã có những người lính bộ đội bật khóc khi vừa đặt chân đến Sài Gòn hoa lệ của miền Nam, trong ngày được gọi là “giải phóng” vì đến lúc đó họ mới biết đã bị đảng đánh lừa đẩy vào cuốc chiến vô lý.
Câu nói nổi tiếng nhất trong họ là của Bà Dương Thu Hương, Nhà văn gốc Bộ đội : “Tôi đã ngồi phệt xuống vỉa hè Sài Gòn khóc, tôi biết miền Nam đã giải phóng miền Bắc chứ không phải ngược lại.”
Bằng chứng lịch sử đã nói nhiều về sự khác biệt giữa hai xã hội Nam-Bắc khi họ bước chân vào Thủ đô Sài Gòn và các thành thị miền Nam mà không cần phải biện giải thêm.
Hơn thế nữa, theo theo 4 định nghĩa của “Đại từ điển tiếng Việt” của Nhà xuất bản Văn hoá – Thông tin năm 1998 thì nghĩa của “giải phóng” là : 1.- Làm cho thoát ách áp bức, được tự do:giải phóng đất nước. 2.- Làm cho thoát khỏi những ràng buộc bất hợp lí: giải phóng phụ nữ. 3.- Làm cho hết mọi cản trở để thực hiện mục đích: giải phóng mặt bằng. 4.- Làm cho chất này được thoát khỏi chất khác: Phản ứng hoá học đã giải phóng chất khí.
Như vậy, sự kiện 30.4.1975 không thể gọi là “giải phóng” như ông Dương Trung Quốc đã bẻ cong tiếng Việt cho phù hợp với tư duy chính trị của Đại biểu Quốc hội, thay vì phải trung thực và trong sáng trong quan điểm của nhà viết sử.
Đồng bào miền Nam không cần miền Bắc giải phóng. Đảng và quân đội CSVN đã xâm lược và chiếm đóng Việt Nam Cộng hòa để thống nhất đất nước bằng võ lực để sau đó gây ra thảm trạng ngụy trang “học tập cải tạo”dành cho hàng trăm ngàn quân và dân miền Nam.
Cũng vì hai chữ “giải phóng” lừa bịp mà hàng chục ngàn con dân Việt Nam vô tội khác đã phải bỏ mình ở Biển Đông trên đường vượt biển tìm tự do.
Hai chữ “giải phóng” cũng đã bần cùng hoá nhân dân đô thị miền Nam đang từ no cơm ấm áo xuống hàng nô lệ bần cùng trong chiến dịch đuổi dân đi vùng “kinh tế mới” và “cải tạo tư sản miền Nam” hay “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh miền Nam” , bắt đầu từ ngày 04/09/1975 chủ động trên giấy tờ bởi chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.
Sau đó, giai đọan 2 từ ngày 15/07/1976, làm theo Nghị quyết 254/NQ/TW của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam (sau này đổi thành Đảng Cộng sản Việt Nam) quy định “ về những công tác trước mắt ở miền Nam, hoàn thành việc xoá bỏ giai cấp tư sản mại bản, tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.”
Sau chiến dịch sai lầm tận diệt tư sản – mại bản trong Nam, kết thúc năm 1978, nhân dân cả nước lâm vào đói kém khiến đảng phải “đổi mới hay là chết” tại kỳ Đại hội đảng VI năm 1986.
Đó là bài học “giải phóng”, không phải cho người dân miền Nam, phe bại trận mà cho chính những kẻ chiến thắng ngạo mạn chưa bao giờ biết rằng “lịch sử cũng biết nói”.
Rất tiếc Nhà sử học, Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc không muốn dừng ở đây. Ông Quốc nhìn nhận lòng người trong-ngoài vẫn còn phân tán nhưng không quy trách nhiệm cho ai đã gây ra tình cảnh như bây giờ, 40 năm sau cuộc chiến chấm dứt.
Ông viết: “ Chúng ta luôn tự hào nói về một cộng đồng hàng triệu người Việt Nam ở nước ngoài, nhưng thực sự khiến cho cộng đồng ấy gắn bó với tổ quốc ta và chế độ chính trị của ta là một quá trình phấn đấu lâu dài.
