Tin Việt Nam
Hội thánh Chuồng Bò đi thăm tù nhân lương tâm
- Viết bởi Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng
VRNs (02.01.2015) – Đồng Nai – Đã thành thông lệ, cứ mỗi mùa Giáng sinh về, Hội thánh Chuồng Bò (HTCB) lại có dịp đi thăm, gởi quà cho những anh chị em Tù nhân Lương tâm (TNLT) còn đang mắc vòng xiềng xích tại trại giam Z30A, Xuân Lộc, Đồng Nai.
Cậy ơn Chúa, mùa Giáng sinh năm nay HTCB vận động được sự ủng hộ của các vị chức sắc trong Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam cùng một số tổ chức Xã hội Dân sự. Vì vậy quà Giáng sinh năm nay cũng là sự quan tâm, là niềm an ủi, khích lệ của những người yêu chuộng tự do – dân chủ dành cho các TNLT cùng thân nhân họ.
Khác với mấy năm trước, từ tháng 06/2014 đến nay, trụ sở Giáo hội Mennonite ở Mỹ Phước, Bến Cát bị chính quyền và công an Bình Dương cùng côn đồ đàn áp – khủng bố tàn nhẫn và thô bạo. Trụ sở của Giáo hội bị đập phá tan hoang, tín đồ bị bắt lên đồn công an khủng bố tinh thần, bị đánh đập tàn nhẫn. Mùa Giáng sinh năm nay trụ sở của Giáo hội trở thành Thánh đường hoang tàn, vắng bóng người. Tại HTCB ở Đông Hòa, Dĩ An, Bình Dương; mục sư Nguyễn Mạnh hùng, Quản nhiệm hội thánh cũng bị côn đồ bóp cổ khống chế trước mặt công an để đột nhập vào nhà bất hợp pháp.
Mặc dù bị đàn áp khủng bố khốc liệt, nhưng mùa Giáng sinh năm nay hội thánh cũng không quên anh chị em mình đang bị mắc vòng xiềng xích chỉ vì tham gia đấu tranh cho tự do, dân chủ và quyền con người. Năm nay đoàn chỉ có 6 người nên đi bằng xe máy.
Đúng 6 giờ 30 ngày 24/12/2014, đoàn khởi hành từ Làng Đại học Quốc gia hướng về trại giam Z30A. Qua ngã tư Vũng Tàu thì dừng chân ăn sáng. Do phần lớn đường đi đang sửa chữa nên thời gian bị kéo dài hơn dự tính. Khoảng 9 giờ 30 đoàn tới trại đầu tiên là phân trại K5, thuộc trại giam Z30A mới được xây dựng làm nơi giam giữ tù nhân nữ. Nơi đây là nơi giam giữ 2 nữ TNLT là Trần Thị Thúy 8 năm tù giam và Mai Thị Dung 11 năm tù giam. Do nữ TNLT Mai Thị Dung đã bị chuyển ra trại Thanh Xuân, Hà Nội nên năm nay đoàn chỉ thăm và gởi quà cho nữ TNLT Trần Thị Thúy.
Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng thay mặt HTCB xin cho đại diện hội thánh được cùng anh Trần Văn Tài (em trai chị Thúy) vào thăm gặp chị Thúy thì anh công an gác cổng (còn rất trẻ) trình bày: “Theo quy định chỉ có thân nhân có tên trong sổ thăm nuôi mới được vào thôi, mong chú thông cảm”. Mục sư Hùng nói: “Hôm nay là ngày Nô-en, cả thế giới đều tổ chức mừng Chúa Giê-xu giáng sinh. Chúng tôi đại diện hội thánh Tin lành muốn tới đây thăm và cầu nguyện cho người chị em của chúng tôi. Nhờ anh vào báo cáo với lãnh đạo nhân ngày lễ lớn của cả thế giới, xem đây là ngoại lệ cho phép chúng tôi vào thăm và cầu nguyện để an ủi người chị em chúng tôi”. Cuối cùng anh công an trẻ này không dám vào báo cáo và phái đoàn HTCB phải ở ngoài chờ anh Tài vào thăm gặp chị Thúy rồi cùng tiếp tục hành trình vào khu trung tâm chính của trại Z30A Xuân Lộc.
Khi đoàn vào tới khu trung tâm chính của trại giam Z30A Xuân lộc, Đồng Nai là 10 giờ 15. Đây là nơi giam giữ 3 người còn lại của vụ án bến Tre gồm: Mục sư Dương Kim Khải 5 năm tù giam, anh Phạm Văn Thông 7 năm tù giam, anh Cao Văn Tỉnh 4 năm 6 tháng tù giam. Vì hết thời gian thăm gặp nên đoàn phải đi ăn trưa và chờ tới 13 giờ 30 mới quay lại xin gặp buổi chiều.
Đúng 13 giờ 30, phái đoàn HTCB cùng cháu Dương Mạnh Hùng (con trai Ms Khải) vào làm thủ tục xin thăm gặp mục sư Dương Kim Khải. Chờ 2 anh công an (còn rất trẻ) làm xong thủ tục, mục sư Hùng trình bày: “Chúng tôi là những người đại diện hội thánh Tin lành. Hôm nay là ngày mừng Chúa Giáng sinh, đề nghị cho chúng tôi vào thăm gặp và cầu nguyện cho người anh em đang bị tù trong trại giam K2”. Người cầm sổ thăm nuôi của trại hỏi: “Chú tới thăm ai”. Mục sư Hùng trả lời: “Chúng tôi tới thăm và cầu nguyện cho mục sư Dương Kim Khải là người anh em của chúng tôi”. Người đó xem tên trong sổ tù rồi chăm chú nhìn mục sư Hùng một lát và trả lời như khuôn mẫu ở trại K5: “Theo quy định chỉ có thân nhân có tên trong sổ thăm nuôi mới được vào thôi, mong chú thông cảm”. Mục sư Hùng trình bày: “Hôm nay, cả thế giới đều tổ chức mừng Chúa Giê-xu giáng sinh. Chúng tôi đại diện hội thánh Tin lành muốn tới đây thăm và cầu nguyện cho người anh em của chúng tôi. Tù nhân cũng là con người, cũng cần có niềm tin tôn giáo, cần được cứu rỗi linh hồn. Nhờ anh vào báo cáo với lãnh đạo nên xem đây là ngoại lệ, cho phép chúng tôi vào thăm và cầu nguyện để an ủi người anh em chúng tôi”. Anh công an này trả lời: “Đây là ngyên tắc, mong chú thông cảm. Nếu chú muốn vào thăm gặp thì chú nói thân nhân mua cuốn sổ khác ghi tên chú vào”. Vì biết có nói gì cũng không được vào nên hội thánh đành ra ngoài chờ con trai mục sư Khải vào gặp bố xong cùng lên xe quay ra cổng chụp hình kỷ niệm rồi ra về.
Qua chuyến thăm này, thân nhân các TNLT cho biết: mặc dù anh chị em đang phải chịu cảnh tù đày nhưng rất vui mừng vì biết rằng sự dấn thân của họ được mọi người trân quý. Mặc dù anh chị em đang sống trong 4 bức tường trại giam nhưng họ vẫn cảm nhận được tình yêu thương nồng ấm của các tôn giáo, các tổ chức, hội đoàn XHDS. Đặc biệt là các món quà của các chức sắc tôn giáo, các tổ chức XHDS và sự hiện diện của HTCB ở bên ngoài là nguồn an ủi, động viên to lớn giúp họ có đủ nghị lực vượt qua mọi thử thách trong chốn lao tù.
Mùa Giáng sinh năm nay, HTCB còn có chương trình cùng gia đình bà Trần Thị Hồng (phu nhân Mục sư Nguyễn Công Chính) đi thăm và gởi quà Giáng sinh cho Mục sư (Ms) Nguyễn Công Chính và bạn tù tại trại giam An Phước, Đồng Xoài, Bình Phước. Tuy nhiên, vì việc tổ chức Giáng sinh của hội thánh tại Dĩ An, Bình Dương bị chính quyền sở tại gây khó khăn nên hội thánh chỉ đi thăm được TNLT tại trại giam Z30A Xuân Lộc. Còn chuyến thăm Ms Chính, hội thánh phải hủy bỏ và đã gởi quà cùng lời cầu nguyện, chia sẻ, an ủi mục sư Chính qua phu nhân ông là bà Trần Thị Hồng. Sau chuyến thăm Ms Chính về, bà Hồng cho biết Ms Chính cùng các bạn tù của ông vô cùng xúc động trước sự quan tâm chia sẻ của Hội Đồng Liên Tôn và các tổ chức XHDS.
Chúng tôi mong rằng, những anh chị em dám chấp nhận mọi nghịch cảnh để dấn thân cho tương lai tốt đẹp của dân tộc đều xứng đáng được nhận tình yêu thương và lòng trân quý của mọi người. Rất mong ngày càng có nhiều người chia sẻ và an ủi anh chị em nơi chốn lao tù.
Cầu xin ơn trên ban cho anh chị em nhiều sức khỏe và sớm trở về đoàn tụ cùng gia đình và người thân.
Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng
Nguồn: DCCT
Hành trình kiếm tìm hài cốt tử sỹ VNCH
- Viết bởi Huyền Trang, VRNs
VRNs (02.01.2015) – Sài Gòn – “Những ngôi mộ tử sỹ VNCH tại Bảo An, Đồi Hoa Sim lâu ngày bị những tác động do nhiều nguyên nhân, khiến nhiều ngôi mộ xương sọ và xương trong cơ thể lộ ra, thậm chí những người lấy cát để sử dụng đã làm lộ ra các áo quan, sọ người… Nhìn những cảnh như vậy, Soeur rất đau lòng. Soeur muốn làm một điều gì đó để các vị đã qua đời có mồ yên mả đẹp, sau này có thể người thân tìm và đưa các ngài về quê.” Đó là những dòng tâm sự của Soeur Maria Nguyễn Thị Thanh Mai, Dòng Mến Thánh Giá Nha Trang, phụ trách cộng đoàn Đồng Tiến, tâm sự với chúng tôi như vậy.
“Sống có nhà, chết có mồ”, đặc biệt là những người lính VNCH – một thời xả thân hy sinh cho tổ quốc, cho đồng bào – đáng được hưởng những điều ấy, nhưng các ngôi mộ tử sỹ lại bị lãng quên, không ai chăm sóc đèn nhang hương hoa, không ai tu chỉnh lại lăng mộ trong suốt một thời gian dài.
Chính vì tâm nguyện đó, từ năm 2003 cho đến nay, nơi nào nghe biết có ngôi mộ bị bỏ rơi, thân xác chết bờ chết bụi, các Soeur và Nhóm thiện nguyện cải táng tìm đến, di dời, tạo cho họ một ngôi mộ đàng hoàng tại nghĩa trang giáo xứ Đồng Tiến, Tân An, thị xã Lagi, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận.
Ông Phêrô Nguyễn Văn Phượng, một trong những thiện nguyện viên đắc lực, chia sẻ: “Bố mẹ tôi từ miền Bắc di cư vào đây từ 1954, gia đình chúng tôi được sự cưu mang của các anh. Gia đình tôi có hai người anh là lính VNCH. Tôi sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Bình Tuy này. Trong những năm chiến tranh, tôi đã theo cha mẹ đi kiếm người thân chết ở Bình Giã. Tôi đã chứng kiến nhiều thân xác các anh đã chết tại đây. Năm tôi 16 tuổi, tôi được tham dự các thánh lễ truy điệu cho các anh trong sân nhà thờ quân đội – nay là nhà thờ Đồng Tiến. Đến 1975, không còn thánh lễ nào truy điệu các anh, cũng như các phần mộ được chôn cất tại nghĩa trang Đồi Hoa Sim và Bảo An không có người thân chăm sóc. Theo thời gian các nghĩa trang này càng trở nên hoang tàn – không được như xưa, trâu bò giẫm nát các ngôi mộ, những tấm bia bị đập phá mất luôn cả tên, số quân của các anh. Vì thế, tôi ước nguyện xây cho các anh những ngôi mộ để an lòng các anh.”
Vào năm 2002, ông Phượng một cách vô tình hay hữu ý nào đó, đã chia sẻ tâm tư này cho Soeur Thanh Mai và ý tưởng ấy đã gặp nhau.
Đến đầu năm 2003, Soeur Thanh Mai xin giấy phép cải táng những ngôi mộ vô danh, không ai chăm sóc tại nghĩa trang Hiệp hòa, Bảo An và Đồi Hoa Sim; tại các giáo xứ thuộc thị xã Lagi như Tân Mỹ, Tân An, Tân Lý, Kim Ngọc… các giáo xứ thuộc tỉnh Hà Tĩnh như Tam Đa, Ngô Xá, Ngọc Thủy…
Khoảng thời gian từ năm 2003 – 2008 là thời gian các Soeur và gần 100 người trong Nhóm thiện nguyện cải táng được nhiều hài cốt nhất. Các Soeur đã lập ba ban: ban lập hồ sơ – phần lớn là các nữ tu, ban cuốc đất và ban bốc hài cốt. Ban hồ sơ ghi lại toàn bộ các chi tiết cụ thể đã được thu thập như hộp sọ còn nguyên hay vỡ, tóc dài hay tóc ngắn hoặc không có tóc, bao nhiêu cái răng, xương sống, xương sườn và xương mông, các di vật còn sót lại… trong các phần mộ.
Ông Phượng chia sẻ thêm: “Chúng tôi bốc rất nhiều ngôi mộ trong nghĩa trang Bảo An và trên Đồi Hoa Sim. Có nhiều cây bạch đàn trồng trên các ngôi mộ nên quá trình bốc hài cốt gặp rất khó khăn do rễ cây cản trở. Chúng tôi dùng xẻng đào đất khoảng 1m, khi thấy những cái đinh đóng ở 4 góc hòm, những tấm ván đã mục nát, trên mặt đất nổi lên những hạt lấm tấm đất màu muối tiêu, khi đó không dùng xẻng nữa mà phải dùng cái bay để gạt những hạt lấm tấm này khoảng ba tấc đất nữa thì sẽ thấy một lớp poncho (áo mưa của lính VNCH) bao phủ hài cốt, có những bộ hài cốt còn nguyên vẹn, có những bộ hài cốt nằm gọn trong một thùng đạn. Trên các ngôi mộ này bia mộ đã khắc tên là vô danh.”
