Tin Việt Nam
- Viết bởi Lý Thái Hùng
VRNs (16.02.2015) – California, USA – Sự “tố cáo” những sai phạm lẫn nhau giữa Bộ Truyền thông & Thông tin (Bộ 4T) và Hội Người cao tuổi liên quan đến vụ thanh tra “đột xuất’ của Bộ về các bài báo loan tải trên báo Người cao tuổi trong mấy ngày vừa qua, cho thấy là có điều gì không ổn, không chỉ trong việc quản lý ngành thông tin hiện nay, mà còn biểu hiện sự suy thoái, bệ rạc trong bộ máy thống trị của Hà Nội sau 70 năm cầm quyền.
Trong các chế độ độc tài, truyền thông là một vũ khí quan trọng không thua gì bạo lực công an. Nó không chỉ trấn áp đối phương mà còn có khả năng kết tội và làm “bầm dập” cuộc đời của nhiều nạn nhân, trước khi an ninh nhập cuộc. Hình ảnh 800 tờ báo, cơ quan truyền thanh nằm dưới sự chi phối của một tổng biên tập đã nói lên sức mạnh tuyệt đối của Bộ 4T và Ban Tuyên giáo trung ương.
Nhưng các biện pháp nửa vời của Bộ 4T đối với báo Người cao tuổi như rút thẻ báo chí của Tổng biên tập Kim Quốc Hoa, thu hồi tên miền nguoicaotuoi.org.vn; nhưng lại vẫn cho duy trì báo in cho thấy Bộ 4T chưa “dám đụng” đến Hội Người cao tuổi.
Thanh Tra “Đột Xuất”
Trong cuộc họp báo ngày 9/2, ông Trương Minh Tuấn, Thứ trưởng Bộ 4T cho biết vụ thanh tra khởi đầu từ việc Hội Người cao tuổi đề nghị khen thưởng ông Kim Quốc Hoa là Chiến sĩ thi đua toàn quốc, và Ban Thi đua khen thưởng Trung ương vào đầu tháng 11/2014 đã có công văn gửi Bộ 4T, thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương, đề nghị chấp thuận khen thưởng.
Tuy nhiên, theo ông Trương Minh Tuấn thì vì có quá nhiều sai phạm nên Bộ 4T không chấp nhận việc khen thưởng. Sự kiện này đã khiến cho bà đại biểu quốc hội Cù Thị Hậu, chủ tịch Hội người cao tuổi lên tiếng bất bình và yêu cầu Bộ 4T phải chỉ rõ sai phạm.
Chính sự đòi hỏi của Cù Thị Hậu, Bộ 4T đã ra quyết định thành lập Đoàn thanh tra “đột xuất” bắt đầu ngày 7/11/2014 đến ngày 7/2/2015, kéo dài 64 ngày. Theo Đoàn thanh tra Bộ 4T cho biết là trong thời gian 2 năm 2013-2014, Bộ đã nhận rất nhiều thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến nội dung thông tin trên báo in và trang thông tin điện tử của báo Người cao tuổi. Nội dung trong các thư khiếu nại cho rằng báo Người cao tuổi đã thông tin sai sự thật, làm lộ bí mật nhà nước, gây hoang mang dư luận.
Thời gian mà Bộ 4T nói rằng họ nhận nhiều thư khiếu nại, tố cáo chính là lúc mà báo Người cao tuổi bắt đầu phanh phui “biệt thự khủng” của nguyên thanh tra chính phủ Trần Văn Truyền tại Bến Tre vào cuối năm 2013. Liên tục trong nhiều số báo năm 2014, báo Người cao tuổi đã tiếp tục phanh phui tài sản của gia đình ông Trần Văn Truyền gồm những căn biệt thự và nhà đất ở Bến Tre và thành phố Sài Gòn.
Ngoài ra, tờ báo còn kê khai rằng trước khi về hưu, chỉ trong vòng 5 tháng từ tháng 3 đến tháng 8 năm 2011, Trần Văn Truyền đã bổ nhiệm gần 60 cán bộ cấp vụ và tương đương. Đương nhiên khi tin tức này được công bố, ông Truyền đã chối bỏ và lãnh đạo CSVN im lặng.
Trong kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa 13 vào ngày 12/6/2014, một số đại biểu đã chất vấn ông Huỳnh Phong Tranh, Tổng thanh tra chính phủ hiện nay, về vụ việc ông Trần Văn Truyền, người tiền nhiệm của ông Phong, thì ông Tranh nói rằng: “khi còn đương nhiệm, ông Trần Văn Truyền đã kê khai tài sản đầy đủ và không có dấu hiệu thiếu trung thực”. Phát biểu của ông Huỳnh Phong Tranh đã như đổ dầu thêm vào lửa, khiến cho dư luận càng chú ý đến vụ tham ô của Trần Văn Truyền.
Do đó mà ngày 24/7/2014, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã điều động cán bộ đến kiểm tra và xác minh tài sản của ông Trần Văn Truyền. Đoàn thanh tra làm việc kéo dài đến 3 tháng. Đến ngày 20/11/2014, Đoàn kiểm tra đưa ra kết luận thu hồi 6 căn nhà và đất tại Bến Tre và Sài Gòn mà ông Trần Văn Truyền đã chiếm; trong số nhà tịch thu này, không có “căn biệt thự khủng” mà báo Người cao tuổi phanh phui đầu tiên vì Ủy ban kiểm tra cho là của người con trai ông Truyền.
Ngày 6/12/2014, Tỉnh ủy Bến Tre chủ trì cuộc họp kiểm điểm ông Trần Văn Truyền. Đa số thành viên của Tỉnh ủy đều cho là “sai phạm của ông Truyền đã đến mức phải xử lý kỷ luật và báo cáo về Ủy ban kiểm tra trung ương”. Ngày 30/12/2014, Ban bí thư đã ra thông báo về quyết định kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo ông Trần Văn Truyền.
Vụ án “biệt thự khủng” của ông Trần Văn Truyền tưởng như đóng lại từ cuối năm 2014 sau khi Ban bí thư đưa ra kết luận, nhưng thực tế vẫn còn ầm ĩ.
Thứ nhất, những người đứng sau báo Người cao tuổi không hài lòng quyết định kỷ luật “cảnh cáo” của Ban bí thư đối với ông Trần Văn Truyền. Đây là quyết định bao che theo kiểu ‘đánh chuột sợ vỡ bình” của Nguyễn Phú Trọng và coi thường công luận khi đảng giương cao ngọn cờ chống tham nhũng hiện nay.
Thứ hai, những người đang nắm bộ máy đảng thấy khó chịu khi những cán bộ về hưu trong Hội Người cao tuổi đã dùng áp lực của dư luận – qua việc phanh phui các vụ án tham nhũng trên mạng internet – gây thanh thế và làm suy giảm tư thế lãnh đạo thượng tầng.
Chính trong thế trận ầm ĩ đó, Ban bí thư đã phải dùng Bộ 4T để tìm cách đánh sập những người đứng đằng sau báo Người cao tuổi.
Ai Đứng Sau Báo Người Cao Tuổi
Báo Người cao tuổi là cơ quan thông tin của Hội người cao tuổi. Vì thế những thông tin, bài vở trên báo Người cao tuổi nằm trong sự chủ quản của Hội người cao tuổi. Đây không phải là một đoàn thể quần chúng bình thường. Nó là một đoàn thể ngoại vi của đảng CSVN nằm trong Mặt trận tổ quốc và có nhiệm vụ đoàn ngũ hóa những người lớn tuổi. Vì thế mà Hội có trụ sở riêng, có ngân sách riêng và nhất là có đảng ủy riêng để lèo lái các hoạt động của Hội.
Hội người cao tuổi hiện được lãnh đạo bởi chủ tịch là bà Cù Thị Hậu, đại biểu quốc hội, anh hùng lao động và 3 phó chủ tịch là các ông bà Đàm Hữu Đắc, Phạm Thị Sơn, Nguyễn Trọng Vinh cùng với một ban thường vụ gồm có 15 người.
Điểm đặc biệt của Hội người cao tuổi là có một ban chấp hành trung ương rất hùng hậu. Ngoài danh sách các Chủ tịch Hội tại các Tỉnh, Thành trên cả nước, còn có sự tham dự của đại diện của một số đoàn thể lớn nằm trong Mặt trận tổ quốc như Trung tướng Nguyễn Song Phi, Phó Chủ tịch Hội Cựu Chiến Binh Việt Nam; Võ Văn Cận, Hội Cựu Thanh niên xung phong Việt Nam; Lưu Duy Dần, Hiệp Hội Làng nghề Việt Nam; Nguyễn Văn Đắc, Câu lạc bộ hưu trí Bộ Ngoại giao; Vũ Hoan, Hiệp Hội Liên hiệp Khoa học kỹ thuật Việt Nam; Linh mục Phan Khắc Từ, Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam; Võ Văn Trác, Hội Làm vườn Việt Nam; Trần Hữu Thăng, Hội Y học Việt Nam; Lê Thắng, Câu lạc bộ Sĩ quan Bộ Công an; vân, vân….
Ngoài ra Hội người cao tuổi còn là nơi quy tụ những thành phần cựu cán bộ cao cấp từng ở trong đảng, nhà nước, chính phủ tham gia sau khi về hưu. Thành phần “lão thành cách mạng” này không chỉ là những nhân tố giúp cho Hội người cao tuổi có tiếng nói và tư thế lớn đối với các đoàn thể khác, mà còn là nơi “lưu giữ” những thông tin nhạy cảm của các cán bộ cao cấp đã về hưu hay còn tại chức.
Chính nhờ luồng thông tin nhạy cảm và chỗ dựa vững chắc này mà trong 5 năm qua, báo Người cao tuổi đã phanh phui hơn 1500 hồ sơ tham nhũng từ cấp địa phương lên đến cấp trung ương. Nhờ đặc điểm này mà báo Người cao tuổi đã qua mặt nhiều báo khác và có một vị trí đặc biệt trong làng báo Việt Nam hiện nay.
Dùng Áp Lực Bên Ngoài
Những diễn biến nói trên cho thấy là hệ thống quyền lực của đảng CSVN đang có vấn đề rất lớn. Thay vì dùng quyền lực đảng để giải quyết, mỗi bên lại viện dẫn luật pháp để đổ tội sai phạm cho nhau và dùng dư luận bên ngoài để tạo áp lực bên trong.
Bộ 4T đã dùng một số báo chí thân cận loan tải những nội dung bênh vực các lập luận của họ. Ngược lại bà Cù Thị Hậu, ông Kim Quốc Hoa tán phát ba bài chỉ trích những sai phạm của Bộ 4T lên mạng xã hội và kể cả báo in qua hệ thống của Hội ở các Tỉnh, Thành. Bà Cù Thị Hậu còn nhanh chóng lên tiếng phản bác những kết luận sai trái của Bộ 4T, cho rằng đoàn thanh tra có dấu hiệu quy chụp, thiếu dân chủ.
Mấu chốt của những tố cáo “sai phạm” giữa Bộ 4T và báo Người cao tuổi hiện nay chính là vấn đề “xử lý” nạn tham nhũng. Trận chiến này đã được ông Nguyễn Phú Trọng tung ra từ cuối năm 2011 nhằm tấn công phe nhóm Nguyễn Tấn Dũng, nhưng nay đã trở thành vấn nạn cho chính đảng CSVN, vì phe nào cũng nhân danh “chống” và “xử lý” tham nhũng để bôi nhau.
Muốn bôi nhau hiệu quả hầu khuynh loát được quyền lực, các phe đã dùng “dự luận bên ngoài” để “gây áp lực bên trong” vì quá khứ cho thấy là những vụ điều tra, truy tố không mấy hiệu quả do hiện tượng bao che lẫn nhau.
Sự ra đời của những trang Blog Quan Làm Báo và Tư Sang Nham Hiểm vào năm 2012 là đợt mở đầu “dùng dư luận bên ngoài” tấn công bên trong bằng cách tiết lộ một số thông tin nhạy cảm của Nguyễn Tấn Dũng hay Trương Tấn Sang.
Gần đây là sự xuất hiện của Blog Chân Dung Quyền Lực ngay vào lúc chuẩn bị nhân sự cho Đại hội đảng 12 vào cuối năm 2014, phanh phui những tin tức nhạy cảm của gia đình Nguyễn Xuân Phúc, Phùng Quang Thanh, Nguyễn Bá Thanh hay tấn công uy tín của Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang để khuấy động dư luận hầu tạo áp lực bên trong.
Đây không phải là sáng kiến mới lạ mà hầu hết các phe nhóm trong những chế độ độc tài cộng sản đã xử dụng để tấn công lẫn nhau và nhất là để dồn trách nhiệm, trước khi hạ gục một đối thủ nào đó.
Hai năm trước khi sụp đổ vào các năm 1986 và 1987, các phe nhóm trong những chế độ cộng sản tại Ba Lan, Tiệp Khắc, Đông Đức cũng đã tung ra những tin tức tham nhũng, cuộc sống giàu sang, hưởng thụ của một số ủy viên Bộ chính trị qua truyền đơn, bài viết nặc danh để đòi hỏi đảng phải điều tra.
Đương nhiên cấp lãnh đạo thì kết án những loại tin này là độc hại, ra lệnh ngăn chận, tẩy chay; nhưng điều tác hại khó lường của các diễn biến nói trên là nội bộ đảng không còn tin tuyệt đối vào cấp lãnh đạo và bắt đầu đòi hỏi mọi quyết định phải mang ra thảo luận và biểu quyết ở trung ương.
Khi quyền lực tuyệt đối không còn nằm trong tay Tổng bí thư hay Bộ chính trị mà phải chuyển dần sang cho Trung ương đảng với nhiều phe nhóm chi phối, kể cả những thành phần lãnh đạo đã về hưu nhảy vào khuynh loát, sự lãnh đạo và các quyết định của đảng sẽ liên tục bị thay đổi và rơi vào thế lúng túng trước những áp lực đòi chấn chỉnh của người dân, trước khi sụp đổ.
Tại hội nghị 10 của Trung ương đảng vào đầu tháng 1/2015, đảng CSVN đang rơi vào vết mòn của Đông Âu cách nay 28 năm. Đó là lần đầu tiên, Trung ương đảng CSVN bỏ phiếu đề cử 22 thành viên Bộ chính trị và Ban bí thư, cũng như 229 thành viên Trung ương đảng cho nhiệm kỳ 2016-2021 mà không chờ đến đại hội đảng 12 vào tháng 1/2016.
Trước đây trách nhiệm tuyển chọn nhân sự thường nằm trong tay Tổng bí thư đảng và Bộ chính trị. Nay trách nhiệm này rơi vào tay Trung ương đảng cho thấy là hệ thống quyền lực của đảng CSVN thật sự đang rơi vào sự chi phối của nhiều nhóm ảnh hưởng, chứ không còn tập trung trong tay vài thành viên Bộ chính trị.
Chính sự chuyển hóa quyền lực này đã và đang manh nha xuất hiện qua sự đối đầu giữa Bộ 4T và báo Người cao tuổi mà trước đây chưa hề xảy ra. Đây không đơn thuần là sự bất bình về cách làm việc giữa hai cơ quan, mà là sự đối đầu của hai nhóm người quyền lực muốn gia tăng ảnh hưởng bằng cách dùng áp lực bên ngoài để tranh giành thế chủ đạo của mình.
Cuối cùng có thể ông Kim Quốc Hoa sẽ phải rời trách nhiệm Tổng biên tập báo Người cao tuổi để tránh những tổn thương quyền lực của Bộ 4T, nơi mà CSVN đang cố giữ chặt để khống chế dư luận. Nhưng ông Kim Quốc Hoa và khối nhân sự từng nắm những thông tin nhạy cảm trong Hội người cao tuổi sẽ không chịu thua. Đây là lúc nhiều trang Blog phanh phui tham nhũng sẽ xuất hiện để dùng những áp lực bên ngoài thu hẹp dần khả năng kiểm soát của chế độ lên xã hội.
