Tin Việt Nam
- Viết bởi PV. VRNs
VRNs (22.03.2015) – Sài Gòn – Lúc 17g45, Hòa thượng Thích Không Tánh, Phó trưởng Hội đồng điều hành Tăng đoàn GHPGVNTN, kiêm Tổng vụ trưởng Từ thiện xã hội gọi điện thoại cho VRNs cho biết công an đang bao vây nhà cha Lợi, nơi ông đang có mặt để ủy lại tinh thần cho vị linh mục Công giáo đang bị quản chế không có bản án.
Lúc 17g40 phút chiều 22.03.2015, cha Phêrô Phan Văn Lợi ở Huế cho biết: “Hòa thượng Thích Không Tánh vừa đến nhà tôi (16/46 Trần Phú). Đang khi Thầy nói chuyện với tôi thì có 4,5 công an trẻ mặc thường phục đòi thầy phải ra khỏi nhà tôi. Chúng dùng lời nói rất vô lễ, thô tục, xưng mày tao với Hòa thượng. Chúng khơi lại chuyện hôm trước thầy định ra chùa Phước Thành để phát quà cho Thương phế binh. Tôi ra yêu cầu họ phải cư xử đúng phong cách công an và đúng pháp luật. Họ lại chửi bới và định hành hung tôi. Chúng dọa nếu thầy Không Tánh ra khỏi nhà tôi thì chúng sẽ chém”.
Các chức sắc tôn giáo Công giáo và Tin lành thuộc Hội đồng liên tôn đồng lên tiếng phản đối việc đe dọa và tấn công trực tiếp của công an thành phố Huế với Hòa thượng chụ trì chùa Liên Trì. Cha Thanh ở Sài Gòn cho biết đây là hành động cố tình che dấu việc làm xấu xa của họ trước đây là ngăn cản việc Chùa Phước Thành ủy lạo cho quý ông Thương phế binh VNCH. Họ làm như thể phóng lao hải theo lao. Nhưng họ quên họ là người hưởng lương từ đồng tiền thuế của dân, phải có bổn phận bảo vệ dân chứ không thể tùy tiện áp đão và đe dọa dân như vậy”.
Mục sư Thân Văn Trường bức xúc: “Yêu cầu công an Huế dừng ngay việc quấy nhiễu Hòa thượng Thích Không Tánh và cha Lợi tại Huế.
Ông Long Nguyen chia sẻ: “Tôi ở xa quá nên không thể ứng cứu được. Tôi sẽ gọi điện thoại cho mấy người bạn xem họ có giúp đỡ được gì không. Hãy khuyên thầy Tánh cố thủ trong nhà cha Lợi”.
Mới đây, theo kế hoạch, ngày 15.03.2015, Hòa thường Thích Không Tánh và quý vị chức sắc trong Hội đồng liên tôn Việt Nam sẽ tham dự buổi phát quà Tri ân quý ông thương phế binh, nhưng đêm 14 rạng sang 15.03. công an Huế đã ép các vị chức sắc rời khỏi khách sạn, và áp tải quý chức sắc bằng hai xe chuyên dụng ra khỏi Huế, đi đến tận tỉnh Quảng Ngãi.
Việc bách hại tôn giáo và ngăn cản việc từ thiện của các chức sắc thuộc các cộng đồng tôn giáo không được nhà nước công nhận càng ngày càng nhiều, bất chấp sự lên tiếng cảnh cáo của báo cáo viên đặc biệt về tôn giáo Bielefeltd của Liên Hiệp Quốc.
Người Việt Nam đang phải sống trong một dất nước mà chính phủ đổ trách nhiệm cho địa phương rằng “trên bảo dưới không nghe” và dung tay cấp dưới để gia tang áp lực hòng tiêu giệt tôn giáo chân truyền.
PV. VRNs
- Viết bởi Âu Dương Thệ
VRNs (22.03.2015) – Sài Gòn – Ông Nguyễn Phú Trọng đi Mỹ để làm gì? Đi chỉ để thỏa mãn tự ái cá nhân hão trước khi chấm dứt nhiệm kỳ Tổng bí thư thì uổng công vô ích! Nhưng nếu đi vì quyền lợi đất nước phải Thoát Trung thì sẽ được nhân dân VN ủng hộ và chính giới Mỹ kính trọng. Khi đó Nguyễn Phú Trọng sẽ để lại điểm son trong lịch sử. Nhưng cái khó khăn lớn nhất là, ông Trọng có đủ đảm lược để tự thoát khỏi cái bóng đen quá dài của chính mình hay không?
Tình hình đất nước:VN đang đứng ở đâu và như thế nào trong quan hệ với Trung quốc?
Trả lời dư luận quốc tế kết án gay gắt việc Bắc kinh cố tình mở rộng nhiều đảo trên biển Đông thành các căn cứ quân sự, bộ trưởng Ngoại giao Trung quốc Vương Nghị đã khẳng định rất ngang ngược trong cuộc họp báo ngày 8.3 tại Bắc kinh : Biển Đông là « nhà » và là « sân » của Trung quốc. Nguyên văn lời đổi trắng thay đen, kẻ cướp đóng vai quan tòa của Vương Nghị:
„Chúng tôi không giống như một số quốc gia khác đã xây dựng trái phép trong nhà của người khác. Và chúng tôi không chấp nhận những lời chỉ trích từ người khác khi mà chúng tôi chỉ xây dựng các cơ sở trên sân riêng của chúng tôi.“ ( )
Vương Nghị thừa biết nhiều đảo này nằm ở trên hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa, Trung quốc đã dùng vũ lực chiếm đóng của VN mới vài chục năm trước. Điều này có nghĩa, những người cầm đầu Bắc kinh hành động theo lí lẽ của kẻ mạnh, chủ quyền phát ra từ nòng súng. Hôm trước chiếm đất, chiếm đảo của các nước láng giềng, hôm sau bảo đó là sân và nhà của Trung quốc và họ có toàn quyền sử dụng. Nay họ còn ngang ngược xây các đảo chiếm của VN thành các căn cứ quân sự cho hải quân và không quân Trung quốc đe đọa toàn bộ biển Đông của VN!
Như vậy tuyên bố trên của bộ trưởng Ngoại giao Trung quốc Vương Nghị đã báo động cho chúng ta là, Trung quốc đang là kẻ thù nguy hiểm và trực tiếp của nước ta!
Giữa tháng hai vừa qua các hãng thông tấn xã quốc tế trên toàn thế giới đã phổ biến sâu rộng những không ảnh rất rõ ràng từ các vệ tinh và các máy bay chụp trong vài năm gần đây trên nhiều đảo thuộc quần đảo Trường sa của VN nhưng do Trung quốc đã sử dụng vũ lực chiếm đóng. Khi đối chiếu các không ảnh đã chụp trong một số năm liên tiếp các giới quân sự quốc tế đã đi đến một nhận định chung là, chế độ Bắc kinh đã thực hiện kế hoạch mở rộng và xây dựng thêm các căn cứ quân sự và các phi trường trên các đảo Gạc ma, Chữ thập, Châu viên, Vành khăn, Tư nghĩa… Trong số này các đảo Gạc ma, Vành khăn, Châu viên và Chữ thập Trung quốc đã chiếm của VN.
Reuters và tập san quốc phòng Jane´s Defense cho biết, các công trình quân sự này rất qui mô và hiện đại như những pháo đài, „hàng không mẫu hạm không thể đánh chìm“, chúng được sử dụng như các căn cứ quân sự vừa để tấn công vừa để phòng ngự, đồng thời còn là các cơ sở hậu cần, tiếp nhiên liệu và lương thực cho các chiến hạm và tầu dân sự của Trung quốc. Nhiều cơ quan chiến lược quốc tế đưa ra nhận xét: “Các công trình này lớn và tham vọng hơn chúng ta từng nghĩ. Về nhiều khía cạnh, khi kế hoạch này tiếp tục được phát triển thì sẽ đặc biệt khó khăn [cho các nước] trong việc đương đầu với Trung Quốc ở Biển Đông”. Reuters còn cho biết, „mục tiêu trước nhất vẫn là nhằm kiểm soát Biển Đông và kiềm chế các đối thủ, như Việt Nam, quốc gia đang nắm giữ nhiều đảo và bãi cạn ở Trường Sa“ ( )
Những sự kiện này minh chứng, Tập Cận Bình và những người cầm đầu Bắc kinh tuyệt nhiên không đếm xỉa gì tới những thỏa thuận với Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang và Nguyễn Tấn Dũng là “không áp dụng hành động làm phức tạp hóa hoặc mở rộng thêm tranh chấp“ biển Đông. Trong thực tế Bắc kinh đã ngang ngược từng bước biến nhiều đảo chiếm đóng của VN thành các pháo đài và căn cứ quân sự trên biển Đông để trực tiếp uy hiếp an ninh VN, đồng thời bòn rút tài nguyên trên biển và dưới đáy ở biển Đông của VN và đe dọa đường hàng hải quốc tế quan trọng.
Trong khi đó VN ngày càng lệ thuộc Trung quốc về kinh tế, thương mại. Trung quốc đang là thị trường lớn nhất của VN, 20% tổng kim ngach xuất nhập khẩu của VN là với Trung quốc. Nhưng trong quan hệ thương mại với Trung quốc VN phải chịu thua thiệt lớn. Mức nhập siêu của VN từ Trung quốc lên tới 28 tỉ USD trong năm 2014, mức nhập siêu tiếp tục gia tăng mạnh từ năm này sang năm khác. Lệ thuộc kinh tế, thương mại vào Trung quốc gia tăng nhanh từ khi Nguyễn Tấn Dũng trở thành Thủ tướng từ gần 10 năm qua và hầu như thao túng trong các quyết định kinh tế.
Hiện nay các nhà thầu Trung quốc giành tới 77/106 dự án thầu EPC ở VN, hầu hết là các công trình lớn thuộc hạ tầng cơ sở như chế biến Bauxit, nhiệt điện, xi măng và hóa chất.( ) Các nhà thầu Trung quốc sử dụng kĩ thuật thuộc loại tồi, dùng hàng vạn công nhân Trung quốc, trong đó có rất nhiều người làm chui bất kể luật pháp VN. Các nhà thầu Trung quốc làm việc rất chậm và thường kéo dài thêm dự án để đòi tăng vốn đầu tư!
Như vậy rõ ràng Bắc kinh đang ngày càng kiểm soát kinh tế, tài chính và thương mại của VN, nghĩa là Bắc kinh đang kiểm soát dạ dầy của VN!
Nguyên do: Từ lâu Bắc kinh đã còn nắm cả cái đầu của VN
Mất đảo, mất biển, tài nguyên bị bọn rút và lệ thuộc kinh tế, đồng thời ngày nay còn đang đứng trước nguy cơ Bắc kinh sử dụng các đảo đánh chiếm của VN thành các căn sứ quân sự đe dọa an ninh toàn bộ biển Đông của VN. Đây là hậu quả trực tiếp của chính sách cúi đầu chấp nhận sự đỡ đầu của Bắc kinh để bảo tồn chế độ toàn trị ở VN từ Hội nghị bí mật Thành đô đầu tháng 9.1990 thời Nguyễn Văn Linh-Đỗ Mười với sự tiếp tay của Lê Đức Anh. Chủ chương thần phục này được đẩy mạnh hơn dưới thời Lê Khả Phiêu-Trần Đức Lương với các thỏa thuận rất bất lợi cho VN, như Hiệp ước về biên giới trên đất liền năm1999 và các Hiệp định phân định Vịnh Bắc bộ và khai thác nghề đánh cá năm 2000.