Soeur Thanh Mai tiếp lời: “Khi cải táng mộ, các ngài nằm trong những tấm poncho, có những vị còn ví da, trong đó có hình trắng đen của vợ con, có những vị còn thẻ bài, có tràng hạt, có thánh giá, đau lòng nhất là có những người bị cụt chân, bị chặt đầu…”
Quân đội VNCH năm xưa được coi là một quân đội hùng mạnh, nhưng hôm nay các tử sỹ nằm xuống trong những ngôi mộ vô danh. Ông Phượng xót xa: “Nhiều bộ hài cốt của các anh vô danh được cải táng ở đường, ở bụi cây. Khi bốc hài cốt, chúng tôi nhận thấy các anh còn thẻ bài, đôi giầy, sợi dây nịt… Hài cốt các anh nằm rải rác chủ yếu trên đường quốc lộ”.
Cho đến hôm nay, các Soeur và Nhóm thiện nguyện đã cải táng và di dời được 2000 ngôi mộ bị lãng quên nằm rải rác ở các tỉnh Miền Trung, trong đó có khoảng 474 ngôi mộ tử sỹ VNCH, còn lại là những phần mộ vô danh. Các hài cốt được tìm kiếm xung quanh khu vực huyện Hàm Tân được các Soeur cải táng và quy tập tại nghĩa trang Đồng Tiến, còn các ngôi mộ được tìm thấy ở các tỉnh Miền Trung được cải táng và chôn tại địa phương.
Soeur Thanh Mai nghẹn ngào: “Xúc động nhất là hài cốt của ba vị lính VNCH chết rũ trong tù được một viên quản giáo trong huyện Hàm Tân trao cho các Soeur vào năm 2008. Ba vị này có đầy đủ hộp sọ và xương, nhưng trên những hộp sọ có vết nứt đề V1, V2, V3, và ba vị này không có tên.
Có 16 vị vượt biên chết, thân xác bị tấp vô bãi Cam Bình thuộc xã Tân Phước, thị xã La Gi, một số ngư dân đi cào sò phát hiện ra những bộ xương, nên họ đã liên lạc với các Soeur. Các ngài cũng được cải táng đưa về đây chôn cất.
Cách đây ba ngày, các Soeur cải táng một ngôi mộ của một vị Đại úy chết tại Ngã Ba 4-6, thuộc thị trấn Tân Nghĩa, Hàm Tân, Bình Thuận. Tấm bia trên nấm mồ được khắc với dòng chữ ‘Đại úy chết tại Ngã Ba 4-6′, tấm bia không ghi tên và số quân.”
Sau khi cải táng cho các phần mộ, trên các ngôi mộ được khắc một ký hiệu riêng biệt nhằm lưu trữ hồ sơ, để người thân dễ dàng tìm kiếm lại hài cốt của cha ông họ. Những ngôi mộ được bốc từ nghĩa trang Bảo An có ký hiệu BA, những ngôi mộ được cải táng từ Đồi Hoa Sim có ký hiệu HS, còn những hài cốt chết rải rác được đề là vô danh.
Trong suốt gần 9 năm qua, đã có 15 gia đình người thân sống ở hải ngoại đã tìm đến Soeur Thanh Mai để nhận hài cốt người thân. Thân nhân các tử sỹ được xác nhận thông tin của người thân thông qua các hồ sơ mà các Souer lưu trữ khi cải táng các phần mộ. 5 gia đình đã đưa hài cốt các vị về quê, 10 gia đình còn lại xin để hài cốt các ngài ở lại bởi vì họ thấy các Souer và Nhóm thiện nguyện chăm sóc các ngôi mộ rất chu đáo. Soeur Mai Thanh bùi ngùi nói: “Thân nhân của các ngài nói với Soeur rằng, các Soeur và Nhóm thiện nguyện chăm sóc các phần mộ như những người thân trong gia đình, tuy rằng không có máu mủ huyết thống gì.”
Còn ông Phượng bộc lộ niềm vui: “Có một gia đình người lính VNCH, thời điểm người ấy mất mạng là thời gian người vợ sắp sinh con. Khi người con này sinh ra và sau này lớn lên, anh nghe người mẹ kể về nơi người bố chinh chiến và tử trận. Bà mẹ viết lại di chúc cho con về nơi người bố được chôn cất. Người con và cháu nội của bà đã bằng mọi cách đi tìm phần mộ của cha của ông. Và, họ đã đến nghĩa trang Đồng Tiến kiếm tìm. Cuối cùng, gia đình họ đã nhận được hài cốt của người cha người ông của họ. Đó là niềm vui của chúng tôi.”
Ông Phượng nói tiếp: “Chiến tranh đã cướp đi cuộc đời các anh. Tôi không bao giờ quên công ơn hy sinh của các anh. Nên khi tôi nghe được ở một nơi nào đó trong huyện Hàm Tân nói rằng, đã thấy một hài cốt ở góc đường, hay bờ ruộng nào đó, tôi liền bỏ công việc, chạy đến và tìm cách cải táng hài cốt về.”
Cũng trong suốt thời gian này, cứ vào thứ tư và Chúa Nhật hằng tuần, dù trời nắng hay trời mưa, Nhóm thiện nguyện vẫn lên quét dọn, chăm sóc các phần mộ. Riêng các Soeur vẫn xin lễ và cầu nguyện cho các linh hồn nơi đây, không phân biệt tôn giáo. Bởi trong niềm tin của người Công Giáo luôn xác tín rằng, thân xác đã trở về với cát bụi, nhưng linh hồn bất tử, họ khát khao được người thân viếng thăm.
Soeur Mai Thanh mong muốn: “Soeur rất thương các ngài. Tâm nguyện của Soeur là hài cốt các ngài được người thân tìm thấy và đưa các ngài về quê hương đoàn tụ với gia đình, bởi khi các ngài bị ngã gục trên chiến trường có lẽ người thân của các ngài không biết người chồng, người bố của mình đang nằm ở đâu trong những trận chiến rực lửa, đầy bom đạn ấy.
Soeur mong những người thân của các ngài có thể liên lạc trực tiếp với các cha DCCT hoặc liên lạc với Soeur để có những thông tin chi tiết cụ thể về các ngài trước khi cải táng các ngài về quê hương.”
Ông Phượng chân thành cám ơn các Soeur: “Tôi rất biết ơn các Soeur đã thương mến các anh và cho các anh một phần yên nghỉ trong lòng đất mẹ.”
Bên cạnh các phần mộ tử sỹ VNCH còn có những nấm mồ chôn cất khoảng 22.470 thai nhi bị cha mẹ tước bỏ mạng sống.
Souer Thanh Mai bật khóc: “Các sơ mở lớp tình thương dạy học cho các em nhỏ, đi thăm các em nhỏ trong vùng kinh tế mới, đi nhặt rác cùng với các em nhỏ thì phát hiện trong những đống rác đó có những thai nhi bị cắt ra từng mảnh, nên Quý Soeur đã thu gom và mang các thai nhi về chôn cất. Hằng ngày, các Souer đến các bệnh viện hay các phòng khám phụ khoa xin xác thai nhi bị phá mang về tẩn liệm và chôn cất.”
Được biết, vào ngày 26.12 vừa qua, các Soeur đã quy tụ khoảng 20 quý phế binh VNCH và quý bà quả phụ tử sỹ đến chia sẻ bữa cơm thân mật nhân dịp cha Giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Vinh Sơn Phạm Trung Thành, cha Giuse Đinh Hữu Thoại và phái đoàn đến viếng các mộ phần tử sỹ VNCH tại nghĩa trang Đồng Tiến.
Souer Thanh Mai khiêm tốn nói: “Nhờ sự khích lệ của Đức cha Nicôlas, sự dẫn dắt của cố Đức Cha Phaolo, giúp Soeur tìm đến với người nghèo, những người bị bỏ rơi hơn cả. Các Soeur chỉ có tấm lòng và trái tim, nhưng nhờ tất cả những người xa gần quyên góp giúp đỡ cho những mảnh đời bất hạnh và đồng hành trong việc cải táng các ngôi mộ này. Châm ngôn sống của Soeur là ‘sống có mục đích và chết có ý nghĩa’.”
Thật là một lối sống, một chọn lựa rất đáng trân trọng.
Huyền Trang, VRNs
Nguồn: DCCT
Yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam bỏ án tử hình
- Viết bởi Pv.VRNs
VRNs (02.01.2015) – Sài Gòn – Nhân vụ việc tử tù Hồ Duy Hải ở Long An và tử tù Nguyễn Văn Chưởng ở Hải Dương kêu oan, trong đó tử tù Hồ Duy Hải được “tạm hoãn” thi hành án tử hình vào phút chót, và Ông Hùng, phó chánh án Tòa án Long An bảo rằng : “chỉ tạm hoãn đến ngày 4/1/2014”! Chúng tôi cùng Quí vị tìm hiểu “án tử hình” được áp dụng như thế nào tại Việt nam và cùng lên tiếng : “Yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam bỏ án tử hình”.
Bản án tử hình tại Việt Nam :
Một thống kê cho thấy “vào năm 1977 mới chỉ có 16 quốc gia bỏ án tử hình, nhưng đến đầu tháng 9/2013, 106 nước đã tiến hành xóa bỏ án tử hình. Trong số còn lại, có 39 quốc gia chỉ thi hành một bản án tử hình trong vòng 10 năm tính từ 2003. 52 quốc gia vẫn duy trì án tử hình nhưng không thi hành một bản án nào trong vòng ít nhất hoặc chủ yếu là hơn một thập kỉ, được Liên Hợp Quốc coi là “các quốc gia đã xóa bỏ án tử hình trên thực tế”.
Bộ luật Hình sự Việt Nam (“BLHS”) đầu tiên năm 1985, có 29 Điều luật có quy định khung hình phạt cao nhất là tử hình (chiếm gần 15%). Qua 4 lần sửa đổi, bổ sung thì số lượng các Điều luật có quy định khung hình phạt cao nhất là tử hình đã tăng lên tới 44 điều (chiếm 20,5%), trong đó có 7 Điều luật quy định các tội phạm về ma túy có khung hình phạt cao nhất là tử hình. Tuy nhiên đến BLHS năm 1999, sau khi sửa đổi, bổ sung cơ bản toàn diện BLHS năm 1985 thì số lượng này lại trở về con số ban đầu là 29 Điều. Đến lần sửa đổi gần đây nhất (2009), chỉ còn quy định 22/272 Điều luật về các tội phạm có qui định khung hình phạt cao nhất là tử hình (khoảng 8%), giảm khoảng 3% so với trước khi sửa đổi. Và theo đề xuất “sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự” mới đây, sẽ xem xét hướng loại bỏ hình phạt tử hình đối với chín tội danh: hiếp dâm trẻ em; cướp tài sản; sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy; phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; tham ô tài sản và nhận hối lộ; chống mệnh lệnh và đầu hàng địch. Như vậy, theo đề xuất này, BLHS sửa đổi sẽ chỉ còn giữ lại 13 tội danh còn duy trì hình phạt tử hình, mà trong đó chủ yếu thuộc về nhóm “các tội xâm phạm an ninh quốc gia”.
Cũng từ ngày 1/11/2011, Nghị định 82/2011/NĐ-CP của Chính phủ “Qui định về thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc” thay vì “xử bắn” có hiệu lực thi hành. Điều 6 Nghị định này qui định : Thuốc sử dụng cho thi hành án tử hình
1. Thuốc tiêm để sử dụng cho thi hành án tử hình bao gồm:
a) Thuốc dùng để gây mê: Sodium thiopental;
b) Thuốc dùng để làm liệt hệ thần kinh và cơ bắp: Pancuronium bromide;
c) Thuốc dùng để ngừng hoạt động của tim: Potassium chloride.
2. Một liều gồm 3 loại thuốc quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Thuốc để sử dụng cho thi hành án tử hình do Bộ Y tế cấp theo đề nghị của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng.
4. Việc bàn giao thuốc phải được lập biên bản giao, nhận; niêm phong, quản lý chặt chẽ theo quy định của pháp luật”. Thậm chí, Điều 8 Nghị định này qui định về “Quy trình thực hiện tiêm thuốc” khiến cho người đọc nó lần đầu không khỏi rùng mình; đó là :
“1. Trình tự thi hành án tử hình phải thực hiện đúng theo quy định các khoản 2, 3, 4 Điều 59 Luật Thi hành án hình sự và quy định của Nghị định này. Người bị đưa ra thi hành án tử hình được hưởng tiêu chuẩn ăn, uống bằng 5 lần tiêu chuẩn của ngày Lễ, Tết quy định đối với người bị tạm giam.
2. Thuốc đưa ra sử dụng cho thi hành án tử hình phải được Hội đồng thi hành án kiểm tra, mở niêm phong và lập biên bản theo quy định.
3. Người bị thi hành án tử hình được cố định vào giường với tư thế nằm ngửa, bảo đảm không làm cản trở sự lưu thông máu.
4. Cán bộ trực tiếp thi hành án tử hình chịu trách nhiệm thực hiện các bước sau:
a) Chuẩn bị đủ 3 liều thuốc (trong đó có 2 liều dự phòng);
b) Xác định tĩnh mạch để thực hiện tiêm: trường hợp không xác định được tĩnh mạch thì báo cáo Chủ tịch Hội đồng thi hành án để yêu cầu bác sĩ hỗ trợ xác định tĩnh mạch;
c) Đưa kim tiêm đã nối sẵn với ống truyền thuốc vào tĩnh mạch đã được xác định theo trình tự như sau:
- Bước 1: Tiêm 05 grams Sodium thiopental (Thuốc dùng để gây mê)
Sau mũi tiêm gây mê này, cán bộ chuyên môn thực hiện thi hành án tử hình phải tiến hành kiểm tra, nếu chưa bị mê thì tiếp tục thực hiện tiêm gây mê cho đến khi mê.
- Bước 2: Tiêm 100 miligrams Pancuronium bromide (Thuốc dùng để làm liệt hệ thần kinh và cơ bắp).
