Tin Việt Nam
- Viết bởi Phạm Trần
VRNs (06.02.2015) – Washington DC, USA – Phát biểu của Lãnh đạo tại chức và cũ nhân dịp đảng CSVN kỷ niệm 85 năm thành lập ((03/02/1930 – 03/02/2015)) và 70 năm cầm quyền (1945 – 2015) đã chứng minh đảng không còn bản lĩnh để cầm quyền vì đảng viên đã lấy tham nhũng, suy thoái đạo đức và bóc lột dân làm kim chỉ nam cho mọi hành động.
Trước hết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói: “Công tác xây dựng Đảng vẫn còn rất nhiều việc phải làm, nhất là việc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”; tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân.” (Diễn văn tại Lễ kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 02/02/015)
Nhưng đã 23 năm qua đảng liên tục thất bại năm sau cao hơn năm trước kể từ Nghị quyết “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng” ngày 29-6-1992 Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) thời Tổng Bí thư Đỗ Mười.
Đến thời ông Lê Khả Phiêu lên thay, Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) (khóa VIII) lại ra Nghị quyết “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay” rồi mọi chuyện vẫn đâu lại hòan đó.
Sau 10 năm cầm quyền của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh liên tục 2 khoá đảng IX và X (2001 – 2011) đảng viên vẫn tiếp tục tham nhũng, lãnh phí của công, suy đồi đạo đức, chia rẽ, trên bảo dưới không nghe, chạy chức chạy quyền, bằng gỉa người thật tiếp tục trăm hoa đua nở.
Tình trạng này đươc Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lê Hồng Anh thuật lại: “Mặc dù đã có nghị quyết riêng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng song trong Đảng vẫn còn những khuyết điểm nghiêm trọng, kéo dài, chậm được khắc phục, với những diễn biến phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, làm giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với Đảng; làm suy giảm vị trí, vai trò, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đã thảo luận và ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” (ngày 16-01-2012) (trích Tạp chí Cộng sản, 29/01/2015)
NGHỊ QUYẾT CHỒNG LÊN NGHỊ QUYẾT
Nghị quyết 4 viết về tình trạng cán bộ, đảng viên, nhất là những kẻ có chức có quyền đã xuống cấp như thế này: “ Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”
Không ai biết “bộ phận không nhỏ” là bao nhiêu trong số 4 triệu đảng viên, nhưng đã rõ là chuyện cán bộ hư đốn mỗi ngày một lên cao.
Theo lời ông Vũ Ngọc Hoàng – ủy viên Trung ương Đảng, phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo trung ương thì:” Qua nhiều nghị quyết, từ chỗ nhận định “một số cán bộ thoái hóa”, sau đó là “một bộ phận thoái hóa”, đến bây giờ là “một bộ phận không nhỏ” và “trong bộ phận không nhỏ có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý suy thoái”. Như vậy, cứ theo thời gian thì chúng ta thấy tình hình cấp bách hơn.” (Phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ , 03/02/2015)
Nhưng “cấp bách” hay là đảng càng “chỉnh” thì càng có thêm cán bộ “đốn” hơn theo thời gian ?
Do đó không có gì lạ khi ông Nguyễn Phú Trọng tiếp tục bảo: “ Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI về xây dựng Đảng đã khẳng định phải tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực và kiên quyết, mạnh mẽ, nhằm tạo ra một bước chuyển biến rõ rệt trên các mặt, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng cách mạng; tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động; củng cố tổ chức chặt chẽ; tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, coi đây là vấn đề sống còn của Đảng ta, chế độ ta.” (Diễn văn ngày 02/02/2015)
Nhưng đâu phải đảng mới hô hào đảng viên làm tốt hơn, hay sự “sống còn của đảng” vừa mới lộ ra từ khi ông Trọng lên cầm quyền mà đã có từ đảng khoá VII cơ mà ?
Hồi đó Trung ương đã có những vấn đề:
“- Tổ chức và kỷ luật của Đảng lỏng lẻo. Hệ thống tổ chức có những khâu trì trệ, ách tắc, chưa bảo đảm được sự lãnh đạo thông suốt trên tất cả các lĩnh vực. Một số tổ chức cơ sở đảng rệu rã, tê liệt, không giữ được vai trò lãnh đạo. Tổ chức và hoạt động của nhiều đoàn thể nhân dân còn nặng về hình thức, kém hiệu quả. Tình trạng mất đoàn kết xảy ra nghiêm trọng ở một số nơi.
- Trong Đảng có một bộ phận giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động, mất lòng tin, trong đó một số chịu ảnh hưởng của khuynh hướng cơ hội, xét lại, muốn đưa đất nước đi con đường khác; thậm chí đã có người phản bội, đầu hàng. Không ít cán bộ, đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân thực dụng cuốn hút, trở nên thoái hoá, hư hỏng. Tệ tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, ăn chơi vung phí tài sản của nhân dân rất nghiêm trọng và kéo dài. Những hiện tượng đó gây tác hại lớn, làm tổn hại thanh danh, uy tín của Đảng.
- Chậm đổi mới phương thức lãnh đạo, hoạt động của không ít cấp uỷ lúng túng trước tình hình mới. Bệnh quan liêu xa thực tế, xa quần chúng rất nặng. Nhiều cán bộ, đảng viên nói không đi đôi với làm, sống xa dân, thậm chí cách biệt với cuộc sống của người lao động.” (trích Nghị quyết số 03- NQ/TW của Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng/khoá VII)
Qua Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), đảng ra lệnh cho đảng viên phải:
- Học, nắm vững và tổ chức thực hiện nghiêm túc Pháp lệnh cán bộ, công chức, Pháp lệnh chống tham nhũng, pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật khiếu nại, tố cáo.
- Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, quy chế tiếp dân, chế độ công khai tài chính,
- Thực hiện kê khai tài sản theo quy định của Đảng và Nhà nước,
- Thực hiên nghiêm các vǎn pháp quy về đấu thầu va công khai hoá về dự toán, quyết toán xây dựng các công trình, mua sắm thiết bị;
- Công khai hoá và thực hiện đúng các chế độ, chính sách được hưởng đối với cán bộ (như sử dụng xe, nhà đất…);
- Thực hiện quy định những việc đảng viên không được làm.
- Tập trung chỉ đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu có hiệu quả.
- Các cấp uỷ đảng và người đứng đầu các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở phải chịu trách nhiệm chống tham nhũng ở nơi mình phụ trách. Bộ Chính trị phân công một số Uỷ viên Bộ Chính trị, các cấp uỷ phân công uỷ viên ban thường vụ trực tiếp chỉ đạo chống tham nhũng, lãng phí quan liêu.
Khi xảy ra tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực ở địa phương, ngành cơ quan, đơn vị mình phụ trách thì tuỳ theo mức độ và tính chất vi phạm của vụ việc mà xem xét hình thức kỷ luật đối với cấp uỷ và người đứng đầu về chế độ trách nhiệm.
(trích Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng/khoá VIII)
Trong số những điểm nêu trên, có 2 việc Khoá đảng VIII thời ông Lê Khả Phiêu đã thất bại nổi bật: 1)Không dám công bố cho dân biết các bản kê khai tài sản của đảng viên, nhất là các cấp lãnh đạo. 2) Đảng viên vẫn làm những việc bị cấm.
Khoá VIII cũng chỉ làm hình thức công tác “phê bình và phê bình trong Đảng”.
Bây giờ, 3 năm sau thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khoá XI), ông Nguyễn Phú Trọng vẫn nói huyên thuyên: “Phương hướng chung của việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay là phải tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, tổ chức, cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm cho Đảng đủ sức lãnh đạo sự nghiệp của đất nước không ngừng phát triển.”
“Đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân” ư ?
ĐỔI MỚI CÁI GÌ ?
Dân đã nghe hai chữ “đổi mới” từ năm 1986 thời Tổng Bí thư đảng khoá VI Nguyễn Văn Linh mà tại sao dân càng ngày càng xa đảng ?
Hẳn phải có lý do phải không ?
Hãy nghe ông Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng nói về kết qủa sau 4 năm đảng ra lệnh phải học tập và làm theo điều được gọi là “tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, trong đó có vấn đề buộc đảng viên phải biết “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”: “ Ở một số đảng bộ, chi bộ, việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chuẩn mực đạo đức của cơ quan, đơn vị theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh còn chậm, nội dung còn dài. Tổ chức sinh hoạt chuyên đề tại chi bộ còn lúng túng về nội dung và hình thức, chất lượng chưa cao. Nội dung đăng ký học tập còn chung chung, thiếu cụ thể. Việc lựa chọn và giải quyết những vấn đề bức xúc, nổi cộm chưa thực sự tích cực, kiên quyêt.
Đáng chú ý, vẫn còn nhiều biểu hiện quan liêu, xa dân, tham nhũng; suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Do vậy, niềm tin của nhân dân vào việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, và Nhà nước chưa được cải thiện; tính thuyết phục, sức lôi cuốn của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có phần suy giảm.” (Phát biểu tại Hà Nội ngày 28-10-2014)
Ngoài vấn nạn chẳng ai thèm học theo Bác vì tệ nạn “có học mà không hành, nói nhưng không làm” của cấp lãnh đạo đã chướng tai gai mắt nhân dân nhiều năm rồi nên ông Rứa có nói thêm cũng chỉ làm khổ lỗ tai người nghe mà thôi vì ai cũng bảo:” biết rồi khổ lắm nói mãi”.
Nhưng đảng viên CSVN, nhất là giới cầm quyền bây giờ không chỉ nghiện tham nhũng, ham lãng phí, kiên quyết sống trên lưng người dân mà còn kèn cựa, tranh dành quyền lợi, tổ chức phe nhóm để ăn chia trong xã hội.
Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã nhìn thấy như thế khi ông nói: “ Vấn đề đoàn kết trong nội bộ Đảng vẫn còn là một điểm yếu diễn ra ở mức độ này, mức độ khác, ở nơi này hoặc nơi khác chưa tốt vì chưa thực hiện được tốt chế độ tự phê bình và phê bình như Bác dạy: “Giữ gìn đoàn kết như con ngươi của mắt mình” cho nên sức chiến đấu của Đảng chưa phát huy được, Đảng cũng chưa thật làm tốt hạt nhân cho sự đoàn kết toàn dân.” (trích Phỏng vấn của đài Tiếng nói Việt Nam, VOV (Voice of Vietnam ngày 02/02/2015)
Tại sao dân không đòan kết với đảng, hay đảng viên đã quên câu thề phải tận tụy phục vụ nhân dân, phải làm tròn nhiệm vụ là “đầy tớ trung thành của nhân dân” , duy trì “quan hệ máu thịt với dân” hoặc là “cán bộ đi trước làng nước theo sau” ?
Trả lời đơn giản vì dân vẫn còn thiếu ăn, thiếu mặc, phải lao động đầu tắt mặt tối để cho cán bộ làm giầu. Đa số trong 90 triệu dân vẫn thuộc thành phần chưa ăn bữa sáng đã lo bữa tối trong khi vô số kể đảng viên thì nhà giầu nứt vách, vung tiền vào một bữa nhậu bằng người dân làm cả năm chưa bằng.
Do đó không ai ngạc nhiên khi được nghe ông Lê Khả Phiêu “vạch áo đảng cho người xem lưng”:”Thử thách lớn nhất chính là bản thân Đảng: những cái yếu kém, khuyết điểm, nhược điểm nổi lên là bản lĩnh, năng lực và phẩm chất, phương thức lãnh đạo của một Đảng cầm quyền, những căn bệnh như quan liêu, cửa quyền, xa dân, không tôn trọng dân, vô cảm trước những hành động vi phạm đến quyền dân chủ và lợi ích chính đáng của nhân dân, cá nhân chủ nghĩa, nạn tham nhũng, tham quyền, nhóm lợi ích. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên, sự lõng lẽo trong chấp hành các nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng: tự phê bình và phê bình, tập trung và dân chủ… Tình hình đó nói lên sức chiến đấu của Đảng đang giảm sút, lòng tin của dân đối với Đảng ngày một phai nhạt. Những tồn tại, yếu kém đó, mặc dầu đã đấu tranh nhiều lần ở trong Đảng nhưng vẫn chưa khắc phục được.”
Như vậy là đảng đã “nát” rồi “còn gì nữa đâu mà khóc với cười ?” (từ Ca khúc Nghìn trùng xa cách của Phạm Duy).
Do đó ông Phiêu, người thất bại với Nghị quyết 6 (lần 2) còn bồi thêm mấy cú đấm ngọan mục khi ông nói với VOV: “Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức, tác phong Bác Hồ chưa thật thấm nhuần, còn hình thức giữa lời nói và việc làm thường trái ngược nhau, những căn bệnh như: quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cá nhân chủ nghĩa, xa dân, thiếu tôn trọng dân… Những đảng viên như vậy rõ ràng không xứng đáng là học trò, là đồng chí của Bác. Đây là một vấn đề mà mọi đảng viên và cấp ủy các cấp phải thực hiện một cách đầy đủ tinh thần của lời thề. Từ những cán bộ cấp cao cũng như cán bộ phụ trách công việc ở các cơ sở phải nhìn nhận, đánh giá mình một cách nghiêm túc và phải có biện pháp khắc phục hiệu quả.”