Đặc biệt đặt niềm tin trọn vẹn là, “ĐCS Trung quốc trụ được thì ĐCS VN cũng trụ được” nên trong chuyến đi Trung quốc cuối tháng 2.1999 cả Tổng bí thư Lê Khả Phiêu và Phó thủ tướng Thường trực Nguyễn Tấn Dũng – sau khi kết thúc các cuộc hội đàm ở Bắc kinh với việc Giang Trạch Dân mớm cho “16 chữ vàng” cho quan hệ hai bên – đã bay sang Thành đô ngày 27.2.1999 và thăm khách sạn Kim Ngưu (con trâu vàng), nơi trong hai ngày 3-4.9.1990 Nguyễn Văn linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng đã khấu đầu thề „khép lại quá khứ“ trước Giang Trạch Dân và Lý Bằng. Báo Nhân dân đã tường thuật lời tâm sự của Lê Khả Phiêu coi việc về thăm Thành đô như tín đồ đi hành hương cung kính đến thăm một nơi linh thiêng:
„Ở khách sạn „Kim Ngưu“ (con trâu vàng) không khí càng cảm động khi Tổng bí thư Lê Khả Phiêu nhắc lại một mốc lịch sử giữa hai đảng và nhân dân hai nước: Tại đây, tháng 9.1990, các đồng chí lãnh đạo cấp cao hai đảng gặp nhau, chính thức lập lại quan hệ bình thường giữa hai đảng và hai nước láng giềng hữu nghị. Từ đó đến nay quan hệ đó không ngừng củng cố và hôm nay đồng chí Tổng bí thư và đoàn đại biểu cấp cao đảng và nhà nước ta lại ngồi ở ngay phòng họp lịch sử đó…“ ( )
Đây là lần đầu tiên phía CSVN đã công khai xác nhận Hội nghị Thành đô 9.1990. Khi đó phía Bắc kinh vô tình hay cố ý chọn khách sạn „Con trâu vàng“ làm nơi hội đàm với phái đoàn CSVN sang cầu hòa? Tục ngữ cả Việt lẫn Trung có câu „ngu như trâu“, chỉ biết ra sức kéo cày cho chủ! Lê Khả Phiêu và Nguyễn Tấn Dũng hớn hở về thăm Kim Ngưu nơi gần 10 năm trước Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã vui mừng được Giang Trạch Dân và Lý Bằng xoa đầu với điều kiện „khép lại quá khứ, hướng tới tương lai“. Nghĩa là từ nay Hà nội không được phép nhắc tới cuộc chiến tranh xâm lược tháng 2.1979 do Đặng Tiểu Bình phát động „dạy cho VN một bài học“. Từ đó Hà nội đã ngoan ngoãn làm theo các yêu sách của Bắc kinh không được tổ chức lễ kỉ niệm cũng như thăm viếng các nghĩa trang nơi hàng chục ngàn bộ đội và thường dân đã bị quân xâm lược giết hại. Nói cách khác, từ Hội nghị bí mật Thành đô Bắc kinh đã coi VN là con trâu vàng trong mục tiêu bành trướng về phía Nam. Lê Khả Phiêu và Nguyễn Tấn Dũng nghĩ như thế nào khi hớn hở và kính cẩn về thăm khách sạn Kim Ngưu và ca tụng sự thần phục Bắc kinh? ( )
10 năm làm Tổng bí thư Nông Đức Mạnh tiếp tục vun xới quan hệ „16 chữ vàng“ và thêm „bốn tốt“ với phương Bắc, cụ thế là để Bắc kinh khai thác Bauxit tại Tây nguyên. Đặc biệt những năm dưới thời Nguyễn Phú Trọng làm Tổng bí thư, mặc dầu những người cầm đầu CSVN càng nhân nhượng, càng tâng bốc thì từ Hồ Cẩm Đào tới Tập Cận Bình càng lấn tới. Những câu nói để đời của Nguyễn Phú Trọng đối với các nhà lãnh đạo Bắc kinh là „Tình hình biển Đông không có gì mới“ lúc ông còn làm Chủ tịch Quốc hội (2010). Khi Hồ Cẩm Đào cử đặc phái viên sang chúc mừng Nguyễn Phú Trọng làm Tổng bí thư, khiến ông Trọng rất hãnh diện hả dạ tự khoe: “Chưa bao giờ ngay sau Đại hội, một số đảng anh em như … Đảng Cộng sản Trung quốc cử đặc phái viên của Tổng bí thư, Chủ tịch nước sang gặp Tổng bí thư ta để trực tiếp chúc mừng thành công của Đại hội”!( )
Liền sau khi giữ chức Tổng bí thư ông Trọng mong được sang Bắc kinh bệ kiến. Khi ấy Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào đã cử Ủy viên Bộ chính trị kiêm Phó Chủ tịch quân ủy Trung ương ĐCS Trung quốc Thượng tướng Quách Bá Hùng, sang Hà nội gặp Phùng Quang Thanh và Nguyễn Phú Trọng vào giữa tháng 4.2011 và đặt các điều kiện cho chuyến đi Bắc kinh sắp tới của Nguyễn Phú Trọng:
„ Một là, tăng cường tiếp xúc chiến lược, nắm vững định hướng đúng đắn phát triển quan hệ Trung-Việt; hai là, coi trọng tuyên truyền hướng dẫn, tích cực tạo bầu không khí hữu nghị, đoàn kết, hợp tác Trung-Việt; ba là, làm phong phú nội dung giao lưu, nỗ lực nâng cao trình độ hợp tác thiết thực giữa quân đội hai nước.“ ( )
Tuân theo các điều kiện này nên ông Trọng đã cử lần lượt mấy phái đoàn quân sự cao cấp sang dọn đường. Cuối tháng 8.2011 tại Bắc kinh tướng Nguyễn Chí Vịnh đã phải uốn lưỡi: “Một thực tế hiển nhiên là Trung quốc cam kết không lấy đất, lấy biển của Việt Nam“ và còn long trọng hứa ngăn cấm nhân dân VN không được biểu tình chống Bắc kinh xâm lấn: „Kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam với tinh thần không để sự việc tái diễn. ( ) Giữa tháng 9.2011 tướng Ngô Xuân Lịch cũng thề tại Bắc kinh „Việt Nam không có ý định quốc tế hóa các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông. Vấn đề tranh chấp giữa hai nước thì do hai nước giải quyết.“ và „Việt Nam luôn luôn cảnh giác với âm mưu phá hoại, chia rẽ tình cảm đoàn kết giữa Việt Nam và Trung Quốc của các thế lực thù địch. ( )
Sau khi các điều kiện trên đây của Bắc kinh đặt ra qua tướng Quách Bá Hùng được nhóm cầm đầu CSVN chấp nhận toàn bộ thì Hồ Cẩm Đào mới bật đèn xanh cho Nguyễn Phú Trọng thăm Trung quốc vào giữa tháng 10.2011. Tại đây Nguyễn Phú Trọng đã phải cùng Hồ Cẩm Đào kí Hiệp định „Thỏa thuận những Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa.” ( )
Đây là kết quả trong cuộc „hội đàm hẹp“ giữa Hồ Cẩm Đào và Nguyễn Phú Trọng chỉ vài giờ sau khi tới Bắc kinh. Trong đó họ Hồ đã dùng cách nói kẻ cả với ông Trọng, như thiên triều ra lệnh cho chư hầu:
„Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào chỉ rõ, trước khi tranh chấp trên biển được giải quyết, không nên áp dụng hành động làm phức tạp hoá và mở rộng tranh chấp, xử lý những vấn đề xuất hiện bằng thái độ bình tĩnh và mang tính xây dựng, không để những vấn đề liên quan ảnh hưởng tới quan hệ hai Đảng và hai Nhà nước Trung Quốc-Việt Nam cũng như hoà bình và ổn định của Nam Hải…“ ( )
Các yêu sách trên của Hồ Cẩm Đào được Nguyễn Phú Trọng chấp nhận toàn bộ và thể hiện rõ trong Thông báo chung ngày 15.10:
„Trước khi giải quyết dứt điểm tranh chấp trên biển, hai bên cùng giữ gìn hòa bình, ổn định trên Biển Đông, giữ thái độ bình tĩnh và kiềm chế, không áp dụng hành động làm phức tạp hóa hoặc mở rộng thêm tranh chấp, không để các thế lực thù địch phá hoại quan hệ hai Đảng, hai nước, xử lý các vấn đề nảy sinh với thái độ xây dựng, không để ảnh hưởng tới quan hệ hai Đảng, hai nước và hòa bình, ổn định ở Biển Đông.“ ( )
Nhưng thỏa thuận chung „ không áp dụng hành động làm phức tạp hóa hoặc mở rộng thêm tranh chấp“ chỉ Hà nội phải đơn phương thi hành còn Bắc kinh lại tích cực gây hấn và tự do lấn chiếm!
Từ tháng 5.2011 tới tháng 11.2012 Bắc kinh đã ba lần cho các tầu hải giám và tầu đánh cá Trung quốc xâm nhập hải phận VN, cắt dây cáp của các tầu thăm dò đầu khí của Tập đoàn Dầu khí VN. Nguyễn Phú Trọng trong tư cách Bí thư Quân ủy Trung ương, tức Tổng tư lệnh quân đội, đã hoàn toàn im lặng. Tiếp đó Bắc kinh lại công khai gọi thầu quốc tế để khai thác dầu khí trong các khu vực hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa. Họ còn thiết lập các cơ quan hành chánh của hai quần đảo này, xây phi trường quân sự và cho quân đồn trú tại đây. Đồng thời Bắc kinh tiếp tục cho các tầu tuần giám của hải quân Trung quốc săn đuổi các tầu đánh cá, giết hại nhiều ngư dân VN đánh cá trên hải phận VN. ( )
Mặc dầu vậy, Nguyễn Phú Trọng vẫn gọi những người chủ trương xâm lược ở Bắc kinh là „BẠN“: „BẠN [tức nhóm cầm đầu Bắc kinh –ghi chú riêng của tác giả] thường nhấn mạnh, không để bị „Tây hóa, tha hóa, thoái hóa“.( ) Ông đã tuyên bố như vậy ngay tại Hội nghị Cán bộ toàn quốc ngày 27.2.2012 trước trên 1000 cán bộ cao cấp từ quân đội, công an, chính phủ và các cơ quan trung ương và địa phương.
Như vậy Nguyễn Phú Trọng đã coi những người cầm đầu Bắc kinh đang chiếm đảo, lấn biển của VN là „BẠN“ và còn công khai như thế trước toàn đảng, toàn quân và toàn dân cũng như dư luận quốc tế. Chính chủ trương cực kì sai lầm lẫn lộn coi thù thành bạn của người cầm đầu chế độ toàn trị đã làm tê liệt tinh thần cảnh giác và đề kháng của quân đội và nhân dân VN, đồng thời làm lạc hướng theo dõi và mất sự ủng hộ của quốc tế!
***
Từ khi Tập Cận Bình lên làm Tổng bí thư với chủ trương thực hiện „Giấc mơ vĩ đại của Trung quốc” các hành động chèn ép và khiêu khích với VN càng gia tăng. Đầu tháng 5. 2014 vào giữa lúc Hội nghị Trung ương 9 họp ở Hà nội, họ đã cho hàng trăm tầu hải quân, hải giám hộ tống giàn khoan khủng HD 981 dựng ngay trong hải phận của VN. Trong suốt hai tháng rưỡi Tập Cận Bình đã từ chối các yêu cầu của Nguyễn Phú Trọng xin gặp để giải quyết. Mãi sau khi HD 981 rút lui Nguyễn Phú Trọng mới được cử 3 phái đoàn cao cấp lần lượt sang Bắc kinh thương lượng là Lê Hồng Anh, Trần Đại Quang và Phùng Quang Thanh.
Điều khiến nhiều quan sát viên quốc tế coi là lạ lùng khi theo dõi thái độ của hai bên trong các chuyến thăm cao cấp này. Đúng lí ra, Bắc kinh phải đứng ra xin lỗi Hà nội trong vụ dựng giàn khoan khổng lồ ngay trong lãnh hải VN. Nhưng những người cầm đầu Bắc kinh lại giữ thái độ hống hách vừa trách mắng vừa ra lệnh ba trưởng đoàn của CSVN. Trong khi đó các phái đoàn của CSVN lại đứng ra xin lỗi! Ngày 27.8 khi tiếp Thường trực Ban bí thư Lê Hồng Anh, Đặc phái viên của Nguyễn Phú Trọng, Tập Cận Bình đã nói như ra lệnh:
„Việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cử đồng chí làm Đặc phái viên sang Trung Quốc tiến hành cuộc gặp cấp cao hai Đảng, đã thể hiện nguyện vọng của Việt Nam mong muốn cải thiện và phát triển quan hệ hai nước.
Chủ tịch Tập Cận Bình Tập Cận Bình nhấn mạnh, Lãnh đạo cấp cao hai Đảng Trung-Việt nên nắm bắt đại cục, duy trì và tăng cường giao lưu, kịp thời đi sâu trao đổi về các vấn đề quan trọng, kiên trì định hướng quan hệ hai nước từ tầm cao chiến lược và góc độ lâu dài, đặc biệt là đưa ra quyết đoán chính trị đúng đắn trong thời điểm then chốt.“ ( )
Trong bản tin về chuyến đi của Lê Hồng Anh sang Bắc kinh bộ Ngoại giao VN đã không kết án việc Bắc kinh dựng giàn khoan HD 981, nhưng lại xin lỗi các cuộc biểu tình ở VN trong thời gian này:
“Phía Việt Nam lấy làm tiếc về vụ việc xảy ra đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có doanh nghiệp và công nhân Trung Quốc trong tháng 5 vừa qua, đồng thời lấy làm buồn về việc một số công nhân Trung Quốc bị thiệt mạng, bị thương trong vụ việc này.“ ( )
Ngày 26.10 Ủy viên Bộ chính trị và bộ trưởng Công an Trung quốc Mạnh Kiến Trụ cũng nói như ra lệnh cho Trần Đại Quang tại Bắc kinh:“Bảo vệ tốt an toàn của cơ quan, doanh nghiệp và nhân viên nước đối tác tại nước mình“.( )
Kết quả cuộc hội đàm tại Bắc kinh của bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh cùng với 16 sĩ quan cao cấp từ 16-18.10 lại còn cực kì tệ hại hơn nữa.( ) Ngày 20.10 chính Phùng Quang Thanh đã thuật rõ lại cho báo chí bên lề phiên họp khai mạc kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa 13 về nội dung và không khí trong cuộc gặp bộ trưởng Quốc phòng Trung quốc Thường Vạn Toàn ở Bắc Kinh. Cũng như Nguyễn Phú Trọng, ông Thanh đã gọi những người chủ trương chiếm đảo và xâm lấn biển Đông của VN là „Bạn“:„Bạn đón tiếp ta rất nhiệt tình, trọng thị, chu đáo và rất hữu nghị“.( ) Nguy hiểm nữa là, Phùng Quang Thanh đã nhìn nhận việc Trung quốc chiếm đóng các đảo của VN là tình trạng Status quo –tình trạng đã rồi:
„Chúng tôi có trao đổi là giờ phải giữ nguyên hiện trạng, trên biển Đông phải thực hiện cho đầy đủ DOC – tinh thần, quan điểm chung là không mở rộng tranh chấp, không cắm mới vào những nơi mà các bên chưa cắm.“( )
Không chỉ xuống nước như vậy, Phùng Quang Thanh còn nhìn nhận và bảo vệ Bắc kinh có quyền xây dựng các đảo chiếm của VN thành các pháo đài quân sự:
„Còn hiện nay trên biển, nói thật là các bên đều có xây dựng. Đài Loan cũng xây dựng, Philippines cũng tiến hành xây dựng đường băng, Malaysia có xây dựng. Việt Nam cũng có hoạt động xây dựng, đó là tôn tạo, nâng cấp, mở rộng và tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân, cho các lực lượng đóng quân trên đảo để đảm bảo an toàn trong mùa mưa bão, đảm bảo điều kiện sinh hoạt trên đảo. Tuy nhiên nguồn lực của ta còn có hạn nên việc xây dựng quy mô chưa lớn như Trung Quốc.“( )
Với tuyên bố trên Phùng Quang Thanh đã cố tình từ nhầm lẫn tới sai lầm cực kì nguy hiểm: 1. Các đảo này cho tới gần đây vẫn thuộc lãnh thổ và thẩm quyền của VN, Trung quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm trái phép, trái luật quốc tế về hàng hải. 2. Nhưng nay Phùng Quang Thanh đã nhìn nhận như trên, coi như các đảo này từ nay vĩnh viễn thuộc Trung quốc và mặc nhiên coi việc Trung quốc xây dựng và biến các đảo này thành các căn cứ quân sự là quyền của Trung quốc. 3. Tuyên bố công khai của Phùng Quang Thanh cho phép Bắc kinh dùng làm bằng cớ trước dư luận VN, Trung quốc và thế giới là, việc Trung quốc chiếm đảo và mở rộng các đảo này là hoàn toàn hợp pháp! Ở dây Phùng Quang Thanh đã sai lầm rất nguy hiểm, cho kẻ đi cướp có quyền như chủ nhà!
Vào cuối năm trong cuộc họp với bộ trưởng Công an Trần Đại Quang bàn về việc đối phó với sự gia tăng chống đối của nhân dân VN trước các hanh động xâm lấn của Bắc kinh, Phùng Quang Thanh còn nhấn mạnh „cảnh báo xu thế “bài” Trung quốc là một diễn biến nguy hiểm.“( ) Với lập trường và thái độ bênh vực cho những hành động trái phép của Bắc kinh như trên Phùng Quang Thanh nên xin Bắc kinh làm bộ trưởng Quốc phòng cho Trung quốc!
***
Như vậy ít nhất là từ ¼ thế kỉ vừa qua, từ Hội nghị bí mật Thành đô, những người cầm đầu chế độ toàn trị VN đã gởi trọn „chiến lược xây dựng niềm tin“ vào Bắc kinh. Điều này Nguyễn Tấn Dũng đã nói trong diễn văn tại cuộc „Đối thoại Shangri-La 2013“ ở Singapore cuối tháng 5.13. ( )
Cái đầu đã bị mua chuộc, dạ dày đã bị nắm, những người cầm đầu CSVN đã đẩy đất nước vào hoàn cảnh cực kì nguy hiểm.