Lý Thái Hùng
Nguồn: DCCT
- Viết bởi Nguyễn Minh Cần Một đảng viên CS phản tỉnh, hiện cư trú tại Nga
VRNs (14.02.2015) – Nhân dịp kỷ niệm 85 năm ngày thành lập đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), chúng tôi thiết nghĩ những đảng viên CS còn có lương tri, còn có lòng yêu nước, thương dân, nên khách quan nhận định lại ĐCSVN mà mình đang có chân trong đó, thực ra nó như thế nào. Những việc nó đã làm trong suốt 85 năm qua như thế nào? Công và tội của nó đối với dân, với nước ra sao? Để từ đó xác định thái độ cần phải có đối với ĐCSVN mà mình đang có chân và đã từng phục vụ. Tất nhiên, chúng tôi không nói chuyện với đám nịnh thần, đám bồi bút cung đình, bọn dư luận viên… những kẻ chỉ biết cúc cung phục vụ cái ác vì chút bỗng lộc được bọn độc tài toàn trị thí cho.
Thiết nghĩ có mấy điều đáng suy nghĩ sau đây:
Điều thứ nhất. Có thể nói không ngoa là rất hiếm có một đảng chính trị nào giống như ĐCSVN, coi sinh mạng con người hết sức rẻ rúng. Xin các bạn cứ ngẫm mà xem! Đọc các chuyện kể của những nhân vật đã từng ở trong ĐCS hay những người đã từng bị ĐCS đày đọa, rồi nhìn kỹ vào thực tế, thì thấy rằng quả là ĐCSVN “giết người như ngóe”. Ai chống Đảng – Đảng diệt! Ai chưa chống Đảng, mà Đảng nghĩ là người đó có thể có ngày sẽ chống Đảng – Đảng cũng diệt! Những người có quan điểm khác với Đảng – nhất là người thuộc các đảng yêu nước không cộng sản – thì Đảng cho “đi mò tôm”, tức là bỏ rọ trôi sông. Ai bị Đảng nghi, ngay cả đối với đảng viên của Đảng – chẳng cần chứng cớ gì hết, chẳng cần điều tra gì hết – Đảng “thịt”. Người nơi khác lơ ngơ đi lạc vào A-Tê-Ka (ATK, an toàn khu) của Đảng – Đảng “thịt” ngay, để giữ bí mật của Đảng. Người cảm tình với Đảng từ nơi xa lần mò tìm đến ATK của Đảng mà không có ai trong ATK chứng nhận – Đảng cũng “thịt”. Thậm chí, trong kháng chiến, người dân có mang vật gì trong người, chẳng hạn, chiếc khăn lau mặt, có ba màu: xanh, trắng, đỏ, Đảng nghi là gián điệp – Đảng “thủ tiêu”. Đã có biết bao nhiêu mạng người đã bỏ xác vì những lý do vớ vẩn như thế! Mà chỉ cần một cái hất đầu, một cái nháy mắt, một ngón tay đưa lên… của cán bộ thôi, chứ không cần phải có bất kỳ giấy tờ, quyết định, chữ ký lôi thôi gì cả – thế là một, hai hay nhiều mạng người “đi toong”! Chính cái đầu óc “coi mạng người như ngóe” đó, mà Đảng nhất quyết bác bỏ “nhân tính”, chỉ thừa nhận “giai cấp tính”, mà nghĩ cho cùng có khi đó lại là “thú tính”. Xin hãy nghĩ mà xem: cái lối giết người bị quy là “địa chủ” trong cải cách ruộng đất (CCRĐ), như chôn sống, hay chôn người đến cổ rồi cho trâu bừa qua nhiều lần cho đến chết, giam người ở chuồng trâu rồi bỏ đói cho chết; cái lối giết người Hoa trong chuyến ĐCSVN đuổi trên 300 nghìn người Hoa về nước, có nơi đã thu vàng bạc của người ta rồi, cho lên tàu xua về nước lại còn cho tàu đuổi theo xả súng giết chết hết hay đục thuyền cho đắm… đến nỗi xác người nằm san sát nhau lềnh bềnh trên sông như củi rều vậy. Như thế gọi là gì? “Giai cấp tính” ư? Rõ ràng là “thú tính”! Và cái lối tàn sát dân lành kiểu này có khác gì lối giết người của bọn phát-xít? Và như vậy, ĐCSVN có khác gì bọn khủng bố quốc tế thuộc các giáo phái cực đoan ngày nay?
Thế nhưng, hễ ai – các nhà trí thức, các đảng viên của Đảng – dám đề cao “nhân tính” thì Đảng liền phê cho là “mất lập trường”, là tư tưởng xét lại, là quan điểm tư sản, phản động, là không có “đảng tính”. Chính vì thế mới xảy biết bao nhiêu vụ oan khiên suốt trong 85 năm tồn tại của ĐCSVN. Nào là các vụ giết hàng trăm lãnh tụ và đảng viên các đảng yêu nước không cộng sản, như Việt Nam Quốc Dân đảng, đảng Đại Việt, v.v… những năm sau khi ĐCS cướp được chính quyền, để không còn ai có thể cạnh tranh quyền lực với Đảng nữa. Ngay cả đối với những người yêu nước cùng ý hệ với Đảng, nhưng khác về đường lối, như những người Trotskistes Việt Nam đã từng một thời hợp tác tốt đẹp với những người CS ở miền Nam, ĐCSVN cũng không tha – phải giết hết! Vì sao? Vì hồi 1937-38, Nguyễn Ái Quốc từng hùa theo Stalin, lu loa chửi bới thậm tệ những người Trotskistes là “một lũ bất lương, những con chó săn của chủ nghĩa phát-xít Nhật và chủ nghĩa phát-xít quốc tế”, “đàn chó Trotskistes”, “những kẻ đầu trâu mặt ngựa”, “những đứa không còn phẩm giá con người, những tên sẵn sàng gây mọi tội ác”, “kẻ thù của nền dân chủ và tiến bộ”, “bọn phản bội và mật thám tồi tệ nhất”, v.v… Những câu, chữ này còn nằm trong ba bức thư Nguyễn Ái Quốc gửi cho Trung ương (TƯ) Đảng (xem Hồ Chí Minh Toàn tập, t.3, tr.97-100). Cho nên những ông Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch, Nguyễn Văn Sổ, Lê Ngọc, Lê Văn Hương, v.v… (hồi năm 1945-46), Nguyễn Văn Linh, Lưu Khánh Thịnh, Liu Jialang (hồi năm 1948) đã bị sát hại thê thảm! Ngay cả những đảng viên CSVN bị nghi ngờ, dù chẳng có chứng cớ gì hết cũng bị giết hại dễ như bỡn: như vụ giết oan mười mấy đảng viên CSVN người Hoa đã từng bị tù đày vì đấu tranh cách mạng Việt Nam (do Lý Ban “chỉ điểm”) và vụ giết oan mấy chục đảng viên CS người Việt (trong vụ H122 do Hoàng Quốc Việt phụ trách). Đó là chưa kể đến các vụ bắt bớ, đày đọa trong trại tù hàng chục nghìn người đã từng làm việc dưới chế độ cũ thời Pháp (có nhiều khi chẳng làm việc gì cho chế độ cũ, như các linh mục, các chánh trương, trùm đạo, các nhà sư Phật giáo…) sau khi ĐCS tiếp nhận miền Bắc (theo nghị quyết số 49/NQ/TVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước VNDCCH do Chủ tịch Trường Chinh ký ngày 20-6-1961), còn sau 30 tháng Tư năm 1975 là vụ đánh lừa gọi đi học ngắn ngày để bắt giam và đày đọa mấy chục năm ròng trong các trại tù trên hai trăm nghìn người đã từng phục vụ dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa (do lệnh gọi đi học của Ủy ban Quân quản). Trong cả hai vụ đó đã có hàng nhiều chục nghìn người phải bỏ xác trong các trại tập trung kiểu phát-xít, mệnh danh là “trại cải tạo”. Đó là chưa kể đến các vụ thảm sát chừng bốn nghìn người thường dân vô tội trong Tết Mậu Thân 1968, vụ bắn trọng pháo ngay trên đường người dân lành chạy lánh nạn ở Quảng Nam – Đà Nẵng hồi 1975… Chính vì phủ nhận “nhân tính”, nên trong kháng chiến đã từng xảy nhiều vụ tung lựu đạn vào xe đò hay đặt bom mìn trên đường ray để nổ tung các đoàn tàu chợ (chở hành khách) giết hại thường dân “vùng địch”.
Đặc biệt cần nói đến vụ Cải cách Ruộng đất (CCRĐ) ở miền Bắc trong những năm 1953-1956 đã tàn sát vô cùng man rợ trên 172 nghìn người dân vô tội, thậm chí giết cả những người đã từng ủng hộ tiền, vàng, thóc gạo, quần áo cho Đảng, đã từng che giấu, nuôi nấng cán bộ của Đảng và quân kháng chiến trong thời kỳ khó khăn nhất. Thậm chí, không ít cán bộ, đảng viên của Đảng từng chiến đấu cho Đảng đã bị vu oan và hành quyết trong CCRĐ. Tài liệu chính thức của ĐCS đã phải thừa nhận là trong số 172 nghìn người bị giết trong CCRĐ thì 70% là những người bị oan! Đây thực sự là một tội diệt chủng, một tội ác đối với nhân loại, một tội ác tày trời đối với Dân tộc và Tổ quốc Việt Nam. Tự cổ chí kim chưa từng xảy ra một tội ác như vậy trên Đất nước Việt Nam này! Tội ác đó không thể nào tha thứ được! Thế mà Hồ Chí Minh và Trường Chinh, những kẻ đã gây nên tội ác đó, vẫn ngụy biện tuyên bố “dù CCRĐ có sai lầm, nhưng thắng lợi vẫn là căn bản”.
Vẫn chưa hết, cuộc phiêu lưu của nhóm cầm quyền thân Mao là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu… hồi đầu thập niên 60 thế kỷ trước, đã phát động cuộc chiến Bắc – Nam, thực chất là cuộc nội chiến, vô cùng tàn khốc trên mười mấy năm trời đã làm cho trên sáu triệu người dân Việt Nam phải bỏ mạng, đem đến cho cả hai miền biết bao đau thương, tang tóc, biết bao thiệt hại về nhân mạng, về của cải vật chất, về tinh thần, đạo đức và tình cảm. Đã thế, Tổng Bí thư (TBT) Lê Duẩn, một trong những kẻ khởi xướng cuộc nội chiến, cuối cùng lại nói: “Chúng ta chiến đấu là để cho Liên Xô, Trung Quốc và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa”. Một câu nói hết sức phũ phàng đối với biết bao hy sinh xương máu của nhân dân Việt Nam!
Việc phát động chiến tranh chứng tỏ nhóm chóp bu ĐCS thân Mao hồi đó coi thường sinh mạng người dân của cả hai miền, coi thường sinh mạng của hàng triệu binh lính, thanh niên xung phong và dân công. Thế nhưng, khi một số cán bộ – mấy ủy viên TƯ Đảng, nhiều cán bộ cao cấp, trung cấp, một số sĩ quan trong quân đội, gồm mấy vị tướng, nhiều sĩ quan cấp tá, ở trong nước và ngoài nước đã phản đối chiến tranh, phản đối đường lối thân Mao của bọn chóp bu CS, thì họ bị quy là “phần tử xét lại chống Đảng”, bị vu khống “làm gián điệp cho nước ngoài” và bị đàn áp ác liệt, bị tù ngục nhiều năm, thậm chí có những cán bộ đã bị chết trong tù.
Chính việc ĐCSVN phủ nhận “nhân tính” đã đem lại hậu quả nguy hại rất nghiêm trọng cho đạo đức xã hội, là ngày nay trong dân gian, người dân học đòi Đảng cũng coi thường tính mạng con người: cái thói độc ác ngày càng phổ biến, chỉ vì một việc cỏn con thôi, người ta sẵn sàng chém giết nhau. Một nhà báo trong nước đã phải kêu lên: “Chưa bao giờ các hành vi vô nhân tính, vô đạo đức trong các mối quan hệ xã hội, kể cả giữa những người thân trong gia đình lại xuất hiện với một tần xuất dày đặc trên báo chí như hiện nay.”
Điều thứ hai. Từ khi ra đời cho đến nay, 85 năm ròng rã, ĐCSVN đã tỏ rõ là một đảng vô cùng gian dối, thường xuyên dối trá, lừa gạt, chẳng những đối với địch, mà cả đối với dân, cả đối với đảng viên của Đảng. Đảng luôn luôn nói dối trắng trợn, nói một đằng, làm một nẻo. Thí dụ thì nhiều vô kể. Chỉ xin đưa ra vài chuyện thôi. Cú lừa gạt đau đớn nhất là đối với “bạn đồng minh gần gũi, thân cận nhất” của Đảng (tầng lớp nông dân) là khẩu hiệu “Người cày có ruộng”. Khi cần lôi kéo nông dân theo Đảng làm cách mạng, ĐCS tung ra khẩu hiệu đó lên, ra rả quanh năm suốt tháng; khi làm CCRĐ, ĐCS vẫn còn hò hét cái khẩu hiệu đó. Nhưng, khi CCRĐ vừa xong, nông dân chưa kịp thụ hưởng gì trên mảnh đất mới được chia, thì ĐCS đã vội lùa họ vào cái gọi là hợp tác xã bậc thấp, rồi nhanh chóng đưa lên bậc cao, lấy ruộng của nông dân cho ban quản trị, thực tế là ĐCS, quản lý; biến nông dân từ người chủ ruộng thành người “làm công ăn điểm” để rồi “Mỗi người làm việc bằng hai/Để cho chủ nhiệm mua đài sắm xe/Mỗi người làm việc bằng ba/Để cho chủ nhiệm xây nhà lát sân” v.v… Vẫn chưa hết, đến năm 1980, sau khi ĐCS đã nắm quyền trên cả nước, Đảng liền thảo Hiến pháp (HP) của cái gọi là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), đưa ra điều 19 HP chuyển quyền tư hữu đất đai (tức là toàn bộ thổ canh thổ cư, nói nôm na là ruộng đất) của nông dân và của nhân dân nói chung sang cái gọi là “sở hữu toàn dân”! Tuyên bổ đất đai là “sở hữu toàn dân”, có nghĩa là ĐCS đã “quốc hữu hóa” đất đai, hay nói chính xác hơn “đảng hữu hóa” ruộng đất của nông dân và nhân dân. Từ đây, quyền tư hữu ruộng đất của người dân hoàn toàn bị xóa bỏ, và ruộng đất bây giờ thực tế nằm trong tay sở hữu của ĐCS là đảng độc tôn thống trị đất nước. Từ đây, ĐCS thực tế đã tự biến mình thành một tên siêu đại địa chủ. Đến những lần sửa đổi HP 1992 và HP 2013, điều khoản về đất đai vẫn giữ nguyên nội dung giống như HP 1980, tức là tước đoạt quyền tư hữu ruộng đất của người dân, nhất là nông dân. Từ nay, nông dân chỉ được Nhà nước chuyên chính vô sản cho quyền sử dụng. Khi nào cần thì Nhà nước chuyên chính sẽ cưỡng chế tước đoạt lại! Và cái lối “quốc hữu hóa”, nói đúng hơn là “đảng hữu hóa” này chỉ có lợi cho đám quan lại CS cầm quyền ở các địa phương. Bọn này tha hồ áp bức nông dân, cưỡng chế cướp đoạt ruộng đất của nông dân, tự biến chúng thành những địa chủ mới, những cường hào đỏ, biến nông dân thành hàng triệu “dân oan” khốn khổ, hàng chục năm trời đi khiếu kiện khắp các cửa quan một cách vô vọng, chịu biết bao tủi nhục, bị đánh đập, thậm chí bị giết thê thảm. Đấy, sự lừa gạt bỉ ổi, khủng khiếp nhất đối với nông dân là như vậy. Cái vết thương đau đớn này trên cơ thể Dân tộc vẫn còn rướm máu mãi.