Nhưng ông Phiêu phải là người biết rõ hơn ai về nội tình “bất trị” của đảng viên mới đúng. Ông khuyên cán bộ lãnh đạo hãy “đánh giá mình” để khắc phục hiệu qủa là ông hãy còn thương các đồng chí của mình, dù ai cũng biết tòan thân họ đã bị đồng tiền và xa hoa làm tê liệt từ lâu rồi.
Ngay đến Nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Thường trực Ban Bí thư Phan Diễn cũng phải thốt lên trong cuộc phỏng vấn của báo Lao Động ngày 30/01/2015: “ Trong 30 năm đổi mới, có những cái chúng ta tiến lên nhưng cũng có những cái suy thoái so với trước khiến chúng ta phải day dứt. Vấn đề tiêu cực, tham nhũng, trật tự, kỷ cương kém trước rất nhiều… có những việc chúng ta làm được nhưng nhìn chung công cuộc đổi mới và chỉnh đốn Đảng này chưa thành công.”
Ông nói thêm: “Theo tôi, Đảng phải tự kiểm điểm mình trên 3 lĩnh vực tôi đã nói – 3 lĩnh vực trước đây chúng ta thành công, mang lại uy tín tuyệt đối cho Đảng – đó là: Đường lối chủ trương xây dựng đất nước xã hội; chất lượng cán bộ, đảng viên; phương pháp lãnh đạo của Đảng.
Cùng với đó, đổi mới và chỉnh đốn Đảng không chỉ thực hiện bằng những cái bề nổi, mà phải xem lại từ những cái rất căn bản như cách xây dựng Đảng, làm công tác cán bộ cho đến phương thức hoạt động, lãnh đạo của Đảng. Chúng ta phải dám nhìn thẳng vào sự thật mới mong tìm ra nguyên nhân đúng và giải pháp đúng.”
Sau cùng, ông Vũ Mão, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng các khoá V, VI, VII, VIII, IX, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Chủ nhiệm Uỷ ban Đối ngoại Quốc hội cũng nói về tình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ là Đảng viên hiện nay:” Những năm gần đây, chúng ta đã nghe nhiều về vấn đề xây dựng Đảng, chống suy thoái đạo đức, lối sống, chống tham nhũng với cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan công quyền. Năm nào các báo cáo cũng chỉ ra rằng, công tác phòng chống tham nhũng chưa đạt được một số hiệu quả, chưa đạt đáp ứng được lòng mong muốn của nhân dân. Vậy thì bao giờ kết quả chống tham nhũng mới đáp ứng được mong đợi của nhân dân? Tôi thấy chưa ai trả lời dứt khoát về chuyện này.
Phải nói thẳng rằng, chống tham nhũng, chống chạy chức chạy quyền là phải nhằm vào một nhóm cán bộ Đảng viên đang giữ các vị trí cao trong hệ chống chính quyền, chứ còn Đảng viên là cán bộ công nhân viên chức bình thường thì họ làm gì tham nhũng được. Vì vậy, trong công tác điều hành, nhất là trong công tác tuyển chọn và đào tạo cán bộ, Đảng ta cần phải thật nghiêm túc, thật chính xác, phải minh bạch thì mới giữ được lòng tin của nhân dân. Còn nếu chỉ nói cho hay mà thực tế lại chẳng làm được bao nhiêu thì dân sẽ mất lòng tin, các thế lực phản động sẽ tận dụng cơ hội phá hoại đất nước ta. (báo Giáo dục Việt Nam/02-02-2015)
Tại sao “các thế lực phản động” phải “tận dụng cơ hội phá hoại đất nước” khi những điều ông nói và các cựu viên chức lãnh đạo đảng phát biểu là những căn bệnh đã hết thuốc trị đồi với đảng CSVN.
Đâu cần phải “rung cây dọa khỉ” thì đảng mới tan, nhưng khi ông Vũ Mão lại vu cáo viển vông để đánh đồng chuyện chống đảng cũng là chống lại “nhân dân ta” hay chống “ đất nước ta” như Ban Tuyên giáo vẫn thường hô hoán là ông đã tiếp tay che đậy khuyết tật cho đảng rồi đấy.
NHỮNG CÁI ĐẦU ĐÁ SẠN
Nhưng não trạng của đảng đã tê liệt như chứng minh trong nội dung 126 bài tham luận đưa ra tại Hội nghị “Nâng cao vị thế, vai trò và trách nhiệm cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay” do Tạp chí Cộng sản và Tỉnh uỷ Quảng Ninh tổ chức ngày 28/01/2015, tại Thành phố Hạ Long.
Tại Hội nghị này, theo lời Tạp chí Cộng sản: “Các ý kiến tham luận đều cho rằng, tính tất yếu cầm quyền của Đảng ta như là một vấn đề có tính quy luật – quy luật vận động của thời đại và xã hội nước ta, nhu cầu về tư tưởng, tình cảm của nhân dân ta, trực tiếp là sự phát triển của giai cấp công nhân, của phong trào yêu nước cách mạng và được thể hiện qua hoạt động của Đảng ta trong 85 năm qua.
Đảng cầm quyền có nghĩa là Đảng lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo Nhà nước, chứ không phải tự mình biến thành Nhà nước và thâu tóm vào tay mình mọi quyền hành của Nhà nước, như một số thế lực chống đối và thù địch bôi nhọ.
Lý luận “tính tất yếu cầm quyền” của đảng CSVN là cực kỳ phản động và phản dân chủ vì nhân dân Việt Nam chưa hề bao giờ bỏ phiếu hay yêu cầu đảng lãnh đạo, nhất là “độc quyền lãnh đạo”.
Do đó, Hội nghị đã lừa bịp cả thế giới khi tuyên truyền rằng: “ Đảng cầm quyền nhưng mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; Nhân dân là người chủ và làm chủ đất nước; Nhà nước của ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Đảng cầm quyền là để nhân dân là chủ và làm chủ.”
Nhân dân làm chủ mà để cho cán bộ, đảng viên tự do tham nhũng, tự do cường quyền và tự do bóc lột đến tận xương tủy à ?
Hãy nghe vài lời phát biểu thẳng thắn tại Hội nghị Quảng Ninh, theo tường thuật của báo Lao Động ngày 29/01/2015:
“Thiếu tướng Vũ Quang Đạo – nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự – cho rằng, ngay trẻ em đã được dạy cái gì không phải của mình thì không lấy. Vậy nhưng, trong thực tế, nhiều cán bộ đảng viên tham ô, tham nhũng, biến của công thành của nhà. Vì thế, theo ông Đạo, đảng viên muốn làm được những điều lớn lao hơn, trước hết hãy làm một công dân tốt. “Cán bộ càng to thì đức phải càng lớn, tài càng cao thì dân mới tin”.
“Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương Nguyễn Ngọc Lâm: “Nhân dân nói có tiêu cực, kiểm điểm thì bảo không, tuyên giáo thì bảo vừa không vừa có, kiểm tra thì nói không tìm ra tiêu cực, tổ chức thì bảo đã làm rất đúng quy trình, dân vận cho biết vẫn ổn định tình hình, nhưng các cụ lo chứng nào tật ấy. Đấy là tiếng lòng của dân”.
Như thế thì đã đến lúc đảng phải ngồi xuống cho dân đứng lên chưa hay cứ đóng đinh vào ghế để cho dân khổ, nước nghèo mãi?
Phạm Trần
Nguồn: DCCT
- Viết bởi HT, VRNs
VRNs (05.02.2015) – Sài Gòn – Công an Phường 5, quận Phú Nhuận, Sài Gòn hạch sách gia đình bà Nguyễn Thị Hưởn vào ban đêm, khi bà tố cáo lãnh đạo cơ quan UBND phường 5, quận Phú Nhuận có hành vi bao che cho cán bộ tham nhũng.
Bà Hưởn cho biết, vào buổi tối ngày 26.01.2015, công an khu vực, dân phòng và tổ trưởng dân phố đến nhà yêu cầu bà ký và nhận biên bản vi phạm hành chính, nhưng bà kiên quyết từ chối.
Hai ngày sau vào ngày 29.01, họ đã dán các biên bản này ngay trước cửa chính nhà bà. “Nếu là công an chân chính bảo vệ người dân, nếu tôi có vi phạm pháp luật cũng phải mời chủ hộ ra rồi mới dán các biên bản đó lên cửa. Công an là phục vụ người dân, bảo vệ đất nước, bảo vệ sự sống an lành của người dân, chứ không phải là công cụ hiếp đáp người dân”. Bà Hưởn nhận xét.
Sau đó, họ gửi giấy mời bà lên Quận Ủy làm việc vào ngày 30.01.2015 với nội dung ‘trao đổi một số thông tin có liên quan đến đồng chí’, nhưng bà phúc đáp không đi.
Bà Nguyễn Thị Hưởn đã từng làm việc tại UBND phường 5 quận Phú Nhuận trong suốt gần 29 năm qua, từ năm 1982 cho đến năm 2011.
Vào 2009, bà khiếu nại, tố cáo cán bộ phường 5, quận Phú Nhuận có hành vi tiêu cực, nhưng lại bị cơ quan trù dập và buộc phải thôi việc.
Vụ việc của bà tố cáo, khiếu nại 4 sự việc. Thứ nhất, tố cáo ông Nguyễn Thành Danh phụ trách bán bảo hiểm y tế (BHYT) cho người dân từ tháng 5.2008, nhưng không nộp số tiền gần 100 triệu đồng thu được từ việc bán BHYT cho BHYT quận Phú Nhuận. Thứ hai, tiến trình giải quyết thu chi không được rõ ràng của UBND phường 5 từ việc bốc mộ trên khu đất thuộc đường Thích Quảng Đức, quận Phú Nhuận. Thứ ba, bà phản ánh căn hộ xây dựng 1 trệt 3 lầu không có giấy phép. Thứ tư, ông Huỳnh Văn Lùng – Phường đội trưởng phường 5, quận Phú Nhuận tham ô.
Các sự việc này đã được bà Hưởn phản ánh lên phường, quận, thành phố và trung ương. Điểm đặc biệt trong vụ việc của bà Hưởn là hồ sơ có phiếu chuyển của Ban Nội chính chuyển đơn đến UB kiểm tra Thành ủy, nhưng sau đó, UB kiểm tra Thành ủy lại chuyển cho Chủ tịch UB quận Phú Nhuận xem xét, giải quyết những cá nhân có liên quan. Cuối cùng vụ việc bị chìm xuồng, cán bộ vi phạm pháp luật được lên chức, còn bà bị thôi việc do phát biểu tùy tiện.
Bà Nguyễn Thị Hưởn uất ức nói: “Những người tích cực phản ánh tiêu cực xây dựng chính quyền trong sạch thì bị trù dập, bị oan 5 năm nay và buộc phải thôi việc. Họ làm như thế có đúng hay không? Tôi mong xây dựng chính quyền trong sạch, không có kẻ nào tham nhũng để người dân được sống tốt hơn, đất nước càng phồn vinh hơn. Chính quyền lúc nào cũng hô, các đồng chí, nhân dân hãy chống tham nhũng, chống tiêu cực để đất nước được tốt hơn. Nhưng bản thân tôi đã và đang làm điều đó thì được gì? Được hai bàn tay trắng. Nếu họ không triệt tiêu tôi thì những cán bộ ở phường, quận tham nhũng sẽ bị xáo trộn.”
Bà Hưởn cho biết thêm, sau khi vụ việc xảy ra, gia đình bà thông cảm và luôn an ủ. Bà Hưởn nói: “Gia đình tôi rất thông cảm với tôi. Hai đứa con an ủi tôi rằng, má cứ cố gắng đi, chúng con sẽ cố gắng học.”
Ngược lại, hàng xóm láng giềng hiểu lầm và xa lánh bà vì họ cho rằng bà đã vi phạm pháp luật. Bà Hưởn nói: “Chung quanh hàng xóm tưởng tôi là người tiêu cực, tham nhũng nên họ nhìn tôi bằng một ánh mắt rất kỳ cục. 5-6 năm nay, công an không đến nhà tôi, nhưng từ khi tôi phản ánh thì công an đến kiểm tra và khám xét hộ khẩu.”
“Trong đơn tố cáo, khiếu nại gửi trung ương tôi nhấn mạnh chính quyền nên giải quyết kịp thời những tiêu cực như thế này, tránh trường hợp người dân quá tức tối, hay đẩy họ vào bước đường cùng thì có nguy cơ sẽ tự tử. Sau đó, nhà nước lại minh oan cho người đã chết, thì người đã chết có nghe được không? Do đó, tôi mong muốn lãnh đạo giải quyết, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.” Bà Hưởn nói tiếp.