Nói tóm lại, trong những năm qua để bành trướng trên biển Đông Tập Cận Bình đã thực hiện chiến lược hai mặt rất gian xảo là dương đông kích tây. Một mặt mở các vụ khiêu khích ngay trên lãnh hải VN, sau đó rút lui. Nên Nguyễn Phú Trọng mới vỗ ngực và hô hoán cho là đã giành thắng lợi trong cuộc tranh chấp „chúng ta xử lý tốt vấn đề Biển Đông. Chúng ta vẫn giữ vững độc lập, chủ quyền của đất nước“.( ) Nhưng thực tình giữa khi ấy Bắc kinh đã âm thầm biến các đảo đã chiếm được của VN dọc theo mấy ngàn cây số trở thành các căn cứ quân sự kiên cố đe dọa trực tiếp an ninh VN. Nay chính Phùng Quang Thanh cũng phải nhìn nhận thực trạng đã rồi này. Mới đây Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên tư lệnh Quân khu 4 và Đại tá Bùi Văn Bổng đã cánh báo rõ là, việc Bắc kinh xây dựng các đảo chiếm được của VN thành các pháo đài còn cực kì nguy hiểm hơn cả giàn khoan HD 981. ( )
Chuyến đi Hoa kì cần nhằm mục tiêu gì? Hãy đối chiếu chủ trương và chính sách của Trung quốc và Hoa kì trong vấn đề biển Đông
Các sự kiện trên đã chứng minh, Bắc kinh đang cố tình lấn chiếm biển đảo của VN và đang thực hiện ý đồ biến các đảo này trở thành các căn cứ quân sự đe dọa trực tiếp và thường xuyên an ninh VN; đồng thời còn đe dọa an ninh đường hàng hải quan trọng nhất trên thế giới. Như thế Bắc kinh đã trở thành kẻ thù nguy hiểm và trực tiếp của VN và nhiều nước trong khu vực; đồng thời còn là mối họa cho Hoa kì và EU là những quốc gia có quyền lợi lớn trong ngoại thương. Từ khi Tập Cận Bình làm Tổng bí thư ĐCS và Chủ tịch nước Trung quốc mối nguy hiểm lại càng gia tăng. Với khẩu hiệu ” Hiện nay, mọi người đều đang thảo luận giấc mơ Trung quốc, tôi cho rằng, thực hiện sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa là giấc mơ vĩ đại nhất của dân tộc Trung Hoa kể từ cận đại đến nay.” ( ) Để thực hiện mục tiêu này Tập Cận Bình đang vực dậy chủ nghĩa dân tộc quá khích ở Trung quốc đồng thời tìm cách phục hồi chủ nghĩa bành trướng đế quốc kiểu mới. Nguy cơ này đang gia tăng một cách khó lường qua chủ trương dùng chiêu bài chống tham nhũng „đả hổ,diệt ruồi“ để thanh toán đối thủ chính trị trong đảng, tự đề cao thần tượng cá nhân cho Tập Cận Bình; trong khi ấy lại gia tăng đàn áp giới trí thức, văn nghệ sĩ và thanh niên Trung quốc, cấm các báo điện tử đối lập và mở phong trào bài xích các tư tưởng tự do dân chủ Tây phương.
Song song với các chính sách nội trị độc tài, Tập Cận Bình còn nuôi tham vọng mở rộng ảnh hưởng của Trung quốc trên toàn thế giới. Đối với các nước trong khu vực, họ Tập dùng chính sách củ cà rốt và cây gậy, hứa chi viện hàng chục tỉ Mĩ kim để lập „Con đường tơ lụa trên biển“ cho thời đại mới ở Á châu, cùng lúc tìm cách đe dọa và phân hóa các nước Asean, đem tiền để loại ảnh hưởng của Hà nội ở Kampuchia và Lào. Để thực hiện mục tiêu bành trướng đế quốc Tập Cận Bình tiếp tục gia tăng ngân sách quốc phòng để hiện đại hóa và tăng cường hải quân và không quân Trung quốc. Trong kì họp mới đây quốc hội Trung quốc đã quyết định gia tăng ít nhất 10% ngân sách quốc phòng, mặc dầu mức tăng trưởng kinh tế giảm xuống ở mức 7%. ( )
Các tham vọng độc tài và phiêu lưu của Tập Cận Bình nhằm củng cố quyền lực cá nhân, bằng cách gia tăng đàn áp nhân dân Trung quốc, đồng thời tăng cường quốc phòng để đe dọa các nước trong khu vực có thể gây ra những cuộc khủng hoảng lớn không lường trước được ở ngay Trung quốc và cho cả nhiều nước lân bang, ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh Á châu và thế giới. Trong đó nguy cơ lớn nhất là cho VN. Vì là nước láng giềng và lại đang lệ thuộc Trung quốc về nhiều mặt.
Trên những cơ sở này Tập Cận Bình đang mặc cả và thương lượng với Mĩ để chia vùng ảnh hưởng và quyền lợi trên thế giới. Trong các cuộc thảo luận ở cấp cao giữa Bắc kinh và Washington, Bắc kinh thường đánh đòn tâm lí „giữa hai nước lớn phải biết tôn trọng quyền lợi thiết yếu của mỗi bên“. Đây là ý đồ Bắc kinh muốn chia vùng ảnh hưởng với Washington, ở đây cụ thể là chia vùng ảnh hưởng ở Thái bình dương, muốn thuyết phục Mĩ công nhận các đảo Trung quốc đang chiếm đóng ở biển Đông là thuộc Trung quốc và Mĩ không nên can thiệp vào những cuộc tranh chấp giữa Trung quốc với các nước trong khu vực, hãy để Bắc kinh tự do tung hoành! Trong chuyến thăm Hoa kì vào cuối năm nay chắc chắn ý đồ này sẽ được Tập Cận Bình tiếp tục đưa lên bàn hội đàm với Tổng thống Obama.
Trong các xã hội văn minh thực sự, những người lãnh đạo quốc gia ý thức rằng, muốn cho nước mình vươn lên thì cùng lúc phải để các nước lân bang cũng tiến lên; sự thịnh vượng và an ninh của các nước chung quanh cũng là điều kiện tạo phú cường và ổn định của chính quốc gia mình. Đây là các tiêu chuẩn giá trị rút ra từ những cuộc chiến tàn khốc bắt nguồn từ chủ nghĩa dân tộc cực đoan ở Âu châu sau Thế chiến 2. Điều này chỉ diễn ra giữa các xã hội Dân chủ đa nguyên, vì họ biết trân trọng và gìn giữ những tiêu chuẩn giá trị chung.
Trong khi đó, vì theo đuổi chủ nghĩa bá quyền đế quốc kiểu mới nên Bắc kinh đặt tiêu chuẩn giá trị chủ nghĩa dân tộc quá khích lên hàng đầu và coi các nước láng giềng nhỏ hơn là chư hầu, chỉ nhằm thôn tính và khai thác như con trâu vàng của Trung quốc!
***
Hoa kì nhận định như thế nào về ý đồ bành trướng của Bắc kinh? Nhiều nhà hoạch định chiến lược của Hoa kì nhận định, Trung quốc đang trở thành cường quốc kinh tế và có võ khí nguyên tử, nhưng lại theo chế độ toàn trị, bên trong thì đàn áp nhân dân, bên ngoài lại theo đuổi chủ nghĩa dân tộc cực đoan, phiêu lưu bành trướng không chỉ các nước lân bang mà còn toàn Á châu, đe dọa an ninh và hòa bình thế giới như Liên xô trước đây.
Cho nên sau khi chấm dứt các cuộc chiến ở Irak và Afghanistan Tổng thống Obama đã đưa ra chủ thuyết đối ngoại và an ninh „quay trục về châu Á- Thái bình dương“. Mục tiêu của chiến lược an ninh đối ngoại của Mĩ là răn đe và ngăn chặn Bắc kinh thực hiện chủ trương bành trướng và đe dọa bằng võ lực các nước trong khu vực và cả đường hàng hải quốc tế quan trọng nhất xuyên qua biển Đông. Có nghĩa là, Washington không nhìn nhận việc Bắc kinh chiếm đóng các đảo tại biển Đông cũng như biển Hoa đông và chống lại việc Bắc kinh đang biến các đảo chiếm đóng của các nước láng giềng thành các căn cứ quân sự cho hải quân và không quân Trung quốc trực tiếp đe dọa đường hàng hải quốc tế quan trọng nhất này.
Ở điểm cực kì quan trọng này quyền lợi Mĩ và VN đồng nhất với nhau. Trong chiến lược xoay trục quốc phòng an ninh sang châu Á-Thái bình dương VN là một trong những điểm xung yếu nhất. Nếu VN hợp tác chặt chẽ với Hoa kì thì những mưu đồ bành trướng của Bắc kinh có thể ngăn chặn hữu hiệu. Vì nếu một nước VN độc lập, mạnh cả về kinh tế, quân sự , được sự ủng hộ của nhân dân và liên minh với Hoa kì cũng như với các nước trong khu vực thì Bắc kinh không thể thực hiện ý đồ đen tối được.
Nhưng trong vai trò là một siêu cường về võ khí nguyên tử và có nhiều đồng minh tin cậy ở ngay trong khu vực như Nhật, Nam hàn, Phi luật tân, Singapore, Nam dương, Thái lan và Úc, nếu CSVN không hợp tác thì Hoa kì vẫn có một số các chọn lựa khác để bảo vệ quyền lợi quốc gia của Mĩ và các nước đồng minh của Mĩ trong khu vực. Điểm cốt lõi của chủ thuyết xoay trục sang châu Á-Thái bình dương của Obama là, Hoa kì không đứng ra làm thay các nước trong vùng, mà chỉ làm đồng minh chiến lược, ủng hộ tích cực và bảo vệ những nước có chính sách rõ ràng chống lại bành trướng của Bắc kinh.
Ngược lại đối với VN, việc Trung quốc chiếm đóng các đảo và nay còn biến các đảo của VN thành các pháo đài đe dọa trực tiếp an ninh và chủ quyển của VN đã dẫn tới tình hình cực kì nguy hiểm, Trung quốc đã trở thành kẻ thù nguy hiểm và trực tiếp của VN như ngoại trưởng Trung quốc Vương Nghị vừa gián tiếp xác nhận.Vì thế hiện nay VN chỉ có hai giải pháp chọn lựa:
1. Hoặc là tiếp tục cúi đầu để thành chư hầu của Trung quốc với tất cả những hậu quả tồi tệ nhất trong một tương lai không xa. Nếu CSVN chọn giải pháp này thì phải tính tới những trường hợp khó lường có thể xẩy ra, nếu phong trào chỉnh đảng, chống tham nhũng „đả hổ, diệt ruồi“ của Tập Cận Bình đưa Trung quốc rơi vào rối loạn. Khi đó trước nguy cơ có thể bị mất quyền Tập Cận Bình có thể mở chiến tranh với lân bang để kích thích tâm lí dân tộc quá khích. Như vậy hiểm họa rất lớn là VN mất độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tài nguyên bị bòn rút, đất nước bị chiếm, dân tộc bị đồng hóa!
2. Hay là, sáng suốt chọn giải pháp lập thế liên minh với Mĩ và các nước khu vực cùng có quyền lợi an ninh và quốc phòng như VN. Nếu chọn giải pháp thứ hai này thì phải tranh thủ sự đồng tình của chính giới và nhân dân Mĩ, phải vận động để được sự ủng hộ của cả tổng thống và lưỡng viện Mĩ. Là một xã hội dân chủ đa nguyên, nên Thượng viện và Hạ viện Hoa kì có những tiếng nói rất mạnh trong các quyết định đối ngoại của Tổng thống Mĩ. Điều này rất cụ thể như cuộc tranh chấp đang rất gay gắt giữ Tổng thống Obama và Lưỡng viện Mĩ trong các cuộc đàm phán hiện nay về cấm Iran chế tạo bom nguyên tử và việc tìm kiếm giải pháp hòa bình giữa Do thái và các nước Ả rập.
***
Giải pháp cúi đầu cầu hòa với Bắc kinh suốt ¼ thế kỉ đã tỏ rõ hoàn toàn thất bại và còn đang đưa đất nước vào nguy cơ phải đối đầu với một cuộc chiến bất lợi. Vì thế mục tiêu cao nhất và thiết yếu nhất cho VN trong giai đoạn hiện nay là cần lập liên minh chiến lược với Hoa kì, một siêu cường quân sự và kinh tế, đồng thời là một xã hội dân chủ cao. Liên minh với Mĩ không phải là để mở cuộc chiến chống Trung quốc, nhưng là để Bắc kinh không dám mạo hiểm phiêu lưu gây chiến tranh, kể cả sử dụng võ khí nguyên tử đàn áp và khuynh đảo VN. Liên minh chiến lược với Mĩ sẽ làm Bắc kinh không dám tung hoành trên biển Đông như chỗ không người. Liên minh chiến lược với Mĩ để khi cơ hội thuận tiện giành lại chủ quyền đang bị mất trên các đảo. Như vây đây là sách lược hữu hiệu để gìn giữ hòa bình cho VN và khu vực!
Trong kỉ nguyên võ khí nguyên tử đã có những thí dụ rất thành công của nhiều nước giữ vững hòa bình lâu dài, mặc dầu sống bên cạnh các nước thù địch mạnh hơn và có võ khí nguyên tử. Như Tây Đức sau Thế chiến thứ 2 đã liên minh chiến lược với Mĩ, nhờ cái dù nguyên tử của Hoa kì che chở nên mặc dầu cựu cường quốc nguyên tử Liên xô hung tợn nhưng không dám đụng tới Tây Đức. Cuối cùng Tây Đức thống nhất với Đông Đức không tốn một viên đạn. Đức đang trở thành cường quốc kinh tế thứ ba, thứ tư trên thế giới và là một nước dân chủ mẫu mực. Trường hợp Nhật và Nam Hàn cũng tương tự. Cả hai nước này đều sống cạnh các nước láng giềng có võ khí nguyên tử là cựu Liên xô và Trung quốc, nhưng nhờ liên minh chiến lược với Hoa kì nên đã giữ được độc lập, hòa bình suốt trên nửa thế kỉ qua và trở thành những nước dân chủ và có nền kinh tế rất mạnh trên thế giới.
Những thí dụ chính trị cận đại này đã chứng minh sự lỗi thời của các quan niệm „nước xa lửa gần“, „bán anh em xa mua láng giềng gần“. Đức, Nhật và Nam Hàn dù xa Mĩ cả chục ngàn cây số, nhưng trong thời đại của hỏa tiễn liên lục địa chỉ cần vài phút có thể bay tới các mục tiêu, nên nó là những võ khí hiệu quả nhất làm cho những chế độ độc tài không dám thực hiện những tính toán phiêu lưu.
VN không còn ở trong thế kỉ 20. Sự tan rã của Liên xô, toàn cầu hóa kinh tế-tài chánh và cách mạng của thông tin điện tử đã làm thay đổi tận gốc tương quan lực lượng quốc tế. Vì thế chiến lược an ninh đối ngoại của VN cũng phải thay đổi kịp thời mới bảo đảm được các quyền lợi sinh tử của dân tộc. Thời kì Trung quốc là thiên triều, VN là chư hầu đã qua rồi. Nay Trung quốc là láng giềng của VN nhưng đang trở thành kẻ thù nguy hiểm và trực tiếp của VN. Trong khi ấy Mĩ cũng là láng giềng của VN, hiểu theo bối cảnh khoa học kĩ thuật và quan hệ thế giới của Thế kỉ 21. Quan trọng khác nữa là Hoa kì và VN lại đang có chung quyền lợi trên biển Đông.
Đi Hoa kì để làm gì? Đi như thế nào?
Mối đe dọa của Bắc kinh như sợi chỉ treo ngàn cân. Thoát khỏi nguy cơ lệ thuộc Trung quốc, nói gọn „Thoát Trung“ – cả về ý thức hệ, chính trị, kinh tế và an ninh – là con đường sinh tồn của VN. ĐCSVN đang phải chịu hai trách nhiệm: Đã độc quyền cai trị đất nước và đã để đất nước rơi vào sự phong tỏa của Bắc kinh. Vì thế, nếu có ý thức trách nhiệm cao và nghiêm túc thì những người cầm đầu chế độ toàn trị phải biết lắng nghe tiếng gọi của nhân dân – đi tiên phong là trí thức, chuyên viên, thanh niên và cả những đảng viên tiến bộ- thực hiện sớm và triệt để khát vọng chính đáng „Thoát Trung“ của thời đại.