Vì thế tôi cho rằng, năm nay kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta nên xác định và chia sẻ nhận thức ấy để thấy điều quan trọng hiện nay là phải quy tụ được nhân tâm vì đất nước….Trong hòa hợp dân tộc, nói về sự phân tâm chúng ta biết rằng nó gắn với những biến cố chiến tranh. Quy luật chiến tranh rất khắc nghiệt, có máu đổ xương rơi từ cả hai phía, có những chính sách khắc nghiệt để lại những vết hằn khó lành.”
KHÔNG LÀM ĐƯỢC-TẠI SAO ?
Nhưng tại sao lại “khó lành” thì người Việt Nam ở nước ngoài và rất nhiều người trong nước, đặc biệt là giới Trí thức và cựu đảng viên biết rất rõ, sau khi đã cả đời hy sinh mà cuộc sống bây giờ vẫn còn hẩm hiu hơn kẻ hậu sinh chưa mất một giọt máu trên chiến trường.
Những người này đang ngày đêm đấu tranh đòi dân chủ và tự do cho con cháu và cho thế hệ mai sau, nhưng lại bị đảng đàn áp và cô lập, có người đã hết cả đường kiếm sống thì Nhà nước CSVN muốn hòa hợp và hòa giải với ai ?
Do đó khi nghe ông Dương Trung Quốc kêu gọi người bỏ nước ra đi vì không còn đường sống với người Cộng sản “cũng phải hiểu tại sao lúc đó chúng ta phải tiến hành những chính sách cứng rắn như thế. Nhìn lại quá khứ ta thấy rằng, chiến tranh vừa kết thúc, nền kinh tế còn chưa khôi phục, kẻ thù cũ vẫn cấm vận và chống phá, lại xuất hiện những kẻ thù mới vốn là đồng minh của mình, mà cuộc chiến tranh biên giới ở Tây Nam và phía Bắc thể hiện những khó khăn chồng chất ấy.
Trong bối cảnh đó, những người cầm quyền cũng không còn cách nào khác, buộc phải đối xử bằng một chính sách rất khắc nghiệt. Nếu chúng ta chia sẻ được với hoàn cảnh lịch sử cụ thể thì sẽ giảm đi phần nào những mặc cảm, hận thù.”
Ông Quốc phát biểu như thế vì ông chưa hề bao giờ là nạn nhân của kẻ chiến thắng. Câu chuyện không đơn giản như rủ nhau ngồi vào chiếu rượu để uống cho say bí tỉ rồi bắt tay nhau cười vang “đòan kết, đại đòan kết” là xong.
Không hiểu Nhà sự học Dương Trung Quốc còn nhớ câu nói của ông Nguyễn Đức Bình, Giáo sư triết học, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị khóa VII, VIII, nguyên Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, một thời đã nói chủ trương của đảng là “đổi mới nhưng không đổi màu”, “hoà hợp mà không hòa tan ” ?
Chân lý cực kỳ bảo thủ này vẫn đang được học tập và áp dụng sâu rộng trong đảng, nhất là khi Ban Tuyên giáo nói về “hòa hợp-hòa giải dân tộc”, tuy màu mè, hào sảng nhưng “trăm voi không được bát nước xáo” !
Vì vậy, sẽ không ngạc nhiên khi thấy ông Quốc nêu ra ý kiến : “
Trong vấn đề hòa hợp dân tộc, cái chưa được là sự chênh lệch giữa những con người ở hai phía. Trong đó, một phía muốn đi nhanh hơn, còn một phía vì nhiều lý do mà muốn phải đúng mực. Như vậy, cả hai bên phải cùng thúc đẩy phải có sự trao đổi để gặp nhau.”
“Tôi thấy một nguyên lý của người xưa rất đúng là phải đặt vào địa vị người khác mới hiểu được người ta. Tôi suy nghĩ về việc có phải đây là sự chìa bàn tay của người chiến thắng với kẻ thua hay đây là trách nhiệm chung đối với tương lai, con cái của mình.”
Thiện ý của ông Quốc rất đáng để tâm, nhưng chưa ai quên được những cố gắng “hòa hợp-hòa giải” thất bại của hai Việt kiều nổi tiếng là nguyên Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ và Nhạc sỹ Phạm Duy.
Hai ông đã đem về Việt Nam cả sự nghiệp và danh dự cá nhân cốt để “người chung một nước phải thương nhau cùng” ! Nhưng sau 7 năm trăn trở đi-về giữa Mỹ và Việt Nam từ 2004 đến ngày qua đời ở Kuala Lumpur (Mã Lai Á) 23/07/2011, ông Kỳ đã không làm được gì cho đúng với “biểu tượng của hoà hợp dân tộc” mà phiá chính quyền Cộng sản đã tặng cho ông.