Dù thế nào đi nữa bà Hưởn quyết tâm chống tham nhũng cho đến cùng. Bà Hưởn cho hay: “Tôi nói sự thật, làm điều đúng, quyết tâm đưa sự việc này ra ánh sáng để cấp trên xử lý tiêu cực, và minh oan cho tôi trong suốt 5 năm ngậm đắng nuốt cay. Dù thế nào đi nữa tôi cũng đấu tranh cho đến cùng để sự thật được rõ ràng.”
Bà Hưởn khẳng khái: “Khi tôi được kết nạp đảng, tôi chỉ mong sao được phục vụ dân, phục vụ đảng. Đảng nói là cán bộ phải xây dựng chính quyền, Đảng trong sạch, vững mạnh thế mà khi tôi tố cáo lãnh đạo và cán bộ địa phương tham nhũng và có bằng chứng rõ ràng, thì họ lại bao che cho nhau, nên tôi rất bất mãn. Tôi thầm nghĩ, thà là một người dân tốt còn hơn là một đảng viên cơ hội, nếu nói chữ tồi thì quá nặng. Tôi cảm thấy rất xấu hổ.”
Bà Hưởn mong muốn: “Pháp luật nên bảo vệ những cán bộ, người dân chống tham nhũng, tiêu cực để người dân can đảm lên tiếng, đấu tranh. Còn nếu cứ để lãnh đạo, cán bộ tham nhũng, tiêu cực thì trước sau gì sẽ mất nước”.
Ngoài ra, trong đơn khiếu nại, bà Hưởn viết: “Đảng, Nhà nước luôn hô hào chống tham nhũng, chống tiêu cực thì phải chống từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, giải quyết phải dứt điểm, trắng đen rõ ràng, đừng để người ngay mắc oan, tức tưởi chết. Cụ thể ở quận Phú Nhuận xảy ra nhiều trường hợp như: ông Hai Hoàn – Bí thư quận Ủy Phú Nhuận bị giết chết, bà Đặng Thu Hồng – Phó Bí thư quận Ủy Phú Nhuận bị đâm chết, bà Trần Thị Mỹ bị thương… vì bao che tiêu cực. Tôi mong rằng sự việc trên không xảy ra, là người sự kiên nhẫn cũng có hạn.”
HT, VRNs
Nguồn:DCCT
- Viết bởi Ban điều hành Khối 8406
Kính thưa Toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước
Ngày 03 tháng 02 sắp tới, nhà cầm quyền trong nước sẽ tổ chức kỷ niệm 85 năm thành lập đảng Cộng sản Việt Nam (03-02-1930), tổ chức chính trị hiện cầm quyền tại Việt Nam, đồng thời là chính đảng duy nhất được phép hoạt động theo Hiến pháp do chính họ soạn thảo và áp đặt.
Như lịch sử minh chứng và toàn thể Đồng bào đã biết, sau khi cướp được chính quyền từ tay chính phủ hợp hiến hợp pháp của Việt Nam bấy giờ là chính phủ Trần Trọng Kim vào tháng 8 năm 1945, ĐCSVN đã tìm cách tiêu diệt dần các chính đảng quốc gia để nắm trọn quyền lực. Họ chính thức đặt ách toàn trị độc tài độc đảng lên nửa nước kể từ năm 1954 và trọn nước từ ngày 30/4/1975 đến nay.
Để hợp thức hóa việc cướp chính quyền và tiếp tục thống trị đất nước vô thời hạn, ĐCSVN đã tự dựng nên một Quốc hội làm công cụ đắc lực cho họ và dùng nó mà soạn thảo ra các bản Hiến pháp năm 1980, 1992, 2013. Các bản Hiến pháp này, qua Điều 4 quy định: ĐCSVN là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội. Rồi để củng cố độc quyền cai trị đó, ĐCSVN còn cho mình độc quyền sở hữu tài nguyên quốc gia (Luật Đất đai + điều 54 HP 2013), độc quyền sử dụng lực lượng truyền thông (báo chí các loại, Luật Báo chí + điều 96 HP) và lực lượng vũ trang (công an, quân đội, điều 65 HP), độc quyền giáo dục (Luật Giáo dục + điều 96 HP), rồi ưu quyền về văn hóa (lấy chủ nghĩa Mác-Lênin lẫn tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, điều 4 HP) và ưu quyền về kinh tế (kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, điều 51 HP).
Chính vì nắm những độc quyền và ưu quyền nói trên, ĐCSVN trong gần 70 năm qua (từ 2/9/1945 đến nay), đã gây bao đau thương cho Đồng bào và thiệt hại cho Đất nước. Cụ thể là:
- làm thiệt mạng hàng triệu người Việt Nam qua các cuộc chiến giành độc quyền cai trị;
- làm lụn bại kinh tế và điêu đứng dân sinh qua việc áp dụng học thuyết Mác-Lênin sai lầm và học thuyết tư bản hoang dã;
- làm nghẹt thở và bế tắc chính trị bằng việc không chấp nhận tam quyền phân lập, phủ nhận và đàn áp các lực lượng đối lập và các tư tưởng đối kháng;
- làm sa sút văn hóa và băng hoại đạo đức bằng việc khống chế hay hạn chế các tiếng nói và sức mạnh tinh thần trong dân tộc;
- làm sứt mẻ sự vẹn toàn lãnh thổ và gây nguy khốn cho an ninh quốc gia bằng chính sách lệ thuộc đảng Cộng sản Trung Quốc về mọi mặt.
- v.v…
Do đó, trung thành với Tuyên ngôn Tự do Dân chủ ngày 08-04-2006 của Khối 8406: “Mục tiêu cao nhất trong cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ cho Dân tộc hôm nay là làm cho thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay phải bị thay thế triệt để, chứ không phải được “đổi mới” từng phần hay điều chỉnh vặt vãnh như đang xảy ra. Cụ thể là phải chuyển từ thể chế chính trị nhất nguyên, độc đảng, không có cạnh tranh trên chính trường hiện nay, sang thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng, có cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với những đòi hỏi chính đáng của Đất nước, trong đó hệ thống tam quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp phải được phân lập rõ ràng, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và trải nghiệm của Nhân loại qua những nền dân chủ đắt giá và đầy thành tựu”, Khối 8406 kêu gọi toàn thể Đồng bào trong và ngoài nước hãy dũng cảm và công khai làm một cuộc biểu tình trên mạng internet từ nay cho đến hết tháng 02-2015, để chống lại Điều 4 Hiến pháp cực kỳ phản động và phi dân chủ, bằng cách tự chụp hình, tay cầm bảng ghi một trong ba dòng chữ sau đây:
1- Yêu cầu (/Đòi hỏi/Phải) hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp;
2- Phải hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp vì…. (thêm ý);
3- Phải hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp để…. (thêm ý);
Sau đó đưa lên internet, tới các trang blog cá nhân, các trang mạng xã hội (Facebook, Twitter…) và gởi đến các trang web đấu tranh dân chủ. Hoặc gởi về địa chỉ email:
Kính thưa toàn thể Đồng bào trong và ngoài nước.
Trong khi Việt Nam chưa có được một cuộc Trưng cầu dân ý khách quan và trung thực, có quốc tế giám sát thì chúng ta cần phải cho nhà cầm quyền thấy rõ nguyện vọng và ý chí của toàn thể Dân tộc: đó là không thể tiếp tục chấp nhận sự lãnh đạo vừa bất tài bất lực, vừa bất công bất nhân của ĐCSVN.
Việc chúng ta đòi hủy bỏ điều 4 Hiến pháp hiện hành chính là bước đầu tiên trong tiến trình dân chủ hóa đất nước. Từ đó mở ra các bước khôi phục cho nhân dân các quyền về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội; cụ thể là quyền tự do ngôn luận và biểu tình, tự do tư tưởng và tôn giáo, tự do hội họp và lập hội, tự do cư trú và đi lại….
Xin toàn thể Đồng bào quốc nội và hải ngoại hãy giành lấy quyền làm chủ đất nước và thể hiện cụ thể quyền ấy bằng cách hưởng ứng lời kêu gọi này.
Chúng tôi chân thành cảm ơn.
Làm tại Việt Nam ngày 28 tháng 01 năm 2015
Ban điều hành Khối 8406:
1- Kỹ sư Đỗ Nam Hải – Sài Gòn – Việt Nam.
2- Linh mục Phan Văn Lợi – Huế – Việt Nam.
3- Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa – Hải Phòng – Việt Nam
3- Giáo sư Nguyễn Chính Kết – Houston – Hoa Kỳ.
4- Bà Lư Thị Thu Duyên – Boston – Hoa Kỳ.
Với sự hiệp thông của Linh mục Nguyễn Văn Lý và các tù nhân lương tâm Khối 8406 khác đang ở trong lao tù Cộng sản.
- Viết bởi Ngô Nhật Dụng
Chúng ta đã được thấy nhiều lần những dòng chữ này: “Cảm Ơn Anh, Người Thương Binh Việt Nam Cộng Hòa.” Nhưng lần đầu tiên thấy những hàng chữ đó trong một hội trường ở ngay trong thành phố Sài Gòn, ta phải rưng rưng cảm động. Lần đầu tiên, sau 40 năm!
Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn đã thực hiện được một việc chưa người nào làm được, dù ai cũng muốn làm: Bày tỏ lòng “Tri Ân” các thương binh Việt Nam Cộng Hòa. Có cả quý vị đại diện của Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất, Giáo Hội Cao Ðài, họ thay mặt tất cả những người đã sống ở miền Nam trước năm 1975. Thay mặt cho cả những người dân miền Nam đang sống ở nước ngoài. Có thể thấy như một cuộc họp mặt gia đình. Gia đình nào ở miền Nam hầu như cũng đóng góp ít nhất một người trong danh sách những chiến sĩ đáng được tri ân, người còn sống cũng như đã qua đời. Ðại gia đình dân miền Nam đã cùng trải qua một hoạn nạn, hoạn nạn chung của đất nước, đã cùng chịu đựng một cuộc sống đau khổ, nhưng giờ đây cũng đang chia sẻ với nhau cùng một nỗi vui mừng và hy vọng.
Linh Mục Phạm Trung Thành đã nói giúp chúng ta: “...những lời tri ân gửi đến các anh, những người đã hy sinh vì tự do, hòa bình, cho người dân miền Nam.” Những lời đó, suốt 40 năm qua, chúng ta đã nói thầm, cho một mình nghe. Một ngàn anh chị em thương binh, từ Phú Yên, Khánh Hòa, Dak Lak cho tới Bình Dương, Sóc Trăng họp mặt tại Dòng Chúa Cứu Thế. Linh mục giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế chuyển tới anh em “sứ điệp yêu thương, hòa bình và bác ái.” Ý nghĩa rõ ràng: Tri ân các thương binh miền Nam vì yêu thương, vì hòa bình, không phải để nuôi hờn oán, gây thù hận với anh em bộ đội miền Bắc. Nhưng đằng sau những nét mặt, nụ cười của các thương binh, chúng ta thấy hình ảnh của cả triệu người đã mang sắc phục quân đội, nghĩa quân, cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa. Nhìn những khuôn mặt tươi cười rạng rỡ của anh chị em thương binh và nghe những lời tri ân trong hai buổi họp mặt, chúng ta có thể chia sẻ niềm vui và hãnh diện của họ. Họ đều xứng đáng được tri ân. Họ đều đáng được hãnh diện. Gia đình, con cháu họ đều xứng đáng được tri ân và hãnh diện.
Ðiều đáng hãnh diện thứ nhất, là cuộc chiến đấu mà họ theo đuổi, cuộc chiến đấu khiến nhiều người phải hy sinh mạng sống, cuối cùng đã được lịch sử chứng minh là chính đáng. Vì vậy cho nên người dân bình thường muốn bày tỏ lòng biết ơn, dù phải đợi 40 năm. Trong đó có cả các người dân miền Nam chưa đầy 40 tuổi. Khi Linh Mục Phạm Trung Thành thay mặt chúng ta ca ngợi các chiến sĩ đã “hy sinh vì tự do,” những từ ngữ trừu tượng như “tự do,” “hy sinh” đều hiện lên thành sự thật, cụ thể, đã được chiêm nghiệm. Chỉ khi không còn được tự do, người dân miền Nam mới thấy mình đã mất quá nhiều thứ đáng quý.