Một sự lừa gạt trắng trợn nữa là sau khi phát động cuộc nội chiến dưới chiêu bài “giải phóng miền Nam”, để kích động người dân tham gia cuộc chiến, những kẻ gây chiến phải ra sức nói dối, ra sức lừa gạt, nào là người dân ở miền Nam dưới ách Mỹ Diệm bị khốn khổ vô cùng, nào là chế độ miền Nam độc tài, gia đình trị ghê gớm, người dân không có chút tự do, xã hội thối nát, sa đọa, người ta còn dựng lên biết bao chuyện bẩn thỉu, như tổng thống Diệm ngủ cả với em dâu, vợ Ngô Đình Nhu v.v. và v.v… Ngày nay, sự thật như thế nào thì chắc mọi người đã thấy rõ. Ngay trong ngày đầu tiên khi quân miền Bắc mới vào Sài Gòn, nhà văn Dương Thu Hương, lúc bấy giờ là thanh niên xung phong, thấy và hiểu được Sự thật, và chị đã ngồi bên vệ đường khóc ròng!
Còn biết bao chuyện lừa dối, phỉnh gạt khác nữa không thể kể hết. Nào là “Nhà nước công nông”, “nông” thì đã rõ như cái thí dụ vừa kể trên, còn “công” thì đồng lương mà “Nhà nước công nông” trả cho công nhân, viên chức là “đồng lương bóc lột”, “đồng lương chết đói”, thực tế chỉ đủ ăn trong mười ngày. Nào là “chuyên chính vô sản”, thực tế có anh vô sản nào được xơ múi gì ở cái “chuyên chính” đó, chung quy chỉ là một lũ quan tham lại nhũng tham quyền cố vị, thậm chí những tay hoạn lợn, cai cao su, lưu manh đường phố… khoác cái áo “vô sản lưu manh” (từ ngữ của ông Marx) chễm chệ ngồi trong Bộ Chính trị (BCT), làm TBT ĐCSVN, làm Chủ tịch nước, làm bộ trưởng công an để nắm chặt “chuyên chính” mà đè đầu cưỡi cổ “thằng dân”. Nào là “dân làm chủ, cán bộ là đày tớ của dân” – điều này chẳng cần bình luận gì nữa, dân ta đã chế nhạo quá nhiều rồi. Nào là những hứa hẹn huy hoàng trong “Chương trình Việt Minh”: xóa bỏ mọi thứ thuế, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do tín ngưỡng, dân chủ, tự do, hạnh phúc,… nhưng khi ĐCS nắm chính quyền rồi thì tất cả những thứ đó chỉ là những lời nói suông. Nhà báo Trần Đĩnh kể về “nghệ thuật” lừa đảo siêu đẳng của ủy viên BCT Tố Hữu trong việc mua ngôi nhà của bà Lợi Quyền, một nhà tư sản ở Hà Nội đã từng quyên góp nhiều vàng và nhà cửa cho ĐCS. Bà còn lại một ngôi nhà, Ban tuyên huấn TƯ muốn mua; người ta đặt giá thì chê đắt không mua. Đùng một hôm, xe tuyên huấn chở mấy bao tiền đến, đắt mấy cũng mua. Ba ngày sau, đổi tiền! Trần Đĩnh nhận xét rất hay: “Tố Hữu, nguyên Trưởng ban tuyên huấn TƯ đã hạ thời cơ tuyệt hảo chấm dứt cơ nghiệp đại gia tư sản Lợi Quyền có tiếng ở Hà Nội. Bằng giấy lộn. Ai cứ bảo nhà thơ trên gió trên mây.”
Việc ĐCSVN cho công an lập ra những tổ chức “kháng chiến” cuội, “phục quốc” cuội để đánh lừa thanh niên yêu nước ở miền Nam, làm cho hàng nghìn người mắc bẫy để tống họ vào tù. Đó cũng là một tội ác kinh tởm.
Trên đây là những chuyện đối nội, còn về đối ngoại thì không thiếu chuyện ĐCSVN gian dối, lừa gạt trắng trợn dư luận thế giới. Chuyện ông Hồ Chí Minh sang Pháp nói dối như thế nào, nhiều người đã biết. Chẳng hạn, có tờ bảo hỏi thẳng: ông có phải là Cộng sản không? Ông Hồ chối đây đẩy: Không! Trả lời câu hỏi của báo Journal de Genève, ông tuyên bố như đinh đóng cột: “Các bạn của chúng tôi không nên lo chủ nghĩa Mác-xít sẽ du nhập vào đất nước chúng tôi”. Trên báo Le Pays ông cũng đã nói: “Những lý thuyết Mác-xít không thể áp dụng ở nước chúng tôi được”. Còn trong cuộc phỏng vấn ngày 25-6-1946, trả lời đảng viên Xã hội Pháp Daniel Guérin hỏi về cái chết của Tạ Thu Thâu, ông Hồ đã nói như sau: “Ce fut un patriote et nous le pleurons… Mais tous ceux qui ne suivent pas la ligne tracée par moi seront brisés”, tạm dịch: “(Tạ Thu Thâu) là một nhà ái quốc, chúng tôi đau buồn khi hay tin ông mất… Nhưng tất cả những ai không theo con đường tôi đã vạch đều sẽ bị tiêu diệt”. Ông Hồ giả dối làm ra vẻ đau buồn về cái chết của nhà ái quốc Tạ Thu Thâu, trong lúc đó chính ông ta biết quá rõ ai là người ra lệnh giết ông Thâu, và chắc chắn ông ta cũng không thể quên ba bức thư ông gửi cho TƯ những năm 1937–38 chửi bới thâm tệ những ngườiTrotskistes.
Việc ĐCSVN vi phạm Hiệp định Genève 1954, để lại vũ khí, cài lại cán bộ ở trong Nam, vi phạm Hiệp định ngừng bắn năm 1973, hay là những vi phạm thường xuyên các Công ước quốc tế về nhân quyền, về chống tra tấn v.v. và v.v… càng nổi bật sự gian trá quen thuộc của tập đoàn cầm quyền ĐCSVN. Có thể họ biện bạch rằng đứng trên lập trường vô sản, đánh lừa quốc tế, tức là đánh lừa bọn đế quốc, là đúng đường lối giai cấp và chỉ có lợi cho ta thôi. Họ không hề nghĩ rằng làm như thế là có hại cho quốc thể, là tạo thêm nỗi quốc nhục cho Đất nước Việt Nam: đã mang danh tên ăn mày quốc tế vác bị đi xin khắp thế giới lại còn muốn quàng thêm cái danh xưng thằng bạc bịp quốc tế nữa thì thanh danh của Tổ quốc Việt Nam mãi mãi bị chôn vùi dưới ba thước đất, làm sao còn ngẩng mặt lên trước thế giới văn minh được?
Điều thứ ba. ĐCSVN thực tế là một đảng độc tài toàn trị, phản dân chủ. Ngay từ sau khi cướp được chính quyền, để củng cố quyền lực độc tài toàn trị Đảng đã ra sức tiêu diệt mọi đảng phái yêu nước có thể tranh chấp quyền lực với ĐCS hoặc đánh quỵ mọi thành phần có tiềm năng chống đối để bảo đảm cái mà Lenin gọi là гегемония пролетариата, tiếng Pháp là hégémonie du prolétariat, tức là địa vị độc tôn của giai cấp vô sản, thực ra là của ĐCS (Hà Nội dịch là độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản). Để bảo đảm cái địa vị độc tôn đó thì trong tất cả các cơ quan nhà nước – lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong tất cả các cơ quan chuyên môn, như bệnh viện, trường học, bảo tàng, nhà hát, rạp chiếu bóng, v.v…, trong tất cả các đoàn thể xã hội, trong tất cả các cơ quan truyền thông, tất cả các báo chí của Đảng… đều phải do các đảng viên CS nắm giữ địa vị chủ chốt. Dù rằng ở một số bộ và cơ quan nhà nước có thể có người ngoài đảng trên danh nghĩa là bộ trưởng, vụ trưởng, giám đốc, v.v… nhưng đảng viên CS hay đảng đoàn CS những nơi đó vẫn là người có thực quyền quyết định, còn các vị ngoài đảng chỉ “làm vì”. Đó là nguyên tắc bất di bất dịch của Đảng. Đối với các lực lượng có tiềm năng chống đối Đảng, tính ra chỉ còn giới trí thức và giai cấp tư sản thì ĐCS chủ trương phải “cải tạo” họ. Ở nông thôn, từng lớp phú nông đã bị đánh gục trong CCRĐ rồi, nên Đảng không lo. Học theo Trung Cộng, ĐCSVN chủ trương cải tạo trí thức bằng cách “chỉnh huấn”, rập khuôn theo bài bản “chỉnh phong” của Mao Trạch Đông. Trong “chỉnh huấn”, buộc những người trí thức phải tự bộc lộ, tự kiểm điểm, tự xỉ vả những thói hư tật xấu của mình, họ còn phải khai báo về xuất thân của mình, nếu thuộc về những giai cấp gọi là “đối tượng của cách mạng” như địa chủ, tư sản… thì họ phải tố cáo, xỉ vả và căm thù ngay cả bố mẹ, ông bà mình. Tất nhiên, đây là điều sỉ nhục lớn đối với người trí thức biết tự trọng, nhưng nếu anh ta chịu đựng được thì tỏ ra rằng anh ta đã khuất phục giai cấp vô sản, tức là ĐCS, và anh ta sẽ được Đảng sử dụng. Tuy vậy, Đảng vẫn không hoàn toàn tin anh ta, còn những điều anh ta đã bộc lộ với Đảng thì Đảng ghi vào hồ sơ lý lịch và theo dõi anh ta suốt đời. Hơn nữa, dù được Đảng sử dụng, nhưng bao giờ Đảng cũng kỳ thị, phân biệt đối xử với trí thức. Cái đó gọi là “chủ nghĩa thành phần”. Cái “chủ nghĩa” quái gở này áp dụng không chỉ cho cán bộ, nhân viên, sĩ quan và binh lính, mà cả cho học sinh, sinh viên, nhất là khi xét duyệt cho họ vào đại học hay đi nước ngoài. Cái “chủ nghĩa” này đã hủy diệt biết bao tài năng của tuổi trẻ! Giáo sư Tạ Quang Bửu bị thất sủng chính vì đã phản đối cái “chủ nghĩa” này.
Còn nếu người trí thức có thái độ ngang bướng, không phục tùng Đảng, hoặc lời ăn tiếng nói không vừa ý lãnh đạo thì Đảng sẽ mở trận đấu tranh không khoan nhượng. Đó là trường hợp đối với các văn nghệ sĩ, các giáo sư trong vụ án “Nhân Văn-Giai Phẩm” hồi giữa những năm 50 thế kỷ trước. Hậu quả của việc ĐCSVN đánh “Nhân Văn-Giai Phẩm” là cả một nền văn hóa, giáo dục, văn học, nghệ thuật miền Bắc bị lụn bại, méo mó, què quặt trong mấy chục năm ròng, và cả một lớp tinh hoa của dân tộc tiêu biểu cho trí tuệ và sức sáng tạo đã bị đánh gục, bị vùi dập, bị dìm xuống bùn đen trong nỗi sợ triền miên làm cho sự tiết tháo, nhân cách của giới trí thức miền Bắc Việt Nam bị sa sút nặng nề. Đó là một tội ác của ĐCSVN đối với trí tuệ của dân tộc.
Còn việc cải tạo công thương nghiệp, chủ yếu là để tước đoạt (từ ngữ của Marx) phương tiện sản xuất, cơ sở kinh doanh của giai cấp tư sản, lại là một đòn chí tử nữa ĐCS đã giáng xuống những mầm mống đang lên của nền kinh tế non yếu của Đất nước làm cho nó càng thêm suy bại.
Mặc dù ĐCS đã độc quyền thao túng bộ máy cai trị gồm cả chính quyền lẫn các tổ chức và đoàn thể xã hội, đã nắm chắc hệ thống chuyên chính vô sản, nhưng sau những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ, sau những sai lầm và thất bại nặng nề về kinh tế, xã hội, đã làm cho đời sống người dân cực kỳ khó khăn, thua kém rất nhiều so với thời còn dưới chế độ cũ, thì uy tín của ĐCSVN ngày càng sa sút trầm trọng. Vì thế, tập đoàn cầm quyền CSVN thấy cần phải bắt chước ĐCSLX dưới thời trì trệ của TBT Brezhnev đã đưa điều 6 vào HP LX 1977, thì họ cũng đã đưa điều 4 vào HP CHXHCNVN 1980. Và sau này họ vẫn giữ nguyên cả trong HP 1992 và 2013. Đây là âm mưu dùng HP để thể chế hóa sự độc quyền cai trị và địa vị độc tôn của ĐCSVN, siết chặt hơn nữa chế độ độc tài toàn trị của một nhúm nhỏ mấy người trong BCT TƯ Đảng, nhằm chặn đứng con đường dân chủ hóa xã hội, con đường đa nguyên, đa đảng và tam quyền phân lập. Cho nên đòi hỏi của dân chúng, nhất là các nhà trí thức và các chiến sĩ dân chủ phải xóa bỏ điều 4 HP là điều rất hợp lý và rất chính đáng, vì điều 4 chi phối phần lớn những điều khác trong HP, chi phối toàn bộ sinh hoạt của xã hội Việt Nam. Gần đây, Khối 8406 vận động cuộc biểu tình trên mạng đòi xóa bỏ điều 4 HP cũng là một việc làm rất có ý nghĩa.
Cũng nên thấy rằng một khi ĐCS cầm quyền buộc phải ghi điều đó vào HP thì chứng tỏ là chế độ thống trị CS đã rệu rã, rung rinh và có cơ sụp đổ, vì thế tập đoàn thống trị phải dùng điều đó để siết chặt hơn nữa nền thống trị CS. Trước đây, khi mới cầm quyền, dân chúng còn hy vọng, còn tin tưởng vào ĐCS, họ không cần đưa điều đó vào HP mà vẫn chuyên chính được. Bây giờ, hy vọng và tin tưởng đã mất hết, nên điều đó là tối cần thiết cho kẻ thống trị. Cho nên TBT Nguyễn Phú Trọng và các ủy viên BCT khác đều nói: “Bỏ điều 4 HP là tự sát!”. Nhưng đó cũng chính là tiên triệu báo trước sự sụp đổ không xa của chế độ độc tài. Đấy, năm 1977, ĐCSLX đưa điều 6 vào HP thì 13 năm sau, Liên Xô sụp đổ và ĐCSLX tan tành! Vì thế, ngày nay, các quan chức CSVN phải tính chuyện đường dài, họ bắt chước các lãnh tụ CS họ Kim ở Bắc Triều Tiên, hay họ Castro ở Cuba, dần dần cài người thân trong gia đình vào bộ máy lãnh đạo từ tỉnh lên đến TƯ để dùng lối cha truyền con nối mà đảm bảo sự độc quyền thống trị của họ. Còn một cách nữa: chuyện mới xảy ra gần đây thôi. Theo báo Nhân Dân ngày 29-1-2015, tại hội nghị cán bộ do Ban Tổ chức TƯ triệu tập ngày 27-1-2015, ông Tô Huy Rứa, ủy viên BCT, trưởng Ban Tổ chức TƯ đã cho biết cuộc họp Ban Chấp hành TƯ lần thứ 10 vừa qua đã thông qua danh sách gồm 290 ủy viên TƯ chính thức và dự khuyết cho Đại hội XII, và danh sách 22 ủy viên BCT và ủy viên Ban Bí thư (BBT) cho khóa XII. Đây quả là một “sáng kiến tân kỳ”, chưa từng thấy của ĐCSVN: bất chấp Điều lệ Đảng, toàn bộ nhân sự của ĐCSVN khóa XII sắp tới đã được hội nghị TƯ Đảng lần thứ 10 khóa XI, gồm 197 ủy viên TƯ chính thức và dự khuyết khóa XI quyết định xong xuôi. Toàn bộ danh sách các vị ủy viên trong BCT và trong BBT khóa XII cũng quyết định xong. Như thế là hội nghị TƯ lần thứ 10 đã làm thay cho toàn bộ quá trình đại hội từ cơ sở đến Đại hội toàn quốc lần thứ XII cả trong việc ứng cử, lựa chọn, bầu cử các cấp ủy từ dưới lên trên cho đến Ban Chấp hành TƯ, BCT và BBT khóa XII. Tập đoàn thống trị hiện nay cố đấm ăn xôi, quyết bảo đảm cho kỳ được là tập đoàn cầm quyền sắp tới phải theo ý chí của họ. Quả là một sự độc tài, chuyên quyền trắng trợn không thể tưởng tượng nổi.