Nhạc sỹ Phạm Duy về Việt Nam sinh sống từ ngày 17/05/2005 cũng với ý tưởng “người Việt hãy ngồi lại với nhau”, nhưng sau 8 năm rong hát đó đây từ Nam ra Bắc như ông tự coi mình là “lá rụng về cội”, Phạm Duy qua đời tại Sài Gòn ngày 27/01/2013, hơn một tháng sau khi người con trai cả của ông, Ca sỹ Duy Quang qua đời tại California ngày 20 tháng 12 năm 2012.
Sự ra đi của 2 mẫu người trong chuyện “hòa hợp-hòa giải dân tộc” tưởng là chuyện thường sinh-lão-bệnh-tử, nhưng đằng sau vẫn có một hố ngăn cách để giải thích tại sao chuyện “con cùng một mẹ chớ hoài đá nhau” vẫn còn nhiều kẻ muốn đá giò lái khi ngoài miệng thì vẫn nói cười hòa hợp trơn hơn mỡ lợn !
BÁO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
Đó là những gì mà Tác gỉa Thiện Văn của báo Quân đội Nhân dân đã viết trong bài “Cầu đồng tồn dị”, vì mục tiêu tốt đẹp của đất nước”, ngày 23/02/2015
Tác giả khoe : “ Thấm nhuần tư tưởng “Đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, một mặt, dân tộc Việt Nam dám đánh, quyết đánh và đánh đến cùng bọn xâm lăng cướp nước; nhưng mặt khác, dân tộc ta cũng rất khoan dung, độ lượng. Khi giặc đầu hàng, không những không trả thù, mà ngược lại còn đối đãi tử tế và cấp phương tiện, lương thảo cho chúng trở về nước. Hiếu sinh mà không hiếu sát, căm thù quân xâm lược mà không giết hại khi chúng thất bại là truyền thống nhân nghĩa cao cả của dân tộc ta. Với con người Việt Nam, sau khi “Đạp quân thù xuống đất đen/ Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”!
Bài báo nói vậy mà không phải vậy khi đảng CSVN, một mặt phỉ báng những ai nghi ngờ sẽ có “tắm máu, trả thù ở miền Nam” sau ngày 30/04/1975, nhưng lại đánh lừa hàng trăm ngàn quân-cán-chính thất trận của VNCH đem đi đầy ải cực hình tại các trại tù lao động mệnh danh “học tập cải tạo”.
Rất nhiều nạn nhân của chế độ mới đã bị chết mất xác, bị đổi xử tệ bạc và bị hành hạ thân xác trong các nhà giam bị bỏ đói, bị chết khát, bị còng tay chân đến mang thương tật cả đời và bệnh tật không được chữa trị.
Thế mà báo Quân đội Nhân dân vẫn tự khoe những điều không có thật : “Mang trong mình phẩm chất, tâm thế ấy từ hàng nghìn đời nay, dân tộc ta luôn mở rộng vòng tay để đón bạn bè khắp năm châu bốn biển, trong đó có cả những người Việt đã từng một thời “lạc lối lầm đường”. Với những người như thế, Đảng, Nhà nước ta luôn lấy tình đồng bào để cảm hóa họ, giúp họ hướng về điều hay lẽ phải và những giá trị, niềm tin tốt đẹp của cội nguồn, dân tộc. Trong mấy chục năm qua, nhất là sau khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới (1986), Đảng, Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm tập hợp, đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp và lực lượng trong xã hội với thái độ “cầu đồng tồn dị”, lấy cái chung nhất, lớn nhất để cùng chung sống hòa thuận, gắn bó với nhau, không vì cái nhỏ, cái khác biệt trong suy nghĩ, phong tục, tập quán, lối sống mà gây chia rẽ, mất đoàn kết; đồng thời chấp nhận sự khác biệt giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc sinh sống trên đất nước ta và người Việt ở nước ngoài, nhưng không trái với mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nhưng khi nói rằng đảng “chấp nhận sự khác biệt giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc sinh sống trên đất nước ta và người Việt ở nước ngoài, nhưng không trái với mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” thì đó là điều kiện tiên quyết không cần bàn cãi mà trên hết phải tuân hành, chấp nhận “chủ nghĩa xã hội”, hay chủ nghĩa Cộng sản cũng thế !