Nguyễn Phú Trọng có cái may mắn của lịch sử để thực hiện sứ mạng này, qua đó cũng là cơ hội để ông có thế chuộc lại những lỗi lầm cực kì nguy hiểm do những người tiền nhiệm và chính ông gây ra cho dân tộc. Liệu ông có thể nhận ra cơ hội này hay không và có đủ bản lãnh vượt qua cái bóng đen của mình không? Nếu Nguyễn Phú Trọng quyết định đi thăm Hoa kì chỉ vì tự ái hão, muốn chứng tỏ rằng „mình phải như thế nào thì người ta mới mời chứ!“, như ông rất tự đắc sau khi được Giáo hoàng và một số thủ lãnh EU tiếp vào cuối tháng 1.2013 thì không nên thăm Hoa kì. Vì giải tỏa tâm lí tự ti mặc cảm cho cá nhân mình chẳng giúp được gì trong việc giải quyết vấn nạn làm sao đất nước „Thoát Trung“!
Còn nếu đặt mục tiêu thăm Mĩ vì quyền lợi tối thượng của dân tộc là Thoát Trung và gia nhập TPP (Hiệp ước Đối tác xuyên Thái bình dương) thì ông Trọng phải chuẩn bị thật tốt và phải có những hành động cụ thể rõ ràng để nhân dân VN hưởng ứng, chính giới Mĩ kính trọng và thế giới ủng hộ. Trong trường hợp này ông Trọng phải thực hiện song song hai việc cực kì quan trọng là: 1.Củng cố nội lực bằng chính sách hòa giải và đoàn kết dân tộc thực sự. 2. Lập liên minh chiến lược với Hoa kì để ngăn chặn hữu hiệu chủ nghĩa đế quốc mới của Bắc kinh.
Nhưng để tiến tới lập liên minh chiến lược với Mĩ thì ông Trọng không thể chỉ đàm phán với Tổng thống Obama mà còn phải gặp lãnh đạo lưỡng viện Mĩ thuyết phục sự ủng hộ của họ. Như trên đã trình bày, theo Hiến pháp Hoa kì, một hiệp định như vậy phải có sự đồng ý của đa số lưỡng viện. Nhưng khó có thể mường tượng là, Quốc hội Mĩ sẽ đồng ý nếu các chính sách đàn áp dân chủ và chà đạp nhân quyền vẫn tồn tại ở VN. Cũng không thể coi thường tiếng nói và ảnh hưởng của hai triệu người Mĩ gốc Việt trong chính giới Hoa kì ở liên bang cũng như ở các tiểu bang.
Hiện nay Trần Đại Quang đang thăm Mĩ để dọn đường cho chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng. Dư luận quốc tế, đặc biệt Mĩ, rất quan ngại những chính sách đàn áp người dân chủ và chà đạp nhân quyền qua bộ máy công an mật vụ ở VN. Cho nên chính giới Mĩ, cả hành pháp lẫn lập pháp và báo chí không thể nào thỏa mãn nếu Trần Đại Quang chỉ hứa cuội mà lại không hành động cụ thể chứng minh là những biện pháp phản dân chủ phải được chấm dứt.( )
Chắc chắn nhân dân VN, đi tiên phong là trí thức, chuyên viên, thanh niên và cả những đảng viên tiến bộ, sẽ tích cực chủ động mở những cuộc vận động lớn trước, trong và sau chuyến đi Hoa kì của Nguyễn Phú Trọng để nói rõ nguyện vọng Thoát Trung, gia nhập TPP cũng như đòi tự do dân chủ. Đây chính sẽ là thước đo để chính giới Mĩ thấy rõ chế độ toàn trị hiện nay có tôn trọng các quyền tự do dân chủ căn bản và có được nhân dân VN ủng hộ hay không.
Nếu Nguyễn Phú Trọng đi thăm Bắc kinh trước rồi mới sang Washington, vì nghĩ rằng có thể dọa già dọa non được Tập Cận Bình thì là một tính toán cực kì sai lầm và không tưởng. Tập Cận Bình vẫn chỉ tìm cách xoa đầu ông Trọng như đã làm từ trước tới nay và tiếp tục bắt VN làm con trâu vàng của Trung quốc! Trong khi đó cả chính phủ và quốc hội Mĩ sẽ không tin là Nguyễn Phú Trọng dám dứt khoát với Bắc kinh, nên Mĩ sẽ không ủng hộ VN được.
Vì thế chuyến thăm Hoa kì của Nguyễn Phú Trọng cần diễn ra trước chuyến thăm Mĩ của Tập Cận Bình vào cuối năm nay. Vì như đã trình bày, Tập Cận Bình muốn dịp này thảo luận tay đôi trên thế giữa hai cường quốc, theo cách chia đôi Thái bình dương với trọng tâm là kiểm soát biển Đông, như họ đã từng tỏ ý. Trong khi ấy cho tới nay Washington không rõ ý định thực sự của Hà nội: Muốn bảo vệ biển đảo thực sự hay tiếp tục nhượng cho Trung quốc? Tới mức độ nào? Obama không thể làm thay cho Hà nội! Vì thế Tổng thống Obama muốn biết rõ chủ đích thực sự của Hà nội trước khi ông ta đàm phán với Tập Cận Bình.
Thời gian đi thích hợp nhất cho chuyến thăm Hoa kì của Nguyễn Phú Trọng là thời điểm giữa hai dịp kỉ niệm 40 năm chấm dứt chiến tranh VN (30.4.75) và 20 năm lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước (7.1995). Nếu chuyến đi này tốt đẹp sẽ là cơ hội để Tổng thống Obama thăm VN vào dịp cuối năm 2015.
Đây là cơ hội rất tốt để hai cựu thù chứng tỏ với nhân dân hai nước và thế giới biết, cả hai bên thực sự muốn sang trang lịch sử mới, từ thù thành bạn tin cậy. Nhưng muốn vậy cần phải tạo không khí chính trị lành mạnh và tâm lí thích hợp cho chuyến đi Mĩ. Trong tư cách Tổng bí thư, người đứng đầu chế độ, nên ông Trọng có thể thực hiện một số công việc cụ thể trong tầm tay:
1.Thay vì tổ chức các cuộc diễn binh của bên thắng cuộc – sẽ chỉ khơi lại hận thù, chia rẽ và đau buồn trong lòng dân tộc- hãy để nhân dân trên toàn quốc tổ chức một tuần lễ các cuộc viếng thăm các nghĩa trang của quân nhân và thường dân giữa hai miền đã hi sinh, ủy lạo các thương binh và cô nhi của hai bên; để các chùa và nhà thờ được tổ chức lễ cầu siêu cho các vong nhân và lễ sám hối cho những sai lầm trong quá khứ. Trong dịp này cũng nên để nhân dân và đồng đội thăm viếng các nghĩa trang chôn cất binh sĩ và thường dân trong cuộc chiến chống Trung quốc ở Hoàng sa (1974), xâm lăng biên giới (1979) và Gạc ma 1988.
- Trả tự do cho tất cả các tù chính trị và tôn giáo. Chấm dứt các hành động rình rập theo dõi những người khác chính kiến. Hãy để nhân dân các giới được tự do hội họp và biểu tình ôn hòa để đòi các quyền chính đáng, cũng như chống lại các hành động lấn chiếm của Bắc kinh.
Đây là những việc làm hòa giải dân tộc thực sự đầy ý nghĩa, hợp lòng dân, hợp đạo nghĩa không chỉ với những người còn sống mà cả với mấy triệu đồng bào đã chết. Đây cũng là thái độ và cử chỉ hợp thời, cuộc nội chiến tàn khốc đã chấm dứt từ 40 năm! Tại sao ta khép lại quá khứ với kẻ thù Bắc kinh mà lại vẫn khơi dậy hận thù giữa các tầng lớp dân tộc?
Thực hiện các việc làm chính đáng và khẩn thiết này, ông Trọng sẽ chứng minh không chỉ cho nhân dân VN mà cả nhân dân Mĩ và dư luận thế giới biết, từ nay ĐCSVN dưới quyền ông quyết rũ bỏ những sai lầm để bắt đầu một trang sử mới cho VN và với cựu thù Mĩ cũng như thế giới tiến bộ! Nếu có những bước đi và hành động như vậy thì sẽ được nhân dân ủng hộ, kiều bào ủng hộ và chính giới-dư luận Mĩ hưởng ứng và kính trọng. Khi đó mọi thủ tục nghi lễ sẽ không còn là trở ngại. Tổng thống Obama sẽ trải thảm đỏ đón một chính khách biết thắng chính mình!
***
Nguyễn Phú Trọng cần hiểu đúng, trong tư cách cá nhân ông không phải là nhân vật quan trọng. Nhưng vị trí địa lí chính trị của VN mới quan trọng trong chủ thuyết an ninh đối ngoại „Xoay trục sang châu Á-Thái bình dương“ của Tổng thống Hoa kì Obama. Xét về dân số, tài nguyên và năng khiếu thì VN là một nước lớn trung bình trên thế giới. Nhưng hiện nay VN đang yếu kém, tụt hậu về kinh tế, đội sổ trong khoa học, kĩ thuật và giáo dục cũng như nhân quyền, đồng thời lệ thuộc Bắc kinh chỉ vì chế độ chính trị quá tồi, chính quyền độc tài và tầng lớp lãnh đạo đầy tự ti mặc cảm của một nước nhược tiểu.
Ông Trọng muốn đi thăm Hoa kì với tư cách một Tổng bí thư ĐCS chỉ để cứu đảng, hay đi trong tầm nhìn và tư thế của một chính khách quốc gia để cứu nước?
Giữa thập niên 40 của Thế kỉ trước, người sáng lập chế độ toàn trị đưa ra khẩu hiệu „Dĩ bất biến ứng vạn biến” làm tiêu chí hành động; theo đó trong mọi tình huống phải có những phương sách để giữ ĐCS tồn tại và độc quyền, tức là đặt đảng lên đầu nhân dân và quyền lợi của đảng cao hơn quyền lợi của đất nước! Từ đó đã bao nhiêu lần thủ tiêu các người khác chính kiến, đàn áp các tổ chức đối lập, thậm chí giết hại cả những đồng chí, coi dân như cỏ dại! Trong khi đó sẵn sàng làm tay sai cho các thế lực ngoại bang, hết Liên xô đến Trung quốc! Kết quả hiện nay sau gần 70 năm thực hiện tiêu chí trên cho đảng và đất nước như thế nào thì ai cũng biết. Nhân dân vẫn không được hưởng tự do, đất nước tụt hậu, độc lập và chủ quyền đang bị Bắc kinh đe dọa trực tiếp nghiêm trọng. Trong khi ấy ngay cả đảng cũng đang biến thành tổ chức của những nhóm lợi ích vị kỉ, cán bộ trở thành những bọn trộm cắp, tham nhũng!
Như vậy thứ tự giá trị của tiêu chí trên đã đặt hoàn toàn sai lầm. Đặt tiêu chuẩn giá trị Đảng trước, Nước sau không phải khôn lớn mà chỉ là khôn nỏi, không phải là đại trí mà chỉ là đại ngu!
Hãy tỏ ra là một chính khách có tầm vóc quốc gia và thời đại, biết khôn lớn của người đại trí, đặt quyền lợi của dân tộc làm tối thượng và bất biến, coi ĐCS chỉ là một phương tiện trong thế „vạn biến“, nếu đảng trở thành vật cản bước đi lên của dân tộc thì sẵn sàng để dân tộc lên trên, hi sinh đảng. Đó là cái khôn lớn của người đại trí! Do đó phải đặt lại thứ tự ưu tiên: đặt dân, đặt nước lên trên đảng!
Đối với nhiều người cầm đầu chế độ toàn trị hiện nay việc xoay trục từ Bắc kinh sang Washington không đễ dàng. Tâm trạng của họ như người đang đứng trước ngọn núi cao hiểm trở hay khúc sông sâu nước cuốn. Tuy khó, nhưng „Không có điều gì là không thể“, như lời của Đại sứ Mĩ Ted Osius nói trước sinh viên tại Đại học Quốc gia Hà nội ngày 6.3.15 báo tin chuyến thăm Hoa kì của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. ( )
Ông Trọng đi Mĩ để làm gì? Đi chỉ để thỏa mãn tự ái cá nhân hão trước khi chấm dứt nhiệm kì Tổng bí thư thì uổng công vô ích! Nhưng nếu đi vì quyền lợi đất nước phải Thoát Trung thì sẽ được nhân dân VN ủng hộ và chính giới Mĩ kính trọng. Khi đó Nguyễn Phú Trọng sẽ để lại vết son trong lịch sử. Nhưng cái khó khăn lớn nhất là, ông Trọng có đủ đảm lược để tự thoát khỏi cái bóng đen quá dài của chính mình hay không?
Để dứt khoát cắt bỏ con đường mòn „Nguyễn Như Vân“, quyết vượt qua được những trở ngại tâm lí, những lo âu và ngại ngùng trước một quyết định mang tầm vóc lịch sử là Thoát Trung, có lẽ Nguyễn Phú Trọng và những người cầm đầu chế độ toàn trị mỗi tối trước khi đi ngủ hãy đọc ba lần lời khuyên sáng suốt của nhà văn tên tuổi Nguyễn Bá Học:
„Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông!“
Âu Dương Thệ
Nguồn: DCCT
- Viết bởi Đức Thiện, VRNs tổng hợp
VRNs (21.03.2015) Sài gòn – Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh cảnh báo Việt Nam ‘đang đứng trước hiểm họa’ TQ và kêu gọi các lãnh đạo Việt Nam ‘nắm rõ hiện tình’ để hóa giải.
Trong một bài viết công bố hôm 19/3 trên trang Bauxite Việt Nam, thiếu tướng Vĩnh, cựu Đại sứ Việt Nam ở Trung Quốc cho rằng, TQ đang hiện diện ở nhiều vị trí chiến lược của VN ngoài biển lẫn trên bộ.
Tướng Vĩnh nói, “Ngoài biển, Trung Quốc sắp hoàn thành căn cứ quân sự trên cụm bãi đá Gạc Ma mà họ đánh chiếm của VN năm 1988.”
“Trên bộ, Trung Quốc đã mua được 4.000 ha rừng biên giới, Nông Đức Mạnh đã cho họ vào khai thác bô-xít, đứng chân ở Tây Nguyên chiến lược,”
Tướng Vĩnh nói tiếp, “Chính quyền Hà Tĩnh đã cho họ [TQ] thực hiện dự án Formosa Vũng Áng rộng hơn 3km2… Vũng Áng như cái yết hầu của nước ta, nếu có biến, đất nước sẽ bị chia cắt rất nguy hiểm.”
“Từ Kỳ Anh đến Đèo Ngang, Trung Quốc đã thuê dài hạn phía Đông đường quốc lộ ra biển. Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải cho Trung Quốc trúng thầu nhiều công trình trong đó có những nhà máy nhiệt điện,” nên “lao động Trung Quốc rải khắp nơi.”