Điều thứ tư. Hãy nhìn lại trong 85 năm qua, ĐCSVN đã làm được gì cho dân, cho nước.
ĐCSVN rất thích kể công về thời trước. Mà nhiều khi cái “công” đó chưa hẳn là công thật. Đảng thường tự hào là Đảng đã cướp được chính quyền từ tay Nhật, Pháp, về sau gọi đó là Cách mạng tháng Tám. Nhưng lịch sử chứng minh rõ ràng đó là sự dối trá: Việt Minh (tức là ĐCS) đã cướp chính quyền không phải từ tay Nhật, Pháp, mà là từ tay Chính phủ Trần Trọng Kim. Chính phủ Trần Trọng Kim là ai? Thực ra, họ không phải là “chính phủ bù nhìn” cho Nhật như Việt Minh và tờ Cờ Giải Phóng của ĐCS đã vu cáo họ, mà là một chính phủ do vua Bảo Đại lập ra sau khi Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945) gồm nhiều trí thức yêu nước nổi tiếng trong cả nước, chẳng những họ có trí tuệ, có tư tưởng, mà còn có đức hạnh đứng ra gánh vác việc nước vì mục đích giành độc lập thật sự cho Việt Nam. Vì điều kiện phức tạp hồi bấy giờ, Chính phủ đó chỉ tồn tại trong bốn tháng thôi. Nhưng trong thời gian ngắn ngủi đó họ đã làm được nhiều việc lớn: đã cố thu hồi đất Nam Kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp, như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng nhằm giữ được toàn vẹn lãnh thổ; đã tổ chức việc cứu đói cho dân miền Bắc; đã Việt hóa nền giáo dục, và việc này đã có ảnh hưởng lâu dài cho cả những thời kỳ và nhiều thế hệ sau này; đã cải tổ thuế má, tư pháp; đã vận động và tổ chức thanh niên, sinh viên (tổ chức Thanh niên Tiền tiến) đưa thanh nên vào sinh hoạt chính trị, xã hội… Đại diện của Chính phủ Trần Trọng Kim đã năm lần gặp đại diện của Việt Minh (ĐCS) để bày tỏ lòng mong mỏi hợp tác với Việt Minh để cùng lo việc nước, nhưng đại diện của Việt Minh đã khước từ vì chủ trương của ĐCS là: ĐCS phải là đảng cầm quyền, duy nhất cầm quyền.
ĐCS thường kể công và tự hào đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Nhưng cũng có lắm ý kiến bác lại rằng: nếu ĐCS có chính sách mềm dẻo hơn thì chưa chắc đã cần phải đổ máu kháng chiến chống Pháp trong gần 10 năm. Nếu cứ tiếp tục đứng trong Khối Liên hiệp Pháp (theo Hiệp định sơ bộ 6-3-1946) mà đấu tranh thì cuối cùng Pháp cũng phải trả lại độc lập cho ta, giống như các nước thuộc địa khác đã được Pháp trả lại độc lập, chẳng phải tốn máu xương mà còn được độc lập sớm hơn ta nhiều. Đấy, cái “công” đó cũng chưa hẳn là công thật! ĐCS còn tự hào đã lãnh đạo chiến tranh chống Mỹ giải phóng miền Nam. Nhưng cuộc chiến Bắc – Nam, thực chất là cuộc nội chiến, mà những người lãnh đạo thân Mao hồi đó, như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu… đã phát động, do sự xúi giục và mưu đồ của Mao Trạch Đông: “Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ”. ĐCSVN phải chịu trách nhiệm trước Dân tộc về cái tội đã phát động cuộc nội chiến này gây ra biết bao đau thương, tang tóc, tốn biết bao máu xương của Dân tộc: trên sáu triệu người đã bỏ mạng. Cái “công” này không phải là công mà chính là tội, tội ác.
Về đối ngoại, từ chỗ suy tôn “Mao Trạch Đông là Lenin của thời đại ba dòng thác cách mạng Á-Phi-La”, chửi Liên Xô là “xét lại hiện đại”, rồi lại kình địch với Trung Quốc, chửi Mao, tiến hành chiến tranh với Campuchia Pol Pot, chiếm đóng Campuchia, Lê Duẩn và ĐCSVN lại quay ngoắt chạy theo LX, tuyên bố coi LX là Tổ quốc thứ hai (nhưng, thực ra trong nội bộ CSVN vẫn coi LX là “xét lại hiện đại”) cốt để xin viện trợ nhằm tiếp tục chiến tranh, rồi ký kết Hiệp ước Tương Trợ với LX. Đến khi bị Trung Cộng tung 300 nghìn quân đánh một trận trên suốt đường biên giới phía Bắc, ĐCS lại chửi Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp, ghi hẳn điều đó vào HP. Còn khi Liên Xô và các chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Mông Cổ sụp đổ, ĐCSVN bơ vơ, bị cô lập hoàn toàn, thì nhóm chóp bu CSVN là Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng lại muối mặt bay đến Thành Đô (3-4.9.1990) hạ mình khuất phục Trung Cộng, chui đầu vào dây thòng lọng của Trung Cộng. Sau đó, CSVN lại tự nguyện quàng thêm vào đầu “vòng kim cô” “mười sáu chữ vàng” của Giang Trạch Dân ban, mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc mới. Sở dĩ nhóm chóp bu của ĐCSVN phải quy phục như vậy là vì muốn cứu cái chế độ độc tài toàn trị của chúng, cứu cái địa vị thống trị của chúng trên đầu trên cổ người dân. Từ đó đến nay, nhóm cầm đầu ĐCSVN tiếp tục tự biến mình thành những tên “thái thú” nhượng đất, nhượng biển cho TQ; mặc cho Trung Cộng làm mưa làm gió trên Biển Đông, cấm đoán, săn đuổi, đánh chìm tàu thuyền của ngư dân, bắn giết ngư dân; mặc cho Trung Cộng làm sân bay, củng cố công sự trên các đảo Việt Nam đã bị chúng chiếm; mặc cho chúng làm thêm những đảo nhân tạo… Còn trên đất liền thì sao? Bất chấp sự phản đối của các nhà trí thức và nhân dân, ĐCSVN cho Trung Quốc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, nơi xung yếu nhất của Tổ quốc, trên diện tích hàng chục nghìn hec-ta rừng, với hai nhà máy Tân Rai, tỉnh Lâm Đồng và Nhân Cơ, tỉnh Đak-Nông, với hàng nghìn công nhân, lao động Trung Quốc đang chiếm cứ ở đó. Gần 80% các công trình quan trọng trên cả nước Việt Nam đều do Trung Quốc trúng thầu xây dựng. Các tỉnh miền biên giới đã cho Trung Quốc thuê trên 300 nghìn hec-ta rừng đầu nguồn của 18 tỉnh phía Bắc trong 50 năm. Trung Quốc được phép lập nhiều khu dân cư nhiều nơi trên đất Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam bị Trung Quốc lũng đoạn nặng nề. Văn hóa Trung Quốc cũng xâm nhập sâu vào Việt Nam. Viện Khổng tử cũng đã khai trương tại Đại học Việt Nam. Một điều đáng chú ý nữa là gần đây một đoàn cán bộ cao trung cấp của Đảng đã đưa sang đào tạo ở Trung Quốc. Đó là chưa nói tới việc Trung Cộng còn tác động đến quyết định chọn lựa các nhân vật quan trọng trong cơ cấu Việt Nam mà nhiều người đã biết. Như vậy là với đường lối đối ngoại hiện nay, rõ ràng là nhóm cầm quyền trong ĐCSVN đã phản bội lại quyền lợi của Đất nước và Dân tộc Việt Nam.
Về đối nội cần nói rõ rằng, trong lúc khuất phục Trung Cộng thì nhóm cầm quyền ĐCSVN lại ra sức đàn áp những người yêu nước Việt Nam đứng lên đấu tranh đòi Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam; đàn áp các cuộc biểu tình tố cáo và phản đối những vi phạm bờ cõi và biển đảo Việt Nam, phản đối việc đưa giàn khoan dầu vào lãnh hải Việt Nam. Thậm chí việc đồng bào kính viếng các tử sĩ Việt Nam trong cuộc chiến Việt Trung 1979 cũng bị cấm cản, xua đuổi. Bộ mặt phản nước hại dân của nhóm cấm quyền ĐCSVN ngày càng rõ rệt.
Về đối nội, trong 40 năm kể từ khi cuộc chiến tranh Bắc – Nam chấm dứt, một thời gian dài với đường lối phiêu lưu, duy ý chí của tập đoàn Lê Duẩn, Đất nước đã phải trải qua những năm tháng vô cùng khốn khổ, dù Lê Duẩn luôn luôn huênh hoang hứa hẹn mọi điều tốt đẹp. Đến thời “đổi mới” có dễ chịu hơn một chút, kinh tế bắt đầu phát triển, nhưng ban lãnh đạo ĐCSVN vẫn bảo thủ, cứ khư khư giữ chặt địa vị của mình, chỉ đổi mới về kinh tế, mà nhất định không đổi mới về chính trị. Hơn nữa, đổi mới kinh tế mà Đảng lại cứ kiên trì cái phương châm trái khoáy: “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, cho nên dù có những tiến bộ về kinh tế nhưng đà phát triển không mạnh làm cho sự tụt hậu so với các nước láng giềng trong khu vực, như Singapore,Thái Lan, Indonesia, Malaysia, v.v… ngày càng lớn. Phải nói rằng ở Việt Nam chưa bao giờ nạn tham nhũng, cửa quyền trầm trọng và tràn lan như bây giờ. Từ trên xuống dưới hiện tượng tham nhũng rất phổ biến, nó làm cho nền kinh tế phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề, đồng thời làm cho cuộc sống người dân càng thêm khó khăn. Đám cầm quyền luôn miệng nói tham nhũng đã trở thành quốc nạn, làm ra vẻ hò hét chống tham nhũng, dọa sẽ “hốt, hốt hết”, nhưng tham nhũng vẫn không hết mà càng nặng nề thêm. Vì sao? Vì cái chế độ cực quyền toàn trị không cho người dân cất tiếng nói, không cho báo chí được tự do ngôn luận, cho nên cái gọi là quyền lực thứ tư không thể nào phát huy tác dụng. Hơn nữa, dưới chế độ độc tài đảng trị, không có tam quyền phân lập, không có tư pháp độc lập nên không thể trừng phạt được những cán bộ đảng viên tham nhũng nắm giữ các địa vị cao. Biết bao nhiêu vụ bị tố cáo đều đã “chìm xuồng”, mà có nhiều trường hợp các nhà báo dũng cảm tố cáo thì lại vô tù.
Dưới chế độ toàn trị của ĐCS, quyền công dân cũng như quyền con người không hề được tôn trọng, người dân không cảm thấy mình là người chủ của Đất nước, trong lúc đó ĐCS lại o bế công an, cảnh sát, lại sử dụng bọn côn đồ trong việc đàn áp dân lành, biến công an, cảnh sát thành những kiêu binh, tha hồ nhũng nhiễu, hành hạ, đánh đập, tra tấn, thậm chí đánh chết người dân. Số người bị công an đánh chết, bị tật nguyền không phải là ít. Trong khi đó, tệ nạn xã hội, rượu chè, cờ bạc, xì ke ma túy, đĩ điếm lan rộng, chẳng những ở thành thị mà tràn lan đến cả vùng nông thôn. Đạo đức xã hội ngày càng băng hoại đến nỗi tiến sĩ Hà Sĩ Phu đã phải kêu lên: “Hãy nhìn vào thực tiễn xã hội: Có bao giờ người Việt Nam lại thờ ơ trước nguy cơ vong quốc, nguy cơ bị đồng hóa như bây giờ? Có bao giờ sự thờ ơ trước đau khổ của đồng loại, sự đâm chém, băm chặt nhau dễ dàng như cơm bữa, sự nhố nhăng mất gốc, sự phô bày thú tính, sự vênh váo rởm đời, sự hành hạ người yêu nước một cách ngang nhiên, sự nịnh bợ kẻ nội xâm và ngoại xâm… lại được tôn vinh trước thanh thiên bạch nhật như bây giờ? Có bao giờ sự thành thật thua sự giả dối, người lương thiện lại sợ kẻ gian manh, người yêu nước lại bị lép vế, bậc thức giả lại bị cười khinh, công lý lại bị nhạo báng một cách thảm hại như bây giờ?” Đấy, kết quả nhãn tiền của “đạo đức cộng sản” và việc “xây dựng con người mới, xã hội chủ nghĩa” của Hồ Chí Minh và ĐCSVN như thế đó.
Điều thứ năm. ĐCSVN là một đảng rất bảo thủ, thủ cựu, muôn năm vẫn nhìn thế giới, nhìn Đất nước và Dân tộc qua cái lăng kính Marx-Lenin quá cũ kỹ và lệch lạc. Chủ nghĩa Marx-Lenin mà loài người đã vứt vào sọt rác hàng mấy chục năm rồi, dân ở các nước vốn là nôi của chủ nghĩa đó đã vĩnh biệt nó từ lâu rồi, thế mà cho đến ngày nay, từ đại hội Đảng kỳ này qua kỳ khác vẫn lặp đi lặp lại mãi “phải kiên trì chủ nghĩa Marx-Lenin”. Nghe quá nhàm tai đến nỗi dân phải kêu lên “mãi mãi cái loa rè”, “già rồi đâm lú”. Buồn cười nhất là dưới thời TBT Đỗ Mười, ông ta vẫn nhai đi nhai lại “hai phe, bốn mâu thuẫn”, cái công thức từ đời xửa đời xưa CS dùng để nhận định tình hình thế giới. Nhóm cầm quyền trong Đảng cứ khư khư ôm cái cũ, không dám, và cũng không đủ trí tuệ, để nhận ra cái mới, cái năng động của mầm non, cái tương lai, để dám đi những bước sáng tạo. Cái thói quen của họ là bắt chước “hai ông anh”, cứ LX, TQ làm gì thì rập khuôn làm theo. Ban lãnh đạo, nhất là BCT, BBT già cả không có sức sống của tuổi trẻ để vươn tới trí tuệ, văn minh và tiến bộ, nên ĐCS mãi mãi lạc hậu, dù họ vênh vang tự cho mình là “đỉnh cao của trí tuệ loài người”. Nhìn vào thực tế thì thấy rõ ĐCSVN chống lại văn minh và tiến bộ, chống lại chế độ dân chủ đích thực. Thế mà có ai đề xuất cái mới thì BCT đã vội kêu lên “đổi mới, nhưng không được đổi mầu”. Đã thế, nội bộ ban lãnh đạo chóp bu luôn luôn gầm ghè lục đục nhau, cấu xé nhau, và mỗi người đều lợi dụng chức, quyền để trục lợi và tham nhũng!