Thí dụ khi bị đuổi khỏi ngôi nhà mình ở, đồ đạc trong nhà bị chiếm đoạt, phải kéo nhau đi “kinh tế mới” rồi về sống dưới gầm cầu, trên lề đường, trong xó chợ, người dân miền Nam mới hiểu rằng trước đây mình được sống yên ổn chính vì nhờ những người lính đã hy sinh để cho mình được sống. Cũng như khi phải hồi hộp lo lắng suốt 24 giờ không biết lúc nào công an sẽ đột nhập nhà mình lục soát từ trên xuống dưới. Như khi phải nộp tiền thì con cái mới được vào trường công lập, từ bậc tiểu học. Khi vào bệnh viện công gọi là “nhà thương thí” vẫn phải đút lót mới được dùng bông, dùng kim chích. Hay khi nhìn đám thiếu nữ cùng tuổi con gái mình phải bày hàng trong khách sạn cho đàn ông Ðài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc ngắm nghía, cò kè bớt một thêm hai. Hay khi ruộng đất của mình bị chiếm đoạt để sang tay cho bọn tư bản đỏ, phải tự đốt mình, hoặc tự cởi truồng ra phản kháng. Vân vân. Những lúc đó, người dân miền Nam mới nhớ tiếc những ngày xa xưa cuộc sống của mình còn được những người lính Cộng Hòa bảo vệ. Những thứ nhỏ hay lớn, mà người dân miền Nam được hưởng trước năm 1975, khi mất đi đều thấy là đáng quý. Vì tất cả đều được hưởng như những quyền sống tự nhiên. Ðó là quyền sống có phẩm giá. Những thứ kể trên cộng lại chính là phẩm giá con người, trước năm 1975 phẩm giá của mình được kính trọng nhờ những người lính Cộng Hòa bảo vệ. Trước năm 1975, đồng bào chúng ta ở miền Bắc không biết những thứ người miền Nam được hưởng. Họ không được tự do thông tin, họ bị bưng bít. Họ bị lừa gạt. Nhưng sau 1975, ai có dịp so sánh cũng nhận ra sự thật, từ Dương Thu Hương tới Tô Hải, Trần Ðĩnh. Cho nên, bây giờ nhớ lại, người dân miền Nam muốn đứng ra làm nhân chứng, muốn nói dõng dạc, rằng những người Lính Cộng Hòa rất đáng được tri ân. Họ rất đáng hãnh diện.
Niềm hãnh diện còn lớn lao hơn nữa vì được lịch sử cả loài người làm chứng, từ năm 1989. Bức tường Berlin sụp đổ khiến bộ mặt thật của chế độ Cộng Sản trên toàn thế giới bị lộ ra. Ðó là một chế độ thất bại hoàn toàn về kinh tế, một chế độ chính trị độc tài man rợ, chỉ đứng vững được vì bắt dân sống trong tối tăm, dốt nát, và ngày đêm bị công an đe dọa. Chính người dân sống trong các nước Cộng Sản, cả hàng ngũ lãnh đạo tại các nước đó, đã đứng lên xóa bỏ chế độ vừa bất nhân vừa bất lực này. Các cuộc cách mạng nhung đó chứng tỏ công chiến đấu, hy sinh của những người Lính Cộng Hòa thực là chính đáng. Những ai đã đổ máu để ngăn cản không cho chế độ cộng sản bành trướng đều đáng được vinh danh. Tất cả các chiến sĩ Cộng Hòa, những người còn sống, người bị thương, và những người đã chết, đã giúp người dân miền Nam được ít nhất 20 năm không phải sống dưới ách độc tài Cộng Sản. Nhờ thế, sau năm 1975, đồng bào ngoài Bắc mới có dịp nhìn và so sánh. Và nếp sống thuần hậu được giữ gìn tại miền Nam mới còn để lan tràn, đến khi đồng bào miền Bắc cũng biết nói “xin lỗi,” nói “cảm ơn,” nói “dễ thương.”
Nhưng bây giờ không phải là lúc nhìn lại quá khứ để than tiếc dân tộc mình không may mắn như dân Ðông Ðức, dân Nam Hàn. Bốn mươi năm đủ dài để chúng ta có thể quên quá khứ, xóa bỏ những tình cảm mị hoặc chia rẽ lòng người. Như anh Hoàng Văn Ðiểm, cựu thiếu úy Thủy Quân Lục Chiến nói trong buổi lễ Tri Ân tại Dòng Chúa Cứu Thế vừa qua: “Sau 40 năm tôi ước ao nhà nước đừng chia rẽ lính Việt Nam Cộng Hòa và lính Cộng Sản; vì chúng ta đều là dân Việt Nam.”
Thực ra, cái gì đã chia rẽ dân Việt Nam? Ðó là một chủ nghĩa mà năm 1989 đã bị loài người vạch mặt giả trá. Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã “học tập” Stalin, Mao Trạch Ðông, gieo rắc hận thù, chia rẽ dân Việt hơn 80 năm qua. Bây giờ mọi người Việt Nam có thể cùng ngẩng đầu lên, nhìn rõ mặt nhau, hướng về tương lai, nhận rõ đâu là kẻ thù nguy hiểm nhất cho dân tộc. Ðó là đế quốc Trung Hoa đỏ, đeo cái mặt nạ chủ nghĩa Cộng Sản. Chúng ta phải đoàn kết chống lại kẻ thù chung đó.
Những thương binh Việt Nam Cộng Hòa đáng được tri ân. Nhưng điều quan trọng hơn là chúng ta phải tiếp tục công việc mà họ đã phải bỏ nửa chừng, từ năm 1975. Phải thực hiện mục tiêu mà họ đã theo đuổi; là xây dựng một nước Việt Nam tự do dân chủ. Cuộc chiến tranh đã khiến hai triệu người Việt chết, trong đó có những người lính miền Nam cũng như các bộ đội miền Bắc. Chúng ta, những người còn sống, ở miền Bắc cũng như miền Nam, đều mang nợ với các tử sĩ đó. Còn mang nợ hương linh các đồng bào đã chết vì bom đạn vô tình, hay khi vượt biển tìm tự do. Nói như Abraham Lincoln, tại nghĩa trang Gettysburg ngày 19 tháng 11 năm 1863: Chúng ta phải quyết tâm làm sao cho những người đã chết không phải ngậm ngùi thấy mình chết vô ích” (That these dead shall not have died in vain).
Bốn mươi năm sau khi chiến tranh chấm dứt, nếu dân tộc Việt Nam vẫn chưa được sống tự do dân chủ, chúng ta vẫn còn mang mối nợ lớn với những người đã chết. Nếu nước Việt Nam vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu, thua kém cả Miến Ðiện tới Campuchia, chúng ta vẫn chưa làm tròn nhiệm vụ của mình. Nếu quân Cộng Sản Trung Hoa còn tung hoành từ Vịnh Bắc Việt tới đáy Biển Ðông, coi tổ tiên dân Việt không có chút chủ quyền nào, thì những chiến sĩ đã chết suốt 15 năm chiến tranh, đã chết trong trận Hoàng Sa năm 1974, trận Gạc Ma năm 1988, họ vẫn còn ôm “mối hận ngàn thu.”
Sau buổi lễ tri ân ở Dòng Chúa Cứu Thế tuần qua, cuối tuần này chúng ta phải làm lễ tưởng niệm các chiến sĩ Việt Nam đã hy sinh bảo vệ Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974. Ðồng thời, phải truy điệu các chiến sĩ Việt Nam đã hy sinh khi quân Trung Cộng cướp Trường Sa năm 1988. Tất cả những người khi chết còn nghĩ mình đang chiến đấu cho dân tộc Việt Nam, được đều đáng được tri ân. Những người đã chết sẽ giúp người còn sống tìm đến nhau, thương yêu, đoàn kết với nhau. Một giọt máu đào hơn ao nước lã, kể cả thứ nước lã “16 chữ vàng.”
Có thể nhắc lại tiếp những lời Abraham Lincoln. Sau khi nguyện “Không để một ai chết uổng,” ông nói tiếp: Chúng ta phải quyết tâm sao cho đất nước này... được phục sinh trong tự do - và cho chính quyền của dân, do dân, vì dân, không tiêu tan trên trái đất. (That this nation, under God, shall have a new birth of freedom - and that government of the people, by the people, for the people, shall not perish from the earth.) Với lời nguyện này, chúng ta tỏ lòng tri ân những chiến sĩ đã hy sinh. Sẽ đến ngày nước Việt Nam được phục sinh trong tự do. Theo gương Nguyễn Trãi, lúc đó chúng ta có thể lại công bố: Hận ngàn thu rửa sạch làu làu!
Ngô Nhật Dụng
Nguồn : http://www.nguoi-viet.com/
- Viết bởi Dân Chúa
Sau Hiệp Định Genève 20-7-1954 Việt Nam bị phân chia thành hai lãnh thổ. Cả hai đều được công nhận trên trường Quốc Tế. Mỗi bên thành lập chính phủ riêng và xây dựng xã hội theo một thể chế chính trị khác nhau. Từ đó, tạo ra hai truyền thống, lịch sử và nền văn hóa, giáo dục công dân hoàn toàn khác nhau.
Miển bắc được gọi là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đặt dưới sự lãnh đạo và quản chế của khối cộng sản quốc tế. Nửa phần đất nước này có dân số đông hơn ở miền nam, được lèo lái, được (bịt mắt) dẫn đi theo chủ nghĩa cộng sản. Cộng sản chủ trương xây dựng xã hội miền bắc theo thuyết Tam Vô. Vô Gia Đình, Vô Tổ Quốc, Vô Tôn Giáo. Lấy bạo lực chính trị và dối trá làm nền tảng để áp đặt và cai trị đất nước. Vì theo chủ nghĩa Tam Vô, CS đã có những quy trình và học tập nhằm tiêu diệt nền tảng văn hóa nhân bản của xã hội và của gia đình. Khởi đầu là bài giáo khoa cơ bản dùng để đào tạo các đoàn đảng viên, và buộc mọi học viên phải đạt trong học tập. Bài giáo khoa này vừa được Trần Đĩnh, một cựu đảng viên từ thời 1949-50 tiết lộ trong Đèn Cù ” ” Định nghĩa đảng viên là ngọc là vàng của đảng cho nên vào tổng kiểm thảo, Tố Hữu yêu cầu học viên rất ngặt... Không đạt yêu cầu căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ thì bản tổng kiểm thảo bị “phá sản,” học viên đó phải ngồi học lại cho tới khi nào lập trường vô sản, lập trường nông dân thắng, anh ta công khai tuyên bố căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ mình ( mới thôi).”.( trang 74-75). Kế đến là bản cáo trạng phi nhân tính, phi đạo nghĩa “Địa chủ ác ghê” do Hồ Chí Minh viết ra để khởi đầu và làm nền tảng, không phải chỉ cho cuộc đấu tố nhân dân Việt Nam thời 1953-56, nhưng còn là cho cuộc sống của đảng.
Việc định nghĩa và thực tế áp dụng những bài giáo khoa cho các đoàn đảng viên, song hành với việc triệt để tuân thủ tinh thần bản cáo trạng “ địa chủ ác ghê” vào cuộc sống của đảng, Cộng sản đã tạo ra hỗn loạn và làm đảo lộn mọi sinh hoạt trong xã hội. Ở đó là cuộc sống vô văn hóa, vô kỷ cương, vô luân thường, vô đạo lý. Chỉ có bạo lực khủng bố và dối trá làm chủ thể trên cả luật pháp và xã hội. Ở đó, lá cờ màu đỏ có một sao vàng là tâm huyết của đảng cộng sản Phúc Kiến, (Đây là cờ của đảng cộng sản Phúc Kiến do Li Ji Shen ( Lý kỳ Thân) sáng lập vào khoảng11.1933 đến 1-1934. Sau cuộc nổi dậy ở Phúc Châu, Phúc Kiến bị phe Tưởng giới Thạch dẹp yên, Li Ji Shen đem tàn quân xát nhập vào với Mao Trạch Đông. Sau này Y làm phó chủ tịch nhà nước Trung cộng vào năm 1949) được thiếu tá Hồ chí Minh, trong đội quân giải phóng nhân dân Trung cộng,( theo tài liệu còn lưu trữ của Quân ủy trung ương Trung Cộng) đem vào Việt Nam khoảng 1940 và trở thành biểu tượng màu cờ sắc áo cho nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong việc thực hiện mọi chỉ thị từ Trung cộng. Rồi sau khi Cộng sản chiếm trọn miền nam Việt Nam vào ngày 30-4-1975, lá cờ Phúc Kiến của nhà nước CHXHCNVN trở thành một bàn đạp cho Trung cộng tràn xuống phương nam.
Miền Nam Việt Nam sau ngày 20-7-1954 vẫn còn là một nước theo hệ quân chủ Lập Hiến với tên gọi Quốc Gia Việt Nam. Chính phủ do Thủ Tướng Ngô đình Diệm lãnh dạo được thành lập vào ngày.7-7-1954. Dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Ngô đình Diệm, miền nam xây dựng xã hội theo con đường Tự Do, Dân Chủ, dần đổi sang thể chế Cổng Hòa. Về văn hóa và giáo dục công dân được mở rộng theo hướng đi nhân bản, lấy Công Bình, Bác Ái , Nhân Bản Vị ( nay gọi là Nhân Quyền) làm gốc sinh. Tất cả đều hướng đến mục đích phục vụ con người trong công ích và Công Lý theo tiêu chuẩn của luật pháp . Miền nam cương quyết bảo vệ sự Độc Lập và toàn vệ lãnh thổ nên ngoại trưởng Trần văn Đỗ không ký vào bản hiệp định chia đôi đất nước,
Trong chủ trương bảo vệ đời sống an sinh của đồng bào và nhằm đem lại hạnh phúc, ấm no và đời sống yên vui, thanh bình cho công dân. Ủy Ban Bảo Vệ bắc Việt Nam của Quốc Gia Việt Nam đã được thành lập. Vào ngày Ủy Ban 28-4-1954 đã tìm cách kêu gọi dân chúng và bảo vệ dân chúng trốn thoát chế độ cộng sản tại miền bắc. Kết qủa của chính sách đứng đắn này là có hơn một triệu người đạp trên cái chết để trốn chạy cộng sản, di cư vào Nam tìm tự do. Lá Cờ Vàng ba sọc đỏ, trước đó và cho đến ngày 30-4-1975 ( nhiều nơi đến ngày 01-5-1975) là nghi biểu, là màu cờ sác áo, biểu tượng cho dân tộc và Quốc Gia Việt Nam. Sau đổi là Việt Nam Cộng Hòa.