Bên cạnh đó, tướng Vĩnh nhận xét, việc làm đường cao tốc Lào Cai – Hà Nội có thể khiến bộ đội TQ ‘tiến rất nhanh’ đến Hà Nội.
Vì thế, ông Vĩnh kêu gọi các lãnh đạo VN ‘nắm rõ hiện tình’ và bầu ra ‘những nhà lãnh đạo có tinh thần dân tộc, có dũng khí, có tâm huyết và tài năng’ trong đợt thay đổi nhân sự Đảng sắp tới để ‘hóa giải được hiểm họa cho đất nước.’
Hồi cuối tháng 2/2015, quan chức tình báo Mỹ tuyên bố Trung Quốc đang tiến hành xây dựng các cảng hải quân và sân bay trên các đảo ở Biển Đông.
Tuy nhiên, tác giả Nguyễn Vinh của tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn cho rằng, người dân trong nước đang “im lặng đáng sợ” trước việc TQ xây đảo nhân tạo trái phép ở quần đảo Trường Sa trong khi giới quan sát quân sự thế giới cho đây là hành vi “‘hiếu chiến’, ‘mở rộng tiền đồn’ của TQ.”
Tác giả Nguyễn Vinh cảnh báo, “Phải chăng người dân đã không còn quan tâm và thấy cần phải thể hiện chính kiến rõ ràng trước những sự diễn biến liên quan đến chủ quyền đất nước?.”
Bình luận trước vấn đề trên, nhà bất đồng chính kiến Nguyễn Tiến Trung nói, “nếu thật sự người Việt Nam thờ ơ với chuyện không gian sinh tồn của dân tộc bị uy hiếp thì chuyện mất nước có lẽ không phải là chuyện xa vời.”
Ông Trung nhận định tiếp, “việc xây và mở rộng các đảo do Trung Quốc chiếm đóng trái phép ở Trường Sa còn nguy hiểm hơn việc họ đặt giàn khoan HD981 nhiều. Từ các đảo nhân tạo rộng rãi có sân bay, máy bay, tên lửa của Trung Quốc chẳng tốn mấy thời gian để đến các tỉnh miền Trung, miền Nam Việt Nam. Đây mới thật sự là mối nguy cho an ninh quốc gia.”
Đức Thiện, VRNs tổng hợp
Nguồn: DCCT
- Viết bởi Đinh Lâm Thanh
VRNs (20.03.2015) – California, USA – Vấn đề tỵ nạn chính trị của các chủng tộc đã xảy ra liên tục trên hành tinh nầy từ hàng chục thế kỷ nay, chẳng có gì mới lạ để nói đến. Có chăng là, những đợt tỵ nạn chính trị vĩ đại mang tính cách lịch sử vừa xuất hiện trong vòng nửa thế kỷ nay mà loài người không bao giờ quên. Đó là việc hàng triệu người đã rời Việt Nam đi tìm tự do!
Chuyện đã xảy ra hai lần, năm 1954, một triệu đồng bào phải bỏ nhà cửa ruộng vườn ngào Bắc chay vào Nam khi cộng sản vừa cướp xong chính quyền phía Bắc. Lần thứ hai năm 1975, cũng trên một triệu dân phải rời tổ quốc quê hương đi tìm tự do ngay lúc Hà Nội lùa quân vào cướp miền Nam với chiêu bài sặc mùi đểu giả là ‘giải phóng’ và ‘thống nhất’ đất nước!
Đối với người dân miền Nam, một khi thấy nón-cối-dép-râu với lá cờ-máu-sao-vàng thì hồn vía đã lên tận mây xanh. Họ phải bỏ của cải gia tài, chấp nhận may rủi, chen nhau xuống ghe tàu chạy ra biển để bảo vệ lấy tính mạng. Có thể nói, thành phần tỵ nạn chính trị là người đã chứng kiến những gì cộng sản đã làm cũng như chính họ đã trải qua những giây phút hãi hùng của các cuộc đấu tố, chém giết, khủng bố, ám sát, trói tay, chặt đầu và chôn sống tập thể giữa con người với con người, giữa người Việt Nam cùng một mẹ, cùng chung dòng máu!
Tội ác cộng sản Việt Nam đối với đồng chủng chẳng những dã man hơn cả loài thú mà còn khốn nạn độc ác hơn các cuộc tàn sát tập thể của người Đức với dân Do Thái trước kia. Do đó, đã là người tỵ nạn chính trị, trừ một số nhỏ ăn phải ‘bùa mê thuốc lú’ của Hà Nội, còn bất cứ ai cũng mang một tâm trạng giống nhau: không thể sống chung với loài quỷ đỏ. Dù ngày nay, sau 40 năm, những người trong nước nếu có cơ hội và phương tiện thì tất cả cũng bỏ xứ ra đi!
Đây là điểm nổi bật dưới chế độ cộng sản mà vấn đề tỵ nạn chính trị của Việt Nam đã chiếm kỷ lục thế giới.
Bước qua chuyện tỵ nạn kinh tế, tuy Việt Nam được xếp sau một vài xứ Phi Châu, nhưng không thể bỏ qua mà cần phải đề cập đến những chuyện xấu xa của những người lợi dụng lòng nhân đạo của thế giới tự do để chui xuống tàu bỏ xứ ra đi vì vấn đề bao tử. Thành phần nầy ra nước ngoài vinh thân phì gia nhờ sống bám vào cộng đồng người Việt nhưng lại trở mặt làm tay sai cho cộng sản. Những người này ăn chia với quân cướp, mua ghe, đóng thuyền, tổ chức ‘bán chính thức’ đưa cả gia đình dòng họ vượt biên một cách an toàn. Ra xứ ngoài… khởi đầu từ việc bán ‘bánh tiêu – chầu quảy – hột vịt muối’ để rồi ngày nay trở thành những tên trọc phú ‘bánh ngọt – bánh mì’- chủ siêu thị… Họ mang ơn cộng sản, gom góp tiền bạc trở lại nuôi chế độ và làm kinh tài cho Hà Nội. Họ vượt biên được là nhờ móc nối, tổ chức, lừa bịp, quỵt vàng, giựt bạc, cướp tình của những người đi chui….
Bây giờ trở xin về điểm chính là vấn đề ‘tỵ nạn văn hóa’ của chế độ cộng sản. Đây là một hình thức tỵ nạn độc đáo có một không hai của nhân loại từ trước đến nay.
Sau ngày 30.04.1975, cộng sản Hà Nội ra lệnh xóa bỏ toàn bộ văn hóa nhân bản mà chúng gọi ‘văn hóa đồi trụy’ để áp đặt lên đầu dân miền Nam một quái thai ‘văn hoá đỏ’. Thời đó trẻ con miệng còn hôi sữa, được cộng sản xử dụng như một thành phần nòng cốt, đến từng nhà, khu phố, cơ sở để thu góp tất cả văn hóa phẩm mà chúng gọi là sách báo đồi trụy. Bất cứ tác phẩm văn chương nào dù ca ngợi quê hương, tình yêu cũng bị liệt vào loại sách báo nhạc vàng trong âm mưu tẩy xóa tàn tích chế độ cũ.
Đối với việc giáo dục, nhất là chương trình sử, cộng sản thay thế tức khắc môn học nầy bằng những bài học chính trị láo khoét, huênh hoang vô tưởng để ca tụng một cách ngu xuẩn cái vinh quang thần thánh và cao ngạo nặng mùi xú uế của những danh từ ‘đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào’! Trong lãnh vực văn chương, những gì có liên quan đến chế độ tư bản hay mang màu sắc văn hóa nước ngoài đều bị thay thế ngay bằng những bài học mà chế độ cộng sản thường rêu rao là sản phẩm đỉnh cao trí tuệ phát xuất từ ‘cái nôi văn hóa nhân loại’! Nhưng rồi chẳng bao lâu, chính cán bộ phải bươi thùng rác, lục lọi đi tìm những sách báo đồi trụy cũng như những bản nhạc vàng mà họ vừa thủ tiêu để đưa về gối đầu giường nghiền ngẫm.
Người ta còn nhớ, một số ít dân miền Nam hăm hở đổ xô ra đường hoan hô cách mạng nhưng chỉ trong vòng một thời gian ngắn, họ đã bật ngửa ra rằng cộng sản kéo quân vào Nam không ngoài mục đích cướp của giết người và cái văn hóa đỏ mà họ bắt dân chúng học tập ngày đêm chính là chủ trương ‘vô tổ quốc’ ‘vô gia đình’ và ‘vô tôn giáo’. Rồi đạo đức tốt đẹp của Xã hội Tự Do bỗng nhiên biến thành địa ngục của lừa lọc, tráo trở, cướp bóc, đâm chém…
Nhân phẩm rủ áo ra đi, tình người đâm đầu tháo chạy để nhường chỗ cho sức mạnh của đồng tiền vật chất và sự dối trá lật lọng của xã hội chủ nghĩa. Trong nhà đâm chém nhau, ra đường thì cướp giật, mở miệng đã chưởi thề và thấy của là ‘chôm’ ngay… đó là sản phẩm của xã hội chủ nghĩa với nền văn hóa đỏ, là đỉnh cao trí tuệ của loài người mà cộng sản đã hăm hở đưa từ Bắc vào. Bậc phu huynh đau lòng khi bạo quyền áp đặt việc giáo dục để biến thế hệ trẻ thành những con thiêu thân trụy lạc, dốt nát, mù quáng và cuồng tín để rồi chỉ biết phục vụ và sống chết cho đảng!
Con cháu gia đình nào may mắn vượt biên thành công, hoặc ra đi theo diện đoàn tụ hay theo chương trình HO đều xem như thoát được cái văn hóa rừng rú dơ bẩn và xấu xa do Việt cộng nhồi sọ. Đa số người gốc miền Nam còn bị kẹt lại, nếu còn chút phương tiện đều phải bán nhà, bán đất gom góp tiền của để gởi con ra nước ngoài hầu tránh nọc độc của nền văn hóa đỏ của cộng sản. Đây chính là hình thức ‘tỵ nạn văn hóa’.
Đối với cán bộ đảng viên cũng như những tỷ phú đỏ, dĩ nhiên chúng đều biết cái văn hóa do chúng đẻ ra là một âm mưu độc hại, dùng để ‘ngu muội hóa’ dân tộc Việt Nam đồng thời ‘thần tượng hóa’ ông Hồ và đảng cộng sản nhưng họ cũng không dại gì để con cháu của mình vướng phải. Do đó người cộng sản từ chí mén đến các tay gộc đều tìm cách xuất khẩu con cái ra ngoài dưới hình thức du học. Đây cũng là một hình thức ‘tỵ nạn văn hoá’.
Vấn đề nầy nhắc nhở người Việt nhớ lại, mới ngày nào cộng sản cứ oang oang rằng miền Nam văn hóa thì đồi trụy và phồn vinh thì giả tạo! Nhưng bây giờ họ chạy chọt bằng mọi giá để con cháu ra nước ngoài học cho bằng được cái ‘văn hóa đồi trụy’ và hưởng phước tối đa cái ‘phồn vinh giả tạo’ của tư bản!
Đối với những gia đình trong nước dù thuộc thành phần nào, nếu gởi được con cái ra xứ ngoài du học thì xem như một dịp ‘tỵ nạn văn hóa’, giúp cho lớp trẻ thoát khỏi những cảnh xấu xa tội ác, thiếu đạo đức, không tình người mà cộng sản đã bị nhồi sọ kể từ lúc vừa chập chửng biết đi.
Tuy nhiên đối với thành phần cộng sản và tỷ phú đỏ, vấn đề tỵ nạn văn hóa không đơn giản như tôi vừa trình bày ở trên. Đó là việc lợi dụng ‘tỵ nạn văn hóa’ để bắc cầu cho việc ‘tỵ nạn tài chánh’ và ‘tỵ nạn chính trị’ sau nầy. Theo thiển ý của tôi, thành phần cộng sản gộc, thì việc cho con cháu học hành đổ đạt ở nước ngoài không quan trọng bằng sự trưởng thành đường lối chính trị rập theo khuôn mẫu chủ nghĩa Marx-Lenin. Họ cần đào tạo các thế hệ kế tiếp theo đúng đường lối cai trị để con cháu tiếp tục bảo vệ ngai vàng mà họ đã ngang nhiên trị vì từ trên sáu chục năm qua!
Dù họ biết rằng đời sống tự do ở hải ngoại sẽ cám dỗ và làm hư hỏng tư tưởng thế hệ con cháu, nhưng họ vẫn gởi ra nước ngoài cả triệu thanh niên đi tỵ nạn văn hóa qua chương trình du học (du sinh) không ngoài mục đích bắc cầu cho một cuộc tỵ nạn chính trị của họ sau nầy. Nhìn chung, giới trẻ Việt Nam đã sáng mắt khi va chạm với đời sống tự do ở nước ngoài và người ta không lấy làm lạ khi thấy du sinh học xong đều kiếm cách ở lại nước ngoài và quyết tâm bám lấy mảnh đất ‘phồn vinh giả tạo’ của tư bản!
Thành phần nam nữ con cán bộ đảng viên được đưa ra nước ngoài du học với nhiều nhiệm vụ khác nhau: ngoài mục đích tuyên truyền, chuyển tiền bạc, thực hiện chương trình kiều vận…, các du sinh còn phải tìm cách kết hôn, kiếm vợ gã chồng, tạo cơ sở, mở đường ‘tỵ nạn’ cho cả gia đình dòng họ khi có chuyện ‘đổi đời’ sau nầy. Vậy đây chính là chương trình ‘tỵ nạn văn hóa’ của ngụy quyền Hà Nội!
Việt Nam là một nước được quốc tế liệt kê đứng đầu thế giới về xuất khẩu nô lệ, đỉ điếm và tỵ nạn chính trị. Bây giờ phải ghi thêm vào kỷ lục Guiness về chương trình ‘tỵ nạn văn hóa’ nữa. Như vậy cộng sản Việt Nam mới xứng danh là ‘đỉnh cao trí tuệ loài người’ và ‘cái nôi văn hóa của nhân loại’!
Đinh Lâm Thanh
Nguồn: DCCT
- Viết bởi Phạm Trần
VRNs (20.03.2015) – Washington DC, USA – Ban Tuyên giáo Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam đã phát động chiến dịch tô hồng điểm phấn cho “Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30.4.1975 – 30.4.2015)”, nhưng lại không giấu được cái đuôi xâm lược miền Nam Việt Nam.
Bằng chứng này ghi trong Nghị quyết 15 xác định “mục tiêu, phương pháp cách mạng miền Nam “tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (khoá II) lần thứ 15 (mở rộng) họp tại Hà Nội từ ngày 12 đến 22.01.1959.
Đề cương tuyên truyền ca ngợi Nghị quyết đã: “Xác định rõ mục tiêu, phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ chiến lược của cách mạng hai miền, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam; định hướng và động viên nhân dân miền Nam vùng lên đấu tranh, tạo ra phong trào Đồng khởi (1959 – 1960), xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, làm tan rã hàng loạt bộ máy của ngụy quyền ở các thôn, xã”.
Nhưng đâu là lý do khiến miền Bắc Cộng sản (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) có quyết định phải thực hiện cuộc “cách mạng miền Nam”?