Chỉ nêu lên năm điểm như thế thôi cũng đủ để mỗi người đảng viên còn có tấm lòng trong sáng vì nước vì dân, có tinh thần tự trọng hãy tự mình lựa chọn: ánh sáng hay bóng đêm, đức hạnh hay tội ác, dân chủ hay độc tài, văn minh, tiến bộ hay dã man, lạc hậu, vì Tổ quốc và Dân tộc hay vì một đảng, thậm chí một nhúm độc tài… Mỗi người sẽ tự hỏi và tự quyết định: có nên tiếp tục ở trong cái ĐCS này nữa không hay rời bỏ nó? Cái đảng khủng bố, gây chiến. Cái đảng phạm tội diệt chủng, phạm tội ác với loài người và với Dân tộc. Cái đảng gian dối, lừa gạt, lật lọng. Cái đảng trong 85 năm qua đã gieo rắc bao đau thương, tang tóc, khổ cực, tủi nhục cho mấy chục triệu con người. Cái đảng đang tham quyền cố vị, bám vào quyền lực để thống trị Dân tộc và Đất nước. Cái đảng đang thuần phục và rước kẻ thù vào nhà.
Ngày nay, ĐCSVN đang là khối u ác tính bám vào cơ thể Dân tộc, cơ thể Đất nước. Nếu không dũng cảm làm một cuộc phẫu thuật để vứt bỏ khối u đó đi mà để nó di căn thì Dân tộc và Đất nước chắc chắn sẽ mất vào tay Trung Cộng đầy tham vọng bành trướng. Lẽ nào người đảng viên còn có tấm lòng trong sáng yêu nước thương dân, có tinh thần tự trọng mà không dám rời bỏ cái đảng tội ác đã phản lại cuộc cách mạng ĐCS từng rêu rao và hứa hẹn?
Chính lúc này là lúc phải quyết định! Rời bỏ cái đảng mang tội ác với dân, với nước này sớm được ngày nào càng tốt ngày đó. Đừng có hy vọng là những kiến nghị hay ho, những đề nghị sáng suốt, những yêu cầu thiết tha của các trí thức, các cán bộ, đảng viên, các lão thành cách mạng, cũng như của nhân dân có thể chuyển hóa được được những cái đầu đã bê-tông hóa của đám cầm quyền vì cái đít của chúng quen ngồi ghế cao bao giờ cũng thích leo cao hơn nữa và bám chắc hơn nữa vào cái ghế của chúng. Đừng có hy vọng đại hội Đảng kỳ tới sẽ có thay đổi gì tốt đâu. Câu nói dân gian khi xem tuồng chèo: “Vô ra vẫn thằng cha lúc nãy!” Đại hội Đảng cũng chỉ là một lớp tuồng chèo, “vô ra vẫn thằng cha lúc nãy” thôi.
Chúng tôi rất thông cảm có nhiều bạn đang phân vân, ngập ngừng, do dự. Đó là điều rất tự nhiên trước một quyết định quan trọng. Nhưng khi đã dám quyết định bước ra khỏi cái đảng độc tài, dối trá, tham nhũng này rồi, thì các bạn sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhõm, thoải mái lạ thường. “Vòng kim cô” trên đầu bạn sẽ biến mất lúc nào không hay. Việc đó sẽ mở ra một chân trời mới để bạn có thể cống hiến sức lực và trí tuệ của mình cho những công việc có ích cho Tổ quốc và Dân tộc. Tin chắc rằng những người dũng cảm, như các anh Nguyễn Chí Đức, Phạm Đình Trọng và nhiều người khác… đã ra khỏi ĐCSVN cảm thấy thấy nhẹ nhàng, rất thoải mái, vì bây giờ các anh đã thực sự là những con người tự do.
6.2.2015
Nguyễn Minh Cần
Một đảng viên CS phản tỉnh, hiện cư trú tại Nga
Nguồn: DCCT
- Viết bởi Lê Thị Công Nhân
Kính gửi: – Công an phường Phương Mai – 34 Phương Mai, Đống Đa Hà Nội;
- Các cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm
Tôi là Lê thị Công Nhân, sinh năm 1979 – nội trợ, hiện sống cùng gia đình tại nhà mẹ tôi tại phòng 316 – A7 khu tập thể VPCP ngõ 4 phố Phương Mai, Đống Đa, Hà Nội. Tôi viết đơn này báo sự việc đồ vật để trước cửa nhà tôi bị đốt cháy một cách mờ ám. Sự việc cụ thể như sau:
Trưa thứ 5 ngày 12-2-2015, tôi cùng con gái ra ngoài mua đồ, chồng tôi đi vắng trước đó, trong nhà chỉ có mẹ tôi (chủ nhà) là Trần thị Lệ (sinh năm 1953 bị tai biến não cách đây 2 năm, di chứng liệt, câm, trí óc giảm sút) và chị Lý thị Phương là người giúp việc trông nom mẹ tôi. Vào khoảng 3 giờ chiều, mẹ tôi và chị Phương ngửi thấy mùi khói cay nồng nặc của đồ vật bị đốt. Nghĩ rằng dịp tết âm lịch nhiều nhà hay đốt đồ hàng mã, nhà tôi ở cuối hành lang nên hút gió, hay bị ảnh hưởng bởi việc đốt hàng mã, nên không nghĩ có gì nghiêm trọng, vẫn ở trong nhà như bình thường và đóng kín cửa.
Khoảng 3 phút sau có tiếp đập cửa mạnh, chị Phương mở cửa thì có hai em sinh viên nhà bên cạnh (phòng 315) báo là “Đồ nhà chị bị cháy kìa.” Chị Phương nhìn ra thấy hai túi ni lông (mỗi túi to bằng cái chậu 40cm), dùng để dành đồ có thể tái chế (gom lại 1 tuần/1 lần bán cho người mua ve chai) để trước cửa nhà tôi khoảng 2m đang bốc cháy. Ngay lập tức chị Phương chạy vào nhà tắm lấy nước ra đổ dập lửa.Vì toàn là giấy báo, hộp bìa, đồ nhựa vụn vặt đã sử dụng, nên dù chỉ vài phút đã cháy tan thành tro. Đồng hồ nước nhà tôi (đặt ngay cạnh túi đồ ve chai) bị hỏng, mặt kính phồng và đục ngầu không nhìn được nữa. Hai cánh cổng vẫn khép kín (vốn không khóa).
4h30 chiều tôi về đến nhà, quan sát xung quanh thì thấy túi nilon đựng ống máy hút bụi, áo mưa và ô treo trước cửa nhà tôi, và nhiều túi đồ ve chai của nhà hàng xóm (phòng 313, 314) sát cạnh vẫn còn nguyên. Tôi báo cho ông Hà Văn Chung là tổ trưởng dân phố (sống dưới tầng 1). Ông Chung lên xem và nhận định: “Đây là hành động phá hoại vì người mua ve chai hay bọn trộm cắp vặt không bao giờ làm thế. Trẻ con khu này khá ngoan cũng không bao giờ nghịch ác như vậy. Nguy hiểm quá, dây điện thế này rất dễ chập cháy. Nó mà cháy to thì lan sang cả dẫy không chừng.”
Gia đình tôi rất lo lắng và phẫn nộ trước sự việc này. Kẻ ác đã quan sát địa thế căn hộ của gia đình tôi ở trên cao cuối hành lang (chỉ rộng 1,2m), có 1 cửa ra vào và cũng là lối thoát duy nhất rộng 80cm. Kẻ ác đã theo dõi rình chúng tôi ra khỏi nhà, trong nhà chỉ còn mẹ tôi là người mắc trọng bệnh, và 1 chị giúp việc hơn 40 tuổi, để hành động.
Chị Phương – người giúp việc trông nom mẹ tôi là người dân tộc Dao ở miền núi Lạng Sơn, là tín hữu Tin Lành – Hội Thánh Tin Lành miền Bắc, do một tín hữu trong Hội Thánh giới thiệu cho chúng tôi. Chị Phương khi dắt mẹ tôi tập đi đã nhiều lần bị công an phường đi theo bảo ra phường khai báo tạm trú. Tôi nói với chị Phương : “Theo quy định thì đó là việc của chủ nhà. Và cái quy định ấy cũng là sai, vi phạm nhân quyền, vi phạm quyền tự do đi lại và cư trú của công dân. Còn việc công an theo dõi dấu vết của tội phạm là việc của công an, chị không phải là tội phạm.”
Sau khi mẹ tôi bị tai biến não và nhà tôi phải thuê người giúp việc trông nom mẹ tôi thì tôi cũng có vài lần ra công an phường để tố cáo việc tôi và gia đình bị hành hung, đe dọa. Những lần ấy công an phường đều có nhắc tôi về việc ra khai báo tạm trú cho người giúp việc, tôi cũng đều trả lời họ là không được đi theo mẹ tôi và người giúp việc như vậy, và tôi hoàn toàn phản đối cái quy định khai báo tạm trú lạc hậu và vi phạm tự do của con người.
Có lẽ, chỉ cần 10ml xăng tạt lên cánh cửa ra vào nhà tôi, rồi vứt 1 que diêm phóng hỏa thì cả nhà tôi sẽ bị nguy hiểm đến tính mạng. Vì nhà tôi ở cuối hành lang rất hút gió, mở cửa ra là gió thốc vào trong nhà, và đó cũng là lối thoát duy nhất của nhà tôi.
Mười năm nay từ khi tôi dám thực hiện quyền tự do ngôn luận của mình, nói lên chính kiến của mình chống lại nền chính trị độc tài cộng sản của Việt Nam và đòi tự do, dân chủ – đa nguyên đa đảng thì tôi và gia đình đã bị cắt 5 số điện thoại cố định, gần 100 số di động, bị bắt bớ, câu lưu, hành hung và đe dọa rất nhiều lần cho đến bây giờ. Tôi không cho rằng sự việc đồ vật bị đốt cháy trước cửa nhà tôi ngày hôm nay là điều ngẫu nhiên. Tôi không dám tưởng tượng điều gì có thể tiếp tục xảy đến, bởi vì ở Việt Nam giờ đây nhà cầm quyền coi người dân như nô lệ – là đối tượng để hành hạ và bóc lột, cho nên sinh mạng con người cũng chỉ là rơm rác.
Hà Nội ngày 12-2-1015
Lê Thị Công Nhân
Nguồn: DCCT
- Viết bởi Caritas Việt Nam
Hòa trong niềm vui của bà con ấp Tân Phú hoàn thành việc xây dựng cây cầu mới, sáng ngày 10/02/2015, Caritas Việt Nam đã đến dự và cắt băng khánh thành cây cầu thuộc tổ Nhân Dân Tự Quản (NDTQ) số 6 tại ấp Tân Phú, xã Tân Mỹ, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Dự buổi lễ khánh thành cây cầu có đại diện của Caritas Việt Nam: Linh mục Vinh Sơn Vũ Ngọc Đồng – Giám đốc Caritas Việt Nam, Sơ Têrêsa Nguyễn Thị Thùy Dương cùng quý sơ và anh chị em thuộc Caritas Việt Nam. Hiện diện tại buổi lễ còn có Cha Giám đốc Caritas Giáo Phận Vĩnh Long – cha Tađêô Phạm Văn Don, sơ Nguyễn Thị Diễm Thúy và cha Phaolo Trương Tấn Lực – chánh xứ Ba Châu.
Về phía chính quyền địa phương, có ông Phạm Văn Tuấn – Chủ tịch xã Tân Mỹ, bà Đặng Thị Hạnh – Phó chủ tịch xã Tân Mỹ, ông Phạm Quốc Thắng – Phó bí thư đảng ủy xã Tân Mỹ, ông Nguyễn Văn Thuận – Cán bộ nông thôn mới xã Tân Mỹ, cùng đông đảo bà con ấp Tân Mỹ.
Bắt đầu buổi lễ, ông Nguyễn Văn Thuận báo cáo quá trình thi công xây cầu. Cây cầu NDTQ số 6 được khởi công xây dựng vào ngày 10/12/2014 và hoàn thành vào ngày 02/02/2015 với sự tài trợ của Caritas Việt Nam và sự đóng góp của nhân dân ấp Tân Phú. Cây cầu có chiều dài 22m, chiều rộng 2m và trọng tải 1,5 tấn, đã nối liền hai bờ kênh thuộc ấp Tân Mỹ.
Trong bài phát biểu của đại diện cho Caritas Việt Nam, Linh mục Vinh Sơn Vũ Ngọc Đồng bày tỏ niềm vui của Caritas khi nhìn thấy một cây cầu mới đã vươn lên từ miền đất Bến Tre với sự góp sức của Caritas Việt Nam cùng với người dân địa phương nơi đây. Cha Vinh Sơn cho biết: “Cây cầu này nối kết hai bờ kênh không chỉ giúp bà con qua lại dễ dàng và an toàn hơn, nhưng nó còn trở thành một biểu tượng đẹp trong sự nối kết tâm hồn con người với con người. Chính nó đã nối kết những con người xa lạ, trước đó chưa hề biết đến nhau, giờ trở nên gần gũi.”
Đây là một trong những hoạt động thể hiện ý nghĩa bản chất của Caritas, bởi Caritas nghĩa là yêu thương, bác ái. Caritas là tổ chức Công Giáo, với chức năng làm cầu nối giữa con người với con người không phân biệt tôn giáo hay sắc tộc. Ngay tại địa phương, Caritas Vĩnh Long tuy mới mẻ và âm thầm nhưng đã có những hoạt động năng động và hữu hiệu.
Kế đến, linh mục Tađêô Phạm Văn Don – Giám đốc Caritas Vĩnh Long cho biết, sau trận bão cách đây 8 năm, Caritas Vĩnh Long đã hỗ trợ bà con quanh đây trồng dừa để khắc phục phần nào khó khăn sau thiên tai; thì nay một cây cầu mới giương lên thể hiện một bước phát triển mới cho địa phương. Cha Tađêô thể hiện mong muốn có thêm nhiều cây cầu khác mọc lên và sự nối kết giữa Caritas Việt Nam, Caritas Vĩnh Long và địa phương luôn phát triển.
Ngay sau đó, chị Đặng Thị Hạnh – Phó chủ tịch xã Tân Mỹ thể hiện sự biết ơn khi được Caritas Việt Nam hỗ trợ địa phương xây dựng chiếc cầu nông thôn nối liền giao thông hai ấp Tân Quí và Tân Phú. Cây cầu giúp xã vơi bớt một phần khó khăn, giúp người dân đi lại dễ dàng và các em học sinh vững bước đến trường. Đây là sự đóng góp thiết thực cho việc triển khai xã nông thôn mới của địa phương. Bởi xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông là một trong những tiêu chí quan trọng nhưng khó thực hiện khi điều kiện kinh tế xã còn khó khăn, thu nhập người dân chưa ổn định và tỷ lệ hộ nghèo cao.
Chị Hạnh cũng chia sẻ chiếc cầu như một “cái duyên” để địa phương được biết đến Caritas: “Caritas Việt Nam là một tổ chức bác ái, từ thiện của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam... đi nhiều nơi trên khắp mọi miền đất nước để giúp đỡ người nghèo, phát huy tình yêu thương bác ái liên đới giữa mọi người trong xã hội, giúp đỡ khẩn cấp khi có thiên tai bệnh dịch.”
Một cây cầu mới được xây dựng tại một miền quê nghèo, đó chính là nhờ những vị ân nhân không quản ngại mở rộng vòng tay chia sẻ và đóng góp để cây cầu được thành hình. Xin Chúa chúc lành và trả công bội hậu cho bao tấm lòng hy sinh, quảng đại cách âm thầm này.
Nguồn: Caritas VN
- Viết bởi Đức Thiện. VRNs
VRNs (12.02.2015) – Sài Gòn – Tòa án tỉnh Đồng Nai vừa kết án bà Lê Thị Phương Anh 12 tháng tù giam, Đỗ Nam Trung 14 tháng tù giam, Phạm Minh Vũ 18 tháng tù giam với tội danh “lợi dụng quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích Nhà nước, tổ chức” trong phiên sơ thẩm diễn ra hôm nay 12/2.
Luật sư Trương Tiến Dũng, người bào chữa cho bị cáo Phương Anh và Nam Trung, cho biết thông tin trên ngay sau khi phiên tòa kết thúc. Ông nói cả 3 người bị ghép vào khoản 1 theo điều 258 Bộ Luật hình sự (BLHS).