Sau ngày quốc hận 30-4-1975, màu cờ của Quốc Gia Việt Nam đã tung bay trên kháp nẻo đường thế giới. Bất cứ nơi nào có người Việt Nam trốn chạy cộng sản đến sinh sống, nơi ấy có Cờ Vàng tung bay, và chính phủ sở tại đã có những văn bản chính thức công nhận đây là màu cờ của người Việt Nam Tự Do. Từ đó, Cờ Vàng là biểu tượng, là màu cờ của những ngươì yêu và được sống trong Tự Do, sống trong nền văn hóa Nhân Bàn, tôn trọng Công Lý và Nhân Quyền.
I. Truyền thống và lịch sử của màu cờ nói gì?
Trên đây là vài nét về hai màu cờ sắc áo riêng biệt của hai thể chế tại Việt Nam. Nhưng màu cờ nào sẽ là cuộc sống, là Niềm Tin Yêu và Hy Vọng của chúng ta và của đất nước hôm nay và mai sau?
Khi nói về Truyền Thống và Lịch Sử của một màu cờ, tôi cho rằng có viết hàng trăm trang sách cũng chưa hết những điều cần viết, nói chi đến một vài trang giấy ngắn. Ở đây, tôi xin đưa ra hai hình ảnh mang tính truyền thống, bao gồm cả tính lịch sử và giáo dục công dân, mà hai tấm ảnh là biểu tượng từ hai màu cờ này muốn truyền đi. Truyền đi như là một chứng minh căn bản nhất, hùng hốn nhất, chính xác nhất và có thể là câu trả lời, giải nghĩa hoàn hảo nhất cho màu cờ và sắc áo mà nó đại điện.
1. Tấm hình thứ nhất.
Tấm hình ghi lại cảnh có một đứa bé độ lên ba, mặt mũi lem luốc, mặc áo qúa khổ, không có quần, hai tay cầm lá Cờ Đỏ lớn qúa khổ so với tuổi đời. Tuy thế, nó diễn một dáng diệu đầy uy phong khi đi vòng quanh đấu trường, nơi được gọi là toà án nhân dân. Ở đó không thấy có quan tòa, nhưng có hai đấu tố viên tuổi chưa qúa 6,7 tuổi, vẻ như đang hạch tội và kết án một tên “địa chủ” ác ôn, hay viên cựu lý trưởng, chánh tổng, viên chức nào đó. Ông ta đang cúi mặt nhận tội trườc khi bị xử tử? Rồi trong vòng vây của người , và dưới sự hướng dẫn đầy khí thế của đứa trẻ lên ba, tay cầm cờ quét lê trên mặt đất là hai tên du kích với cây súng dài lăm lăm trong tay. Đây là một tấm hình rất đặc biệt. Nó nói lên toàn bộ nền văn hóa giáo dục cũng như truyền thống và lịch sử của lá Cờ Đỏ do Hồ Quang đem từ bên Tàu sang. Rồi chẳng bao lâu sau, nó đã tạo nên một “chiến thắng long trời lở đất” trong mùa đấu tố 1953-56.
a, Về Truyền thống, Tấm hình truyền đi một truyền thống giết người man rợ của chế độ. Chỉ trong vòng có khoảng ba bốn năm, nó đã giết chết gần 200,000 ngàn ngươi Việt Nam và làm tan hoang hàng triệu gia đình khác. Theo truyền thống này, việc xử án giết người ( qua tấm hình) không cần luật lệ, đôi khi không cần cả quan toà. Chỉ cần những kẻ vô tri, ngây ngô, bất giáo, không có một chút hiểu biết gì giống như đứa trẻ lên ba, chưa biết mặc quần kia, nhưng biết cầm cờ, biết
hò hét, trợ thủ cho vài ba đứa trẻ vô tri khác làm quan toà như hai đứa trẻ trong hình là đạt, là có thể tạo ra một thành tích lẫy lừng cho đảng theo khẩu hiệu “ thà giết lầm hơn bỏ xót”. (Đỗ Mười là tác giả của khẩu hiệu này?). Ngẫm, nhìn. Tấm hình đã nói lên trọn những điều nó cần nói. Chỉ những kẻ vô tri làm điều bất giáo mới mở ra được cái truyền thống này.
b, Về Lịch sử. Tấm hình ghi lại và truyền đi một hình ảnh tạo nên lịch sử của lá Cờ Đỏ và CS là, những kẻ vô tri kia, áo thì qúa khổ, quần không có, đồng nghĩa với việc CS tự khóac cho nhau cái áo thụng cách mạng, nhưng không thể che được phần ngây ngô, vô kiến thức như một đứa trẻ lên ba. Nó không có quần, giống như kẻ trong thời ăn lông ở lỗ chưa được giáo hóa. Tuy thế, thành phần chưa được giáo hóa này lại được coi là những kẻ tiên phong cầm cờ đi tạo lịch sử, đi làm cách mạng. Tiếc rằng, những nhà “cách mạng” chưa biết mặc quần này thuộc diện vô tri, chắng biết cái cờ nó cầm trên tay là cái gì, có nguồn gốc lịch sử ra sao. Tất cả, từ trên xuống dưói đều giống như các hạng mục voi giấy, ngựa giấy, chó giấy quay tít trong cái Đèn Cù mà Trần Đĩnh diễn tả. Đó là lịch sử của gian trá và tội ác!
c, Về Giáo dục, văn hóa. Tấm hình truyền đi một lối, một nền văn hóa man rợ, đầy dối trá, không có hàm tính người của Cộng sản. Nó dạy cho người, cho trẻ thơ còn vô tri biết vui mừng, hồ hởi phấn khởi đi theo đảng giết ngưòi vô tội. Nó dạy cho trẻ bài học vô giáo dục, vô văn hóa để đạp đổ lễ giáo, tôn nghiêm trong trật tự gia đình và xã hội. Chúng dạy cho trẻ thuộc lòng những vô lễ, tao, mày, thằng trọc phú, thằng lý trưỏng ác ôn… để tạo khi thế giết người. Ai cũng biết, trong nội bộ, CS đã thành công trong việc huấn luyện, đào tạo các học viên qua bài giáo khoa ” phải căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ” thì đây, tấm hình này chính là cảnh diễn lại bài học lịch sử mà rất nhiều đứa trẻ đã phải học, phải tập trước khi được đẩy vào đấu trường. Cô tôi, một ngườì chứng kiến nhiều cuộc đấu tố ở Thái Bình kể lại là: “Nó chỉ tay vào mặt bố mẹ đẻ mà đấu theo lời dặn dò, mớm mổi của những kẻ vô tri bất giáo trong đội đấu”. Đội xúi bảo chúng, “ Cháu có muốn cứu bố mẹ cháu không? Nếu muốn thì cứ ra làm như thế. Có tự tay ra đấu tố bố mẹ cháu thì mới cứu bố mẹ cháu khỏi chết!”! Đến khi, đứa bé vữa diễn xong lời dạy của đội. Những nhà cách mạng không có quần kia, liền vỗ tay, bác loa mồm oang oang: “ Đấy đồng bào nghe rõ cả rồi đấy. Chính con cái của tên trọc phú này đã ra lời tố cáo tội ác của nó, thì nó còn chối vào đâu được nữa”! Hỡi ôi, một bài học mà Lưu cộng Hòa, một đảng viên CS từ thời 1949-50 đã phải thốt lên “ Nay phải nhận mình là con vật mới đúng!” (Đèn Cù tr.75)
Đó là sự nghiệp lớn mang trọn ý nghĩa, chủ đích, truyền thống, lịch sử rồi giáo dục và văn hóa của Cờ Đỏ. Hỏi thử xem, nơi có Cờ Đỏ quản trị có phải là nơi để cho những ước mơ, cho những con người đã có trí khôn, đã được giáo hóa, tìm về để nương náu và đặt tin yêu hy vọng vào nó hay không?
2. Tấm hình thứ hai
Tấm hình của Thiếu tá Ngụy văn Thà và đồng bạn đã hy sinh cùng với con tàu ở Hoàng Sa. Họ chết cho quê hương trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa vào ngày 19-1-1974.
a, Về Truyền thống. Tấm hình truyền đi hình ảnh người chiến binh Ngụy văn Thà đã hiên ngang bước đi theo truyền thống bất khuất của người xưa Anh đã nối theo chí hùng ngàn năm của tiền nhân, nêu cao ý chí của dân tộc, lấy chính máu xương của mình để bảo vệ lấy bờ cõi của non sông.
Đất của Mẹ, một ngọn cỏ ta thề không bỏ,
Núi nước Nam, một viên đá ta quyết chẳng rời!
Như thế, máu hồng từ trái tim anh nhỏ xuống trên chiến trường Hoàng Sa vào ngày 19-1-1974 chính là dòng máu nêu cao một truyền thống bất di bất dịch từ ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Đó là truyền thống bảo vệ màu cờ sắc áo Độc Lập tự chủ của dân tộc.
b. Về Lịch sử. Tấm hình ghi lại một chiến tích lẫy lừng của con dân Việt Nam trước cảnh ngoại xâm. Vào cuộc chiến, sinh tử, thắng bại là lẽ thường tình, người ta không luận một chiến thắng, một cái chết trong cuộc thắng, thua. Nhưng lịch sử là sử luận về một thiên anh hùng ca của những người đã hy sinh vì màu cờ sắc áo của dân tộc mà Ngụy văn Thà và các chiến hữu của anh trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa đang mang trên vai. Lịch sử cũng còn ghi lại rằng. Trong ngày người chiến binh Ngụy văn Thà và đồng đội của anh hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ nền Độc Lập và sự vẹn toàn lãnh thổ Việt Nam, thì ở nơi phương bắc kia, một nửa phần đất của quê hương bị dẫn đi theo chủ nghĩa Tam Vô, Tập đoàn cộng sản đã đứng dưới lá cờ Phúc Kiến, hát ca, nhảy mừng khi quân Tàu Ô chiếm được Hoàng Sa, là phần đất Việt Nam, trực thuộc chính phủ Việt Nam Cộng Hòa theo hiệp định Genève 1954. nhưng CS đã ký giao, bán chủ quyền cho Trung cộng vào ngày 1958. Lịch sử này ngàn năm đã dễ phôi pha!
C, Về văn hóa giáo dục công dân. Tấm hình ấy truyền đi nét cao đẹp và trân qúy của nền Văn Hóa nhân bản dân tộc mà những người trai Nguyễn văn Thà và các đồng đội của anh đã thụ hưởng tại miền nam ở dưới lá Cờ Vàng. Họ đã hy sinh bản thân mình vì cuộc sống của dân tộc. Tấm hình ấy chính là di sản thuộc nền Văn Hóa Nhân Bản của Quốc Gia Việt Nam sẽ còn mãi mãi truyền lại mai sau. Nói gì, nghĩ gì? Hẳn nhiên là không còn một truyền thống, một lịch sử, một nền văn hóa giáo dục công dân nào hòan hảo và cao qúy hơn thế nữa.
Như thế, màu CỜ VÀNG lẫm liệt, phủ trên quê hương Việt Nam, phủ trên thân xác Ngụy văn Thà và đồng đội của ông, có phải là Màu Cờ của mọi ước mơ nhân bản Việt Nam sẽ tìm về để giữ gìn và lưu truyền lại cho dòng sử mai sau hay không? Nơi có Cờ Vàng tung bay, có phải là nơi có đủ tin yêu hy vọng để cho con người tìm về nương thân không? Hay trên phần đất có đứa trẻ kéo lê cái CỜ ĐỎ trên mặt đất kia, với những cuộc đấu tố kinh hoàng trong lịch sử, mới chính là nơi để mọi ngưòi cùng tìm về để sống bên nó, hưởng yên vui, hạnh phúc với nó? Tôi cho rằng, không có câu trả lời nào chính xác hơn là việc nhìn vào cuộc sống của người dân ở dưới mỗi màu cờ này.
II. Cuộc sống dưới mỗi màu cờ cho ta thấy những gì?
1. Cờ Vàng. Màu cờ có mang theo Hồn Nước, có mang theo trọn niềm tin yêu, hy vọng của con dân và của núi sông Việt Nam hôm nay và mai sau hay không?