Nghị quyết 15 bịa chuyện: “Do lực lượng so sánh giữa ta và địch, nhân dân ta chỉ mới giải phóng được miền Bắc. Ở miền Nam chưa được giải phóng, đế quốc Mỹ đã lấn dần và hất cẳng thực dân Pháp, tập hợp các thế lực phản động, sử dụng chính quyền Ngô Đình Diệm làm công cụ để khôi phục và duy trì ách thống trị của đế quốc và phong kiến. Nhân dân miền Nam ngày càng lâm vào cảnh cùng khốn và mất hết quyền tự do. Vì vậy, nhân dân miền Nam còn phải tiếp tục làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đánh đổ ách thống trị đế quốc và phong kiến, chủ yếu là đánh đổ chế độ Mỹ – Diệm”.
Những người Việt Nam của miền Nam đã sống qua giai đọan này và còn sống chắc phải bịt mũi trước luận điệu tuyên truyền gỉả dối này. Nhân dân miền Nam từ 1954 đến thời điểm ra đời của Nghị quyết 15 tháng 01 năm 1959, dù có bị hạn chế một số quyền do tình trạng an ninh, chưa bao giờ “lâm vào cảnh cùng khốn và mất hết quyền tự do” như đồng bào miền Bắc trong thời gian này.
Càng phỉ báng lịch sử hơn khi Nghị quyết viết rằng: “Do sự can thiệp của đế quốc Mỹ vào miền Nam, nước ta bị tạm thời chia làm hai miền: miền Bắc đã được giải phóng và độc lập hoàn toàn, còn miền Nam vẫn là một thuộc địa (kiểu mới) của đế quốc Mỹ….
Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai chẳng những xâm chiếm miền Nam, ngăn cản sự phát triển của xã hội miền Nam, mà còn ráo riết chuẩn bị chiến tranh hòng xâm chiếm cả nước ta, phá hoại toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”.
Ai xâm chiếm ai thì phương châm đề ra trong Nghị quyết 15 “củng cố miền Bắc, chiếu cố miền Nam” đã lột mặt nạ ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ.
Để biện minh cho hành động hiếu chiến, đẩy dân tộc hai miền Bắc-Nam vào nội chiến nồi da xáo thịt, Nghị quyết đã hô hào: “Tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ chế độ đế quốc và nửa phong kiến ở miền Nam để thực hiện thống nhất nước nhà”.
Nhưng gây chiến với miền Nam để làm gì và cho ai thì Nghị quyết 15 đã để lộ chân tướng tay sai khi khẳng định rằng: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á”.
Nghị quyết viết: “Vấn đề thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước ta trước hết là vấn đề đấu tranh giữa dân tộc ta chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai, đồng thời cũng là vấn đề đấu tranh giữa phe xã hội chủ nghĩa và phe đế quốc chủ nghĩa. Phe xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô, càng tranh thủ giữ vững hoà bình được lâu dài thì càng có điều kiện thuận lợi để tăng cường mau chóng lực lượng của mình về mọi mặt trên toàn thế giới, càng làm suy yếu mau chóng thế lực của chủ nghĩa đế quốc. Chủ trương của Đảng ta giữ vững hoà bình ở Việt Nam, thực hiện thống nhất nước nhà bằng con đường hoà bình, chủ trương ấy gắn liền với chủ trương chung nói trên của phe xã hội chủ nghĩa”.
Nhưng miền Bắc không “thực hiện thống nhất nước nhà bằng con đường hoà bình” mà đã nhận lệnh và vũ khí, lương thực của Liên Xô-Trung Cộng để xâm lăng miền Nam Việt Nam.
Thực tế này đã phản ảnh trong câu nói lịch sử ô nhục của Tổng Bí thư Lê Duẩn: “Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta” (?) (theo Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, Nxb. Văn Nghệ, 1997, tr. 422, phần chú thích)
Như vậy đã rõ ràng Ban Chấp hành Trung ương đảng CSVN khóa II, đứng đầu bởi Hồ Chí Minh thời bấy giờ đã ngụy tạo ra đủ điều để xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa.
Chẳng hạn như họ viết trong Nghị quyết 15 rằng: “Chính quyền Ngô Đình Diệm là chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ, chế độ thực dân và nửa phong kiến ở miền Nam là một chế độ phản động, tàn bạo và đen tối….Chính quyền miền Nam hiện nay là một chính quyền phản bội lợi ích dân tộc; nó đại biểu cho lợi ích của đế quốc Mỹ, của bọn phong kiến và bọn tư sản mại bản thân Mỹ phản động nhất ở miền Nam….Thành phần cốt cán trong chính quyền đó gồm những phần tử phong kiến và tư sản mại bản phản động nhất và những phần tử lưu manh, côn đồ và phản bội, quyết tâm làm tay sai cho đế quốc Mỹ, do gia đình và phe cánh họ Ngô cầm đầu”.
Tưởng bằng đó lời bịa đặt chưa đủ, Nghị quyết 15 còn đặt điều vu khống thêm: “ Chính quyền đó là một chính quyền độc tài hiếu chiến. Nó là công cụ xâm lược của đế quốc Mỹ, đế quốc cầm đầu các lực lượng hiếu chiến trên thế giới hiện nay; đồng thời, nó cũng mang nặng tính chất phục thù của giai cấp địa chủ đã bị đánh đổ ở miền Bắc nước ta. Do bản chất phi nghĩa, thế cô lập và chỗ yếu căn bản của nó, nó thực hiện một chế độ độc tài, hung bạo, dùng chính sách đàn áp bằng vũ lực, và dựa vào bộ máy cảnh sát mật thám để tồn tại”.
MẶT TRẬN TAY SAI
Đáng lẽ ra những chữ “độc tài, hung bạo, dùng chính sách đàn áp bằng vũ lực, và dựa vào bộ máy cảnh sát mật thám để tồn tại” phải dành cho đảng CSVN mới đúng với lịch sử.
Nhưng có bao giờ người Cộng sản Việt Nam dám nhìn thẳng vào mặt dân để thừa nhận họ đã nhân danh người dân miền Nam để giết hại đồng bào từ sau Hiệp định chia đôi đất nước 1954?
Bằng chứng là họ đã ghi vào Nghị quyết 15 việc thành lập một “Mặt trận riêng cho miền Nam” do họ chỉ huy để tiến hành cuộc chiến cho ngọai bang Nga-Tầu. Vì vậy mà cái gọi là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã được thành lập ngày 20 tháng 12 năm 1960 để sau đó bị bức tử không kèn không trống vào ngày 31 tháng 01 năm 1977, hai năm sau kết thúc chiến tranh ngày 30.04.1975.
Nghị quyết 15 biện bạch: “Củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước là nhiệm vụ chung của toàn Đảng và toàn dân ta. Nhưng vì nhiệm vụ cơ bản của mỗi miền khác nhau, cho nên nhiệm vụ, tính chất, thành phần Mặt trận ở mỗi miền có chỗ khác nhau. Vì vậy, cần có Mặt trận riêng cho miền Nam.
Cách mạng Việt Nam ở miền Nam hiện nay là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cho nên Mặt trận ở miền Nam hiện nay có tính chất dân tộc dân chủ, nhằm tập hợp tất cả các lực lượng chống đế quốc và phong kiến. Thành phần của nó bao gồm bốn giai cấp trong nhân dân miền Nam (giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản, giai cấp tư sản dân tộc) và những nhân sĩ yêu nước, lấy liên minh công nông làm cơ sở, và do Đảng ta lãnh đạo”.
Bàn tay chủ động gây ra cuộc chiến dài gần 21 năm ở miền Nam Việt Nam của đảng CSVN còn được xác nhận trong phần kết luận của Báo cáo Chính trị tại Hội nghị Trung ương 15.
Báo cáo viết: “Hội nghị Trung ương lần này quyết định đường lối đấu tranh thống nhất và đường lối cách mạng miền Nam, sẽ soi sáng phương hướng cho phong trào cách mạng miền Nam, tăng thêm tin tưởng và ý chí phấn đấu anh dũng của các đảng bộ miền Nam tiến lên làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình.
Toàn Đảng ta sẽ vô cùng phấn khởi, vì Hội nghị Trung ương mở rộng lần thứ 14 đã đề ra nhiệm vụ ba năm cho các đảng bộ miền Bắc, và Hội nghị Trung ương mở rộng lần này quyết định về đường lối đấu tranh thống nhất và đường lối cách mạng miền Nam”.
MÁU ĐỔ CHO AI?
Cuộc nội chiến Việt Nam mới do người Cộng sản Việt Nam gây ra cho nhân dân miền Nam bắt đầu từ đây.
Nhưng cho đến nay, sau 40 năm kết thúc chiến tranh, không có thống kê nào có thể xác nhận có bao nhiêu quân và dân người Việt của hai miền Nam-Bắc đã chết.
Tài liệu của Bách khoa tòan thư (mở) viết rằng: “ Chiến tranh Việt Nam đã gây ra cái chết của từ 2 đến 5 triệu người Việt (tùy từng nguồn khác nhau). Trong số các nước đồng minh của Việt Nam Cộng hòa, người Mỹ có số thương vong cao nhất với hơn 58.000 người chết và hơn 305.000 người bị thương (trong đó 153.000 bị thương nặng hoặc tàn phế). Vào khoảng từ 4.400 đến 5.000 binh sĩ Hàn Quốc bị chết; Úc có khoảng 500 chết và hơn 3.000 bị thương; New Zealand 38 chết và 187 bị thương; Thái Lan 351 chết và bị thương; còn Philippines vẫn chưa có con số thống kê cụ thể”.
“Tổn thất trực tiếp và gián tiếp trong Chiến tranh Việt Nam được chia ra như sau:
Theo tài liệu của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (của CSVN) có:
1,1 triệu quân nhân chết; trong số đó có 300.000 quân nhân mất tích (chưa tìm được xác) ; 600.000 quân nhân bị thương hoặc bị bệnh.
250.000-316.000 tử trận hoặc mất tích
1.170.000 bị thương
Bấy nhiêu con người, nhưng đã có bao nhiêu ao máu để do lường cho tội ác của chiến tranh do đảng CSVN chủ động bắt nguồn từ Nghị quyết 15 năm 1959?
Tổn thất con người Việt Nam của cuộc nội chiến “ý thức hệ” Cộng sản cuồng tín và vô nghĩa này đã có bao giờ khuấy động được con tim chai đá và những khối óc mù lòa của lãnh đạo CSVN trước lịch sử ?
Đấy là chưa kể đến tổn thất của Quân đội CSVN và thường dân trong 4 cuộc chiến sau ngày 30.04.1975: biên giới phía bắc Việt-Trung 2 lần (1979-1987); Tây Nam Việt-Kampuchea (1975 đến 1978) và Cuộc xâm chiếm Kampuchea của quân Việt Nam (từ 7.1.1979 đến 1989).
Trên 40,000 quân và dân 6 tỉnh biên giới đã thiệt mạng trong các cuộc tấn công của quân Trung Cộng vào Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh.
Riêng tổn thất xung đột với quân Khmer đỏ của Pol Pot từ 1975 đến 1989 được chia ra 2 giai đọan:
Giai đọan 1, từ các cuộc đột kích tấn công qua biên giới của quân Khmer đỏ vào các vùng lãnh thổ Tây nam (Tây Ninh-Châu Đốc-An Giang-Hà Tiên-Phú Quốc) sau 30.04.1975 đến các cuộc giao tranh cấp sư đòan trên lãnh thổ Việt Nam kết thúc tháng 12.1978.
Giai đọan 2, bắt đầu từ cuộc tấn công chiếm đóng Cao Miên của Việt Nam từ tháng 1.1979 đến năm 1989. Lý do Việt Nam phải rút quân theo đòi hỏi của Bắc Kinh để được tái lập quan hệ ngọai giao Việt-Trung sau 11 năm gián đọan vì cuộc tấn công qua biên giới Việt Nam năm 1979 của 600,000 quân Trung Cộng.
Tuy nhiên cái gía máu xương người Việt mà đảng Cộng sản Việt Nam phải trả cho cuộc chiến với người láng giềng Khmer đỏ, một thời là đồng minh trong chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng hòa, qúa cao.
Tài liệu trên Bách khoa tòan thư (mở) ghi lại như sau:
-Từ 1977 tới trước tháng 12-1978: Khoảng 3.000 chết, 5.500 bị thương.
-Từ tháng 12-1978 tới tháng 1-1979: 8.000 chết hoặc bị thương.
-Toàn cuộc chiến (tới năm 1988, bao gồm cả thời kỳ chiếm đóng Campuchia): từ 10.000 tới 15.000 quân nhân chết và 30.000 bị thương.
Tính chung ước lượng có 55.300 người chết hoặc bị thương (kể cả dân thường) từ năm 1977 tới tháng 10-1989.
Tài liệu cũng ghi lại: Từ năm 1975 cho tới năm 1978, có tới 30 ngàn người Việt Nam bị Khmer Đỏ sát hại trong các cuộc tấn công dọc biên giới.
Việt Nam đã gửi 180.000 quân để hỗ trợ khoảng 20.000 quân KNUFNS ( Kampuchean National United Front for National Salvation, Cộng hòa Nhân dân Kampuchia) để đánh tan quân Khmer đỏ của Pol Pot.
Nhưng thật oái oăm, Vương quốc Kampuchia ngày nay do nhà vua Norodom Sihamoni, con của cựu hoàng Norodom Sihanouk , trị vì nhưng quyền hành nằm trong tay Thủ tướng Hun Sen, một người không giấu diếm là “bạn thân thiết của Trung Quốc” và luôn luôn ủng hộ lập trường của Bắc Kinh trong tranh chấp biển đảo với Việt Nam!
MẮT MÙ LỊCH SỬ
Với bối cảnh lịch sử chiến tranh bắt nguồn từ Nghị quyết 15 của đảng CSVN, cả dân tộc Việt Nam ở hai miền đất nước Bắc-Nam đã chìm đắm trong máu lửa gần 21 năm.
Nhưng đau thương chồng hơn núi cao của dân tộc sau 40 năm vẫn chưa lành thì Đề Cương “kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30.4.1975 – 30.4.2015)” của Ban Tuyên giáo Trung Ương lại chỉ muốn “bới đống tro tàn tìm máu đổ”!
Một trong những phô trương khơi dậy hận thù dân tộc của Đề cương viết rằng: “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn mới.
Giai đoạn từ cuối năm 1973 đến ngày 30.4.1975: Tạo thế và lực, tạo thời cơ, kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước”.
Ai cũng biết, nhất là nguyên Tổng Bí thư đảng Lê Khả Phiêu và các Tư lệnh chiến trường Trị-Thiên của Quân đội nhân dân, có trên 5,000 thường dân vô tội đã bị lính Cộng sản giết hay hành quyết, kể cả chôn sống trong các hố tập thể từ đêm Giao thừa Tết Mậu thân (ngày 31 tháng 1 năm 1968).
Trong 28 ngày giao tranh trong thành phố, quân Cộng sản địa phương đã được lực lượng chính quy của miền Bắc yểm trợ ra sao và ai đã nhúng ta vào máu dân lành Huế thì hàng ngàn nhân chứng và thân quyến các nạn nhân đã kể hết với lịch sử. Chỉ có những kẻ không giám đối diện với sự thật đã được phơi bầy mới tìm cách che đậy.
Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị Đinh Thế Huynh, khi xẩy ra trận Mậu Thân mới có 15 tuổi (Ông sinh ngày 15 tháng 5 năm 1953 tại xã Xuân Kiên, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định) nên có lẽ ông không thấu được nỗi đau của dân xứ Huế khi bản Đề Cương ca ngợi “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968” là bước ngoặt mở đầu cho chiến thắng cuối cùng ngày 30.04.1975 của đảng CSVN.