Như vậy là chỉ có đảng có lẽ phải, ai muốn “hòa hợp” thì chui vào, không có quyền bàn cãi phải trái ?
Thiện Căn cũng không ngại lên giọng : “Đối với những người “đi theo phía bên kia” trong các cuộc chiến tranh trước đây, chúng ta sẵn sàng “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho họ hồi hương, thăm thân và hợp tác làm ăn cùng xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp.
Từ Cương lĩnh của Đảng đến Hiến pháp của Nhà nước đều khẳng định: Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam. Từ chủ trương đúng, chính sách nhất quán và thái độ ứng xử trước sau như một, hằng năm số Việt kiều về thăm quê hương ngày càng đông, góp sức người, sức của cho Tổ quốc ngày càng nhiều”.
Nhưng về thăm quê hương đâu có nghĩa là cuốn gói đi theo đảng ? Việt kiều gửi tiền giúp gia đình cũng không đồng nghĩa với “giúp nước” của người Cộng sản ?
Sau khi khoe “Chỉ tính 4 năm trở lại đây, lượng kiều hối chuyển về nước liên tục gia tăng. Nếu như năm 2000, lượng kiều hối chuyển về Việt Nam mới đạt 1,3 tỷ USD, thì mười năm sau, năm 2011 con số này lên tới 9 tỷ USD. Ba năm qua (2012-2014), lượng kiều hối tăng dần từ 10, 11 đến 12 tỷ USD”, bài báo tự vẽ ra điều được gọi là “niềm tin” của Kiều bào với nhà nước : “Đó là những “con số biết nói” thể hiện niềm tin của bà con Việt kiều đối với môi trường hòa bình, ổn định của đất nước và những triển vọng tốt đẹp của dân tộc Việt Nam trên con đường xây dựng và phát triển.”
Có đúng như Thiện Căn và báo Quân dội Nhân dân tự biên tự diễn về một sự đồng thuận chính trị nào đó đã gắn kết đảng CSVN với người Việt Nam ở nước ngoài, hay cũng chỉ là câu chuyện “hòa hợp để mồi đầu tư và hòa giải để được thêm kiều hối” ?
Phạm Trần
Nguồn: DCCT
- Viết bởi ĐT, VRNs
VRNs (27.02.2015) – Sài Gòn – Hội Nhà báo độc lập Việt Nam (NBĐLVN) hôm nay 26/2 đã công bố một lá thư nhằm kêu gọi vận động cho việc hình thành luật biểu tình tại Việt Nam, giữa lúc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đang nhóm họp và cho ý kiến về một số dự thảo luật.
Trong lá thư, tổ chức dân sự này kêu gọi công dân Việt Nam trong và ngoài nước cùng các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp “ủng hộ cuộc vận động luật Biểu tình tại Việt Nam.”
Đồng thời, tổ chức này cũng đưa ra một bản dự thảo luật biểu tình để lấy ý kiến đóng góp, cũng như thu thập chữ ký ủng hộ và sau đó chuyển giao cho Quốc hội, Chính phủ và các bộ ngành liên quan.
Quốc Hội Việt Nam trước đó hồi tháng 5/2014 đã quyết định đưa dự án luật biểu tình gây nhiều tranh cãi vào chương trình làm luật năm 2015. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hồi tháng 12/2014 cũng đề nghị Bộ Công an là cơ quan chủ trì soạn thảo dự luật này cần tập trung hoàn thiện để trình Quốc hội theo đúng chương trình.
Hội NBĐLVN hôm 26/2 cũng kêu gọi các cá nhân và tổ chức người Việt “tạo tác động sâu sắc, và có những hành động cần thiết đối với Nhà nước và Quốc hội Việt Nam nhằm thông qua luật Biểu tình ngay trong năm 2015.”
Cũng theo quan điểm của hội, biểu tình là một quyền công dân được quy định trong Hiến pháp Việt Nam nhưng cho đến nay đã không có bất kỳ văn bản luật hướng dẫn nào được ban hành.
Vì thế, lá thư ngỏ viết tiếp, “việc hình thành đạo luật như vậy, bảo đảm sự chỉ dẫn cho việc thực thi quyền biểu tình của công dân, vừa bảo đảm được nền tảng pháp lý cho chính quyền điều chỉnh hành vi biểu tình.”