Phải. Tôi khẳng định là như thế. Tôi khẳng định không phải vì có người thân, cũng không phải vì đã có hàng triệu quân dân cán chính miền Nam, ròng rã trong hơn hai mươi năm cuối cùng trước ngày 30-4-1975 đã hy sinh vì màu cờ, và sắc áo của Việt nam Cộng Hòa. Nhưng khẳng định vì Đại Nghĩa của dân tộc Việt. Khẳng định vì Truyền Thống, vì Lịch sử, vì nền Văn hóa và giáo dục công dân mà màu cớ ấy đã tiếp nhận từ tiền nhân, rồi mang theo trong dòng sinh mệnh của lịch sử mà truyền đến hôm nay. Màu cờ này được tạo ra từ tâm huyết Việt Nam. Tâm huyết bảo vệ sự trường tồn và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Tâm huyết bảo toàn trọn vẹn nền văn hóa nhân bản dân tộc. Tâm huyết bảo vệ trọn vẹn ý nghĩa Đồng Bào trong dòng sử lập quốc Việt Nam. Hơn thế, còn là tâm nguyện của ngàn ngàn sau. Bởi vì người Việt Nam chưa bao giờ ngừng đi tìm sự Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền. Người dân Việt Nam chưa bao giờ rút lui trong cuộc chiến bảo toàn nền Độc Lập và phần lãnh thổ của tiền nhân để lại. Như thế, truyền thống này, lịch sử này, văn hóa này là của chúng ta và thuôc về chúng ta, thuộc về con cháu chúng ta.
Bạn cho rằng tôi ca qúa lời chăng? Nếu thế, tôi mời bạn nhìn xem những cảnh thực tế trước mắt bạn đây. Xem xong rồi, tự bạn hãy trả lời cho bạn, cho thân nhân, cho người quen của bạn nghe, biết về câu trả lời của bạn ra sao nhá. Bạn có thấy bất cứ một người thuyền nhân Việt Nam nào, kể cả cán cộng cho đến công dân đi trên nhưng chiếc thuyền ra khơi, hay chạy băng qua đồi núi để ra khỏi Việt Nam sau ngày 30-4-1975, có ai trong đó muốn xin đến tỵ nạn, xây nhà, lập nghiệp tại một nước là bằng hữu, là đồng chí của lá Cờ Đỏ của Việt Cộng như, trước kia thì có Liên Sô, Tàu, khối Đông Âu, …. Nhưng nay chỉ còn lại Trung Cộng, bắc Triều Tiên và Cu Ba không?
Tôi quả quyết là không. Những kẻ điên cũng không dám xin đến những nơi ấy. Trái lại, tất cả những người kể trên, bao gồm luôn cả những người chết trên biển hay những người không có cái may mắn xuống được thuyền ra khơi, đều ước mơ đến được bến bờ tự do, bao gồm Hoa Kỳ, Úc, Canada, Pháp, Đức… và các đồng minh trong khối tây âu, là bằng hữu đồng vai sát cánh với là Cờ Vàng của Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975 để xây nhà dựng nghiệp, để mưu cầu cho con cái được hưởng lấy một nền giáo dục nhân bản. Cách riêng, bản thân được hưỏng tự do, được công lý bảo vệ và được sống trong yên bình. Tôi chẳng thấy một ma dại nào dám xin đến những nước bằng hữu, đồng chí với Cờ Đỏ. Tại sao thê?
Thực tế hơn, bạn hãy nhìn xem, những Nguyễn tấn Dũng, Trương tấn Sang, hay những Triết, Hùng, Phúc, Thanh, Quang, thậm chí, Mười, Anh… và con cái, thân nhân của những Đồng, Chinh, Giáp, Duẫn và của tất cả những cán cộng có quyền chức từ hàng tường tá, tỉnh thành đến phường quận huyện xem. Tại sao họ không mua đất, mua nhà, mua dinh thự, mua xe, mua tàu du lịch, không đưa con cái đi học, lập nghiệp ở những quốc gia mang tên Trung cộng, bắc Triều Tiên, Cu Ba là những anh em đồng chí với Cờ Đỏ, mà lại đua nhau lén lút, đi chui lòn, tìm đến những nước họ luôn mồm gọi là thuộc thế lực thù địch bao gồm Mỹ Canada, Úc, Pháp, Đức…. là bằng hữu với Cờ Vàng của Việt Nam Cộng Hòa vào trước năm 1975 mà nương thân? Họ là những thằng ngưòi điên loạn, hay là những “ bọn ma cô đĩ điếm” chính hiệu như lời Phạm văn Đồng đã nói?
Tôi chẳng bảo họ điên, cũng chẳng bảo họ là những ” ma cô đĩ điếm” như lời Phạm văn Đồng, nhưng là những đa trá. Mồm thì oang oang chống Cờ Vàng, nhưng thực trong bụng thì ngày đêm mơ ước tìm về nương náu, mong hưởng nhờ ân huệ ở những nơi chốn có lá Cờ Vàng của Việt Nam Cộng Hòa hiện diện. Có lạ lắm không? Thử hỏi xem, tại sao những quan cán cộng, từ nhớn đến nhỏ, từ trung ương đến địa phương đều âm thầm, lặng lẽ tìm đến những nơi có Cờ Vàng “ thù địch” để nương nhở? Họ là những kẻ đã phản đảng , hay những nơi đây có trọn tin yêu hy vọng và bao dung, khoan hậu, nhân bản. Là nơi đặt ước mơ của mọi ngưòi? Tại sao họ không đến nương nhờ những nơi có Cờ Đỏ tung bay? Chẳng lẽ, nơi đó chỉ có sự chết và dối trá?
2. Cờ Đỏ, cờ của sự chết, của man rợ, của dối trá làm cho người người sợ hãi, phải chạy trốn. Hay của hy vọng để cho mọi người tìm về với thiên đàng CS?
Trước hết, bạn có thấy gia đình nào phải lén lút trốn vùng Cờ Vàng để tìm đến sinh sống và nương nhờ dưới ánh Cờ Đỏ để mong cầu có Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và được công lý bảo vệ trong cuộc sống yên vui không? Nếu có, nay họ ra sao rồi? Xin bạn đừng vẽ vời ra câu chuyện là có dăm ba kẻ chui lòn từ phía Cờ Vàng vào nơi có Cờ Đỏ quản trị để kiếm năm ba miếng ăn qua ngày đấy nhá. Đấy không phải là một cuộc di cư tìm sống, xây nhà dựng nghiệp, không phải là một ý thức đứng đắn, nhưng là cuộc chui lòn tìm miếng ăn nhất thời mà thôi. Và những người vì lý do này, lý do khác, phải trở lại nơi đó năm ba tuần, nửa tháng, cũng không thuộc về câu hỏi này. Xác định như thế thì tôi không thấy bất cứ ai từ phía Cờ Vàng tìm về với Cờ Đỏ để hưởng phúc. Tôi chỉ thấy người bỏ ra đi.
Giai đoạn trước di cư. Nơi nào có dăm ba cái Cờ Đỏ phất phơ là y như có sự chết rình rập. Bởi vì, sau đêm Việt Minh về là ngay sáng hôm sau, trên đầu cái cọc cắm giữa đường làng, nơi có nhiều người qua lại là có cái đầu của một viên chức, hay của người có con em làm việc trong thành phố, đôi khi là những phú hộ, treo ở đó. Rổi ở ngay phía bên dưới là một cái lá Cờ Đỏ với hàng chữ có khi sai cả chính tả. “ Việt Minh xử tử Việt gian bán nước”! Ghê chưa! Họ có luật về đêm và luật ấy viết rằng. Việt minh đến gõ cửa nhà nào vào ban đêm thì sàng hôm sau sẽ có cái đầu của nạn nhân treo ở ngã ba đầu làng hay giữa chợ! Chẳng cần nói thêm, dân chúng nhìn thấycảnh khủng bố ấy là mặt không còn giọt máu. Kẻ có phương tiện thì âm thấm lặng lẽ bỏ làng mà về thành. Có nhiều nơi, cả làng cùng bảo nhau bỏ chạy hay vào tề. Làng tôi ở Thái Bình là một làng tề nổi tiếng. Sau ngày 20-7-54 cả làng đã di cư vào nam.
Đến sau ngày 20-7-1954, không phải một vài người, một vài làng, mà khéo toàn miền bắc đã lên cơn sốt, bỏ chạy khi biết tin Cờ Đỏ sẽ kéo vào thành phố. Kết quả, có khoảng một triệu người may mắn chạy thoát. Mà xúi quẩy làm sao, đã chạy vào nam rồi vẫn chưa yên. Ông già 54 vào chiều ngày 30-4-1975, chống cái gậy ra đến đầu ngõ. Mắt mờ chưa nhìn rõ mặt người, tai chỉ nghe được câu nói Việt cộng đã vào làng, cái gậy rời khỏi tay. Ông run rẩy ngã xấp mặt xuống đất khi có tiếng hoan hô “cách mạng” thành công! Tội cho ông, chạy trốn đã hai mươi năm ròng, vẫn không thoát được cái ách cộng!
Trước khi đó, đồng bào Việt Nam từ Gio Linh, Quảng Trị đến cao nguyên miền Trung, hay Bình Long, Tây Ninh, Xuân Lộc đã phải gồnh gánh, bồng bế nhau trên tay, trên vai, dù phải chết trên đường vì đạn pháo của Cờ Đỏ đuổi theo. Họ vẫn quyết đạp lên cả xác ngưòi để tìm về nơi có Cờ Vàng tung bay ( 1972). Rồi đến những đoạn đường… chết, Pleku, Kon Tum, Tư Hiền, Hội An, Đà Nẵng…bạn thấy những gì? Tại sao đồng bào Việt Nam phải đạp trên cái chết, chồng mất vợ, cha lìa con, anh mất em, người mất sản nghiệp… để trốn cái Cờ Đỏ như thế? Rồi đến hàng triệu người ra khơi, vượt biển trên những chiếc thuyền mong manh để đi tìm Cờ Vàng Tự Do? Mà nào họ có được thoải mái ra đi đâu. Tất cả đều lặng lẽ trốn mà đi. Khi đi, lại cũng đạp trên cái chết mà đi. Có ngưòi chưa kịp xuống thuyền, một loạt đạn của Cờ Đỏ vang lên trong đêm tối, máu đỏ của ngưòi vượt biên thấm vào lòng biển đen! Người sống vội lao xuống thuyền đã trúng đạn. Sóng gào đưa họ vào lòng biển đen. Cõi chết hay Tự Do?
Khi nhìn lại những cảnh thực này, bạn có cho rằng người Việt Nam dại đột khi đem mạng sống của mình ra để đánh đổi, một là Tự Do, hai là cái chết, khi họ tìm về với Cờ Vàng hay không? Nếu không dại, có phải là họ điên chăng? Nghe nói, những kẻ điên cũng sợ chết. Chỉ có người Việt Nam yêu Tự Do mới không sợ chết, mới đạp trên cái chết mà đi khi thấy Cờ Đỏ kéo đến. Tại sao? Tại vì nó còn kinh hoàng hơn cả sự chết!
Tóm lại, truyền thống, lịch sử văn hóa và thực tế trong đời sống chứng minh rằng:
Cờ Vàng là màu cờ mang theo Hồn Nước, mang theo trọn niềm tin yêu, hy vọng của con dân và của núi sông Việt Nam hôm nay và mai sau. Cờ Vàng là truyền thống, là lịch sử là nền văn hóa của chúng ta và thuộc về chúng ta. Đó là màu cờ của sự sống của Tự Do của Độc Lập Dân Tộc.
Cờ Đỏ là cờ của sự chết, của man rợ. Nó là màu cờ mang tâm huyết của CS Phúc Kiến. Nó giết chết hết tất cả mọi niềm tin, mọi hy vọng, mọi yêu thương, mọi nhân ái trong lòng người Việt nam. Nó là tội ác và là gian trá. Nó là cờ của Nô Lệ, có truyền thống, lịch sử và nền văn hóa thuộc về nô lệ. Không thuộc về truyền thống, lịch sử, văn hóa Việt Nam
Bảo Giang
đầu năm 2015.
- Viết bởi Phanxicô, Giáo Hoàng
MANILA. ĐTC Phanxicô gửi điện văn chào thăm Chủ Tịch Nước Việt Nam và cầu chúc an bình và thịnh vượng.
Sáng ngày 15-1-2015, ĐTC đã giã từ Sri Lanka sau 2 ngày viếng thăm, và bay sang Philippines để tiếp tục cuộc tông du. Máy bay chở ĐTC bang ngang không phận các nước Sri Lanka, Ấn độ, Myanmar, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Theo thông lệ, Người đều gửi điện văn đến quốc trưởng các nước liên hệ để chào thăm. Điện văn cho Việt Nam có nội dung như sau:
Kính gửi Ngài Trương Tấn Sang
Chủ tịch Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hà Nội
Tôi gửi lời chào thăm nồng nhiệt đến Ngài trong lúc tôi bay trên không phận Việt Nam trên đường từ Sri Lanka đến Philippines. Tôi đoan chắc cầu nguyện cho Ngài và toàn thể nhân dân Việt Nam, đồng thời khẩn cầu dồi dào phúc lành an bình và thịnh vượng trên Ngài.