Điều thứ hai Đề cương tuyên truyền nói không thật khi viết rằng: “khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; chính trị – xã hội ổn định; độc lập chủ quyền quốc gia được giữ vững…”
Trước hết khi nói về “đại đòan kết dân tộc” thì Ban Tuyên giáo Trung ương có biết nỗ lực “hòa hợp, hòa giải dân tộc” giữa người dân hai miền Nam-Bắc sau 40 năm vẫn chỉ bằng mặt mà chưa bằng lòng?
Trách nhiệm chưa hàn gắn được vết thương chiến tranh phải đến từ hai phiá, nhưng đảng CSVN hãy sờ lên gáy xem đã đòan kết nhân dân được đến đâu hay chỉ gây chia rẽ, hận thù thêm bằng những chủ trương, chính sách kỳ thị, phân biệt “kẻ thắng người thua”?
Đảng cũng cần bình tĩnh dò xét xem những hành động bắt bớ tùy tiện , vi phạm nghiêm trọng các quyền căn bản của người dân, kể cả tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do biểu tình, lập hội và tự do tôn giáo đã được thực thi đúng đắn như quy định trong Hiến pháp chưa?
Thứ hai, xã hội ổn định làm sao khi mỗi ngày Việt Nam có ít nhất 30 người chết vì tai nạn lưu thông và tình hình tội ác xã hội càng ngày càng nhiều, trẻ hoá và tinh vi, luân thường đạo lý bị đảo lộn?
Hãy đọc: “ Theo nhiều nghiên cứu và thống kê của cơ quan chức năng, trong hơn 5 năm trở lại đây, mỗi năm nước ta có khoảng 10.000 vụ án, với hơn 15.000 đối tượng phạm tội ở lứa tuổi vị thành niên. Đây thật sự là con số đáng báo động về tình hình trẻ hóa tội phạm. Số vụ vi phạm pháp luật do tội phạm vị thành niên gây ra cũng ngày càng đa dạng, phức tạp và tinh vi, cũng như bộc lộ sự manh động và liều lĩnh. Không chỉ là những vụ trộm cắp, cướp giật, hành hung mà còn rất nhiều vụ án giết người cướp của, hoặc do thù hằn mâu thuẫn cá nhân. Thậm chí còn có cả những vụ án mà những “cậu nhóc” sử dụng công nghệ cao, mạng Internet, điện thoại di động để lừa đảo, tống tiền nhiều người”. (Trích báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 30.01.2015)
Về chuyện Mại dâm ở Thanh phố Hồ Chí Minh thì Ban Tuyên giáo nên đọc báo Việt Nam Express viết ngày 15.9.2014: “Kết quả điều tra thống kê cho biết ở thành phố lớn nhất nước có khoảng 5.500 tiếp viên nữ bị nghi bán dâm tại cơ sở kinh doanh và 200 người bán dâm nơi công cộng.
Theo báo cáo tổng kết 10 năm thi hành pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003 của UBND TP HCM, trong những năm qua, tình hình tệ nạn mại dâm tại địa bàn có nhiều diễn biến phức tạp, biểu hiện dưới nhiều hình thức kinh doanh trá hình, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, gây nhiều bức xúc trong cộng đồng dân cư.
Thành phố cho biết, hoạt động mại dâm diễn ra không chỉ bằng hành vi giao cấu giữa kẻ mua và người bán tại khách sạn hoặc một số nhà hàng, vũ trường, karaoke mà phổ biến là các hành vi khiêu dâm, kích dục tại các điểm kinh doanh cà phê, tiệm hớt tóc, gội đầu, xông hơi, cạo gió, giác hơi, spa..”.
Gần đây, thành phố tiếp tục xuất hiện một số đường dây mại dâm “gái gọi hạng sang” với những người xưng danh là diễn viên, người mẫu tham gia bán dâm với giá hàng nghìn USD, đồng thời hoạt động mại dâm nam, mại dâm đồng tính nam, mại dâm có yếu tố nước ngoài và xuất cảnh ra nước ngoài bán dâm ngày càng gia tăng. Cá biệt, tại một số cơ sở spa có biểu hiện hoạt động mại dâm đồng tính của giới “gay“.
Ngày 04-03-2013, mạng báo Zing.VN viết về tệ nạn này ở Hà Nội: “Tại Hà Nội, thời gian gần đây, thành phố đã rất mạnh tay xử lý các tụ điểm “nóng” về hoạt động mại dâm. Tuy nhiên, qua khảo sát ở nhiều tuyến đường, tình trạng gái đứng đường mời gọi khách làng chơi vẫn không giảm. Đoạn đường Phạm Văn Đồng qua xã Cổ Nhuế và xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm chỉ dài khoảng 1km nhưng có hàng chục tụ điểm mại dâm. Các cô gái công khai đứng xếp hàng trước cửa quán, tràn cả ra đường mời gọi, chèo kéo khách làng chơi. Cũng trên đường Phạm Văn Đồng, đoạn gần công viên Hòa Bình, cứ tối đến, gái mại dâm lại tụ tập ở bãi đất trống để chờ khách. Ở khu vực trung tâm thành phố Hà Nội, hoạt động mại dâm tại ngõ 107 Nguyễn Chí Thanh (quận Đống Đa) diễn ra rất tấp nập. Chỉ cần có khách gọi, tài xế xe ôm kiêm bảo kê sẽ kẹp 3 – 4 gái mại dâm, phóng với tốc độ kinh hoàng để đưa “hàng” đến các quán bar, karaoke, vũ trường, nhà nghỉ. Nhiều “phố vẫy” khác ở Hà Nội cũng hoạt động nhộn nhịp, công khai, gây nhức nhối dư luận những năm gần đây, như: đường Nguyễn Trãi gần chợ Phùng Khoang (huyện Từ Liêm), đường Giải Phóng gần bến xe Giáp Bát, khu vực Cố Thổ (xã Hòa Thạch, huyện Quốc Oai), xã Tây Mỗ (Từ Liêm)”
Về tình trạng nghiện ngập, một tài liệu phổ biến ngày 5.11.2014 viết: “ Theo đánh giá của Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm tình hình sản xuất, mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy ở Việt Nam ngày càng diễn biến phức tạp, số vụ, số lượng, số loại ma túy bị cơ quan chức năng bắt giữ ngày càng tăng. Việc buôn bán ma túy ngày càng tăng kéo theo tình trạng gia tăng số lượng người sử dụng loại chất cấm này.
Đến cuối tháng 9.2014, cả nước có 204.377 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý (trên thực tế số người sử dụng ma túy còn lớn hơn rất nhiều). Kết quả thống kê cho thấy số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý đã tăng gần 4 lần trong 20 năm kể từ năm 1994 đến nay (năm 1994 là 55.445 người, trung bình mỗi năm tăng khoảng 7.000 người). Những năm gần đây số người nghiện ma túy của Việt Nam luôn gia tăng, mức tăng trung bình mỗi năm khoảng 6% (Năm 2000, có khoảng 60.000 người nghiện thì năm 2014 có trên 200.000 người nghiện).
Người nghiện ma túy đã có ở 100% các tỉnh, thành phố, gần 90% quận, huyện và khoảng 70% số xã, phường, thị trấn. Người nghiện cũng đã xuất hiện ở mọi thành phần trong xã hội: học sinh, sinh viên, cán bộ công chức, viên chức, người lao động…
Trong số người nghiện ma túy: 96% là nam giới, 4% là nữ giới, 74% ở độ tuổi 18-35, có 1% dưới 18 tuổi. Người nghiện sử dụng heroin là 72% và có xu hướng giảm dần, tỷ lệ người sử dụng ma túy tổng hợp nhóm kích thích dạng Amphetamin (ATS) ngày càng gia tăng (2,5% năm 2005, 14,5 % đến tháng 9.2014). Tại một số địa phương, tỷ lệ học viên trong Trung tâm Chữa bệnh- Giáo dục- Lao động xã hội (Trung tâm) đã từng sử dụng ma túy tổng hợp cao như: Đà Nẵng 74%, Tây Ninh 61%, Trà Vinh 49%”.
Với một xã hội đen tối như thế thì làm sao mà “ổn định” được? Đấy là chưa kể đến tình trạng suy đồi đạo đức trong giới trẻ và lãnh đạo đang ngày một lên cao trong nhiều lĩnh vực.
Quốc nạn tham nhũng, nặng nhất là tình trạng tham nhũng vặt thì đông hơn dịch cào cào châu chấu từ thành phố về nông thôn. Đảng đã thất bại. Chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nói ông cũng rất khó chịu khi thấy tham nhũng vặt lộng hành.
Ông nói với cử tri Hà Nội: “Cái gì cũng phải tiền, không tiền không trôi , như ngứa ghẻ phải gãi rất khó chịu”. (ViệtnamNet, 27.09.2013)
Cuối cùng là câu tuyên truyền “độc lập chủ quyền quốc gia được giữ vững” của Ban Tuyên giáo trong Đề cương kỷ niệm 40 năm ngày “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.
Độc lập thì có những “chủ quyền quốc gia” ở Biển Đông bây giờ đang do Việt Nam hay Trung Quốc “qủan lý giúp ” ở Quần đảo Hòang Sa?
Một vùng biển lớn khác bao quanh 8 bãi đá, quan trọng nhất là Gạc Ma,của quần đảo Trường Sa bị Trung Cộng đánh chiếm ngày 14.03.1988, đã được Bắc Kinh tân tạo thành các căn cứ quân sự ở Trường Sa thì ai đang làm chủ ở đó?
Vậy ông Đinh Thế Huynh và cả Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có thể nói rõ hơn cho dân biết, thay vì chỉ biết tuyên truyền nhảm như viết trong Đề cương mà mang tội với lịch sử .
Nếu không thì dù có tô son điểm phấn bao nhiêu, ý nghĩa của “Kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” cũng vô nghĩa. -.-
Phạm Trần
Nguồn: DCCT
- Viết bởi Huyền Trang, VRNs
VRNs (20.03.2015) Sài gòn – Nhân Đại hội Liên minh Nghị viện Quốc tế 132 sẽ được tổ chức tại VN vào cuối tháng 3 sắp tới, thì Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm [CTNLT] tổ chức Đại Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm VN lần thứ nhất với chuyên đề “Quốc Hội VN” và bàn thảo thành lập “Ủy ban hành động Quốc Gia”, cho khoảng 100 Cựu Tù Nhân Lương Tâm đến từ Miền Bắc, Trung, Nam và quý khách mời đến từ các Tổ chức Xã Hội Dân sự tại VN, tại DCCT – SG, vào ngày 17.03.2015
Để hiểu rõ hơn về sự kiện này, chúng tôi xin mời quý vị theo dõi cuộc phỏng vấn của chúng tôi với CTNLT Phạm Bá Hải.
Huyền Trang, VRNs: Thưa ông, trước hết, xin ông có thể cho biết “Đại hội Liên minh Nghị viện Quốc tế 132″ là gì?
CTNLT Phạm Bá Hải: Cuối tháng này, IPU132 -Đại hội liên minh nghị viện Quốc tế 132 sẽ được tổ chức tại Hà Nội và có trên 2000 Đại biểu Quốc hội của trên 100 quốc gia sẽ có mặt tại Việt Nam. Chủ đề IPU năm nay cổ xúy cho một Quốc hội có hiệu quả, nghĩa là bảo vệ vấn đề nhân quyền tại đất nước đó và cổ xúy cho dân chủ, tức là một Quốc hội phải dân chủ và cổ xúy cho một đất nước dân chủ. Trên nền tảng của nội dung này, Hội CTNLT thấy rằng phù hợp với mục tiêu đấu tranh, vận động mà hơn một năm qua Hội đã ra đời và đang làm. Vì vậy, chúng tôi quyết định tổ chức ‘Đại hội lần Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm VN lần thứ 1′, lấy chủ đề là Quốc hội VN và sẽ có những khuyến nghị gửi cho các phái đoàn [quốc tế].
Huyền Trang, VRNs: Vậy thì “Đại hội Liên minh Nghị viện Quốc tế” có ý nghĩa như thế nào đối với chính trị ngoại giao của VN, cũng như đối với người dân VN?
CTNLT Phạm Bá Hải: Về quan điểm ngoại giao của Nhà nước Việt Nam, họ xem đây là một cơ hội để quảng bá hình ảnh bảo vệ nhân quyền của họ. Truyền thông Nhà nước đã loan tin nhiều và rõ ràng về các mục tiêu tổ chức của sự kiện này. Họ sẽ nói rằng đã có hẳn một chương trong Hiến pháp tôn trọng về nhân quyền. Đây là cơ hội của [đảng cầm quyền] và cho tất cả những người đấu tranh [cho nhân quyền] trong nước.
Huyền Trang, VRNs: Vì lẽ đó mà Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm VN đã tổ chức ra Đại Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm VN lần thứ nhất với chuyên đề “Quốc Hội VN” và bàn thảo thành lập “Ủy ban hành động Quốc Gia”. Vậy, xin ông có thể cho biết một vài điểm nhấn chính của Đại Hội này là gì ạ?
CTNLT Phạm Bá Hải: Chúng tôi sẽ tiếp tục soạn thảo, gửi cho các Tổ chức XHDS tham khảo về bản kiến nghị [Quốc hội VN]. Hiện nay, chúng tôi đã có hẹn với một số phái đoàn Nghị sỹ các nước, sẽ gặp trong thời gian tới và [trao cho họ bản kiến nghị này]. Điểm nhấn thứ hai, chúng tôi đã bàn thảo sôi nổi về “Ủy ban Hành động Quốc gia’ là một bước tiến nhấn mạnh về chất lượng của các Tổ chức XHDS khi ngồi lại với nhau. Bởi trong một năm qua, các tổ chức XHDS đã có hơn 10 cuộc gặp gỡ và lên tiếng chung với nhau, nhưng năm nay chúng tôi sẽ có những cam kết cụ thể, gắn bó và ủng hộ những công việc cụ thể của mình. Đó là ;Ủy ban hành động Quốc gia’ sẽ làm trong thời gian tới.
Huyền Trang, VRNs: Xin ông có thể giới thiệu đôi nét về các hoạt động của “Ủy ban hành động Quốc Gia” là như thế nào ạ?
CTNLT Phạm Bá Hải: ‘Ủy ban Hành động Quốc gia’ là một mô hình phản ứng nhanh, vì kinh nghiệm trong thời gian qua các tổ chức XHDS định kỳ mỗi tháng gặp một lần, tuy nhiên vẫn không thành công do sự cản phá của nhà nước VN. Sau mỗi cuộc gặp gỡ thường chúng tôi có một bản lên tiếng chung, nhưng nội dung lại không đánh đúng vào sự vụ đã xảy ra hay thời điểm cần thiết phải xảy ra. Cho nên, chúng tôi rút kinh nghiệm và đưa ra mô hình này, nghĩa là bất kỳ một sự vụ vi phạm nhân quyền nào xảy ra, hay bất kỳ một sự kiện gì ảnh hưởng đến đời sống của người dân, thì lập tức ‘Ủy ban hành động Quốc gia’ gồm đại diện mỗi tổ chức XHDS sẽ lập tức họp online và họ sẽ đưa ra các quyết sách đi đến hành động cụ thể cho vụ việc đó.