- Bước 3: Tiêm 100 grams Potassium chloride (Thuốc dùng để ngừng hoạt động của tim).
d) Kiểm tra hoạt động tim của người bị thi hành án tử hình qua máy điện tâm đồ. Trường hợp sau mười phút mà người bị thi hành án tử hình chưa chết, cán bộ kiểm tra phải báo cáo Chủ tịch Hội đồng thi hành án để ra lệnh sử dụng thuốc dự phòng, tiếp tục thực hiện tiêm lần thứ hai.
Trường hợp đã tiêm hết hai liều thuốc mà người bị thi hành án vẫn chưa chết, thì Đội trưởng Đội thi hành án phải báo cáo Chủ tịch Hội đồng thi hành án ra lệnh tiêm lần thứ ba.
5. Việc thực hiện các bước theo quy định tại các điểm b, c, d khoản 4 Điều này có thể được tiến hành theo phương pháp tự động hoặc trực tiếp.
6. Theo lệnh của Chủ tịch Hội đồng thi hành án, bác sĩ pháp y tiến hành kiểm tra, xác định tình trạng của người bị thi hành án tử hình và báo cáo kết quả cho Hội đồng.
7. Sau khi bác sĩ pháp y kết luận người bị thi hành án tử hình đã chết, theo lệnh của Chủ tịch Hội đồng thi hành án, cán bộ thi hành án tử hình ngừng truyền và đưa kim tiêm, đường ống dẫn ra khỏi người bị thi hành án tử hình.
8. Hội đồng thi hành án tử hình lập biên bản theo quy định về việc người bị thi hành án đã chết.
9. Việc giải quyết các thủ tục sau khi người bị thi hành án đã chết thực hiện theo quy định tại các điểm e, g, h, khoản 4 Điều 59 và Điều 60 Luật Thi hành án hình sự”.
Sau khi Nghị định này có hiệu lực, việc thi hành án tử hình bị “chững” lại, bởi các lý do :
Thứ nhất: Điều 6 Nghị định này, như trên đã trích dẫn, quy định rõ ba loại thuốc sử dụng cho thi hành án tử hình, nhưng đều là thuốc mà Việt Nam chưa sản xuất được. Các nước phương Tây lại từ chối bán thuốc độc cho Việt Nam khi biết mục đích là để thi hành án tử hình. Vì vậy, Bộ Tư pháp đã phải thẩm định dự thảo sửa đổi để có cơ sở pháp lý cho việc Việt Nam tự sản xuất thuốc độc. Dẫn đến tình cảnh “sốt ruột” của ngành công an. Tại một kỳ họp Quốc hội , Bộ trưởng Bộ Công an, Viện trưởng VKSNDTC Nguyễn Hòa Bình đã đề nghị cho áp dụng song song hai biện pháp tử hình xử bắn và tiêm thuốc. Tuy nhiên, những đề nghị này không được Quốc hội chấp thuận.
Thứ hai: Hai là, khi thực thi, vấp phải sự phản kháng quyết liệt của các y tá, Bác sĩ “bị lừa” tiêm thuốc độc cho tử tù, với lập luận : “Bác sĩ được đào tạo để cứu người, chứ không phải để giết người, cho dù đó là tử tù”, khiến cho phải có thời gian “thuyết phục”, hoặc “đào tạo” mới cho “cán bộ tiêm thuốc độc”.
Câu chuyện hai bác sỹ ở Phú Yên đã phản đối vì bị ép làm “đao phủ” thay công an. Theo đó, các bác sĩ tại BV Đa khoa Phú Yên đã kịch liệt phản đối việc một bác sĩ và một điều dưỡng đã bị ép tiêm thuốc độc cho tử tù. Một Bác sĩ kể: “Chiều 9/12, tôi và điều dưỡng N.N.T nhận lệnh từ Phòng Tổ chức BV Đa khoa Phú Yên đi Đăk Lăk để hỗ trợ sức khỏe cho đoàn công tác thi hành án. Bệnh viện chuẩn bị sẵn dụng cụ cấp cứu, thuốc men để chúng tôi thực hiện nhiệm vụ. Đến Đăk Lăk, một số cán bộ trong Hội đồng thi hành án cho biết nhiệm vụ của tôi là xác định tĩnh mạch và đưa kim tiêm vào người tử tù.
Trong giấy công tác cũng như suốt quá trình đi trên đường, không ai nói nhiệm vụ của chúng tôi là gì nên tôi chỉ nghĩ mình làm nhiệm vụ bảo vệ sức khỏe cho đoàn. Khi nghe họ phân công nhiệm vụ đưa kim vào tĩnh mạch tử tù, tôi không chấp nhận. Tuy nhiên, họ nói nhiệm vụ của chúng tôi là phải làm như vậy”.
Còn theo bác sĩ L.C.L (vừa tốt nghiệp 4 tháng): “Sáng 11/12, khi tiến hành thi hành án tử hình đối với phạm nhân, tôi tiếp tục từ chối việc xác định tĩnh mạch và đưa kim tiêm. Sau đó Hội đồng thi hành án yêu cầu nên tôi hỗ trợ cho điều dưỡng đưa kim tiêm vào tĩnh mạch tử tù. Từ lúc đó đến giờ, tôi và điều dưỡng T. bị sốc rất nặng, lúc nào khuôn mặt tử tù cũng ám ảnh trong đầu tôi. Tôi làm nghề y để cứu người chứ sao lại ép tôi làm trái với chức năng nghề nghiệp. Nếu biết trước phải làm như vậy, chắc chắn tôi sẽ không đi”.
Trước thông tin này, một Đại biểu Quốc hội đã khẳng định: “Các bác sĩ, điều dưỡng ở BV Đa khoa tỉnh Phú Yên có quyền khởi kiện, đưa vụ việc này ra tòa, bởi hai điều: Thứ nhất, ép bác sĩ đi tiêm thuốc độc là trái với luân thường đạo lý, kể cả khi người bị tiêm là tử tù. Thứ hai, chức năng nhiệm vụ của bác sĩ là cứu người chứ không phải tiêm thuốc làm chết người, đây là nguyên tắc bất di bất dịch với ngành y, không có gì phải bàn cãi. Theo tôi, ngay cả khi các bác sĩ không đưa vụ việc này ra tòa thì các cơ quan chức năng ở tuyến trung ương cũng phải lập tức có quan điểm và chỉ đạo xử lý dứt điểm vụ việc này”. Và rằng : “việc thi hành án tử hình thuộc về cơ quan chuyên trách, danh tính người thực hiện và quy trình phải được bảo mật chứ không thể có chuyện sử dụng bất kỳ ai cũng được”.
Được biết, sau khi vụ việc này xẩy ra, Bộ Y tế đã ngay lập tức lên tiếng phản đối cách làm này. Trao đổi với báo chí, một đại diện Bộ Y tế cho biết, theo quy định tại điều 19 của Nghị định Quy định về thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc, nhân viên y tế chỉ có trách nhiệm hỗ trợ cán bộ thi hành án xác định tĩnh mạch trong trường hợp cần thiết theo yêu cầu của chủ tịch hội đồng thi hành án tử hình, còn ép bác sĩ trực tiếp bơm thuốc độc vào tĩnh mạch là không chấp nhận được. Do đó, Bộ Y tế đã yêu cầu BV Đa khoa tỉnh Phú Yên báo cáo bằng văn bản về vụ việc trên.
Theo Ông Đại biểu Quốc hội Nguyễn Ngọc Bảo bày tỏ : “Nói cho đúng thì tiêm thuốc độc với phạm nhân lĩnh án tử hình là nhân văn, chính vì vậy quy trình tiêm thuốc cũng nhân văn, không giống như nhiều người lầm tưởng là tiêm một mũi thuốc thì phạm nhân dãy lên đau đớn rồi lăn ra chết, làm như vậy thì đâu còn tính nhân văn nữa. Ngay cả việc thi hành án tử hình bằng xử bắn cũng có quy trình của nó, chứ có phải cứ nhằm vào phạm nhân bắn thế nào thì bắn đâu. Chính vì quy trình ngặt ngèo như vậy cho nên các cơ quan chức năng có trách nhiệm cần phải sớm thống nhất một cách làm và áp dụng chung cho cả nước, không thể tiếp tục để xảy ra sự việc đáng tiếc như ở Phú Yên”.
Một vấn đề khác, được nhà cầm quyền này xem là “nhân đạo”, đó là cho gia đình tử tù được “nhận tử thi” sau khi bị tiêm thuốc độc. Chính qui định này dẫn đến sự “may mắn” cho gia đình tử tù Hồ Duy Hải. Ngay sau khi được thông báo : “có muốn nhận tử thi của Hải sau khi bị tiêm thuốc độc hay không?” mà bằng linh cảm, tình yêu của người mẹ, gia đình Hồ Duy Hải- với sự hỗ trợ của truyền thông đã dấy lên yêu cầu “xem xét lại bản án oan sai của Hồ Duy Hải” buộc nhà cầm quyền phải dừng thi hành án vào phút chót. Điều 60 Luật Thi hành án Hình sự qui định:
1. Việc giải quyết nhận tử thi được thực hiện như sau:
a) Trước khi thi hành án tử hình, thân nhân hoặc người đại diện hợp pháp của người chấp hành án được làm đơn có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú gửi Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm đề nghị giải quyết cho nhận tử thi của người chấp hành án để an táng; trường hợp người chấp hành án là người nước ngoài thì đơn phải có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền hoặc cơ quan đại diện ngoại giao tại Việt Nam của nước mà người chấp hành án mang quốc tịch và phải được dịch ra tiếng Việt. Đơn phải ghi rõ họ tên, địa chỉ người nhận tử thi, quan hệ với người chấp hành án; cam kết bảo đảm yêu cầu về an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường và tự chịu chi phí;
b) Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm thông báo bằng văn bản cho người có đơn đề nghị về việc cho nhận tử thi hoặc không cho nhận tử thi khi có căn cứ cho rằng việc nhận tử thi ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường. Trường hợp người chấp hành án là người nước ngoài, thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho Bộ Ngoại giao Việt Nam để thông báo cho cơ quan có thẩm quyền hoặc cơ quan đại diện ngoại giao tại Việt Nam của nước mà người đó mang quốc tịch;
c) Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có trách nhiệm thông báo cho người có đơn đề nghị ngay sau khi thi hành án để đến nhận tử thi về an táng. Việc giao nhận tử thi phải được thực hiện trong thời hạn 24 giờ kể từ khi thông báo và phải lập biên bản, có chữ ký của các bên giao, nhận; hết thời hạn này mà người có đơn đề nghị không đến nhận tử thi thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có trách nhiệm an táng.
2. Trường hợp không được nhận tử thi hoặc thân nhân của người bị thi hành án không có đơn đề nghị được nhận tử thi về an táng thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu tổ chức việc an táng. Sau 03 năm kể từ ngày thi hành án, thân nhân hoặc đại diện hợp pháp của người đã bị thi hành án được làm đơn có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú đề nghị Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi đã thi hành án cho nhận hài cốt. Đơn đề nghị phải ghi rõ họ tên, địa chỉ người nhận hài cốt, quan hệ với người bị thi hành án; cam kết bảo đảm yêu cầu về an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường và tự chịu chi phí. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được đơn, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có trách nhiệm xem xét, giải quyết.
Tranh cãi bỏ hay không bỏ án tử hình:
Có thể nói, để bảo vệ cho ý kiến “tiếp tục duy trì án tử hính”, tập trung cao nhất vẫn là “nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm”.
Một luật sư tại Hà Nội, Ông La Văn Thái, bày tỏ quan điểm đề nghị giữ nguyên hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự sửa đổi tới đây. Luật sư Thái phân tích: “Việc tiếp tục duy trì hình phạt tử hình ở một số loại tội phạm là cần thiết với hoàn cảnh cụ thể của nước ta, khi nền kinh tế đang phát triển, nhiều loại tội phạm gia tăng và ngày càng phức tạp, yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh tội phạm cần đặt lên hàng đầu. Hình phạt tử hình loại bỏ sẽ gây nguy hiểm cho xã hội, thiếu tính răn đe và giáo dục. Quan trọng hơn cả là làm giảm niềm tin của người dân vào Nhà nước hay tội phạm ma túy gieo rắc cái chết trắng cho nhiều thế hệ trẻ, tội phạm giết người”…Ông còn mạnh mẽ phát biểu : “Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay, tôi cho rằng chưa nên tiếp tục giảm tội tử hình, chứ đừng nói đến chuyện bỏ hay áp dụng án chung thân suốt đời, để thay thế cho án tử hình. Chưa nói đến việc án chung thân vô thời hạn, cũng gây sức ép rất lớn với các trại giam, tạo thêm sức ép đến ngân sách của Nhà nước. Thì lý do quan trọng nhất, số lượng tội phạm, mức độ gây án nghiêm trọng ở Việt Nam vẫn còn rất nhiều, cần phải duy trì mức hình phạt cao nhất là tử hình để đảm bảo tính răn đe phòng ngừa chung. Nếu không, dễ dẫn đến việc coi thường pháp luật, không sợ bị trừng phạt nghiêm khắc, gây án với mức độ tàn bạo hơn”. Qua đó cho thấy, ngoài lý do chính, ông luật sư này còn nhấn mạnh đến “tốn kém” cho ngân sách nhà nước khi phải nuôi tù nhân!
Tuy vậy, Một Luật sư khác. Ông Nguyễn Bá Ngọc- người từng là Luật sư bào chữa cho bị cáo Lê Văn Luyện- phản biện : “Phạm tội là do tính giác ngộ, nhận thức của mỗi con người. Ví dụ như tội ma túy, nếu vận chuyển buôn bán 600 gram heroin trở lên sẽ có thể xử tử hình, ai cũng biết điều đó, và người ta biết chết mà vẫn phạm tội. Điều này chứng tỏ là án tử hình có còn đó, nhưng vẫn không hạn chế được”. Ông cho rằng: “Để việc tội phạm không gia tăng, thì khâu phòng chống sẽ quan trọng hơn khâu xử lý, ví dụ như các hình thức giáo dục phát triển con người phải được đẩy mạnh, để con người ta hướng thiện, hiểu biết, không phạm tội nữa. Và trong đó là trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội là điều tối quan trọng”.