Gia đình nhà bất đồng chính kiến Phương Anh cho biết, bà cùng hai nhà hoạt động trên bị bắt hôm 15/5/2014 tại Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, khi đang ‘tìm hiểu thực tế về các vụ biểu tình bạo động’ chống Trung Quốc của công nhân tại khu vực này.
Mức án ‘vừa phải, không nặng, không nhẹ’
Luật sư Dũng cho rằng đây là mức án ‘vừa phải, không nặng, không nhẹ’ so với khung hình phạt 3 năm của khoản 1 điều 258 BLHS.
Vị luật sư bào chữa cho biết thêm, Phạm Minh Vũ bị mức án cao nhất do khẳng định mình chỉ “phản ảnh sự thật xã hội”, trong khi Phương Anh và Nam Trung thừa nhận ‘hành vi vi phạm pháp luật’.
Ông Dũng cũng khẳng định luật sư được ‘tranh luận thoải mái’ trong phiên sơ thẩm hôm 12/2.
Bà Nguyễn Thị Anh Thư, mẹ bà Phương Anh và là người duy nhất trong gia đình được tham dự phiên tòa nói, Phương Anh “yếu dữ lắm… gầy đi mười mấy ký”, và “sáng nay ngất lui ngất tới hai ba lần luôn”.
Với hoàn cảnh gia đình còn 3 con nhỏ, trong đó người con lớn nhất chỉ mới 9 tuổi, bà Thư nói bản án 1 năm tù dành cho Phương Anh ‘nói chung là họ cũng giảm nhiều… Chị Phương Anh cũng nói ‘Mẹ thương con giúp cho mấy cháu đi lên một đoạn nữa’.”
Theo bản kết luận điều tra của Cơ quan An ninh Điều tra tỉnh Đồng Nai, 3 nhà hoạt động đã “lợi dụng quyền tự do dân chủ [theo điều 258 BLHS]… để thu thập hình ảnh, tình hình khiếu kiện, biểu tình trái phép, viết bài vu khống, đăng tin sai sự thật … làm tổn hại đến uy tín, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với đảng CSVN và nhà nước CHXHCNVN.”
Trong khi đó ông Lê Anh Hùng, chồng bà Phương Anh cho rằng, đây là “một bản án bất công, chà đạp lên pháp luật” và nhằm trả thù những tiếng nói bất đồng trong nước.
Luật sư Nguyễn Văn Đài, lãnh đạo Hội Anh em Dân chủ mà bà Phương Anh là thành viên cũng cho biết ông phản đối và cho “đây là bản án hết sức bất công” cho 3 nhà hoạt động.
Ông nói tiếp, “điều luật 258 là một điều luật hết sức mơ hồ, được chính quyền dựng lên để nhằm bóp chẹt tiếng nói của người dân trong nước.”
“Khi công dân thực hiện quyền của mình [tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp và lập hội] mà chính quyền không hài lòng thì chính quyền sẽ sử dụng điều [258 BLHS] này để bắt giữ, truy tố rồi xét xử những công dân như vậy.”
Ông Đài chỉ trích “đây là một điều luật mang tính chính trị chứ không phải là luật pháp.”
Phiên tòa ‘nhạy cảm’
Nhiều người xuống Đồng Nai để tham dự phiên tòa công khai xét xử 3 nhà hoạt động cáo buộc, họ bị lực lượng của giới chức trách ngăn chặn không cho vào tòa với lý do đây là phiên tòa ‘nhạy cảm’.
Tiến sĩ Bác sĩ Đinh Đức Long, một cựu Đảng viên tường thuật, khu vực xung quanh tòa án ở Biên Hòa “dày đặc cảnh sát, an ninh chìm nổi. Họ xâm nhập vào bất cứ chỗ nào có người tụ tập để dòm ngó, nhận diện từng người và chụp ảnh họ.”
Ông cho biết thêm, những người muốn tham dự phiên tòa đều không thể tiếp cận khu vực gần tòa án do bị một lực lượng an ninh ‘chìm nổi’ ngăn chặn, mặc dù đây là một phiên tòa công khai.
Cũng theo vị tiến sĩ, ông cho rằng có nhiều người mặc thường phục là an ninh chìm vì “họ xăm soi tận mặt người khả nghi rồi nhắn tin cho cấp trên xin ý kiến. Xưa nay ở VN các phiên tòa ‘nhậy cảm’ dù tuyên bố là ‘công khai’ nhưng thực tế đàn áp bất cứ ai tham dự ngoài người do họ cử ra.”
Bạch Hồng Quyền, một bạn trẻ đến từ Hà Nội cũng cho biết có nhiều lực lượng an ninh đứng chốt xung quanh tòa án, tuy không bằng phiên tòa phúc thẩm xử bà Bùi Thị Minh Hằng hồi tháng 12/2014.
Trong bản thông cáo hồi tháng 12/2014, tổ chức nhân quyền của Mỹ Human Rights Watch (HRW) cho biết trong năm 2014, chính quyền Việt Nam đã dùng điều 258 BLHS để kết án ít nhất 10 nhà hoạt động nhân quyền và bắt giữ 4 blogger.
Đức Thiện. VRNs
Nguồn: DCCT
- Viết bởi Huyền Trang, VRNs
VRNs (11.02.2015) – Sài Gòn – Trong những ngày Tết cổ truyền VN, ai ai cũng nôn nao mong muốn được đoàn tụ quây quần vui vẻ bên gia đình. Đó cũng là ước mơ nhỏ bé và giản đơn của cô bé Ngô Thị Cẩm Hiếu 11 tuổi, nhưng lại quá tầm tay khi cả cha lẫn mẹ đều là dân oan bị đẩy vào chốn lao tù.
Năm ngoái, Hiếu không được đón tết cùng với cha mẹ. Và, cũng ngót 4 tháng nay, kể từ sau khi phiên tòa phúc thẩm của Dân oan là cha mẹ bé Hiếu (ông Ngô Văn Huynh và bà Nguyễn Thị Tâm) kết thúc vào ngày 10.10.2014, bé Hiếu chưa được nhìn thấy cha mẹ một lần nào.
Bé Hiếu nghẹn ngào ao ước trong những giọt nước mắt lăn tăn trên má: “Từ sau khi phiên tòa phúc thẩm kết thúc, con chưa có một lần nào được gặp ba mẹ. Con mong muốn ba mẹ được thả về trước tết, để ba mẹ và con có thể được đón một cái tết thật là vui. Nếu điều đó không xảy ra thì con cũng mong muốn ba mẹ được thả ra, để về sinh sống với con. Con muốn nói với ba mẹ, mong ba mẹ sớm ra trại để về sinh sống với con, sống với con cho đến già, nghe con kể về chuyện học của con.”
Nỗi cô đơn của đứa trẻ thơ khi thiếu hơi ấm và vắng bóng tình thương của cha mẹ. Bé Hiếu khóc nức nở: “Những lúc ngủ một mình không có ba mẹ bên cạnh thì con rất là buồn, vì thiếu tình yêu thương của ba mẹ. Có rất nhiều đêm con đã khóc, con khóc rất là nhiều. Con càng nghĩ đến ba mẹ thì con càng nhớ đến ba mẹ của con. Tối ba mẹ thường ôm ấp con cho con ngủ. Con nghĩ, những lúc không có con bên cạnh, ba mẹ rất buồn, rất khốn khổ, rất cô đơn.”
Lần cuối cùng gia đình bé Hiếu được đoàn tụ bên nhau lâu nhất chính là trong phiên tòa phúc thẩm, khi ba mẹ đứng trước vành móng ngựa, còn Hiếu đứng khóc nghẹn từng cơn nhưng mạnh mẽ làm chứng cho ba mẹ trước Tòa. Bé Hiếu nói: “Tại phiên tòa, con kể lại vụ việc và nói anh Tư là người chứng kiến những vụ việc ông Tuyên đã gây ra. [Trước tòa], những lời nói của ông Tuyên là sai trái, không đúng. Con yêu cầu Tòa cho anh Tư vào làm chứng, nhưng Tòa đã bác bỏ yêu cầu con đưa ra.”
Cũng chính trong phiên tòa phúc thẩm lần đó, bé Hiếu lo lắng cho sức khỏe của cha mẹ. Bé Hiếu kể: “Sức khỏe ba con rất là yếu và mắt của ba con không còn nhìn rõ nữa. Sức khỏe của mẹ không còn khỏe khi mẹ ở nhà. Lúc đó, con đã nói với bố mẹ phải giữ gìn sức khỏe, không được suy nghĩ lung tung và làm những chuyện dại dột. Bởi vì nghĩ đến những [chuyện của] quá khứ sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của ba mẹ và tâm lý của ba mẹ con. Ba mẹ con nói với con phải học cho thật giỏi, để đòi lại oan cho ba mẹ con.”
Niềm hạnh phúc của gia đình nhỏ bé ấy bị chia ly bắt đầu vào năm 2010, từ một giao dịch dân sự được bảo kê và bao che bởi các cán bộ xã Đường 10, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, là con, anh, em chủ nợ – ông Nguyễn Bá Ngọ, Nguyễn Bá Tuyên… đã xiết nợ gây thiệt hại tài sản, đẩy gia đình bé Hiếu mất đất, trở thành dân oan và ba mẹ phải tù tội. Cụ thể, ông Ngô Văn Huynh bị bắt vào ngày 4.7.2013. Hơn một tháng sau, vào ngày 29.08.2013, công an mời cả mẹ con bà Tâm ra Ủy ban xã làm việc và đọc lệnh bắt bà Tâm tại xã, trước sự chứng kiến ngỡ ngàng của bé gái chưa đầy 10 tuổi thấy mẹ bị còng tay, bị dẫn đi, còn bé được cô Bay- Chủ tịch Hội Phụ nữ xã- chở về nhà hàng xóm. Từ đó, bé Hiếu bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời vạn biến trong một vùng thôn quê nghèo đói xa xôi, nhưng đã được người hàng xóm tốt bụng đỡ nâng. Những kí ức đau buồn và hoảng loạn ấy chắc chắn đã làm tổn thương tâm hồn trẻ thơ và sẽ đi theo suốt cuộc đời bé Hiếu.
Bé Hiếu rơm rướm nước mắt và nhận xét khá sắc sảo so với độ tuổi về vụ án của gia đình mình: “Khi xảy ra vụ việc, điều con sợ nhất đó là ba mẹ con phải đi tù và sẽ không được ở cùng với con nữa. Tại vì nhà ông Tuyên rất giàu có và anh em nhà ông Tuyên đều có quyền lực, họ đã ép gia đình con đến đường cùng, đến nỗi họ làm cho gia đình con mất hết tài sản thì họ có thể làm cho ba mẹ con phải đi tù.”
Sau khi xảy ra vụ việc của gia đình, bé Hiếu đã phải xa cách ba mẹ do mẹ đi khiếu kiện suốt mấy tháng trời mới về nhà một lần. Bé Hiếu kể: “Con không cùng ở với mẹ nữa, mẹ phải đi thưa kiện đòi lại công lý cho gia đình con. Những ngày con đi học thì không ai đưa đón, [nên] con phải ở nhờ nhà hàng xóm, cuối tuần con mới được về nhà với ba. Mẹ con đi mấy tháng mới về một lần. Chỉ có những lúc con được nghỉ hè thì mẹ con mới về thôi. Con vẫn để cho mẹ con đi, để đòi lại công lý cho gia đình con.”
Sự thiếu thốn tình thương càng nghiệt ngã hơn khi cha mẹ Hiếu lâm vào chốn lao tù. Bé Hiếu mếu máo khóc: “Bố mẹ không còn ở với con nữa. Những lúc như vậy, con cảm thấy rất cô đơn, cô đơn vì không được ở cùng với ba mẹ.”
Có thể nói, những gì đã xảy ra là quá sức so với tuổi đời còn thơ dại của bé Hiếu, nhưng vì muốn giải oan cho cha mẹ, nên bé Hiếu phải vươn lên để sống làm người tốt. Bé Hiếu đơn sơ nói: “Lúc đầu tinh thần học của con khá sa sút, nhưng bây giờ con đã học tốt hơn rồi ạ. Tại vì việc của ba mẹ không có tiến triển gì và không biết tình hình của ba mẹ con như thế nào, nên con rất buồn. Các môn học, con học càng ngày càng yếu đi do con buồn. Có người khuyên con ráng sống, để có thể minh oan cho ba mẹ, nên từ đó con đã nghĩ thông suốt và cố gắng học thật giỏi. Mỗi ngày về, con dành hai tiếng làm hết tất cả các bài tập trên lớp và còn làm thêm các bài tập khác. Tối đến con ôn lại bài cũ để sáng mai thầy cô kiểm tra bài. Con quyết tâm học thật giỏi trở thành một luật sư tài giỏi, để có thể minh oan cho những người như ba mẹ con và có thể cứu giúp ba mẹ con thoát khỏi nỗi oan.”
Bé Hiếu cho biết thêm, hàng xóm, thầy cô, bạn bè ở trường biết sự việc gia đình không những đã cảm thông mà còn quý mến em nhiều hơn. Bé Hiếu nói tiếp: “Bạn bè trên lớp rất tốt với con, có rất nhiều người chơi thân, hàng xóm rất quý con. Ở trên lớp, bạn bè rủ con chơi nhảy dây hoặc đá cầu. Thầy cô đối xử rất là tốt, những lúc con gặp khó khăn bạn bè đều chia sẻ những nỗi khó khăn với con. Còn hàng xóm có nhiều người tốt bụng với con, con sang chơi họ làm bánh cho con ăn nữa. Nhà trường đã dành cho con một suất học bổng 1.000.000 VNĐ, bởi vì con là học sinh giỏi và gia đình có hoàn cảnh khó khăn ạ.”
Sự hồn nhiên, vui tươi và hạnh phúc của bé Hiếu được tỏ lộ rõ khi bé trở về căn nhà cũ sau hơn nửa năm xa vắng.
Trên đường vào nhà của mình, Hiếu phải đi qua nhà của ông Tuyên, cha ông Tuyên… những người xiết nợ, mua được đất của gia đình bé Hiếu, và trở thành người bị hại, Hiếu nhìn và chỉ: “Kia là cụm cây đinh lăng của nhà con, đó. Bố ông Tuyên đánh về trồng trước nhà ông ấy!”.
Tại căn nhà có mái tranh rách nát, dụng cụ thô sơ, nghèo nàn, bừa bộn không ai dọn dẹp đã hồi lại tuổi thơ của Hiếu: “Hơn nửa năm nay con mới được trở về căn nhà này, con rất vui vì đây là nơi mà ba mẹ con đã sinh sống. Điều làm con nhớ nhất là những lúc ba mẹ cùng với con ăn cơm. Con thích ở trong này hơn, tuy nhà cách xa trường [khoảng hơn 6 cây số] và xa bạn bè thầy cô vì ở đây đã để lại cho con nhiều kí ức, là nơi sinh sống của ba mẹ con nên con rất thích. Con nghĩ rằng con sẽ không xa căn nhà này.”
Bé Hiếu nhớ lại những lúc cả gia đình quây quần bên nhau: “Lúc đó, gia đình con hạnh phúc đầm ấm. Buổi sáng ba thức dậy sớm nấu cơm cho hai mẹ con ăn. Những ngày con được nghỉ học, con ở nhà tự làm việc nhà, có khi con xuống rẫy phụ giúp ba mẹ rất là vui. Con đi quét lá điều, tưới cà phê… Nhà xa thì mẹ đưa con đi học. Buổi sáng khoảng 6 giờ 30, mẹ chở con đến trường học. Học xong đến trưa con về nhà cô giáo ăn cơm, rồi nghỉ trưa, đến chiều học tiếp. Khoảng 4 – 5 giờ chiều là mẹ chở con về nhà. Buổi tối được ăn cơm cùng với ba mẹ là điều con thích nhất. Những lúc đi làm cùng ba với mẹ là con vui nhất, lúc đó ba dạy con rất nhiều điều để biết cách làm vườn.”