Ký tên: Phanxicô, Giáo Hoàng
- Viết bởi Phạm Trần
Hội nghị Trung ương 10 của Khoá đảng CSVN thứ XI diễn ra tại Hà Nội từ 5 đến 12/01/2015, trễ hơn thường lệ đã thể hiện một tình trạng nội bộ chưa ổn định trước thềm Đại hội đảng XII dự trù vào tháng 1/2016.
Có 2 lý do đằng sau Hội nghị này:
Thứ nhất, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chưa dàn xếp xong các chức vụ cho Ban Chấp hành khoá XII.
Ông nói trong diễn văn khai mạc:”Bộ Chính trị đã xem xét, quyết định một bước danh sách quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương và danh sách quy hoạch Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhiệm kỳ 2016 - 2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo.
Có cơ sở khẳng định, tuy là lần đầu Đảng ta xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược, nhưng công việc này đã được tiến hành khá bài bản, chặt chẽ và đạt kết quả bước đầu tích cực. Tuy nhiên, số lượng các đồng chí được quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, Ban Bí thư hiện nay còn ít so với chỉ tiêu mà Đề án nêu ra; chất lượng cũng còn phải tiếp tục được nâng cao. Hơn nữa, qua gần 2 năm kể từ khi xin phiếu giới thiệu của Trung ương đến nay, tình hình đã có những thay đổi, các đồng chí Uỷ viên Trung ương và cán bộ, đảng viên trong diện được xem xét đưa vào quy hoạch đã có điều kiện và thời gian công tác nhiều hơn để thể hiện rõ hơn phẩm chất và năng lực của mình; việc quy hoạch cần được định kỳ rà soát, bổ sung theo tinh thần "động" và "mở".
Nhưng thế nào là “động” và “mở” đến đâu thì chỉ có những người trong cuộc mới hiểu. Có điều là tình trạng phe nhóm lợi ích trong đảng đang lan rộng và đi sâu vào từng chi bộ đảng để tạo ảnh hưởng. Nếu “động” được hiểu là “tích cực, làm hết khả năng và kiên quyết” thì “mở” cũng có thể hiểu là sự chọn lựa cần “thông thoáng, dân chủ” không bè phái, nể nang để bầu ra những người kém khả năng, thiếu đạo đức cách mạng, lối sống gương mẫu hay không đủ bản lĩnh chính trị để trung thành với đảng, với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh là nền tảng của đảng cấm quyền.
Vì vậy, ông Trọng đã nói với 200 Ủy viên Trung ương : “Theo kế hoạch, từ nay đến ngày 31/1/2015, các cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương sẽ hoàn thành việc rà soát, bổ sung tổng thể quy hoạch cán bộ, trong đó có quy hoạch các chức danh chủ chốt ở cấp mình, đơn vị mình. Do vậy, Bộ Chính trị sẽ tiến hành rà soát, bổ sung quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương sau khi có kết quả rà soát, bổ sung quy hoạch các chức danh lãnh đạo chủ chốt của các cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc.”
Riêng cơ chế đầu não nắm quyền thật sự là Bộ Chính trị và Ban Bí thư, cơ quan “giám sát việc thi hành chính sách hàng ngày của Đảng Cộng sản Việt Nam” thì ông Trọng bảo : “ Đối với việc rà soát, bổ sung quy hoạch Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Bộ Chính trị đề nghị tại Hội nghị này, các đồng chí Uỷ viên Trung ương tiếp tục giới thiệu nguồn bổ sung quy hoạch Bộ Chính trị, Ban Bí thư như nêu trong Tờ trình của Bộ Chính trị. Trên cơ sở kết quả giới thiệu và xin ý kiến Trung ương lần này, Bộ Chính trị sẽ chỉ đạo làm các bước tiếp theo để xem xét, quyết định theo thẩm quyền.”
Nghe thì có vẻ là dân chủ, nhưng thật sự không phải như thế, bởi vì Quyết Định 244-QĐ/TW ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng lại có những hạn chế khắt khe như ghi trong Điều 13 nói về “Việc ứng cử, đề cử của cấp ủy viên, ủy viên ban thường vụ, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư “, nguyên văn :
1- Cấp ủy viên cấp triệu tập đại hội không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do cấp ủy đề cử; không được ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của cấp ủy.
2- Ở các hội nghị của ban chấp hành, ủy viên ban thường vụ không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do ban thường vụ cấp ủy đề cử; không được ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của ban thường vụ cấp ủy.
3- Ở các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do Bộ Chính trị đề cử; không được ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của Bộ Chính trị.
Như vậy, các cấp “ủy”, “ban thường vụ cấp ủy” và “Bộ Chính trị” có tòan quyền quyết định tối hậu cho các cuộc bầu chọn nhằm chận đứng mọi khả năng “tự ứng cử” và “tự đề cử” của các phe nhóm, như đã xẩy ra tại hai Hội nghị Trung ương X và XI.
Nhưng kiểm soát chặt chẽ như vậy để làm gì, nếu không phải là Bộ Chính trị khóa XI gồm 16 người, do ông Nguyễn Phú Trọng cầm đầu, muốn tránh lập lại chuyện đã xẩy ra không theo như ý muốn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Trung ương 7 từ ngày 02-5 đến ngày 11-5-2013. Tại Hội nghị này, 2 ứng viên Bộ Chính trị do chính ông Trọng cơ cấu là Nguyễn Bá Thanh, trưởng ban Nội chính Trung ương và ông Vương Đình Huệ, trưởng ban Kinh tế Trung ương đã không được Ban Chấp hành chấp thuận.
Ngược lại Ban Chấp hành đã bầu Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân vào Bộ Chính trị khiến úy tín lãnh đạo của ông Trọng xuống thấp từ đó.
Thứ hai, tại Hội nghị 10, ông Trọng cũng đề nghị lấy phiếu tín nhiệm Bộ Chính trị và Ban Bí thư như một trắc nghiệm uy tín để xem ai trong số 16 Ủy viên có thể tiếp tục ngồi lại sau Đại hội đảng XII.
Ông nói :”Thực hiện Nghị quyết Trung ương 9 khoá XI, tại Hội nghị lần này, Bộ Chính trị tổ chức việc lấy phiếu tín nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương đối với các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhằm thăm dò tín nhiệm, qua đó giúp các đồng chí được lấy phiếu tự nhìn nhận lại mình, để điều chỉnh, tự giác tu dưỡng, rèn luyện, không ngừng nâng cao trình độ về các mặt và tinh thần trách nhiệm trong công tác; đồng thời giúp Bộ Chính trị có thêm thông tin để đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.”
Tuy nhiên, ông không quên khuyến cáo : “ Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư - là những chức danh lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, lại được tiến hành lần đầu, cho nên rất hệ trọng và nhạy cảm, liên quan đến uy tín và sự lãnh đạo chung của Đảng. Bộ Chính trị đề nghị các đồng chí Trung ương phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm và xây dựng, nghiên cứu thật kỹ Quy định và Tờ trình của Bộ Chính trị, các báo cáo công tác của từng đồng chí uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư để thể hiện chính xác chính kiến của mình qua mỗi lá phiếu, góp phần bảo đảm việc lấy phiếu thật sự dân chủ, khách quan, công tâm, xây dựng, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; không để các thế lực xấu, thù địch lợi dụng chống phá.”
Nhưng “thế lực xấu” và “thù địch” ở đâu ra, nếu không phải đang nằm ngay trong hàng ngũ đảng và trong lòng mỗi Lãnh đạo ? Bởi lẽ, người ngòai đảng và người Việt Nam ở nước ngoài chả có lợi ích gì mà phải xen vào chuyện nội bộ chỉ biết “cho điểm nhau” của đảng CSVN.
Có điều là nếu cuộc bỏ phiếu cho cơ cấu lãnh đạo cao nhất của đảng cũng làm theo 3 mức “tín nhiệm cao”, “tín nhiệm” và “tín nhiệm thấp” như đã diễn ra tại Quốc hội trong hai năm 2013 và 2014 đối với các chức danh do Quốc hội bổ nhiệm, ngọai trừ Tổng Bí thư đảng, thì cũng chỉ là chuyện “làm cho xong chuyện” để khoe với đảng viên và với nhân dân nhằm lấy lại uy tín đã suy giảm khá nhiều từ khi Ban Chấp hành khoá XI đắc cử năm 2011.
Điểm xấu nhất của Bộ Chính trị khoá XI là đã không có hành động hợp thời, đúng lúc và cần thiết để đáp trả hành động xâm lược và đàn áp ngư dân Việt Nam của Trung Quốc ở Biển Đông từ năm 2007.
Thất bại thứ hai là Bộ Chính trị và Ban Bí thư đã không có bất cứ hành động nào ngăn chận Trung Quốc đang biến 8 đảo và bãi đá chiếm của Việt Nam ở Trường Sa năm 1988 thành các đảo lớn để xây dựng các cơ sở quân sự và sân bay tại hai đảo Chữ Thập và Gạc Ma.
Trung Cộng đã biến đảo Chữ Thập thành đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa với khỏang 49 mẫu. Một đường bay dài 3000 thước, dài từ 200 đến 300 thước đã xây xong để cho các máy bay phản lực chiến đấu của Trung Cộng sử dụng. Khỏang 200 Thủy quân lục chiến có võ trang các loại vũ khí cận đại cũng đồn trú tại đây.
Điều quan trọng là khỏang cách từ Chữ Thập đến Vịnh Cam Rang chỉ vào khỏang 400 cây số. Và cũng từ đây, quân đội Trung Quốc có thể đe dọa dễ dàng các nước Phi Luật Tân, Ma Lai Á và Brunei.
Còn tại Gạc Ma thì sao ? Gạc Ma là vị trí chiến lược nằm trên đường tiếp quân và di chuyển của tầu bè Việt Nam từ đất liền ra Trường Sa. Một đường bay đủ cho phản lực cơ và các loại máy bay vận tải quân sự cũng đã hòan tất để đe dọa các tỉnh miền Trung và miền Nam Việt Nam.
Như vậy mà Bộ Chính trị và Ban Bí thư đảng CSVN vẫn nhởn nhơ như diều bay trước gío thì liệu có còn chút uy tín nào với nhân dân không ?
Vì vậy, lá phiếu tín nhiệm của Hội nghị Trung ương 10 sẽ chẳng có giá trị gì nếu việc Bộ Chính trị và Ban Bí thư để cho Trung Cộng tự tung tác ở Biển Đông không được bàn bạc trước cuộc bỏ phiếu.
NHỮNG CHUYỆN BÌNH THƯỜNG
Ngòai hai vấn đề quan trọng nhất đã nêu, Hội nghị 10 còn nghiên cứu các Văn kiện của Khóa đảng XI sẽ trình trước Đại hội đảng XII, trong đó có các Báo cáo Chính trị; Báo cáo tổng kết việc thi hành Điều lệ Đảng; Báo cáo kinh tế - xã hội và Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016).
Tuy nhiên các văn kiện này không được phổ biến cho nhân dân, nhưng ai cũng biết Ban Tuyên giáo Trung ương đã chủ trì nhiều cuộc thảo luận cấp nhà nước bằng tiền thuế của dân để chỉ làm được một điều là tiếp tục tô son điểm phấn cho thành tích của nền kinh tế đầu ngô mình sở gọi là “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, và chủ trương kiên định Chủ nghĩa Cộng sản để duy trì quyền lãnh đạo độc tôn và độc tài cho đảng.
Đó là những chuyện rất giản dị vì mọi việc làm của đảng CSVN đều không thể vượt ra ngoài nội dung văn kiện được gọi là “Cương linh xây dựng đất nước trong thời kỳ qua độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ xung, phát triển 2011).
Cương lĩnh này cũng đã được “luật hóa” bởi Hiến pháp sửa đổi năm 2013 để khẳng định :
“1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.” (Điều 4)
2. “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.” ( Điều 51)
Như vậy thì có gì mới đâu mà Ban Tuyên giáo Trung ương phải chi tiêu nhiều tiền bạc, phí phạm thời giờ của dân để ông Nguyễn Phú Trọng phải phô trương rằng: “Dự thảo Báo cáo Chính trị đã được xây dựng và từng bước hoàn thiện, nâng cao, trên cơ sở tiếp thu, chắt lọc các kết quả nghiên cứu tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới và kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; qua nhiều cuộc khảo sát thực tiễn, nhiều cuộc hội thảo, toạ đàm, lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà quản lý; làm việc với 22 Ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ; đặc biệt là ý kiến đóng góp của các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng và Nhà nước.”