Ý kiến của Luật sư Ngọc còn được khẳng định mạnh mẽ hơn bởi Ông Raphaël Chenuil-Hazan- Giám đốc Hiệp hội Cùng nhau bãi bỏ án tử hình (ECPM), khi trả lời câu hỏi của Phóng viên VietnamNet : “Nếu không có án tử hình, làm thế nào để trừng phạt những tội phạm nguy hiểm như giết người, cưỡng hiếp…?’. Ông khẳng định : “Tới nay, có 2/3 các quốc gia đã bãi bỏ án tử hình. Những nước ấy không có tỉ lệ tội phạm cao hơn các nước khác, thậm chí là ngược lại. Thật vậy, cái vòng luẩn quẩn của bạo lực là bạo lực. Làm sao bạn có thể cho thấy giết người là sai trái bằng cách giết một người khác?
Tử hình không bao giờ ngăn chặn được tội ác. Vì vậy, nếu chúng ta duy trì án tử hình để chống lại tội phạm nguy hiểm thì đó không phải là vấn đề ngăn chặn tội phạm, mà chỉ là cách trả thù. Chúng ta muốn giết kẻ giết người. Trải nghiệm của 2/3 nhân loại cho thấy hoàn toàn có thể ngăn chặn vòng luẩn quẩn này”
Cùng nhau bãi bỏ án tử hình :
Án tử hình – theo trên nói- nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên cái “nhân văn” lớn nhất mà Ông Raphaël Chenuil-Hazan nói là : “Làm sao bạn có thể cho thấy giết người là sai trái bằng cách giết một người khác?
Chúng tôi cũng tìm kiếm được những ý tưởng rât hay của nhiều người khác đòi “bãi bỏ án tử hình” như là : trái luật tự nhiên : “ xã hội không phải là “đấng quyền lực tối cao sinh ra con người, và chẳng có giây phút nào nuôi dưỡng con người” nên không thể có quyền tước bỏ mạng sống ấy. Hay nói một cách chuẩn xác nhất là không ai có quyền lấy đi mạng sống thiêng liêng của con người do tạo hóa đã ban tặng ngoại trừ thiên nhiên mới có quyền tước bỏ. Nếu chúng ta làm trái quy luật ấy sẽ là mâu thuẫn với đời sống tự nhiên, vi phạm quyền cơ bản của con người”.
Cũng liên quan đến tình trạng án oan tại Việt Nam, mà dư luận quan tâm từ sau vụ án 10 năm tù oan của Ông Nguyễn Thanh Chấn, việc bãi bỏ án tử hình cũng được xem là một trong những biện pháp “tránh chết oan người vô tội”. Bài học “minh oan cho người thanh niên bị thi hành án tử hình oan” sau 18 năm thi hành án tử của Trung Quốc luôn nóng hổi. Thi hành án tử rồi sẽ “không còn cơ hội sửa sai” !
Chúng ta hãy cùng nhau lên tiếng “yêu cầu nhà cầm quyền Việt nam bãi bỏ án tử hình”.
Pv.VRNs
Nguồn: DCCT
Nhóm Cơm Dân Oan
- Viết bởi PV. VRNs
VRNs (03.12.2014) – Hà Nội – Nhóm Cơm Dân Oan đã thực hiện được chuyến công tác lần thứ chín (9) tại Hà Nội với bánh mì trao tận tay dân oan trong trời mưa với nhiệt độ 20 độ C.
Nhóm Cơm Dân Oan qua Mai Thanh cho biết công việc cụ thể và mong ước của mình: “Hoạt động hàng tuần của nhóm cơm dân oan là nấu cơm hỗ trợ bữa ăn nhỏ bé cho bà con dân oan. … Từ lúc bắt đầu đến giờ, nhóm đã nhận được một số sự hỗ trợ từ những cá nhân, hội nhóm. Sự hỗ trợ đó là rất đáng quý, tuy nhiên số lượng bà con dân oan khiếu kiện quá đông, lòng chúng tôi muốn giúp mà tài vật thì có hạn, sự giúp đỡ vừa qua chỉ như muối bỏ bể. Và thực sự vẫn còn rất nhiều bà con, mùa đông này, phải chịu rét, chịu đói”.
Nhóm Cơm Dân Oan không xem những người dân oan là những người tha phương cầu thực hay khốn khổ, nhưng xem họ là những người bà con của mình ở phương xa đang gặp nạn. Một thành viên trong nhóm cho biết:
“Quan điểm của nhóm cơm dân oan là làm cơm phải NGON và VỆ SINH. Chúng em suy nghĩ rằng, những cô bác dân oan cũng giống như ông bà cha mẹ mình, mình nấu cơm này phải thật khéo, nấu sao cho làm sao các cô các bác ăn thấy ngon và đảm bảo sức khỏe. Khi mang cơm đến tặng bà con thì phải trao tận tay cho từng người và hỏi thăm bà con Chúng em không quan niệm rằng đây là công việc từ thiện hay ban phát cho ai cả, cả nhóm em quan niệm rằng: Chúng ta có những người họ hàng xa, những bà con ruột thịt, họ đang gặp khó khăn và chúng ta mang quà đi thăm họ vậy thôi”.
Chuyến công tác thứ 9 của Nhóm được mô tả như sau:
“Ngày 02.12.2014. Nhóm CƠM DÂN OAN cùng các nhà hảo đã chia sẻ tình yêu thương đến với bà con dân oan khắp mọi nơi tại số 1 Ngô Thì Nhậm, Hà Đông.
Hôm nay, từ sáng sớm trời đã mưa rả ríc và nhiệt độ lúc này là 20 độ C, nhưng thời tiết ẩm ướt lãnh lẽo cũng chỉ làm tăng thêm quyết tâm đến với bà con của nhóm CƠM DÂN OAN, nhóm đã tặng bà con những phần bánh mỳ thay vì cơm như mọi khi. Đến với bà con, tôi thấy buồn khi gặp một bé gái khoảng 10 tuổi, em không được đi học, không được đến trường, chỉ vì gia đình em đã mất hết đất, mất nhà cửa; tôi cũng thấy buồn khi đa phần những người đi khiếu kiện là những cụ già trên 60 70, có bà mẹ trẻ bế đứa con nhỏ mới sinh ngồi một góc, nhìn đứa bé ngủ sao mà đáng thương. Tự hỏi tương lai những người già, người trẻ, những em bé kia sẽ đi về đâu trong cái đêm tối của xã hội nhiễu nhương này.
Mọi người ngồi vạ vật từ sáng đến tối chỉ mong CQ giải quyết đơn thư cho họ, mặc cho mưa phùn giá rét. Thương lắm, đau lắm, nhưng có giúp được gì nhiều đâu. Những chiếc bánh mỳ, những phần cơm chẳng là gì so với những mất mát, những nỗi đau họ đã phải trải qua, chỉ mong rằng khi họ cầm bánh mỳ, họ sẽ cảm thấy ấm áp lên một chút, để họ không còn thấy cô đơn, để họ biết rằng “chúng ta, những người con nặng lòng với đất nước, luôn ở bên họ”.
Nhóm cơm dân oan xin cảm ơn sự ủng hộ của các nhà hảo tâm và mong rằng sẽ có thêm nhiều sự giúp đỡ nữa từ mọi người”.
Nhóm công khai tài chánh cho chuyến công tác này:
“Báo cáo thu chi “cơm dân oan số 9″
+ FB Anh Ton ủng hộ bà con 100 CAD
+ Quỹ nhóm từ đầu tuần có 4tr050 đồng. Hôm nay nhóm mua hết 200k tiền bánh mỳ và 400k tiền giò chả.
- Vậy xin thông báo tổng quỹ nhóm ngày 2/12/2014 là 3tr450 nghìn đồng + 100 CAD (nhận được từ nhà hảo tâm có FB là Anh Ton)”
Đây là một sáng kiến độc đáo của giới trẻ Hà Nội, từ liên kết online trên facebook, các bạn đã liên kết với nhau trong đời sống để phục vụ cộng đồng, nhất là những người đang đau khổ bị chính nhà chức trách đẩy họ vào cảnh không nhà, không phương tiện sản xuất.
Ngày 01.11.2014, thay mặt Nhóm Cơm Dân Oan, chị mai Thanh thông báo:
“Chúng tôi là nhóm không cố định về nhân sự do các sinh viên học sinh hoặc bất cứ ai có tấm lòng trắc ẩn tự nguyện tham gia cung cấp, quyên góp, phục vụ bữa ăn miễn phí cho người dân Việt nam đang đói khát khi tham gia khiếu kiện về đất đai, nhà cửa bị chiếm đoạt.
Tiêu chí của chúng tôi là: BỮA CƠM MIỄN PHÍ CHO BÀ CON DÂN OAN, nhằm giúp bà con đồng bào mình đỡ cơ cực, đói khát, mọi người có thời gian dù không cố định đều có thể tham gia mỗi người mỗi việc từ nấu nướng, chợ búa, đưa bữa ăn miễn phí đến tận nơi cho bà con. Thời gian qua chúng tôi đã thực hiện được 3 buổi phát bữa trưa miễn phí cho Dân oan ở Hà nội.
Tất cả các bạn tham gia nhóm hiện nay là tự nguyện và không cố định nên chúng tôi chưa có nguồn kinh phí nào để thực hiện ngoài sự trợ giúp ban đầu từ nhóm CỨU LẤY DÂN OAN (đợt đầu 800 nghìn đồng và 2 chiếc nồi cơm điện)
Chúng tôi rất hạnh phúc khi được làm công việc tuy nhỏ bé nhưng thực sự có ý nghĩa là giúp đồng bào mình bớt khổ và rất mong được những tấm lòng Nhân ái khắp nơi quan tâm, chia sẻ cơm áo với đồng bào mình. Số Dân oan hiện nay khá đông và hầu hết rất thiếu thốn. Có thể chúng tôi chưa làm được gì nhiều giúp bà con nhưng mỗi người trong xã hội chúng quan tâm một chút, chìa ra một bàn tay thương mến, chúng tôi tin xã hội chúng ta sẽ trở nên đáng sống hơn rất nhiều”.
PV. VRNs
Nguồn: DCCT
Vài lời bàn về Khổng Tử và Viện Khổng Tử
- Viết bởi Trần Quang Đức
VRNs (31.12.2014) – Sài Gòn – Hai hôm nay, nhiều bạn facebook tag tôi vào những stt xoay quanh việc Học viện Khổng Tử đầu tiên được đặt tại một trường đại học của Việt Nam. Cá nhân tôi, tôi không ủng hộ việc này. Bởi như nhiều người đã tìm hiểu, Học viện Khổng Tử không đơn thuần nhằm “quảng bá tiếng Trung Quốc”. Ở Âu Mỹ, các học viện này đã có những hoạt động như đả phá Pháp luân công, kỳ thị tín ngưỡng (Đại học McMaster, Canada), cổ động sinh viên ủng hộ Trung Quốc trấn áp Tây Tạng (Đại học Waterloo, Canada), không cho sinh viên talk về vấn đề Tây Tạng, hạn chế ngôn luận (Đại học Chicago, Mỹ) v.v. Đó cũng chính là nguyên nhân chính khiến một loạt các nước Âu Mỹ tẩy chay học viện này.
Hiện nay, xét riêng số HVKT đặt tại các trường đại học trong khu vực, Hàn Quốc có 17 viện, Nhật Bản có 13, Thái Lan có 12, Indonesia có 7, Philipine có 3, Singapore có 2. Đây là lần đầu tiên, HVKT đặt tại Việt Nam. Mặc cho những phản ứng muôn hình muôn vẻ của trí thức, trí ngủ trong ngoài nước, đây là câu chuyện đã rồi, và là câu chuyện trên bàn tròn của những người anh em cộng sản hai nước. Việc thiết thực có thể làm hiện nay là theo dõi sát sao động tĩnh của học viện này, và phản ứng kịp thời khi nó có những hoạt động can thiệp nằm ngoài bổn phận.
Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý mấy điểm dưới đây, hầu mong những người phản đối HVKT hiểu rõ hơn mình đang phản đối thứ gì, tư tưởng gì.
1. Khổng Tử của đời thật và Khổng Tử sau khi bị các chính thể lợi dụng
Bản thân Khổng Tử là người chính trực, nghiêm túc, kiên trì đến độ đáng thương, “biết đạo không thể thi hành mà vẫn làm”. Ông ta không được trọng dụng ngay khi còn sống. Trong bối cảnh văn hóa suy đồi, chính trị băng hoại thời Xuân Thu, tinh thần chấn hưng lễ nghĩa, quảng bá học thuật của Khổng đã khiến ông nửa đời lang bạt các nước như ‘con chó mất nhà’ theo cách ví của Tư Mã Thiên. Vào thời Hán, lần đầu tiên, đạo Khổng được trọng dụng. Nhưng tư tưởng nguyên sơ của Khổng đã bị uốn bẻ theo những cách thức khác nhau, trải qua các triều đại khác nhau. Hán Nho khác Đường Nho, Tống Nho, Minh Nho… Tương tự, tư tưởng Nho giáo trải qua các triều Lý, Trần, Hồ, Lê, Nguyễn tại Việt Nam cũng không đồng nhất. Có một Khổng Tử của đời thật, nhưng có nhiều Khổng Tử của các chính thể lợi dụng. Tư tưởng của Khổng có nhiều điều hay, cũng có nhiều hạn chế. Nhưng trước khi hiểu rõ con người, tư tưởng Khổng thì đừng vì phản đối HVKT mà vội quy chụp tư tưởng đó là thứ “bốc mùi”, gọi Khổng Tử là “thằng Confucius”!
Chính quyền Trung Quốc tiến hành cách mạng văn hóa vào những năm 1966. Trong thời kỳ này, tư tưởng Khổng bị lên án gay gắt. Tượng Khổng trong Khổng Miếu Sơn Đông bị dán lên dòng chữ THẰNG KHỐN NẠN HÀNG ĐẦU, rồi bị kéo đổ, đập nát. Hồng vệ binh định đào mả Khổng, nhưng nhanh chóng bị can ngăn. Và giờ đây, khi nền chính trị, tư tưởng của Trung Cộng không đủ sức hút đối với thế giới, càng không phải giá trị phổ quát. Họ bám víu và giương chiêu bài quảng bá văn hóa; họ dùng Khổng Tử làm công cụ chính trị. Bởi vậy đừng nghĩ đơn giản rằng, HVKT là nơi truyền bá đạo Khổng. Trung Cộng không có tư cách đó.