Chúng tôi sẽ định kỳ 2 tuần họp online một lần, sẽ cập nhật các vấn đề chính sách quốc gia và chúng tôi sẽ bình bầu một thư ký để thông tin nhanh các sự kiện này. Đây là hình thức của một lực lượng phản ứng nhanh, nhưng đây là một tổ chức XHDS.
Huyền Trang, VRNs: Thưa ông, Hiến pháp quy định trách nhiệm và nhiệm vụ của Quốc hội như thế nào và hiện nay Quốc hội đã thực hiện ra sao ạ?
CTNLT Phạm Bá Hải: Vấn đề vi phạm nhân quyền, Quốc hội VN không đóng một vai trò nào trong việc bảo vệ nhân quyền. Đó là cảm nhận kinh nghiệm của chúng tôi -những CTNLT- và chúng tôi đã có một bản báo cáo gửi cho Quốc hội nhưng họ không hề có một phản ứng hay một trả lời nào. Đây là một đặc điểm mà chính những phái đoàn nghị sỹ Quốc hội các nước đã phản ánh, bởi vì Quốc hội của người dân phải lắng nghe các khuyến cáo, khuyến nghị và khiếu nại của người dân. Nhưng Quốc hội VN lại làm ngơ vì bản chất của Quốc hội VN là công cụ phục vụ cho ĐCS chứ không phải cho người dân VN. Chúng tôi sẽ làm rõ đặc điểm và tính chất này của Quốc hội VN trước quốc tế.
Huyền Trang, VRNs: Thưa ông, trong một cuộc tiếp xúc cử tri của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội vào sáng ngày 06.12.2014 vừa qua, ông Trọng phát biểu rằng: “Quốc hội là thể chế hóa các nghị quyết và quyết định của Trung ương và Bộ Chính trị… Trung ương, Bộ Chính trị bàn rồi, bàn nhiều lần rồi trước khi đưa ra Quốc hội”, tức là Quốc hội VN là một Quốc hội bù nhìn khi bị đảng cs cầm quyền chi phối mọi hoạt động. Vậy các Tổ chức XHDS nên làm gì và làm như thế nào để cho quốc tế biết bản chất ‘Quốc hội VN’ ạ?
CTNLT Phạm Bá Hải: Hiện nay, các Tổ chức XHDS đã có một số kế hoạch công khai trên mạng liên quan đến thay đổi luật, vận động số Dân biểu Quốc hội các nước, quyền bỏ phiếu của người dân… Đây là một trào lưu đúng trong thời điểm này. Chúng ta tiếp tục vận động nhà nước VN phải thay đổi -giống như nội dung của buổi Đại hội đã bàn thảo là Quốc hội phải thuộc về người dân, tôn trọng mọi ý kiến của người dân và là Đại biểu thực thụ của những người dân. Công việc của chúng ta sẽ làm rõ các vấn đề này cho Quốc tế và người dân VN biết.
Huyền Trang, VRNs: Xin chân thành cám ơn ông và kính chúc sức khỏe ông.
Huyền Trang, VRNs
- Viết bởi Pv. VRNs
VRNs (19.03.2015) Sài gòn – Trong một cuộc họp báo giữa ông Thủ Tướng Úc và ông Thủ Tướng VN vào ngày 18.03, ông Thủ tưởng Úc quyết định cắt giảm 11 tỷ USD ngân sách viện trợ nước ngoài của chính phủ Úc đối với VN.
Thông tin này được hãng thông tấn theguardian đưa tin vào thời điểm ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có chuyến tông du thăm Úc Châu này từ ngày 17-18.03.2015.
Cũng trong thời gian này, Cộng đồng Người Việt tại Úc biểu tình phản đối chuyến viếng thăm của ông Thủ tướng VN.
Vào lúc 9 giờ ngày 17.03, giờ Úc Châu, Cộng đồng Người Việt quy tụ trước Quốc hội tiểu bang New South Wales biểu tình phản đối ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khi ông có buổi hội kiến với Toàn quyền Úc Châu và Thống đốc bang New South Wales, trong chặng đầu chuyến viếng thăm Úc.
Bên ngoài Quốc hội, Cộng đồng Người Việt hô to phản đối chuyến tông du của ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, phản đối chế độ độc tài đảng trị ở Việt Nam, phản đối nhà cầm quyền CSVN bán nước, phản đối tình trạng nhà cầm quyền buôn bán phụ nữ và trẻ em. Họ cũng giơ cao các khẩu hiệu bằng tiếng Anh kêu gọi nhà cầm quyền thả tự do cho các tù nhân lương tâm…
Ông Nguyễn Quang Duy, một Người Việt sống ở Úc cho hay: “Đồng bào Sydney Úc xuống đường biểu tình trước tiền đình quốc hội tiểu bang New South Wales buộc Đoàn ông Nguyễn Tấn Dũng phải đi cửa hậu…”
Sau đó một ngày 18.03.2015, tại tiểu bang New South Wales, đoàn biểu tình phải vượt khoảng 300 km, mất khoảng 3 giờ lái để đến Quốc Hội Liên Bang Úc tại Canberra và tiếp tục cuộc biểu tình phản đối ông Thủ tướng VN.
Theo anh Nguyễn Hoàng-Thanh Tâm, sống ở Úc cho biết, cuộc biểu tình vào ngày 18.03, ‘Dân Biểu Chris Hayes đã ra chào đón đoàn biểu tình. Ông phát biểu bày tỏ sự ủng hộ, và chia sẻ mối quan tâm về nhân quyền của cộng đồng người Việt. Tại trang Facebook của mình, hôm nay ông ghi “Tôi đã được [Cộng Đồng người Việt] trao cho các tài liệu lưu ý về những vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. Tôi cho rằng chúng ta có trách nhiệm đạo đức trong việc cổ xuý và quảng bá việc bảo vệ quyền con người.”
Được biết, Cộng đồng Người Việt tham gia cuộc biểu tình đến từ hai thành phố Sydney và Melbourne.
Theo báo Tiền Phong trong nước loan tin, Thủ Tướng Úc đã mời Thủ tướng Dũng đến thăm nước Úc với mục đích ‘tiếp tục củng cố và làm sâu sắc hơn’ quan hệ Đối tác toàn diện với nước Úc, bàn về các vấn đề Biển Đông.
Trong cuộc gặp gỡ với các chính khách Úc, ông Dũng nhấn mạnh, nước Úc ‘luôn nằm trong nhóm 10 bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam. Kim ngạch thương mại hai chiều từ 3 tỷ USD năm 2000, tăng lên hơn 6,5 tỷ USD năm 2015′. Và ‘Úc là đối tác lớn nhất của Việt Nam ở Nam bán cầu’.
Pv.VRNs
- Viết bởi Đức Thiện, VRNs
VRNs (18.03.2015) -Sài Gon- Hội Cựu Tù nhân Lương Tâm (CTNLT) hôm 17/3 đã tổ chức Đại hội lần I tại số 38 Kỳ Đồng (Sài Gòn), để tìm cách cung cấp một cái nhìn khác về Quốc hội VN cho cộng đồng nghị viện quốc tế.
Sự kiện diễn ra trong bối cảnh Hà Nội sẽ là nơi diễn ra Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới lần thứ 132 (IPU-132) từ ngày 28/3 đến ngày 1/4/2015, và việc bầu cử Quốc Hội sẽ được tổ chức vào năm sau.
Hội CTNLT với trên 100 thành viên là những TNLT, được thành lập ngày 18/2/2014, nhằm “đấu tranh cho một VN không còn TNLT qua những hoạt động bảo vệ nhân quyền.”
Nhân dịp gần 2000 đại biểu Quốc hội các nước nhóm họp tại Hà Nội, ông Phạm Bá Hải, ban điều hành Hội CTNLT, cho biết sẽ trình bầy cho quốc tế về Quốc hội VN mà ông cho rằng “hiện đang phục vụ cho sự cai trị của Nhà nước, và Đảng Cộng sản chứ không phải phục vụ cho người dân.”
Ông Hải cũng nói hội đã “có những cuộc hẹn với đoàn đại biểu [Quốc hội] các nước, họ quan tâm về cơ cấu làm việc của Quốc hội VN.”
“Mục tiêu IPU ra đời là để trao đổi kinh nghiệm cho những Quốc hội mới thành lập hay có nền dân chủ yếu, cổ xúy cho việc tôn trọng nhân quyền.”
“Tuy không có giá trị ràng buộc”, ông Hải nhận xét tiếp, “IPU [với các khuyến nghị] về mặt nào đó nó vẫn có tác động tốt nếu như ta làm rõ được bản chất Quốc hội VN cho các đoàn quốc tế.”
Giới chức trách Việt Nam khẳng định, “Nhân dân xử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội, nơi đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân”, đồng thời Quốc hội là “cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Tuy nhiên, một số ý kiến đối lập lại cho rằng Quốc hội VN không đúng như mô tả trên.
Nhà báo Trương Vĩnh Hải, một tham dự viên hôm 17/3, nói Quốc hội VN ‘không thực chất’ khi đoàn đại biểu quốc hội [ĐBQH] tiến hành những cuộc tiếp xúc cử tri địa phương.
Ông Hải cho rằng, những người có tâm huyết không được mời đến những cuộc tiếp xúc này, và “nếu họ có đến cũng bị ngăn cản”, vì thế “chỉ có tiếng nói thân đảng thân chính quyền [trong những buổi tiếp xúc cử tri] mà không có tiếng nói chính trực của những người tâm huyết, những vấn đề bức xúc của cuộc sống.”
“Với qui định không cho phép trả lời báo chí trong giờ giải lao”, ông Hải nhận xét tiếp, Quốc hội đã ‘tước đoạt tàn nhẫn’ quyền nói của những ĐBQH không được nói trong nghị trường, khiến họ “cũng không được cất lên tiếng nói chính trực của mình bên ngoài hành lang.”
Cựu đảng viên, tiến sĩ Phạm Chí Dũng, cũng cho biết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng tuyên bố Quốc hội VN là cơ quan thể chế hóa, thực hiện nghị quyết của Đảng.
Vì thế, ông Dũng nhận định, “chừng nào Quốc hội còn là công cụ của Đảng với 90% thành viên là đảng viên, và [quốc hội] không phải là cơ quan giám sát độc lập thì chừng đó còn chưa có quyền tự do cho người dân.”
Đức Thiện, VRNs
Nguồn: DCCT
- Viết bởi Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
Sáng hôm nay 17 tháng 3 năm 2015 một lực lượng hùng hậu của chính quyền huyện Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh đã tràn vào khu vực nhà thờ Đông Yên để đập bỏ nhà xứ, trường học giáo lý và một số công trình phụ trợ của nhà thờ Đông Yên.
Anh Trần Việt Hoa một giáo dân của Đông Yên cho biết sự việc diễn ra như sau:
-Sáng hôm nay khoảng 9 giờ rưỡi thì họ bắt đầu phát động. Ở đây bây giờ họ đập phá hết rồi, giáo xứ trường học giáo lý, nhà xứ khu A, khu B nhà xứ các cha ở cũng đập hết rồi. Toàn bộ cây cối vườn tược trong nhà thờ cũng hết rồi. Bây giờ nó đang đi đập hàng rào của nhà thờ.
Giáo dân thì có một người bị ngất xỉu, trong cộng đoàn thì nó đánh một nữ tu nó tát nữ tu này. Giáo dân một số đang đọc kinh trên tượng đài Đức Mẹ còn ngắm nguyện nơi tượng đài cạnh nhà thờ. Cha xứ Đậu Thanh Minh ngài không có ý kiến gì, chúng con mời ngài xuống đây để chứng kiến, chia sẻ ít nhất ngài cũng có tiếng nói đối với bạo lực nhưng ngài không xuống. Ngài đang ở chỗ Đông Yên mới.
Ban Việt Ngữ liên lạc được với linh mục Anton Đậu Thanh Minh và được linh mục cho biết vụ đập bỏ giáo xứ này:
-Tôi mới về đây được hơn một tháng, mới nhận chức quản nhiệm thôi. Cha chánh xứ trước thì làm mọi thứ còn tôi chỉ về tiếp quản xây dựng cái nhà thờ mới.
Đức cha cũng nói với tôi trên quan điểm là nhà thờ, nhà xứ, trường học thì mình đã nhận tiền đền bù tức là dùng cho nơi tái định cư mới thì trên nguyên tắc phải bàn giao mặt bằng cho họ, tuy nhiên vấn đề số dân đang còn ở đây thì Tòa giám mục yêu cầu họ là làm việc này trong thời gian thuận tiện nhất hoặc là dân đi hết, khi dân ổn định rồi thì khi đó mới giao trả mặt bằng cho chính quyền.
Mới ngày hôm kia thì họ đưa thông báo tới cho tôi họ báo là họ sẽ dỡ mấy cái nhà dạy giáo lý, nhà ăn cơm hồi xưa tức là những công trình phụ trợ. Còn với đức Giám mục thì ngài vẫn có quan điểm với tỉnh là không đụng chạm đến nhà thờ, các tượng ảnh này kia thì không được.
Nhà giáo lý thì đã dỡ cửa dỡ ngõ hết rồi cũng đã đập một số trước đây rồi bây giờ thì họ dọn mặt bằng nhà giáo lý, nhà bếp nhà ăn, nhà xứ. Nhà thờ thì chưa.
Trên thực tế họ đã đền tiền nhà thờ, nhà xứ nhà giáo lý …nên mới có đủ tiền mà làm 2 nhà thờ trên vùng mới này.
Chúng tôi được biết vào ngày 14 tháng 3 vừa qua chính quyền tỉnh Hà Tĩnh đã đến giáo xứ Đông Yên thông báo với bà con giáo dân về việc sẽ phá dỡ nhà thờ giáo xứ bắt đầu từ ngày 16 tháng 3. Cha quản nhiệm Đậu Thanh Minh cũng đã thông báo về việc phá dỡ nhà thờ Đông Yên theo như trình tự cho giáo dân được biết. Tuy nhiên do chưa kịp di dời nên một số bà con giáo dân đã tỏ ra không đồng tình đưa đến những chống đối nhưng rất may không có thiệt hại nào nghiêm trọng cho bà con.
Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
- Viết bởi PV. VRNs
VRNs (15.03.2015) – Sài Gòn – Lúc 01:25, ông Chánh trị sự Hứa Phi, đồng chủ tịch Hội đồng liên tôn Việt Nam cho VRNs biết qua điện thoại rằng nhà cầm quyền Thừa Thiên Huế vừa đến khách sạn, nơi các chức sắc tá túc qua đêm, bắt buộc 12 vị, thuộc Phật giáo, Cao Đài và Tin Lành phải lên xe, và hiện đang áp tải xe các chức sắc ra khỏi Huế.
Được biết, theo kế hoạch, sáng nay, 15.03, các chức sắc tôn giáo sẽ gặp quý ông Thương phế binh VNCH để tỏ lòng tri ân, tại chùa Phước Thành, tuy nhiên, nhà cầm quyền đã công khai ngăn cản từ sớm.
Việc trục xuất các chức sắc tôn giáo trong đêm, vì lý do làm việc bác ái từ thiện, phải chăng đúng với quy định của luật pháp Việt Nam? Nhà cầm quyền Việt Nam đang muốn trình bày mình với mọi người như là kẻ bạo quyền thay vì phục vụ.
PV. VRNs
Nguồn: DCCT