Hội cũng khẳng định “tự do ngôn luận không thể có nếu như công dân không có quyền sử dụng không gian công cộng để bày tỏ quan điểm của mình.”
Tổ chức dân sự Hội NBĐLVN ra mắt hồi tháng 7/2014 tại Sài Gòn với mục đích “bảo vệ các nhà báo bị giam cầm, đào tạo phóng viên trẻ và vận hành một trang mạng tin tức nhằm… thúc đẩy dòng chảy tự do thông tin” tại Việt Nam.
ĐT, VRNs
- Viết bởi Đức Thiện, VRNs tổng hợp
VRNs (26.02.2015) – Sài Gòn – Báo chí trong nước cho biết, vào chiều 25/2, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) trong phiên họp thứ 35 đã nghe và cho ý kiến về dự thảo Luật Trưng cầu ý dân do Chủ tịch Hội luật gia Việt Nam Nguyễn Văn Quyền trình bày, trong đó có những ý kiến băn khoăn.
Theo cơ quan trình dự thảo Luật – Hội Luật gia Việt Nam được tờ Sài Gòn Giải Phóng dẫn lời, trưng cầu ý dân là phương thức để người dân trực tiếp thể hiện ý chí và quyền lực của mình đối với các vấn đề quan trọng của đất nước.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, các hoạt động lấy ý kiến để nhân dân quyết định trực tiếp đối với những vấn đề trọng đại còn nhiều hạn chế, một trong những nguyên nhân là Việt Nam chưa có thể chế pháp lý rõ ràng về trưng cầu ý dân, mặc dù trưng cầu ý dân luôn là một quy định pháp lý hiến định.
Tờ Tuổi Trẻ cho biết thêm, mặc dù đồng tình về sự cần thiết phải ban hành luật này và nhất trí trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp tới đây nhưng nhiều ý kiến còn bày tỏ quan ngại về những nội dung khác nhau trong dự luật.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu băn khoăn về dự luật “do thể chế chính trị của ta khác biệt với thể chế chính trị của các nước”.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Trương Thị Mai, cần đánh giá kỹ tác động của luật nếu được triển khai trong thực tế, vì trưng cầu ý dân khác với lấy ý kiến nhân dân. Bởi lấy ý kiến thì chỉ để cơ quan có thẩm quyền tham khảo, xem xét, còn trưng cầu ý dân sẽ có hiệu lực trực tiếp, phải thi hành dựa trên kết quả quyết định của người dân.
Chủ tịch Hội đồng dân tộc Ksor Phước thì cho rằng, việc “trưng cầu ý dân xong phải để Quốc hội xem xét có chấp nhận hay không, chứ không phải đem ra thực hiện luôn”.
Theo ý ông Phước, luật này rất quan trọng, nếu xử lý không khéo thì chúng ta tự đẩy mình vào nguy cơ bất ổn, tự ta làm rối ta.
Bà Mai được tờ Người Lao Động dẫn lời nói cần quy định cụ thể những vấn đề cần trưng cầu ý dân như “đụng chạm đến an ninh quốc gia, chủ quyền”
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng – An ninh Nguyễn Kim Khoa cũng nhìn nhận đây là dự luật quan trọng nhưng cũng hết sức nhạy cảm. Ông Khoa đề nghị những vấn đề được trưng cầu ý dân “cần phải nghiên cứu kỹ” như không được trái với Hiến pháp, pháp luật.
Bà Mai còn đề nghị cần quy định rõ những vấn đề không được trưng cầu ý dân, liên đến ngân sách nhà nước, pháp luật… Đồng tình với ý kiến bà Mai, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Ksor Phước đề nghị cần có quy định nghiêm cấm đưa ra những vấn đề trưng cầu ý dân trái với Hiến pháp.
Về vấn đề giám sát trưng cầu ý dân, UBTVQH đề nghị không quy định vấn đề giám sát trong Luật trưng cầu ý dân để tránh trùng lặp những qui định trong Luật hoạt động giám sát của QH, Luật tổ chức HĐND và UBND.
Theo đó, các cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát việc thi hành pháp luật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm cả pháp luật về trưng cầu ý dân.
Đức Thiện, VRNs tổng hợp
Nguồn: DCCT