2. Văn hóa Trung Hoa và chính quyền Trung Quốc
Không thể phủ nhận sức ảnh hưởng lan tỏa của văn hóa Trung Hoa trong quá khứ đối với các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tạm không bàn đến bản quyền của các thành tố văn hóa tương đồng giữa Trung – Hàn – Việt. Bằng vào những tư liệu hiện có, có thể thấy các chính thể quân chủ Việt Nam đã từng chủ động sử dụng Hán văn làm ngôn ngữ hành chính, thi cử, sáng tác văn học, từng châm chước chế độ lễ nghi, áo mũ, phong tục của các triều đại Trung Hoa; từng tự phụ là ‘cõi văn hiến không kém Trung Quốc’; và khi Trung Quốc bị cai trị bởi những tộc người Mãn, Mông, lại tự nhận là quốc gia gìn giữ văn minh Hoa Hạ chính thống. Bất kỳ thứ văn hóa ngoại lai nào khi được du nhập vào dị vực đều bị bản địa hóa, bởi vậy khi văn hóa Hán đã hòa vào văn hóa Việt, trở thành một phần của văn hóa Việt thì đừng vì ghét Trung Cộng mà quay lại cầm dao tự xẻo thịt mình!
Sau Cách mạng văn hóa, văn hóa Trung Quốc đã xuống dốc. Trí thức Trung Quốc đương đại lưu truyền câu nói “sau Tống không còn Trung Quốc, sau Minh không còn Hoa Hạ, sau Mãn không còn Hán tộc, sau Cách mạng văn hóa không còn đạo đức”. Và trong mắt tôi, văn hóa Trung Quốc đương đại là một sản phẩm què quặt. Bởi vậy, hãy nhìn nhận cho rõ thứ văn hóa Trung Cộng quảng bá là văn hóa gì, tư tưởng gì, đừng tóm tất cả mọi thứ vào một khái niệm đơn nhất là ‘văn hóa Tàu’!
3. Tiếng phổ thông Trung Quốc và ngữ văn Hán Nôm
Hiển nhiên, nội dung quảng bá của HVKT là tiếng phổ thông Trung Quốc, tức thứ ngôn ngữ sống, lấy ngữ âm phương Bắc làm chuẩn, sử dụng bộ văn tự đã được giản lược sau năm 1949. Còn ngữ văn Hán Nôm là một thứ ngôn ngữ chết (tử ngữ), được người Việt Nam sử dụng để ghi chép, thi cử v.v. trước thế kỷ 20.
Chữ Hán được sử dụng tại Việt Nam ngót 2000 năm. Trong quá trình du nhập, truyền bá, cho đến ngày hôm nay, người Việt có một hệ thống cách đọc chữ Hán riêng biệt (thiên địa, nhật nguyệt v.v. thay vì /tian di/, /ri yue/). Nhiều chữ Hán được người Việt viết theo lối riêng, có những kết cấu, hình thể riêng, tương tự như trường hợp chữ Hán của Nhật Bản. Vào khoảng thời Lý Trần, người Việt mượn cách đọc của chữ Hán để ghi âm tiếng Việt, tạo ra một hệ thống chữ mới gọi là chữ Nôm. Về ngữ pháp, người Việt cũng như người Trung, Hàn, Nhật trước đây sử dụng ngữ pháp Hán văn cổ đại (một thứ tử ngữ) để ghi chép, sáng tác văn học. Văn tự Hán Nôm được diên dụng ở miền Bắc đến năm 1956 trước khi Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến hành cải cách giáo dục, và tại miền Nam đến năm 1975 trước khi Việt Nam cộng hòa diệt quốc.
Học tiếng Trung hiện đại chắc chắn không thể đọc hiểu hoành phi, câu đối, sách vở do người Việt trước thời Nguyễn viết. Còn trong bối cảnh hiện đại, nếu học một lượng chữ Hán Nôm cơ bản, có thể hiểu sâu hơn về tiếng Việt. Bởi vậy, khi phản đối HVKT thì đừng bài xích văn tự Hán Nôm, đừng coi nó là thứ chữ lạ, và đừng nâng cao quan điểm rằng, một ngàn năm Bắc thuộc mới sắp bắt đầu, Việt Nam sẽ quay trở lại dùng chữ Hán. Cần phải hiểu rõ, chữ Hán là chữ Hán nào. Hán của người Việt hay Hán của Trung Cộng.
Việc thoát Trung là thoát ở sự lệ thuộc chính trị, kinh tế, ở những thứ văn hóa thô bỉ, quê mùa tập nhiễm từ Trung Quốc đương đại, chứ không phải tẩy chay bất kỳ nét văn hóa hay đẹp nào chỉ cần biết nó có nguồn gốc Tàu!
Trần Quang Đức
—
Chú thích ảnh (từ trên xuống dưới, trái qua phải):
1. Hình tượng Khổng Tử của Trung Quốc thời Minh.
2. Hình tượng Khổng Tử của Việt Nam thời Lê.
3. Hình tượng Khổng Tử của Hàn Quốc thời Joseon.
4. Hình tượng Khổng Tử của Nhật Bản thời Edo.
5. Hình tượng Khổng Tử của Việt Nam cộng hòa đặt tại Miếu Khổng Thánh (chụp năm 1969), nay là đền Hùng trong Thảo cầm viên, Sài gòn. Pho tượng đã bị di dời.
6. Tượng Khổng Tử tại Khổng Miếu Sơn Đông bị dán lên dòng chữ Thằng khốn nạn hàng đầu, trong thời Cách mạng Văn hóa (1966 – 1976).
7. Tượng Khổng Tử đặt tại Thiên An môn năm 2011, bị di dời chỉ sau 100 ngày.
8. Biếm họa chân dung Khổng Tử sau khi bị chính quyền Trung Cộng lợi dụng để dựng lên Học viện Khổng Tử.
Nguồn: DCCT
Việt Nam đang xét lại chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc
- Viết bởi Nguyễn Quang Duy
VRNs (30.12.2014) – Melbourne, Úc Đại Lợi – Năm 1989, trước tình trạng Khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô khủng hỏang tòan diện, đảng Cộng sản giao nhiệm vụ tìm hiểu về “Chủ nghĩa xã hội thật sự là gì?” cho Ủy viên Bộ Chính trị Trần Xuân Bách.
Qua nghiên cứu thực tế ông Bách đã kết luận Việt Nam cần phải tìm một hướng đi riêng và cần nhịp nhàng đổi mới cả kinh tế lẫn chính trị: “Hai lãnh vực này phải nhịp nhàng, không chân trước chân sau, không tấp tểnh đi một chân.”
Đáng tiếc, đảng Cộng sản đã không chấp nhận còn trù dập ông, rồi quay sang Trung Quốc vay mượn Chủ Nghĩa Xã Hội mang Bản Sắc nước này.
Thiếu tư tưởng hướng dẫn đảng Cộng sản càng ngày càng đưa đất nước vào ngõ cụt…
… đi mà không rõ đi đâu
Ngày 22-12-2014 vừa qua tại cuộc hội thảo do Ngân hàng Thế giới và Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương tổ chức, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng thú nhận: “Tôi cứ suy nghĩ mãi một điều, nếu chúng ta đi mà không rõ đi đâu, bằng cách nào, bao giờ đến… thì không bao giờ chúng ta đi nhanh và bền vững được…”
Chắc bạn đọc vẫn nhớ ngày 23-10-2013 trước Quốc Hội, Nguyễn Phú Trọng đã cho biết: ”… xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa.”
Và vào cuối năm 2013, tại Học viện Chính trị quốc gia, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cho biết: “Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm”.
Mô hình mà ông Vinh nhắc đến là mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là bản sao của mô hình Trung Quốc.
… Việt – Trung đi đúng hướng
Là mô hình đảng trị với 4 trụ cột căn bản là: kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa; nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xã hội xã hội chủ nghĩa và văn hóa theo bản sắc Trung Quốc.
Tạp Chí Cộng Sản Online, ngày 28-11-2014, vừa qua đã đăng bài “Góp phần tìm hiểu lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc”, bài viết đã giải thích lý do đảng Cộng sản đeo đuổi mô hình như sau:
“…do cả Việt Nam và Trung Quốc đều chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội, đều lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng lý luận.
Ngoài ra, thời gian qua do quan hệ hợp tác và giao lưu giữa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều thuận lợi nên, lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc được các học giả Việt Nam rất quan tâm và về cơ bản những nội dung quan trọng nhất của hệ thống lý luận này được các học giả Việt Nam nắm bắt kịp thời.
Mặt khác, công cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc và đổi mới, mở cửa của Việt Nam gần 30 năm qua có nhiều điểm giống nhau nên nghiên cứu lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc để rút ra những bài học kinh nghiệm, tham khảo cho xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một việc làm cần thiết…”.
Điều lý thú là bài viết lại nhìn ra thực tế:
“… xã hội Trung Quốc hiện nay cũng đang đứng trước vô vàn vấn đề gay gắt với nhiều thách thức và nguy cơ. Đó là sự phân hóa xã hội, sự phân hóa vùng miền, sự ô nhiễm môi trường, sự suy thoái về đạo đức, lối sống, bạo lực xã hội, các hành động cực đoan, chia rẽ, ly khai, sự tham nhũng, cửa quyền, sự bất ổn xã hội, vi phạm dân chủ,… Sự ổn định của kinh tế – xã hội của Trung Quốc hiện nay đang chất chứa trong nó nhiều mâu thuẫn xã hội gay gắt…”
Từ thực trạng xã hội tại Trung Quốc (và Việt Nam) như trên, bài viết đã biểu lộ nghi ngờ và đặt ra nhiều câu hỏi như: “Lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc có thực sự đưa Trung Quốc lên chủ nghĩa xã hội hay không, hay sẽ dẫn dắt Trung Quốc tới đâu?”
Bài viết đã được phổ biến trên Cơ Quan Lý Luận và Chính Trị của Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, lại phổ biến trước Hội Nghị 10 để sửa sọan cho Đại hội XII cho thấy quan điểm xét lại Chủ Nghĩa Xã Hội mang Bản Sắc Trung Quốc đã xuất hiện từ phía bên trên đảng Cộng sản Việt Nam.
Đến ngày 25-12, Ủy viên Bộ chính trị Trung Quốc Du Chính Thanh sang Việt Nam gặp hầu hết giới cầm quyền bao gồm: Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, Lê Hồng Anh và Nguyễn Thiện Nhân.
Tại Đại học Hà Nội, Du Chính Thanh đã chính thức khai trương Viện Khổng tử với một mục đích truyền bá Chủ Nghĩa Xã Hội mang Bản Sắc Trung Quốc, để củng cố và phát triển quan hệ Việt – Trung.
Được Tân Hoa xã phỏng vấn Du Chính Thanh cho biết: “Chuyến thăm của tôi, do Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản và Tổng bí thư Tập Cận Bình yêu cầu, nhằm mục đích nâng cao hiểu biết song phương, xây dựng đồng thuận và thúc đẩy tiến bộ trong các quan hệ Trung – Việt theo đúng hướng.“
… đi Chệch Hướng?
Việt Nam đang muốn ký kết các hiệp định như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Các hiệp định này đòi hỏi Việt Nam phải chuyển đổi để thính hợp với các quốc gia cùng ký kết.
Cụ thể Việt Nam phải xây dựng Nhà nước thượng tôn pháp luật với 4 cột trụ chính là: kinh tế thị trường, chính trị tự do, xã hội dân sự và văn hóa nhân bản tôn trọng con người.
Gần đây giới chức và truyền thông Việt Nam có nói đến các điều kiện để Việt Nam hội nhập với các quốc gia dân chủ, nhưng rất mập mờ khi nói đến mô hình dân chủ tự do. Trong một bài khác người viết sẽ trình bày một cách cụ thể và rõ ràng mô hình này.
Nếu năm 1989, ý kiến ông Trần Xuân Bách được đảng Cộng sản lắng nghe và tôn trọng thì ít nhất Việt Nam cũng đi được một phần của con đường hội nhập. Nhưng vì đi theo Trung Quốc, Việt Nam vẫn chỉ là một bản sao tồi của Chủ Nghĩa (và Mô Hình) Xã Hội mang Bản Sắc Trung Quốc.
Vì thế hiện nay trong nội bộ đảng Cộng sản không phải chỉ xảy ra những tranh giành nhân sự. Mà còn xẩy ra những tranh chấp về tư tưởng và đường lối như vấn đề Biển Đông, đảng hay nhà nước nắm quân đội, tiếp tục theo hay từ bỏ Chủ Nghĩa Xã Hội mang Bản Sắc Trung Quốc…
Kết
Trong guồng máy nhà nước đến Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng mà phải còn buộc miệng than rằng: “… đi mà không rõ đi đâu, bằng cách nào, bao giờ đến…”.
Còn dân vẫn tiếp tục bị bịt miệng. Ba bloggers Hồng Lê Thọ, Nguyễn Quang Lập và Nguyễn ngọc Già vừa bị bắt. Bài cuối cùng ông Nguyễn Quang Lập đăng trên blog Quê Choa là bài: “Vì sao cần cảnh giác với Viện Khổng Tử”.
Không màng đến nguy cơ mất nước, đến thực trạng khủng hỏang tòan diện, đến nguyện vọng của người dân, tương lai Việt Nam vẫn chỉ do một nhóm người hay ngọai bang Trung Quốc quyết định.
Để thóat khỏi Chủ Nghĩa Xã Hội mang Bản Sắc Trung Quốc chỉ còn con đường duy nhất là cả nước phải vùng lên giành lại quyền tự quyết dân tộc.
Nguyễn Quang Duy
Nguồn: DCCT
Đừng nhân danh đảng để vô hiệu hóa quân đội
- Viết bởi Nguyễn Thanh Giang
VRNs (27.12.2014) – Hà Nội – Trung Quốc đã xâm lấn và đang tiếp tục xâm lấn Việt Nam.
Họ đã đoạt Mục Nam Quan, Thác Bản Giốc cùng với hơn một ngàn kilomet vuông biên giới phía bắc, hơn một vạn kilomet vuông Vịnh Bắc Bộ.
Họ đã cướp Hoàng Sa, cướp Gạc Ma và đang xây sân bay trên Đảo Chữ Thập ở Trường Sa của ta.