Lục lọi nơi bàn học đã mục nát do mối mọt, bé Hiếu chỉ lấy ra hai cuốn sách Luật Tổ chức Tòa án và Luật Thi hành án dân sự, và hai cặp kính cũ của ba mẹ đã cũ mèn. Bé Hiếu cho hay: “Đây là hai cuốn sách luật, con lấy hai sách này để đọc và tìm hiểu thêm về luật. Mẹ của con đã mua hai cuốn sách này, mẹ mua về để cho con đọc thêm. Mẹ mua từ năm con học lớp 4.”
Thời điểm Hiếu học lớp 4 chính là lúc mái ấm gia đình nhỏ bé của Hiếu bị chia rẽ mỗi người một nơi và Hiếu bắt đầu rong ruổi trên những bước chân nhỏ, chập chững trong hành trình kêu oan cho cha mẹ.
Được biết, trong phiên tòa sơ thẩm vào ngày 25.02.2013, Tòa án TAND huyện Bù Đăng tuyên ông Ngô Văn Huynh và bà Nguyễn Thị Tâm mỗi người 5 năm 6 tháng tù giam, với tội danh “cố ý gây thương tích” theo Điều 114 BLHS. Tuy nhiên, trong phiên tòa phúc thẩm vào ngày 10.10.2014, Tòa đã tuyên hủy án sơ thẩm để điều tra xét xử lại, vì các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã điều tra không đầy đủ, chưa xem xét, xác định nhiều tình tiết, chứng cứ quan trọng của vụ án, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, vi phạm trong thu thập, bảo quản vật chứng, cùng lúc có 2 quyết định khởi tố bà Tâm, chưa làm rõ nhiều tài liệu, chứng cứ mâu thuẫn, không triệu tập nhân chứng… Ông Nguyễn Bá Tuyên –bị hại có nhiều lời khai mâu thuẫn, thiếu trung thực… Nhưng không hiểu vì lý do gì, đến nay cha mẹ bé Hiếu vẫn không được tại ngoại.
Mãi gần hơn 4 tháng, vào ngày 28.01, công an tỉnh Bình Phước mời bé Hiếu lên lấy lời khai và đối chất với ông Nguyễn Bá Tuyên –bị hại. Bé Hiếu kể: “Buổi sáng họ mời con lên lấy lời khai. Họ yêu cầu con kể lại diễn biến sự việc. Họ hỏi con thương tích của con đã khỏi hay chưa và có cần đi giám định lại hay không. Ban chiều, con đối chất với ông Tuyên. Công an hỏi ông Tuyên thì ông ấy đưa ra những lời khai sai trái, ông Tuyên chối là không hề đánh gia đình con, không cầm cây nữa. Đó là những lời khai sai sự thật. Ông ấy nói sai sự thật để bao che cho hành động mà ông đã làm.”
Thiết nghĩ, vụ việc của gia đình bé Hiếu là một vụ án nhỏ nhưng gây ra hậu quả lớn và nghiêm trọng, làm tan nát cả một gia đình, khiến đứa bẻ chỉ mới 11 tuổi phải bơ vơ, không nhà không cửa, không có người chăm sóc. Trong khi đó, cả hai ông bà đều lớn tuổi, không còn sức khỏe và không đủ khả năng gọi là gây khó khăn cho việc điều tra, hoặc không thể tiếp tục phạm tội được nữa. Do đó, vì nhân đạo đối với bé Hiếu cần thiết phải cho ông Huynh hoặc bà Tâm tại ngoại để nuôi dưỡng và dưỡng dục bé Hiếu. Đặc biệt, trong phiên tòa phúc thẩm, nói lời cuối cùng trước khi Tòa nghị án, ông Huynh – với hy vọng mong manh, có một người về lo cho bé Hiếu- đã nhận hết tất cả các tội về ông và xin Tòa cho ông đi tù thay cho vợ ông, vì ông mong muốn bà Tâm được trở về chăm sóc bé Hiếu. Còn một người dân phát biểu : “Tôi biết, tụi nó lấy đất của gia đình này, nó ghét và trừng phạt ông bà này vì đi khiếu kiện. Nhiều người biết, nhưng không ai dám lên tiếng”.
Không biết, Tết nào dành cho bé Hiếu trong năm Ất Mùi này?
Huyền Trang, VRNs
Nguồn: DCCT
- Viết bởi Lm. Nguyễn Văn Thành
Chỉ còn ít ngày nữa là hoa đào hoa mai nở rộ trên khắp quê hương yêu dấu, báo hiệu mùa xuân ấm áp đã đến nhưng cái rét vẫn còn đeo bám vùng Tây Bắc cho tới bây giờ. Các em học sinh các trường tiểu học vùng núi này vẫn phải chịu cảnh nghiệt ngã của mùa đông. Những hạt mưa lăn tăn đến từ dãy núi Hoàng Liên Sơn hùng vĩ càng làm cho dư âm của mùa đông còn đọng lại nơi bản làng nhiều hơn.
Cảm thương với những hoàn cảnh khó khăn về đời sống kinh tế, về điều kiện để khắc phục thời tiết khắc nghiệt, ngày 28/01/2015 giáo xứ Lào Cai tổ chức đi làm việc bác ái cho các trường Mầm non và Tiểu học tại các điểm dọc theo quốc lộ 70 thuộc huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Món quà chúng tôi chia sẻ với các em học sinh dân tộc nghèo là 400 chiếc áo ấm.
Lần này, chúng tôi đến chia sẻ với các em học sinh nghèo thuộc 4 trường: Trường Tiểu học Bản Phiệt, xã Bản Phiệt; Trường Mầm non và Tiểu học thôn Vi Mã Trên, thị trấn Phong Hải; Trường Tiểu học Phong Hải, thị trấn Phong Hải; Trường Tiểu học và Trung học Cơ sở Phong Niên. Tất cả những trường dành cho người dân tộc này đều nằm trong huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.
Một điều đáng chú ý là sự phối hợp cách nhịp nhàng giữa giáo xứ Lào Cai và chính quyền huyện Bảo Thắng trong việc làm bác ái. Cả hai đều muốn làm cho các em bớt lạnh nhân dịp xuân về.
Tham gia trực tiếp vào chương trình “Món Quà Mùa Xuân” gồm:
Về phía giáo xứ Lào Cai có:
- Cha Giuse Nguyễn Văn Thành, quản xứ Lào Cai;
- Cha Giuse Vũ Văn Nguyên, phó xứ Lào Cai, đặc trách giáo xứ Phố Lu (Gx Phố Lu thuộc huyện Bảo Thắng);
- Cha Phêrô Nguyễn Đình Thái, phó xứ Lào Cai;
- Quý Ban hành giáo xứ Lào Cai và Phố Lu;
- Các bạn giới trẻ giáo xứ Lào Cai;
- Và đại diện các gia đình tài trợ cho chương trình “Món Quà Mùa Xuân” này.
Về phía chính quyền có:
- Ông phó phòng Nội Vụ huyện Bảo Thắng;
- Đại diện phòng Giáo Dục huyện Bảo Thắng;
- Chủ tịch các xã và các ban ngành có trường ở đó.
Theo chương trình, 8g00 chúng tôi xuất phát từ nhà xứ Lào Cai thuộc phường Cốc Lếu, thành phố Lào Cai để đến trường Tiểu học Bản Phiệt, cách khoảng 15km nhưng đường đèo khó đi. Cả trường có 245 em nhưng nhà trường chọn 100 em nghèo nhất để nhận quà áo ấm thuộc các sắc tộc: H’Mông, Dao đỏ, Tày, Dáy, Nùng. Các em đi chân đất đến trường vì không có dép. Một số em thì mặc áo thay cho mặc quần. Mặc dù trời đang mưa rét nhưng các em vẫn coi đó là chuyện bình thường vì “không mặc gì” đã quen rồi. Một phụ huynh nói: “Chiếc áo ấm này là món quà rất quí đối các cháu. Từ hôm nay, các cháu có áo ấm đến trường và chắc chắn các cháu giữ gìn thật cẩn thận để đón Tết nữa”.
Tạm biệt trường Tiểu học Bản Phiệt chúng tôi men theo quốc lộ 70 để đến với trường Mầm non và Tiểu học thôn Vi Mã Trên thuộc thị trấn Phong Hải, cách thành phố Lào Cai khoảng 30km về hướng đông bắc. Vào tới nơi mà chúng tôi vẫn không biết đó là trường học, vì trường học là nhà văn hóa thôn. “Trường” này chỉ vỏn vẹn 3 phòng. Học cả sáng chiều thì được 3 lớp, còn các lớp khác thì học ở trường Mầm non gần đấy. Phần lớn các em được cha mẹ gửi xuống trường để họ đi làm nương rẫy chứ không hẳn là gửi xuống để đi học! Hoàn cảnh của các em ở đây thật đáng thương, mùa đông khắc nghiệt như vậy mà các em chủ yếu là đi chân đất, khá hơn một chút là có đôi dép tổ ong. Mỗi em được phát một cái áo mới. Các em tự tay mặc hay các bạn mặc cho nhau. Niềm vui thấy rõ trên khuôn mặt các em khi có chiếc áo ấm mới.
Điểm trường tiếp theo chúng tôi tới là trường Tiểu học Phong Hải, trường Tiểu học và Trung học Cơ sở Phong Niên. Ở 2 trường này, cách xa thành phố Lào Cai khoảng 40km về hướng đông bắc, các em dân tộc thiểu số H’Mông học bán trú. Điều kiện ăn và học của các em nơi đây dưới mức trung bình khá xa. Khi hỏi thăm các thầy cô giáo chúng tôi mới biết khẩu phần ăn của học sinh xã cho một phần, còn một phần là các gia đình tự đóng góp. Đó là một sự khó khăn ngoài sức tưởng tượng của chúng tôi vì dân tộc H’Mông rất nghèo, ăn không xong thì lấy đâu đóng góp.
Chia tay các thầy cô và các em trường Tiểu học và Trung học Cơ sở Phong Niên, chúng tôi không ít ngậm ngùi vì điều kiện và hoàn cảnh ở vùng cao và vùng xa này. Ước gì các nhà hảo tâm luôn mở rộng tình thương để chia sẻ cho những mảnh đời bất hạnh đang phải chịu cảnh cơ bần gần bên chúng ta. Vì thế, món quà mà giáo xứ Lào Cai chia sẻ cho các em học sinh nghèo chỉ là 400 chiếc áo ấm thôi. Tuy số lượng áo ấm không nhiều nhưng cũng đem đến cho các em rất nhiều niềm vui bởi không chỉ 400 em nhận áo vui mà còn phụ huynh các em vui, các thầy cô giáo tại các trường đó vui, chính quyền của các xã Bản Phiệt, thị trấn Phong Hải và xã Phong Niên thuộc huyện Bảo Thắng vui. Đó chính là “Món Quà Mùa Xuân”.
Chúng tôi cám ơn các nhà hảo tâm đã chia sẻ tấm lòng với các em trong mùa đông giá rét. Ước gì tinh thần của người Samaria nhân hậu vẫn luôn được thể hiện nơi mọi người chúng ta.
- Viết bởi Huyền Trang, VRNs
VRNs (09.02.2015) – Sài Gòn – 156 Quý thương phế binh VNCH ‘tầm soát sức khỏe’ tại DCCT – Sài Gòn, trong đợt gặp gỡ và khám sức khỏe lần thứ 5 do Quý cha DCCT tổ chức, vào ngày 06.02.2015.
Việc tầm soát sức khỏe là một trong chuỗi các hoạt động “Tri ân Quý thương phế binh VNCH’ của DCCT.
Từ tờ mờ sáng khoảng 5 giờ, rất đông quý ông đã đến sân hiệp nhất của Nhà dòng với tâm trạng náo nức. Có nhiều ông ở xa như Lâm Đồng, Phan Thiết, Vũng Tàu, Đồng Tháp… đi từ trong đêm. Và, cũng có một số ông đã đi trước đó một ngày.
Có những ông không nằm trong danh sách ‘tầm soát sức khỏe’ đợt 5 nhưng vẫn hiện diện, vì thế quý cha cũng giải quyết cho các ông tham dự khám và tầm soát sức khỏe.
Mục tiêu của các đợt ‘Gặp gỡ, kiểm tra và tầm soát bệnh’ nhằm nâng đỡ tinh thần, cùng nhau đồng hành và tri ân những bước đường còn lại của cuộc đời quý ông thương phế binh. Cha Vinhsơn Phạm Trung Thành chia sẻ:
“Việc tầm soát sức khỏe tưởng là chính nhưng đó chỉ là chuyện phụ, bởi vì anh em có thể khám bệnh và chữa bệnh tại các phòng khám trong các bệnh viện. Cái chính là anh em tìm được một sự an ủi, sự nâng đỡ tinh thần. Cái chính là anh em được công nhận là một con người và sống xứng đáng là một con người. Anh em cảm thấy đời trai trẻ đã đi qua đau đớn trong chiến tranh và bây giờ được mọi người đánh giá cao, công nhận giá trị cuộc sống của họ qua sự thăm hỏi, tiếp đón, gặp gỡ và sự chăm sóc của các y bác sỹ. Có lẽ, chỉ có những người trong cuộc đã từng đi qua chiến tranh, đi qua trong sự mất mát mới hiểu nhau nhiều hơn. Chính vì vậy đây là một món quà tinh thần rất lớn đối với anh em.”
Trong khi chờ đợi tầm soát sức khỏe có một quý ông người mệt lử do yếu, nên bác sĩ trực phải can thiệp ngay. Tình huống này đã được ban tổ chức lường ra trước và có phương án giải quyết, điều dễ hiểu các thương phế binh VNCH là những người nay đã lớn tuổi -ngoài 60 tuổi- bệnh tật, nghèo đói đã đẩy họ phần đông có một thể trạng không khỏe mạnh.
Đặc biệt trong đợt khám lần này, có một nữ quân nhân Quân lực VNCH, cô phục vụ hậu cần trong Bộ chỉ huy Quân đoàn 3, phòng Chiến tranh Chính trị. Cô bị thương tật do đạn pháo kích và giải ngũ trước năm 1975. Người phụ nữ này đã góp vui, chia sẻ những bài hát cùng với các đồng đội cũ trong bữa cơm trưa thân mật.
Ngoài những bài ca tiếng hát dành cho nhau, quý ông còn râm ran những câu chuyện thời lính. Ông thương phế binh Trần Đức Lập bày tỏ rằng, ông không thể vô cảm trước tình cảnh đất nước bị chia đôi: “Tuổi đời của tôi sinh ra và lớn lên nếu không đi lính thì không thể được, bởi vì đa số anh em đã chết do chiến tranh giày xéo, đất nước mất mát, quê hương đau khổ. Mình là một con hạc nhỏ, nhưng vẫn tình nguyện đi lính, vì lý tưởng bảo vệ quê hương đất nước.”
Đa phần quý ông thương phế binh vẫn luôn tự hào là người lính quân lực VNCH cho dù xã hội đã miệt thị và vùi dập họ trong suốt hơn 40 năm qua. Ông thương phế binh Phan Thế Hùng bộc lộ:
“Ông già tôi là lính, chú tôi cũng là lính thuộc sư đoàn 18. Do đó hồi nhỏ tôi ước ao được vào Quân lực VNCH và chọn lính nào cho oai hùng, bởi vì còn đi học tôi được nghe ‘nhất xanh cỏ nhì đỏ ngực’ -nghĩa là một là hy sinh hoặc là lên lon- nên phải đi lính nào cho ‘dữ dằn’. Cho nên tôi đã chọn lính nhảy dù. Đã là lính của quân lực VNCH là không bao giờ hối hận và tiếc nuối thời thanh niên trai trẻ của mình, bởi vì lý tưởng của một người lính Quân lực VNCH là mong một sự yên bình cho hậu phương, cho họ được hòa bình êm ấm, cho con cháu của mình được học hành đến nơi đến chốn. Thành ra tôi rất tự hào là một người lính trong hàng ngũ Quân lực VNCH. Tinh thần dành cho VNCH là bất diệt.”