Họ đã lập thành phố Tam Sa trên Biển Đông của ta.
Họ ngang nhiên đưa hàng vạn tầu thuyền sang đánh cá và thu vét thủy hải sản trên biển của ta.
Họ đã giết hàng vạn chiến sỹ, đồng bào của ta trong chiến tranh biên giới, hàng trăm ngư phủ của ta trên biển của ta.
Không chỉ xâm lấn, nguy cơ xâm lăng của họ cũng rất cao khi họ đã gài được nhiều nội ứng, lập được nhiều đặc khu, nhiều căn cứ địa ở Tây Nguyên, Vũng Áng- Hà Tĩnh, Nghĩa Hưng-Nam Định… Vừa rôi họ còn nhằm cả vào Hải Vân.
Rõ ràng họ rất tham lam và cực kỳ tàn bạo.
Họ đã dùng vũ lực và nhất định sẽ còn dùng vũ lực để hoàn tất cho được ý đồ xâm lăng, thôn tính cho được nước ta trong đế chế Đại Hán của họ.
Trước tình hình nguy cấp ấy, sáng 20.12.2014, trong lễ kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia (Hà Nội), chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đọc diễn văn ra lệnh lực lượng quân đội Việt Nam “sẵn sàng tự vệ, đập tan mọi hành động gây hấn, xâm lược”.
Chủ tịch nói rõ: “Nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn bài học của ông cha ta “Dựng nước đi đôi với giữ nước”, “Giữ nước từ khi nước chưa nguy”, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục khẳng định quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”, “Chúng ta chủ trương từng bước hiện đại hóa quân đội chỉ nhằm duy trì sức mạnh quân sự ở mức cần thiết để tự vệ. Là dân tộc thấu hiểu nỗi đau thương do chiến tranh xâm lược của ngoại bang gây ra, chúng ta triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của các quốc gia khác trên cơ sở nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc, đồng thời đòi hỏi các quốc gia khác cũng phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia dân tộc của Việt Nam”.
Đồng thanh tương ứng, trả lời kiến nghị của cử tri về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, trong buổi tiếp xúc cử tri Hải Phòng ngày 18 tháng 12 vừa qua, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng dõng dạc tuyên bố: “Trong thời đại ngày nay, hội nhập, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, cùng thịnh vượng là nhu cầu tất yếu của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, trong quá trình hợp tác, những mâu thuẫn về lợi ích buộc mỗi quốc gia phải đấu tranh để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, trong đó có những phạm trù hết sức thiêng liêng là độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có được hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi và bền vững. Không thể có bạn kiểu nhà tôi là nhà anh, của tôi là của anh được”,
Thế mà … ! ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng lại tỏ ra rất lạc điệu trong bài huấn thị mới đây cho quân đội.
Lời huấn thị thật quyết liệt: “Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức duy nhất lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam. Sự lãnh đạo quân đội không thể phân chia cho bất kỳ một cá nhân nào, một lực lượng chính trị nào khác”.
Một sự quyết liệt rất hiếm hoi và trái ngược hẳn với thái độ, ngôn từ của ông khi ông nói về họa xâm lăng, về quốc nạn tham nhũng …
Một sự quyết liệt bất thường, chưa từng thấy ở các Tổng Bí thư khác của ĐCSVN.
Người ta ngạc nhiên và không thể không đặt vấn đề nghi vấn về ý đồ và khả năng nhận thức biểu hiện qua bài viết này.
Bài viết của TBT NPT làm bật lên ba câu hỏi lớn:
1 – Ai là người lãnh đạo Quân đội Nhân dân Việt Nam?
Trong một tâm thế bình thường, nếu đã xem như một tất yếu thì chỉ cần nói một cách đĩnh đạc: “Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức duy nhất lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam” là đủ. Sao ông NPT phải thị uy bằng hai chữ “chỉ có”!
Khi ông dằn giọng để nâng cao thêm mức độ thị uy: “không thể phân chia cho bất kỳ cá-nhân-nào”, (cá nhân X, cá nhân S chẳng hạn), thì theo logic tư duy người ta phải hiểu rằng ông đang khẳng định sự lãnh đạo quân đội phải ở trong tay cá-nhân-này, (cá nhân T chẳng hạn).
Ông NPT không đúng, ĐCSVN lãnh đạo QĐNDVN thông qua cả hệ thống chính trị: Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ … chứ đâu chỉ lãnh đạo bằng Quân ủy Trung uơng, càng không phải chỉ bằng TBT.
Trong bài viết của mình, ông Trọng chỉ nhắc đến quyền của Đảng và Nhà Nước. Ông không những không nói đến quyền và trách nhiệm của Chính phủ mà còn chỉ thi: “Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Bộ Quốc phòng, các bộ và cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ và địa phương cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước đối với quân đội.
Hiến pháp vừa sửa đổi chưa ráo mực mà sao lại nẩy sinh cái yêu cầu Điều chỉnh này? Đây là chỉ thị của Trung ương Đảng, của Bộ Chính trị hay cá nhân NPT muốn qua mặt tất cả?
Khi nói: “một lực lượng chính trị nào khác”, NPT muốn ám chỉ lực lượng chính trị nào đây? Trước mắt, không ai nghĩ rằng một trong 21 Tổ chức Xã hôi Dân sự trong nước hay Đảng Việt Tân hoặc Tập hợp Dân chủ Đa nguyên ở nước ngoài có điều kiện nắm quyền lãnh đạo QĐNDVN. Ở đây, phải chăng NPT lo sợ lực lượng chính trị của ông X. ông S.?
2 – QĐNDVN phải trung với Nước hay trung với Đảng?
Để chứng minh luận cứ QĐNDVN là của Đảng và phải trung với Đảng, NPT đã dày công tầm chương trích cú:
“Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên (năm 1930), Đảng chỉ rõ phải nhanh chóng “Tổ chức ra quân đội công nông”. Trong Nghị quyết đội tự vệ (năm 1935), Đảng xác định: “Luôn luôn phải giữ quyền chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong tự vệ thường trực”, “Các đội trưởng và đảng đại biểu phải hợp tác mà chỉ huy”. Trong lãnh đạo xây dựng, phát triển lực lượng cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, Đảng xác định phải làm cho các đội du kích đi đúng “con đường chính trị” của Đảng… Đầu năm 1944, trước yêu cầu thành lập đội quân chủ lực quốc gia, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc căn dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Tổ chức của đội phải lấy chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo“.
NPT rất sai vì đã ngụy biện. Tất cả những văn liệu trên đều xuất hiện trước năm 1945, khi chưa có Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chỉ trong trường hợp ấy, những tổ chức manh nha của QĐNDVN mới thuộc về Đảng.
Ngày nay ai ai cũng đã thừa nhận chân lý: “QĐNDVN từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”. Kẻ rắp tâm tung hô “QĐNDVN từ Đảng mà ra, vì Đảng mà chiếu đấu” chắc chắn không chỉ lú lẫn mà đã tâm thần nặng, cần được tống ngay vào nhà thương điên.
Trong bức trướng đề tặng trường võ bị Trần Quốc Tuấn năm 1946 Hồ Chủ tịch đã viết: “Quân đội ta trung với Nước, hiếu với Dân”. Năm điều Bác dạy thanh niên cũng ghi rõ: “Phải luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng, trung với Nước, hiếu với Dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”
Nhân dịp kỷ niệm 60 năm khai giảng khóa 1 trường võ bị Trần Quốc Tuấn, ngày 1 tháng 5 năm 2006, đại tướng Võ Nguyên Giáp trịnh trọng nhắc lại: “Hãy xứng đáng với 6 chữ vàng “Trung với Nước, hiếu với Dân” Bác Hồ đã trao tặng”.
Ngày 19 tháng 2 năm 2013, tại câu lạc bộ Thăng Long, chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng vẫn còn nói:
“…Tôi cho rằng Đảng ta lập ra quân đội là để bảo vệ Tổ quốc, Nhân dân chứ không phải là lập ra là bảo vệ, trung thành với Đảng, vì vậy quân đội phải trung thành, bảo vệ Tổ quốc, Nhân dân rồi mới đến Đảng, có như vậy mới đúng chứ
Điều 65 Hiến pháp sửa đổi năm 2013 cũng ghi rành rọt “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước”.
Tại sao ông Nguyễn Phú Trọng dám phản bác cả Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cả Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang, cả Hiến pháp?
3 – Mục tiêu và nhiệm vụ cơ bản của QĐNDVN là gì?
Điều 65 Hiến pháp hiện hành của nước ta được ghi đầy đủ như sau:
“Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.
Ông Nguyễn Phú Trọng đã rời bỏ Hiến pháp khi xác định nhiệm vụ quân đội phải “thực sự là lực lượng nòng cốt trong cuộc đấu tranh chống những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước”.
Làm chệch hoặc xóa mờ nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản có nghĩa là làm suy yếu hoặc vô hiệu hóa lực lượng quân đội.
Khi phất cao ngọn cờ vì Dân, vì Nước, vì sự toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải thì người lính sẵn sàng xông tới bởi người ta biết dẫu hy sinh thì sự hy sinh ấy chính là vì cha mẹ, vợ con, đồng bào mình, vì cái nơi “đất đã hóa tâm hồn” của mình. Hy sinh vì Chủ nghĩa Mác Lênin, vì Chủ nghĩa Xã hội, vì Đảng … ư? Toàn những khái niệm không chỉ mơ hồ mà còn chứa đầy ký ức xấu xa. Chủ nghĩa Mác Lênin xui người ta đấu tranh giai cấp rất vô lương trong Cải cách Ruộng đất. Vì Chủ nghĩa Xã hội mà đất nước này trầm luân suốt bao nhiêu năm trong nghèo khổ, tụt hậu. Đảng thì nhan nhản những quan tham, ỷ thế cậy quyền độc tài độc đoán …
Đối tượng cụ thể chủ yếu của QĐNDVN là giặc ngoại xâm đang hiển hiện chứ sao lại là “diễn biến hòa bình”, là “các thế lực thù địch” chung chung mơ hồ như ông Trọng nói. Liệu phe cánh của ông X, ông S có sẽ là thế lực thù địch của ông T không? Giặc ngoại xâm thì dứt khóat là kẻ thù của dân tộc và quân đội có nhiệm vụ tiêu diệt chúng. Trong “Cách mạng Văn hóa” ở Trung Quốc, phe nọ phải lập ra Hồng Vệ binh để tiêu diệt phái kia chứ không được dùng quân đội đâu nhé.
Thái độ gay gắt, hốt hoảng thể hiện qua bài viết đăng trên báo Quân đội Nhân dân ra ngày 18 tháng 12 năm 2014 của TBT Nguyễn Phú Trọng báo động một sự bất an không thể không quan ngại. Mong sao toàn quân, toàn dân hãy dấy lên đây đó những tọa đàm ở mọi nơi, mọi cấp về những nghi vấn sau đây:
- Có hay không hiện tượng tranh giành quyền lực đang bùng phát mạnh mẽ nhân Đai hội sắp tới của ĐCSVN?
- Có hay không mưu đồ làm nhiễu loạn mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản nhằm vô hiệu hóa quân đội, mở đường cho ngoại bang thôn tính nước ta?
- Có hay không những tên nội gián, những quan thái thú đặc biệt nguy hiểm trong tầng lớp lãnh đạo nước ta?
Xin tha thiết khẩn cầu
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 5, ngõ 341 đường Trung Văn
Quận Nam Từ Liêm – Hà Nội
Hotline: 0984 724 165
Nguồn: DCCT
Quân đội – công an theo Tầu bảo vệ Đảng
- Viết bởi Phạm Trần
VRNs (25.12.2014) – Washington DC, USA – Những ngày cuối năm 2014 ở Việt Nam chỉ thấy lan tràn những lời Lãnh đạo nhắc Quân đội và Công an phải tuyệt đối trung thành và chịu lãnh đạo tòan diện của đảng để chống “diễn biến hòa bình”, chống phá “các thế lực thù địch”, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” và ngăn chặn việc “hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước.”
Nhưng cũng có biến chứng lạ dòng chói tai đã hết lời ca tụng sự giúp đỡ của Trung Cộng mà không dám nói đến tội ác của Bắc Kinh đã gây ra cho nhân dân Việt Nam trong 2 cuộc chiến ở biên giới phía Bắc (1979 – 1989) và Tây nam (1978) vào dịp kỷ niệm 70 năm thành lập Quân đội.
Mở đầu cho lệnh “mọi quyền lãnh đạo quân đội luôn thuộc về Đảng” và “chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức duy nhất lãnh đạo Quân đội Nhân dân Việt Nam. Sự lãnh đạo quân đội không thể phân chia cho bất kỳ một cá nhân nào, một lực lượng chính trị nào khác” đến từ Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng ngày 18/12/2014.
Nhưng tại sao ông Trọng lại phải nói ra điều bất thường này vào lúc đảng chuẩn bị Đại hội các cấp Đảng bộ tiến tới Đại hội đảng khóaq XII vào đầu năm 2016 ?
Lý do vì từ 2 năm nay, nhiều thành phần đảng viên, kể cả những lão thành cách mạng, trí thức và cựu Sỹ quan đã gửi Thư và Kiến nghị chỉ trích Lãnh đạo tiếp tục lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin lạc hậu làm nền tảng xây dựng đất nước.
Nhóm 61 Trí thức (trong thư ngày 28 tháng 07 năm 2014), đứng đầu bởi Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, vào Đảng năm 1939, nguyên Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng khóa III, nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc, và 20 Sỹ quan (trong Kiến nghị ngày 02 tháng 09 năm 2014), do Trung tướng Lê Hữu Đức, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham Mưu cầm đầu đã lên án việc Đảng sử dụng Lực lượng võ trang mà Quân đội và Công an là nồng cốt để đàn áp nhân dân đòi công bằng, dân chủ, tự do, chống chủ trương chiếm biển đảo Việt Nam của Trung Cộng nhưng đảng lại lơ là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trước “mưu đồ biến Việt Nam thành “chư hầu kiểu mới” của Bắc Kinh.
Nhóm 61 Trí thức kêu gọi: “ Với trách nhiệm và vị thế của mình, ĐCSVN tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa.”
Trong khi đó 20 cựu Sỹ quan đòi hỏi : “Là người chủ và người bảo vệ đất nước, Nhân dân và lực lượng vũ trang phải được biết chính xác hoàn cảnh thực tế của Quốc gia. Vì vậy, Nhà nước phải báo cáo rõ ràng với Nhân dân về thực trạng quan hệ Việt-Trung và về những ký kết liên quan đến lãnh thổ trên biên giới, biển đảo và các hợp đồng kinh tế ảnh hưởng lớn đến an ninh và chủ quyền của Quốc gia.”
PHẢN ỨNG GAY GẮT
Trước đòi hỏi bất ngờ và quyết liệt của nhiều thành phần có úy tín trong đảng và quân đội, Ban Tuyên giáo Trung ương và Cục chính trị Quân đội đã phối hợp tung ra nhiều bài viết phản bác để bảo vệ quan điểm đảng phải tiếp tục lãnh đạo tòan diện quân đội, công an và tòan xã hội.
Một trong số lập luận gay gắt nhất đã phản ảnh trong bài viết “Cảnh giác với những quan điểm sai trái lợi dụng “Dân chủ, nhân quyền” chống phá cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng” của Tác giả Đại tá, PGS, TS KHQS Trần Nam Chuân, ngày 11/12/2014 trên báo điện tử đảng CSVN.
Ông Chuân viết : “Thời gian gần đây, các thế lực thù địch đã và đang tăng cường chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và quyết liệt. Cùng với các hoạt động phá hoại vào nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Việt Nam, trên các phương diện khác, chúng đặc biệt chú trọng lợi dụng các trang mạng xã hội để tiến công ta.”
Tác gỉa không nêu đích danh nhóm nào nhưng viết tiếp rằng : “ Dưới những chiêu bài “dân chủ, nhân quyền”, một số người tự xưng mình là những người có “sứ mệnh”, một số người tự xưng là “trung thành “ với đảng, đấu tranh cho “dân chủ, nhân quyền” Việt Nam. Vậy thực chất quan điểm chính trị của họ là gì? Họ thường xuyên đăng tải những thông tin sai trái, thù địch, bịa đặt lợi dụng vấn đề “dân chủ, nhân quyền” nhằm nói xấu chế độ, chống phá nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Pháp luật của Nhà nước ở Việt Nam.
Âm mưu và sự chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam, chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của các thế lực thù địch thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình” (DBHB) suy cho cùng hòng làm cho tình hình chính trị ở Việt Nam mất ổn định.”
Để hậu thuẫn cho những cáo buộc không cần bằng chứng của mình, ông Trần Nam Chuân không ngần ngại vẽ ra nhiều âm mưu xấu để “phun nọc độc” vào đội ngũ những người đối lập với Đảng: “Chúng tác động vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một bộ phận nhân dân, với nhiều chiêu bài, như “hỗ trợ kinh phí để thực hiện việc khiếu kiện”; “hỗ trợ nhân đạo kèm theo những điều kiện bắt buộc như tham gia hội, nhóm, tham gia tọa đàm, hội thảo…”; “kích động những người bất mãn với xã hội viết bài xuyên tạc, bôi nhọ cán bộ, công kích cấp ủy, chính quyền địa phương với mức trả thù lao rất cao.”
Nhưng ông này không ngừng ở đây mà còn tìm cách che đậy biến chứng “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá” đang lan rộng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã mất niềm tin vào đảng.
Ông Chuân cho biết : “ Ngoài ra, các thế lực thù địch lợi dụng việc nhận thức hạn chế của một bộ phận nhân dân, kích động, gây bức xúc, hoặc lợi dụng sự bức xúc trong đời sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; dùng các thủ đoạn tác động vào lợi ích trước mắt để mua chuộc lòng tham của con người, hòng đạt tới mục tiêu gây ra sự bất ổn về chính trị, gây sự hoài nghi về vị trí, vai trò, khả năng lãnh đạo xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, từng bước hạ thấp vai trò của Đảng, phủ nhận lịch sử; tiến đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với xã hội, từ đó làm thay đổi chế độ chính trị, nhằm tạo ra cơ hội chính trị và lợi ích cho chính bản thân họ mà không hề mang lại lợi ích gì dù là nhỏ nhất cho tuyệt đại bộ phận các tầng lớp nhân dân trong xã hội.”
Nhưng liệu những lời hù họa này có che dấu được nỗi lo ngại đảng đang gặp khó khăn vì chính ông Chuân đã cảnh giác : “ Các thế lực thù địch cấu kết với bọn phản động trong nước và nước ngoài tăng cường các hoạt động chống phá nước ta bằng chiến lược “DBHB” (diễn biến hòa bình) với những thủ đoạn, hình thức mới hết sức thâm độc, nguy hiểm.”
TƯ TƯỞNG LUNG LAY
Nhưng “diễn biến hòa bình” không phải là chứng bệnh nhập cảng như các dư luận viên của đảng vẫn rêu rao mà nó là căn bệnh phát ra từ trong nội bộ đảng, ngay trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên, quân đội và công an.
Bởi vì Tổng cục Chính trị quân đội đã chỉ đạo tăng cường công tác tư tưởng trong tòan quân vào dịp kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân 22/12.
Một bài viết trên báo Quân đội Nhân dân ngày 16/12/2014 của Trung tướng Mai Quang Phấn , Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị cho biết : “ Trong những năm tới, bên cạnh thuận lợi là cơ bản, tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường, tác động đen xen ảnh hưởng đến tình hình tư tưởng và công tác tư tưởng trong quân đội. Tình hình trên đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu ngày càng cao, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng CTĐ, CTCT (công tác Đảng, công tác chính trị) nói chung, công tác tư tưởng nói riêng.”
Ông Phấn đã lưu ý các đơn vị Quân đội rằng : “Công tác tư tưởng phải luôn giữ vững định hướng chính trị, kiên định Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng; chủ động, nhạy bén, bám sát đặc điểm tình hình nhiệm vụ, diễn biến tư tưởng của bộ đội…Tăng cường giáo dục Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Giáo dục tình hình, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ QS, QP, nhiệm vụ của quân đội, của đơn vị; giáo dục làm rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam.”
Đây chính là lý do tại sao Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đòi đảng phải là lực lượng duy nhất và độc quyền lãnh đạo để bảo vệ chế độ tiếp tục theo Chủ nghĩa Cộng sản.
Nhưng liệu người lính Việt Nam có còn là những con cừu ngây thơ trước tình hình có vẻ như Quân đội cũng đang rạn nứt ?
Tướng Phấn đã hé lộ vết nẻ này khi chỉ đạo phải theo dõi tư tưởng từng người lính. Ông nói: “ Các cơ quan, đơn vị quán triệt và thực hiện tốt nội dung, yêu cầu các khâu, các bước của công tác quản lý tư tưởng ở đơn vị cơ sở, bảo đảm nắm chắc tình hình, diễn biến tư tưởng của bộ đội…toàn quân đẩy mạnh đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng-văn hóa, chủ động, tích cực phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Ông còn ra lệnh cho các đơn vị phải : “Đẩy mạnh đấu tranh tư tưởng-lý luận, phê phán những quan điểm, tư tưởng sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch và các phần tử phản động, cơ hội chính trị, góp phần bảo vệ và phát triển Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tích cực, chủ động phòng ngừa, khắc phục, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong quân đội, lấy phòng ngừa, tự bảo vệ là chính….Kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch nhằm thực hiện “phi chính trị hóa” quân đội, chia rẽ Đảng, Nhà nước với quân đội và nhân dân; kịp thời phát hiện, ngăn chặn các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống…”
GHI CÔNG TRUNG CỘNG
Nhưng tại sao lãnh đạo Đảng và Quân đội lại có những hành động làm nhụt chí chiến đấu của bộ đội khi không dám có hành động tích cực chống lại kế họach chiếm đóng biển đảo Việt Nam của Trung Cộng ở Biển Đông ?
Lập luận của Lãnh đạo là sử dụng các biện pháp hòa bình để đấu tranh với Trung Cộng, nhưng Bắc Kinh đã hành động để chiếm chủ quyền biển đảo ở Hòang Sa và Trường Sa.
Lập trường “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” với Bắc Kinh của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã được Trung Cộng đáp trả bằng hành động mở rộng các bãi đá và đảo chiếm của Việt Nam ở Trường Sa thành các căn cứ quân sự kiên cố, bến cảng và sân bay để chiếm tài nguyên và đe dọa an ninh trực tiếp với Việt Nam.
Càng ngạc nhiên hơn, vào đúng ngày kỷ niệm 70 năm của Quân đội 22/12/2014, báo Quân đội Nhân dân đã đăng bài viết “Dấu ấn sâu đậm của tình hữu nghị Việt – Trung” của Lê Nguyên An để ghi công giúp đỡ của Trung Cộng trong hai cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Tác gỉa Lê Nguyên An mở đầu bài viết như thế này : “Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam đã phát triển từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, từng bước đánh bại kẻ thù xâm lược có sức mạnh hơn mình gấp nhiều lần, viết nên truyền thống “Quyết chiến, quyết thắng”, trở thành Quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng. Có nhiều nhân tố góp phần vào sự lớn mạnh và trưởng thành của QĐND Việt Nam, trong đó sự ủng hộ, giúp đỡ từ Chính phủ, Quân đội và nhân dân Trung Quốc là một dấu ấn quan trọng.”
Viết về vai trò của Trung Cộng trong trận Điện Biên Phủ, Tác gỉa kể : “ Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, với tinh thần và ý chí quyết chiến quyết thắng, sau 56 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”, quân-dân Việt Nam đã giành thắng lợi vang dội. Góp phần vào thắng lợi to lớn đó, nhân dân Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ quý báu của Trung Quốc. Trung Quốc đã chi viện cho chiến dịch 3.600 viên đạn pháo 105mm, là số đạn đi theo 24 khẩu pháo viện trợ đưa về Việt Nam từ cuối năm 1953, chiếm 18% tổng số đạn pháo sử dụng trong chiến dịch. Trong những ngày cuối chiến dịch, Trung Quốc còn giúp thêm một tiểu đoàn ĐKZ 75mm và 12 dàn hỏa tiễn (cachiusa) 6 nòng. Đây là hỏa lực mạnh nhất mà Việt Nam có được lúc bấy giờ và kịp thời tham gia đợt tổng công kích cuối cùng diễn ra chiều 6-5-1954, phát huy tác dụng rất lớn cho trận đánh quyết định ở Điện Biên Phủ.
Ngoài ra, Trung Quốc còn cử đoàn cố vấn quân sự và chính trị sang Việt Nam. Để giữ bí mật, đoàn cố vấn quân sự lấy tên là Đoàn công tác Hoa Nam gồm 79 người do đồng chí Vi Quốc Thanh làm trưởng đoàn. Đây là lần đầu tiên Đảng Cộng sản Trung Quốc cử một đoàn cố vấn quân sự ra nước ngoài. Ngoài đoàn cố vấn quân sự, Trung Quốc còn cử đồng chí Trần Canh (nguyên Phó tư lệnh cánh quân Tây Nam, Tư lệnh Quân khu Vân Nam) cùng một số cán bộ quân sự, trực tiếp làm cố vấn trong một số chiến dịch của QĐND Việt Nam.”
Vậy trong cuộc chiến tranh xâm lăng miền Nam Việt Nam thì Trung Cộng đã giúp bộ đội những gì ?
Lê Nguyên An kể tiếp : “Bước sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, từ cuối năm 1954, đầu năm 1955, ngay khi miền Bắc vừa được giải phóng, nhân dân Việt Nam gặp khó khăn về mọi mặt, Tổng hội Cứu tế Trung Quốc đã kịp thời gửi 10.000 tấn gạo, 5 triệu thước vải cho nhân dân Việt Nam. Đó là nguồn động viên và trực tiếp góp phần giúp nhân dân miền Bắc vượt qua những ngày đầu khó khăn sau giải phóng.
Cùng với sự giúp đỡ về lương thực, phát huy tình đoàn kết trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Trung Quốc đã nhận đào tạo ngắn hạn và dài hạn hàng nghìn học viên Việt Nam tại các cơ sở đào tạo của Trung Quốc. QĐND Việt Nam còn nhận được một khối lượng vũ khí, đạn dược, trang thiết bị kỹ thuật và hậu cần tương đối lớn từ Trung Quốc. Nguồn vũ khí, trang thiết bị chiến tranh đó đã được khẩn trương bổ sung, trang bị cho các đơn vị trong lực lượng vũ trang, góp phần phục vụ trực tiếp công tác huấn luyện và nâng cao sức mạnh sẵn sàng chiến đấu của QĐND Việt Nam.”
Tuy không nói gì đến số 320,000 quân lính Trung Cộng và cố vấn đã tham chiến ở Việt Nam giúp miền Bắc xâm lược Việt Nam Cộng hòa từ 1960 đến 1975, nhưng Lê Nguyên An đã kết luận: “ Sự ủng hộ, giúp đỡ của Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc đối với QĐND Việt Nam đến nay vẫn là dấu ấm sâu đậm của tình hữu nghị Việt-Trung. Đó cũng là tài sản quý giá cần được gìn giữ, phát huy trong giai đoạn cách mạng mới.”
Cũng ngạc nhiên không thấy có bài viết nào ghi ơn Nga và các nước thuộc khối Liên Xô cũ đã giúp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo đuổi chiến tranh ở Nam Việt Nam,Lào và Cao Miên.
Như vậy, viết ra công lao của Trung Cộng nhưng lại cố tình tránh không dám nói đến những thảm họa cực kỳ dã man mà quân Trung Cộng đã gây ra cho nhân dân 6 tỉnh biên giới trong cuộc chiến kéo dài từ 1979 đến 1989, và số lượng vũ khí, đạn dược của Bắc Kinh dành cho quân Khmer đỏ trong chiến tranh chống Việt Nam và tàn sát hàng ngàn dân lành ở biên giới Tây Nam năm 1978 là hành động không có từ nào lên án nhẹ hơn là “khiếp nhược” của báo Quân đội Nhân dân trước tội ác không thể quên được của Bắc Kinh.
Như vậy thì Quân đội CSVN có còn là của dân, do dân và vì dân nữa không, hay đã theo lệnh đảng để nịnh hót Trung Cộng từ lời nói đến hành động ?