“Tôi bị thương ở đùi phải nhưng không bị gẫy xương. Tôi bị thương nhẹ hơn so với các bạn bè của tôi”, ông thương phế binh Phan Thế Hùng cho biết về tình trạng thương tật.
Kết quả của đợt kiểm tra sức khỏe và tầm soát bệnh lần này, có một ca bị ung thư máu thể hiện nơi vòm họng, bệnh nhân đã được chuyển đến bệnh viện huyết học để tiếp tục khảo sát. Và, có hơn 50 quý ông được cắt kính tại chỗ. Trong đợt khám lần 4, có một quý ông bị bệnh sơ gan và đã chuyển sang giai đoạn ung thư. Còn trong đợt khám lần 3, cũng có một quý ông phát hiện bệnh ung thư máu giai đoạn cuối.
Được biết, sắp đến ngày Tết theo truyền thống của Dân tộc VN nên Quý cha đã chia sẻ mỗi vị một phong bì lì xì với trị giá 200.000 VNĐ.
Trong tâm tình sẻ chia của Quý cha, Quý ân nhân và các anh chị em tình nguyện viên là một thang thuốc bổ tinh thần cho quý ông. Ông thương phế binh Trần Đức Lập bộc bạch:
“Tuổi chúng tôi đã cao, gần đất xa trời mà nhận được một chút vật chất, sự quan tâm của Nhà Dòng làm tôi rất sung sướng, vì Quý cha đã chia sẻ nỗi đau và sự mất mát của phế binh. Đây là một thang thuốc thần hiệu làm cho chúng tôi khỏe thêm, vui thêm. Đặc biệt là cử chỉ của quý cha quá trọng nể làm cho chúng tôi vui hơn. Chúng tôi mong muốn Nhà Dòng hãy đồng hành với anh em chúng tôi.”
Ông thương phế binh Trần Đức Lập gửi lời chúc Xuân: “Nhân dịp xuân Ất Mùi sắp đến, chúng tôi thành thật và kính chúc Quý cha, Quý y bác sỹ và anh chị em thiện nguyện viên một năm mới mạnh, khỏe, vui để tiếp tục phục vụ xã hội trong đó có anh em Thương phế binh VNCH.”
Mỗi mùa xuân về, những người ở lại không thể nào quên các vị đã nằm xuống hy sinh cho tổ quốc. Ông thương phế binh Phan Thế Hùng ngậm ngùi gửi lời tri ân các vị Tử sỹ VNCH:
“Cuối năm và đầu năm mới, tôi là một người lính trong Quân lực VNCH xin gửi lời chào chúc sức khỏe đến tất cả các anh em trong quân binh chủng Quân lực VNCH còn sống ở VN và Hải ngoại. Tôi cầu xin những bạn bè của tôi, những người bạn không cùng binh chủng đã hy sinh vì đất nước một lời tri ân. Bạn bè đã sát cánh với mình đã ngã xuống để cho mình được sống, tình thương anh em bạn bè đã ra đi mà mình ở lại đây một mình.”
Vì đã là lần khám thứ 5 nên công việc tổ chức khá nhịp nhàng và trôi chảy. Người thương phế binh cuối cùng được trả hồ sơ cùng với những kết luận về sức khỏe từ hội đồng y khoa vào lúc 16 giờ 30 phút cùng ngày. Cha Vinhsơn Phạm Trung Thành đã có một buổi gặp gỡ với tất cả các y bác sỹ và đại diện cho hơn 50 tình nguyện viên, để lượng giá công việc, cám ơn và chúc tết lẫn nhau.
Buổi gặp gỡ và tầm soát sức khỏe cho quý thương phế binh lần 5 chấm dứt cùng với những cảm xúc yêu thương dâng tràn trong con tim mọi người.
Huyền Trang, VRNs
Nguồn: DCCT
- Viết bởi DCCT
VRNs (01.02.2015) – Sài Gòn
Việt Nam, ngày 30 tháng 1 năm 2015
Kính gửi:
- Hội Đồng Nhân quyền LHQ
- Ông David Kaye, Báo cáo viên LHQ về Tự do Ý kiến và Ngôn luận
- Ông Heiner Bielefeldt – Báo cáo viên LHQ về Tự do Tôn giáo
- Ông Michel Forst – Báo cáo viên LHQ về Người bảo vệ Nhân quyền,
- Ông Juan Ernesto Mendez – Báo cáo viên LHQ về Tra tấn Nhục hình,
- Ông Maina Kiai – Báo cáo viên LHQ về Tự do Hội họp và Lập hội
- Ông Mads Andenas – Nhóm đặc trách Bắt giữ tùy tiện
- Ông Pierre Vimont – Tổng thư ký Ủy ban Đối ngoại EU.
- Ông Scott Kofmehl, Ông Ryan Fioresi – Chuyên viên đặc trách VN của BNG Hoa Kỳ
- Đại sứ quán các nước tại Hà Nội: Malad Delphine (Cộng đồng EU), Felix Schwarz (Đức), Jenifer N. (Hoa Kỳ), Rose McConnell (Úc), Elenore Kanter (Thụy Điển), Sanjiv Ahluwalia (Anh), Ayesha Rekhi (Canada), Jean Philippe (Pháp), Tone Wroldsen (Na Uy), Kathryn Beckett (New Zealand), Sascha Muller (Thụy Sĩ).
- Các tổ chức Nhân quyền quốc tế: Brad Adams (HRW), Benjamin Ismail (RSF), Rupert Abbott (Amnesty International), Shawn Crispin (CPJ), Brittis Edman (CRDs), Billy Ford (Freedom House).
Đồng kính gửi:
- Quốc hội nước CHXHCNVN.
Kính thưa Quí Vị,
Chúng tôi, những tổ chức Xã hội Dân sự độc lập khẩn cấp báo động với tất cả Quí Vị và trước nhân dân thế giới về việc đàn áp những người lên tiếng tranh đấu cho Nhân quyền một cách trắng trợn, phi pháp và có hệ thống của Nhà nước Cộng hòa XHCNVN, đặc biệt trong năm 2014.
Chúng tôi xin đính kèm bản Báo cáo “Việt Nam: thành viên Hội đồng nhân quyền LHQ và vi phạm nhân quyền 2014” minh chứng rõ ràng cho những vi phạm ấy, cùng những phân tích khách quan, đối chiếu sát sao những khuyến nghị của UPR. Chúng tôi cũng làm rõ chiến thuật che đậy của nhà cầm quyền VN trong những năm gần đây.
Bản báo cáo này tố cáo tính hai mặt trong chính sách nhân quyền mà nhà cầm quyền Hà Nội đang tích cực thực hiện. Đó là làm cho quốc tế tin tưởng họ có thiện chí cải thiện nhân quyền tại Việt Nam, trong khi họ vẫn tiếp tục duy trì chế độ độc tài toàn trị, nặng về đàn áp, không coi trọng tự do và nhân phẩm của người dân.
Chân thành cảm ơn Quý vị đã quan tâm và lên tiếng.
Trân trọng,
Danh sách các tổ chức XHDS đồng hành lên án vi phạm nhân quyền:
- Bach Dang Giang Foundation: Ths.Phạm Bá Hải.
- Bauxite Việt Nam: Gs. Phạm Xuân Yêm, Gs. Nguyễn Huệ Chi.
- Con đường Việt Nam: Ông Nguyễn Công Huân.
- Diễn Đàn XHDS: Dr. Nguyễn Quang A.
- Giáo hội Cao Đài, Khối Nhơn sanh: CTS Hứa Phi, CTS Nguyễn Kim Lân, CTS Nguyễn Bạch Phụng
- Giáo hội Liên hữu Lutheran Việt Nam-Hoa Kỳ: MS. Nguyễn Hoàng Hoa
- Giáo hội Mennonite thuần túy: MS. Nguyễn Mạnh Hùng.
- Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo: Ông.Nguyễn Bắc Truyển.
- Hội Anh Em Dân Chủ: Ls.Nguyễn Văn Đài
- Hội Bảo vệ Quyền Tự do Tôn giáo: Cô Hà Thị Vân.
- Hội Bầu bí Tương thân: Ông Nguyễn Lê Hùng.
- Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm: Bs.Nguyễn Đan Quế, Lm.Phan Văn Lợi.
- Hội Nhà Báo Độc Lập: Ts.Phạm Chí Dũng
- Hội Phụ Nữ Nhân Quyền: Cô Huỳnh Thục Vy, cô Trần Thị Nga.
- Hội thánh Tin lành Chuồng Bò: MS. Lê Quang Du.
- Khối Tự do dân chủ 8406: Lm. Phan Văn Lợi.
- Lao Động Việt: Cô Đỗ Thị Minh Hạnh
- Nhóm Bảo vệ Tôn giáo và Sắc tộc: Anh Huỳnh Trọng Hiếu
- Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền: Lm. Nguyễn Hữu Giải.
- Phật Giáo Hòa Hảo Thuần Túy: Cụ Lê Quang Liêm
- Phong trào Liên đới Dân oan Tranh đấu: Bà Trần Ngọc Anh.
- Tăng Đoàn Giáo hội PGVNTN: HT.Thích Không Tánh.
- Liên mạng truyền thông Báo-Động: Giám đốc Huỳnh Tâm. (Pháp)
- Thanh Niên Canada Tranh Đấu cho Nhân Quyền VN: Anh Nguyễn Khuê Tú (Canada)
Nguồn: DCCT
- Viết bởi Nguyễn Như Minh
VRNs (30.01.2015) – Nghệ An – Cha JB. Nguyễn Đình Thục và giáo dân vượt 200 cây số mang quà tết đến cho đồng bào dân tộc ở Con Cuông, nhưng chính quyền xã cấm dân nhận quà.
Với tinh thần bác ái, yêu thương và giúp đỡ người nghèo dân tộc ở vùng núi phía Tây xứ Nghệ, nhân dịp tết sắp đến, sáng ngày 28.01.2015, một đoàn từ thiện gồm có cha JB Nguyễn Đình Thục và khoảng 20 giáo dân thuộc giáo xứ Song Ngọc, giáo phận Vinh đã vượt qua gần 200 cây số đến với bản Đan Lai thuộc xã Môn Sơn, huyện Con Cuông.
Các thành viên trong đoàn tận mắt chứng kiến cuộc sống khổ cực, nghèo đói của người dân ở nơi đây và cùng xác nhận đây đúng là nơi đang cần sự giúp đỡ, chia sẻ của mọi người hơn cả.
Đây là vùng biên giới, nên đoàn đã qua đồn biên phòng Môn Sơn để xin phép và được ông Mạnh, trưởng đồn trực tiếp dẫn đoàn vào khu vực đó để phát quà. Tuy nhiên khi đoàn đến gặp người dân thì họ có ảnh mắt khác lạ đối với chúng tôi.
Sau khi tìm hiểu, chúng tôi biết là dân nghèo đã bị cán bộ xã xuống nói trước, răn đe không được nhận quà với lý do có thể bị người khác lừa. Một người dân trong bản Đan Lai nói: “Từ sáng sớm đã có 4 hay 5 đoàn của xã đến và nói với chúng tôi là không được nhận quà người lạ, và muốn nhận quà thì phải được xã cho phép.”
Cha JB Nguyễn Đình Thục đã gọi trực tiếp cho bà Hà, chủ tịch xã Môn Sơn thì được bà trả lời: “Tôi đang cho phó chủ tịch xuống nói chuyện và làm việc trực tiếp với các anh”
Khoảng một tiếng rưỡi sau, ông Tuấn, phó chủ tịch xã và ông Hiến, trưởng công an xã đến để gặp cha Thục. Hai ông cho biết rất đồng tình và ủng hộ việc đoàn phát quà.
Ông Hiến nói: “Làm việc thiện là cái tốt chúng tôi cám ơn”.
Sau khi bàn bạc thêm, hai ông đã đồng ý cho chúng tôi phát quà. Nhưng được một lúc thì theo chỉ đạo của cấp trên là chúng tôi phải chờ bên Mặt trận xã đến cùng phát quà cho dân. Ông phó chủ tịch xã nói: “Quà do Mặt trận nhận và phát quà cho dân”.
Sau đó, ông Đức, Mặt trận xã đến trực tiếp gặp cha Thục và đồng ý cho đoàn được phát quà cho người dân. Liền đó, chúng tôi chuẩn bị quà để phát vì dân cũng đã tập trung rất đông và lâu để chờ được nhận quà. Nhưng khi bắt đầu thì cấp trên lại cho lệnh ngừng việc phát quà, chờ Huyện xuống.
Cha JB Nguyễn Đình Thục hỏi “Tại sao lại ngừng việc phát quà?” Ông Đức nói đang chờ Huyện vào để giải quyết. Cha Thục lấy điện thoại gọi cho ông Hoài, huyện Con Cuông. Cha Thục hỏi “Lý do chúng tôi làm việc bác ái, phát quà là đúng hay sai và khó khăn là ở chỗ nào?” ông Hoài trả lời “Làm việc bác ái phải đăng ký”.
Sau đó ông Hoài chuyển máy cho ông Hùng, trưởng Công an huyện Con Cuông
Cha Thục trình bày sự việc với ông Hùng.
Ông Hùng, trưởng công an huyện Con Cuông trả lời: “Theo Nghị đinh 34, cụ muốn phát quà khu vực dân tộc biên giới thì phải đăng ký với chính quyền địa phương, và muốn phát quà phải đăng ký Mặt trận tổ quốc xã nếu chưa đăng ký thì trao cho mặt trận tổ quốc xã trao lại cho người dân”.
Cha Thục hỏi: “vậy chúng tôi có được phát quà tiếp hay không?” Ông Hùng trả lời: “Cụ muốn phát quà thì phải thông qua Mặt trận xã và giao cho Mặt trận xã phát cho người dân”. Cùng nghe cuộc đối đáp có đầy đủ các ban ngành, ông Chủ tịch mặt trận và đầy đủ người dân.
Cha Thục hỏi tiếp: “Bây giờ có ông Đức mặt trận, tôi muốn trực tiếp với Mặt trận xã phát quà trực tiếp và ghi vài tấm hình lưu niệm có được không? Ông Hùng trả lời: “Vậy cụ cứ giao quà cho Mặt trận, cụ không được trực tiếp phát để bảo đảm an toàn cho cụ”.
Liệu những quy định và quyết định này vì dân nghèo vùng núi ?
Sau đó, ông trưởng thôn gặp và trao đổi với cha JB Nguyễn Đình Thục. Ông nói: “Bây giờ chúng tôi nhận quà và phát cho bà con, các anh cứ về”. Cha Thục đồng ý và đề nghị: “Vậy cũng được, tuy nhiên các ông phát cho chúng tôi chụp một vài tấm ảnh làm kỷ niệm”.
Ông trưởng thôn nói rằng: “Cấp trên chỉ đạo Mặt trận nhận quà và khi phát quà không được quay phim chụp ảnh”.
Trước tình cảnh đó, cha JB Nguyễn Đình Thục và mọi người không chấp nhận. Cuối cùng chúng tôi phải đưa quà về trong khi người dân đang rất cần và chờ đợi để được phát quà.
Bà Lý giáo xứ Song Ngọc nói “Đây có phải chính sách vì dân của đảng hay không, khi muốn làm từ thiện mà phải khó khăn hơn cả đi xin ăn vậy? Anh Các giáo xứ Song Ngọc nhận xét: “Chính quyền thế này thì không biết bao giờ người dân ở đây mới hết nghèo khổ?”
Con Cuông là một huyện nằm ở phía Tây xứ Nghệ, ở đây có nhiều dân tộc sinh sống. Cuộc sống người dân ở đây hết sức khó khăn. Con Cuông là nơi tự do tôn giáo bị bóp nghẹt. Đỉnh điểm là vụ đàn áp tôn giáo năm 2012 tại đây và cha JB Nguyễn Đình Thục cũng là nạn nhân trong vụ việc đó. Chính quyền ở đây rất khắt khe với người dân, đặc biệt là người Công giáo.
Đến bao giờ chính sách mới thay đổi cho dân được nhờ?
Nguyễn Như Minh
Nguồn: DCCT