Đối với lực lượng “Công an nhân dân” thì có khá hơn trong những ngày tháng cuối năm 2014 ?
Tuy không có những luận điệu gay gắt, cực kỳ bảo thủ nhưng Bộ trưởng Công an, Đại tướng Trần Đại Quang cũng đã công khai kế họach hợp tác chặt chẽ với Quân đội để bảo vệ quyền lãnh đạo của đảng và chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trong bài viết ngày 19/12/2014 nhân kỷ niệm 70 năm Quân đội, Đại tướng Công an Trần Đại Quang nói : “Bước vào thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước, quan hệ phối hợp, hiệp đồng chiến đấu giữa Công an nhân dân và Quân đội nhân dân trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được nâng lên tầm cao mới dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng.”
Tướng Quang còn chỉ thị Công an phải : “Kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn mọi âm mưu, hoạt động phá hoại nội bộ, chia rẽ giữa Công an và Quân đội của các thế lực thù địch, phản động và các phần tử xấu.”
Thượng tướng Đặng Văn Hiếu, Ủy viên Trung ương (UVTW) Đảng, Phó Bí thư Đảng ủy CATW, Thứ trưởng Thường trực còn nói ngày 21/12/2014 : “ Nhiệm vụ công tác công an năm 2015, cần tập trung nắm chắc tình hình, chủ động phòng ngừa, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm, không để xảy ra bạo loạn, khủng bố, hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.”
Đưa ra quyến định như thế thì rõ ràng cả cái lực lượng Công an thường phô trương là bạn dân cũng không còn là của dân nữa.
Như vậy là cả hai lực lượng bảo vệ an ninh nòng cốt của Quốc gia, Quân đội và Công an, đã vượt khỏi tầm tay của nhân dân để biến thành công cụ cho đảng độc tài sử dụng bảo vệ chế độ y hệt như bên Trung Cộng đang làm.
Phạm Trần
Nguồn: DCCT
Công an không cho đoàn thiện nguyện phát quà Noel tại Làng Chài
- Viết bởi Minh Khang
NGHỆ AN - Chính quyền huy động rất nhiều công an giao thông, an ninh mật vụ đến Làng Chài thuộc giáo xứ Phù Long, hạt Cầu Rầm, giáo phận Vinh để ngăn cản các bạn trẻ đến phát quà Noel tại nơi đây.
Dân Làng chài, ở xứ Phù Long, Hưng Long, Hưng Nguyên, Nghệ An hầu hết là người từ Thái Lan, Cam Pu Chia, bị nhà nước lừa về nước bảo sẽ cấp nhà, cấp đất cho ở. Thế nhưng về nước bao nhiêu năm, đến giờ họ vẫn không có 1 mảnh đất để cắm dùi. Cái thuyền lênh đênh trên sông muốn đậu vào bãi đất hoang ven sông cũng bị chính quyền gây khó dễ, bắt đẩy ra sông. Bao nhiêu năm qua (từ 1975) họ sống khốn khổ, bị chính quyền bỏ rơi, cả xóm không ai được học hành, mù chữ, không hề được chính quyền quan tâm đến.
Ngày Noel gần kề, các bạn trẻ tại khu vực Nghệ An đã khuyên góp quần áo ấm cũ, góp tiền mặt từ chính các thành viên và bạn bè gần xa, để lên thăm hỏi và chúc mừng Giáng Sinh tới 25 hộ gia đình sống trên vùng sông nước. Tuy nhiên, khi đoàn đến địa điểm Làng Chài thì bị rất đông lực lực công an, từ giao thông, hình sự, chủ tịch xã,…ngăn cản không cho phát quà cho bà con. Được biết nơi đây là những hộ gia đình được di cư từ Thái Lan về, nhưng hiện tại vẫn chưa có nổi một ngôi nhà để trú thân, gần cả 30 chục năm rồi.
Lý do mà ông chủ tịch xã đưa ra: Chưa đăng kí lên chính quyền nên không được phép phát quà, các bạn trẻ đã tranh luận rất lâu, vì công việc này chính chủ tịch xã khẳng định là tốt và nên khích lệ, nhưng tại sao không cho phát? Sau nhiều lần tranh luận, công an đã dùng lực lượng ngày càng đông để ngăn cản, mặc cho đoàn thiện nguyện nói hết lý hết tình. Văn bản hiện trường để đăng kí phát quà tại đây cũng được nêu lên nhưng cán bộ UBND xã vẫn không đồng ý. Sau đó bắt buộc đoàn thiện nguyện phải về địa điểm nhà xứ để nhờ cha trao quà lại cho bà con. Hai bạn nữ đã khóc trong uất ức vì lần đầu tiên thấy cảnh như thế này sau nhiều lần đi thiện nguyện.
Điều đáng buồn là các chú công an giao thông và theo đó là các công an hình sự bắt ngặt đoàn khi trở về nhà. Họ chỉ bắt xe của chúng tôi để kiểm tra hành chính trong khi chỉ có lệnh bằng mồm. Sau nhiều can thiệp của cha xứ thì chính quyền huyện Hưng Nguyên đã cho chúng tôi đi, nhưng với văn bản nguội.
Đến với người nghèo và trao yêu thương của đồng loại cho nhau là nghĩa cử cao đẹp, tuy nhiên hình ảnh các chú công an ngăn cản không cho phát quà đã đập vào tâm tưởng ba em nhỏ theo đoàn hình ảnh thật xấu và khó quên.
Đừng quên mà hãy nhớ đến các nhà Văn, nhà Báo đang bị bịt miệng, bị tước đoạt tiếng Nói
- Viết bởi Nguyên Hoàng Bảo Việt
VRNs (21.12.2014) – Thụy Sỹ – Tất cả chúng ta đều ý thức và nhận thấy tình trạng không trừng phạt mà còn bao che, dung túng các tội ác chống lại các nhà văn, nhà báo đang tạo ra một mối nguy hiểm to lớn cho Tự do, Dân chủ và Hòa bình. Tại Mễ Tây Cơ, trong tháng Mười Một này, mỗi ngày là một ngày Chết Chóc. Thảm họa mới đây khi một nhóm sinh viên đồng loạt bị mất tích nhắc chúng ta rằng ở Mễ Tây Cơ và ở mọi nơi trên thế giới hôm nay, các nhà văn, nhà báo của chúng ta đều có nguy cơ bị bắt làm con tin.
Chúng ta hãy nhớ tới ngày 15 tháng Mười Một là Ngày Vinh Danh Nhà Văn Bị Cầm Tù, và ngày 23 tháng Mười Một là Ngày Vận Động Chống Nạn Bao Che, Dung Túng Tội Ác. Nhiều nhà văn và nhà báo của chúng ta – những người chuyên chở ước mơ và phiêu lưu – đã bị gây hấn, tra tấn, cầm tù, bị bắt cóc, ám sát hoặc bị đày ải, bắt buộc lưu vong chỉ vì họ đã viết thành văn hoặc cất lên tiếng nói. Ủy Ban Các Nhà Văn Bị Cầm Tù thuộc Văn Bút Quốc Tế đã ghi nhận đến hang trăm trường hợp các nhà văn, nhà báo bị tấn công trong suốt 12 tháng qua.
Hàng trăm người đang là tù nhân trong các trại lao động cưỡng bức (như Việt Nam). Và loại kiểm duyệt tối hậu: giết chết tác giả nào đã gây tỉnh thức xã hội. Có khoảng ba mươi vụ ám sát đã bị phát hiện. Nạn nhân gồm có các nhà văn và nhà báo : Désiré OUÉE (Côte d’Ivoire), Adel Mohsen HUSSEIN, Kawa Ahmed GERMYANI et Samira Saleh AL-NAIMI (Irak), Miguel Ángel GUZMÁN GARDUÑO, Jorge TORRES PALACIOS, Octavio ROJAS HERNÁNDEZ, Abdul Rasool KHATTAK, Irshad MASTOI, Víctor PÉREZ PÉREZ, Jesús Antonio GAMBOA URÍAS et María del Rosario FUENTES RUBIO (Mễ Tây Cơ), Abrar TANOLI, Abdul Rasool KHATTAK, Irshad MASTOI et Nadeem HYDER (Hồi Quốc), Rubylita GARCIA (Phi Luật Tân), Sai REDDY (Ấn Độ), Suon CHAN (Cambodge), Kamol DUANGPHASUK (Thái Lan), Timur KUASHEV (Nga), Vyacheslav VEREMYI (Ukraine), Isaiah Diing Abraham Chan AWUOL (Nam Soudan), Hashem SHAABANI (Ba Tư), Mo’az AL-KHALED (Syrie), Sardar AHMAD et Palwasha Tokhi MERANZAI (Afghanistan), Mayada ASHRAF (Ai Cập), Pablo MEDINA VELÁZQUEZ (Paraguay), Aung Kyaw NAING (Miến Điện), Meftah BOUZID (Libye), Pedro PALM (Ba Tây).
Đánh dấu những biến cố của tháng Mười Một này, Văn Bút Quốc Tế lưu tâm đến 5 trường hợp tiêu biểu cho những sự đàn áp không biên giới : nhà báo và nhà giáo Gao Yu mất tích ngày 23 tháng Tư năm 2014 ở Trung Hoa CS, nhà báo Ouzbèk Azimjon ASKAROV, tù chung thân từ tháng Sáu năm 2010 ở Kirghizistan, nhà thơ và nhà giáo Mahvash SABET, 20 năm tù từ tháng Sáu năm 2010 ở Ba Tư, nhà thơ Dieudonné Enoh Meyomesse, 7 năm tù từ tháng Mười Hai năm 2012 ở Cameroun và nhà văn và nhà giáo Nelson Aguilera, 30 tháng tù giam từ tháng Mười Một năm 2014 ở Paraguay.
Tháng Mười vừa qua, Đại Hội Văn Bút Quốc Tế họp tại Bichkek, thủ đô nước Kirghizistan, đã đồng thanh bày tỏ sự quan ngại sâu xa về tình trạng suy thoái của quyền Tự do Phát biểu và Thể hiện Quan điểm cùng quyền Tự do Ngôn luận ở Nga, Ukraine, Cuba, Mễ Tây Cơ, Trung Hoa, Tây Tạng và Tân Cương (bị thôn tính), Ethiopie, Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Honduras, Syrie, Bắc Hàn, Kirghisistan, Nam Phi, Hoa Kỳ, Azerbaidjan, Erythrée và Việt Nam. Tại nước CS sau chót này, nhiều nhà văn, nhà báo, tác giả nhựt ký điện tử, luật sư và người hoạt động bảo vệ Nhân quyền đã bị kết án tù nặng nề bởi những phiên tòa xét xử không công minh. Đa số những tù nhân có sức khỏe rất kém.
Trong những trường hợp khiến chúng ta quan tâm đặc biệt, có hai nữ tù nhân:
- Bà Hồ Thị Bích Khương là tác giả nhựt ký điện tử và nhà bênh vực nhân quyền. Bà còn là tác giả một hồi ký viết trong tù, nhiều bài thơ châm biếm và bài báo trên mạng. Được đài phát thanh ngoại quốc phỏng vấn, bà chỉ trích những sự lạm dụng quyền lực để áp bức tửng lớp người nông dân nghèo. Bị bắt hồi tháng 12 năm 2010 nhưng mãi đến tháng 12 năm 2011 bà mới bị kết án 5 năm tù giam và 3 năm tù quản chế. Bà từng bị giam cầm hai lần trong năm 2005 và 2007. Bà bị hành hung gây thương tích nghiêm trọng và nhiều lần bị bắt giữ ngắn hạn. Bà bị tra tấn trong nhà giam và bị tù thường phạm hành hung tàn bạo. Trước đó, bà bị những tên gây hấn khác đánh đập, bà bị gãy tay trái trong thời gian giam cứu. Bà Hồ Thị Bích Khương bị biệt giam cho nên sức khỏe của bà rất suy yếu ;
- Bà Tạ Phong Tần là tác giả nhựt ký điện tử có sáng tác phong phú, bà còn là một nhà luật học và hội viên Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do (bị cấm). Bị bắt hồi tháng 9 năm 2011 nhưng mãi đến tháng 9 năm 2012 bà mới bị kết án 10 năm tù giam và 3 năm tù quản chế. Bà là tác giả của hơn 700 bài viết về các vấn đề tham nhũng, lạm dụng quyền lực, tịch thu độc đoán đất của người dân cô thế và ngược đãi trẻ con. Những bài bà viết trên nhựt ký điện tử được đọc nhiều nhứt qua các cơ sở truyền thông quan trọng và trên các đài phát thanh ngoại quốc. Từ năm 2008, bà bị công an sách nhiễu hung bạo và nhiều lần bị bắt giữ ngắn hạn. Ngày 30 tháng 7 năm 2012, bà Mẹ tù nhân Tạ Phong Tần qua đời sau khi tự thiêu để phản đối việc giam cầm bất công con gái của mình. Bà Tạ Phong Tần bị hành hạ, ngược đãi trong trại tù. Sức khỏe của bà rất suy yếu .
Ngoài ra, chế độ Hà Nội đang không ngần ngại sử dụng một cách thức khác: biến các nhà văn, nhà báo bị cầm tù thành món hàng để trao đổi. CS muốn có chữ ký cho phép mua các loại vũ khí chiến tranh bị cấm bán cho họ. Nhà cầm quyền CS thả dần các tù nhân lương tâm bị bệnh tật, một cách nhỏ giọt và buộc các nạn nhân phải đi lưu vong ngay lập tức. Không những thế, các bản án tù giam và tù quản chế của họ không được xóa bỏ mà chỉ bị đình hoản thi hành.
Chúng ta hãy phẫn nộ, hãy biểu tỏ sự đoàn kết với những nhà văn và nhà báo – những con người mang ánh sáng thông tin chống lại bóng tối của bạo lực đe dọa, của bọn đồng lõa và kẻ đớn hèn.
Tất cả chúng ta hãy cùng cất cao tiếng nói, dù có thể nấc nghẹn, thắp lên một ngọn nến, dù mong manh, để xua đi màn đêm băng giá của tính thờ ơ vô cảm, nỗi im lặng sợ hãi và thói đời quên lãng !
Nguyên Hoàng Bảo Việt
Phó chủ tịch Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp thoại
Nguồn: DCCT