Còn về báo cáo được gọi là “ lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới” được các nhà lý luận của đảng vo tròn bóp méo nhằm “Cộng sản hoá đường lối kinh tế của Tư bản Chủ nghĩa” để tiếp tục làm như cũ thì có gì mới đâu mà phải chi tiền để họp hành, tọa đàm, nghiên cứu hầu giúp Tổng Bí thư, trưởng Ban Chỉ đạo có thể nêu thành tích đã : “ Chỉ đạo các ban cán sự đảng, đảng đoàn, lãnh đạo của 48 ban, bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương, cơ quan nghiên cứu khoa học, lý luận chính trị và 16 tỉnh uỷ, thành uỷ tiến hành tổng kết 10 vấn đề và 8 mối quan hệ lớn. Kết quả tổng kết đã được tổng hợp, nghiên cứu, chắt lọc, xây dựng thành dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới.”
Nhưng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lại đã thừa nhận ngày 23/10/2013 rằng: “Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa.”
Như vậy thì việc Ban Tuyên Giáo Trung Ương và Hội đồng Lý luận Trung ương cứ mãi nhắm mắt biên sọan Báo cáo Chính trị để lý luận theo hướng nhìn mù mờ của ông Trọng thì có phải những tác gỉa của các văn kiện chính trị này đã lạc đường hay còn ngủ mê trước thực tế là nhân dân và rất nhiều đảng viên đã quay lưng lại với đảng CSVN ?
Điểm nổi bật của tình trạng “đứng nguyên tại chỗ” sau nhiều năm đôn đốc, thúc đẩy quyết tâm hơn mà ông Trọng vẫn phải lập lại trong diễn văn rằng : “Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đáp ứng yêu cầu. Một số chủ trương của Đảng chậm được cụ thể hoá, chưa đi vào cuộc sống. Công tác xây dựng Đảng, nhất là việc ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên kết quả chưa được như mong muốn. Lãnh đạo, chỉ đạo cải cách hành chính, cải cách tư pháp có mặt chưa tiến bộ rõ rệt.”
Công tác cải cách hành chính và giảm bớt biên chế trong guồng mày cai trị để tiết giảm ngân sách cũng cứ “bình chân như vại”.
Hãy nghe ông Trọng than : “ Đề nghị các đồng chí đi sâu phân tích nguyên nhân vì sao từ lâu và nhiều lần, chúng ta đã bàn, đã thống nhất chủ trương và thực tế cũng đã tích cực triển khai thực hiện nhưng đến nay tổ chức bộ máy vẫn có xu hướng ngày càng phình to, biên chế tăng cao, cấp phó còn nhiều; chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chậm được cải thiện ? Cái gì thuộc về chủ trương, quan điểm; cái gì thuộc về chỉ đạo thực hiện, cơ chế, chính sách, biện pháp cần phải sửa đổi, bổ sung?..”
Ông nói thế nhưng cũng dư biết nạn bè phái, nạn con ông cháu cha được gài vào bộ máy để ngối mát ăn bát vàng là nguyên nhân tại sao bộ máy cứ phình ra mà không sao bóp nhỏ lại được.
Vây sau Hội nghị 10, liệu ông Trọng có khả năng thay đổi được gì không hay mọi chuyện rồi sẽ vẫn ở đâu ngồi yên đó cho đẹp lòng mọi người ?
Đó chính là chuyện khủng hỏang lãnh đạo hiện nay của đảng Cộng sản Việt Nam./-
Phạm Trần
(01/2015)
- Viết bởi Dân Chúa
I. TÓM LƯỢC SỨ ĐIỆP HÒA BÌNH 2015
Nhân Ngày Hoà bình Thế giới lần thứ 48 ngày 01.01.2015, Đức Thánh Cha Phanxicô gởi đến chúng ta Sứ điệp có chủ đề ‘Không còn nô lệ nữa, nhưng chỉ còn tình huynh đệ với nhau’. Người viết :
Năm mới, do ân sủng Thiên Chúa ban cho toàn nhân loại, Đức Thánh Cha gửi lời chúc bình an đến mọi người nam nữ,… tới các vị lãnh đạo quốc gia và tôn giáo lời cầu xin để không còn chiến tranh, xung đột và những nỗi đau đớn gây ra bởi con người,… Đặc biệt, khi đáp lời mời chúng ta cộng tác với Thiên Chúa và cùng người thiện chí tiến tới sự nhất trí kháng cự lại những cám dỗ xúi giục hành xử không xứng với tư cách làm người.
A.- Lắng nghe kế hoạch của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Đề tài được rút từ Thư Thánh Phaolô gửi ông Philemôn, trong đó thánh nhân xin cộng sự viên mình đón nhận Onesimus, trước là nô lệ của Philemon, giờ đã trở thành Kitô hữu và, vì thế, đáng được xem là một người anh em. Do việc khi trở về với Đức Kitô, đã là môn đệ Đức Kitô, làm nên một sự tái sinh (x. 2Cr 5,17; 1Pt 1,3), tạo lại tình huynh đệ trong đời sống gia đình và xã hội.
Sách Sáng Thế (x St 1,27-28) cho biết Thiên Chúa đã dựng nên người nam (Adam, cha) và người nữ (Eve, mẹ) và chúc phúc cho họ để họ có thể lớn lên và sinh sôi nảy nở: Cain và Aben có tình huynh đệ, là anh em được sinh ra từ cùng một dạ, có cùng một nguồn gốc, bản chất và phẩm giá như cha mẹ mình, những người được tạo ra giống hình ảnh Thiên Chúa. Vì sự tiêu cực tội lỗi phá vỡ tình huynh đệ giữa các thụ tạo và làm biến dạng nét đẹp và sự cao quý bản chất là anh chị em trong chính gia đình nhân loại. Cain không nâng đỡ Abel mà còn giết em vì lòng ganh tỵ và khi làm thế, ông đã gây cuộc chiến huynh đệ tương tàn đầu tiên. Đó là một thảm kịch của sự khước từ triệt để ơn gọi làm anh em của Cain. Chuyện này (x. St 4,1-16) cho thấy nhiệm vụ khó khăn mà mọi người nam và nữ được mời sống nên một, mỗi người phải quan tâm đến người khác. Cũng vậy, Cam không tôn trọng cha là Noê, nên ông chỉ chúc phúc cho những con khác, những người kính trọng ông, gây ra một sự bất công giữa những anh chị em cùng một mẹ sinh ra (x. St 9,18-27).
Trong gia đình nhân loại, tội làm cách ly với Thiên Chúa, với cha con hay với anh em đã nói lên việc loại trừ sự hiệp thông với nhau và được biểu lộ trong một nền văn hóa chinh phục (x. St 9,25-27), kéo dài từ thế hệ này đến thế hệ sau. Giờ đây, cần phải hoán cải liên lỉ trở về với Giao Ước, được thực hiện trọn vẹn bởi sự hiến tế của Đức Kitô trên thập giá, với niềm tin ‘nơi nào càng nhiều tội lỗi, nơi đó ân sủng càng chứa chan… nhờ Đức Giêsu Kitô’ (Rm 5,20.21). Ai nghe Tin Mừng và đáp lại lời mời hoán cải thì trở thành ‘anh chị em và là mẹ’ Đức Giêsu (Mt 12,50), và vì thế được Thiên Chúa Cha nhận làm con (x. EP 1,5).
B.- Nhiều bộ mặt nô lệ hôm qua và hôm nay. Thời xưa, các xã hội đã biết đến hiện tượng người thống trị người : cơ cấu nô lệ được chấp nhận và được luật công nhận. Ai sinh ra có tự do và ai phải là nô lệ, hay những điều kiện để một người vốn sinh ra là tự do nhưng có thể bị mất đi quyền đó hay ngược lại. Luật pháp cũng thừa nhận một ai là là tài sản của người khác, có thể bị mua bán, chuyển giao như một món hàng thương mại. Ngày nay, do sự phát triển ý thức con người, nạn nô lệ, một tội ác chống lại nhân loại, đã bị xóa bỏ trên toàn thế giới. Tuy nhiên, dù cộng đồng quốc tế đã ký kết nhiều hiệp ước để chấm dứt nạn nô lệ và đã tổ chức nhiều chiến dịch để chống lại nạn này, hàng triệu người, trẻ em, người lớn mọi lứa tuổi, vẫn bị tước quyền tự do và bị buộc phải sống trong những điều kiện như các nô lệ.
Đức Thánh Cha nói Người nghĩ đến nhiều lao động, kể cả trẻ em, bị nô dịch hóa trong những lãnh vực khác nhau. Tại nhiều nước, các quy định về lao động không đúng hay trái chuẩn mực quốc tế, không có những quy định bảo vệ quyền lợi người lao động. Người cũng nghĩ đến điều kiện sống của nhiều người tị nạn, mà, trong cuộc phiêu lưu đầy bi kịch, đã phải chịu đói khát, bị tước bỏ tự do, bị cướp mất của cải hay bị lạm dụng thể lý và tính dục. Người nghĩ đến nạn ‘nô lệ lao động’, nạn nô lệ tình dục, những phụ nữ bị buộc hay bị bán trong những vụ kết hôn, nạn buôn bán cơ phận, bị bắt nhập ngũ, để xin ăn, để phục vụ cho những hoạt động phi pháp như sản xuất và buôn bán ma túy, những ai bị bắt cóc, giam giữ, tra tấn, hành hạ hay bị giết bởi những nhóm khủng bố.
C.- Một vài nguyên nhân sâu xa của nạn nô lệ. Ngày xưa cũng như nay, cội rễ nạn nô lệ là do quan niệm con người cho phép đối xử nhau như một đối tượng. Khi tội lỗi phá hỏng trái tim con người và làm ngăn cách chúng ta với Tạo Hóa cũng như với tha nhân, thì kẻ đó không còn được xem là những hữu thể có cùng phẩm giá, là anh chị em cùng chia sẻ nhân tính, nhưng là những đối tượng. Được tạo ra giống Thiên Chúa, nhưng do sự cưỡng bức, sự lừa dối, hay bằng những ép buộc về thể lý hay tâm lý, con người đã bị tước đoạt sự tự do mình, bị bán và bị hạ xuống thành hàng hóa của một số người, bị đối xử như là phương tiện chứ không phải như cùng đích. Ngoài ra, còn những nguyên nhân khác như sự nghèo khổ, việc chậm phát triển và sự loại trừ, sự khan hiếm hay không có và những cơ hội việc làm. Đôi khi, để thoát cảnh quá nghèo, họ vội tin lời hứa hão sẽ có việc làm để bị rơi vào tay những mạng lưới tội phạm tổ chức rất tinh vi các chuyến buôn người.
Nạn hối lộ của những ai sẵn sàng bất cứ việc gì để làm giàu cũng là một nguyên nhân khác của nạn nô lệ. ‘Khi con người bị đồng tiền thay thế, các giá trị sẽ bị đảo lộn’.
D.- Cùng dấn thân để xóa bỏ nạn nô lệ. Bài trừ nạn nô lệ như một sự dấn thân chung và hoàn cầu hóa tình huynh đệ. Khi suy xét về hiện trạng buôn người và những hình thức nô lệ khác được công nhận hay không, chúng ta có ấn tượng là chúng xảy ra là do sự thờ ơ của mọi người. Tuy nhiên, cũng có nhiều người làm việc âm thầm chống lại tệ nạn này và cứu giúp các nạn nhân, như các dòng tu, nhất là những dòng nữ, đang làm, tìm cách phá vỡ xiềng xích vô hình liên kết giữa những kẻ bóc lột và các nạn nhân. Với sự kiên nhẫn, can đảm và kiên trì, các dòng tu này đã hoạt động trong những hoàn cảnh rất khó khăn, bị đe dọa bởi bạo lực, nhưng luôn cố gắng để phá bỏ những mắc xích vô hình trói buộc những nạn nhân với những kẻ buôn người và giúp các nạn nhân phục hồi về tâm lý và tái hội nhập vào xã hội. Nhiệm vụ này xứng đáng được đề cao và hổ trợ bởi Giáo Hội và xã hội. Nhưng Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến việc dấn thân ba nỗ lực cần thực hiện : thiết lập các thể chế trong việc phòng ngừa các tội ác bắt người làm nô lệ, bảo vệ các nạn nhân và truy tố những kẻ phạm pháp. Các nỗ lực cần có một hoạt động chung và hoàn cầu từ tất cả các tổ chức khác nhau của xã hội, các luật lệ về di trú, lao động, nhận con nuôi, và di chuyển các xí nghiệp phải được thực thi trong sự tôn trọng phẩm giá con người, bảo vệ các quyền cơ bản của con người. Ngoài ra cần có những cơ chế kiểm soát hữu hiệu, tránh những kẽ hở cho sự tham những và phạm pháp mà không bị luật pháp trừng trị. Các tổ chức liên chính phủ, dù tôn trọng nguyên tắc phân chủ quyền, cũng được mời gọi để phối hợp những sáng kiến để chiến đấu chống lại các mạng lưới xuyên quốc gia các tội phạm có tổ chức thực hiện các hoạt động buôn người và mua bán người tị nạn trái phép. Việc hợp tác rất cần thiết trên nhiều lĩnh vực, liên quan đến các thể chế quốc gia và quốc tế, cũng như các cơ quan của xã hội dân sự và thế giới tài chính.
E.- Toàn cầu hóa tình huynh đệ, chứ không phải nô lệ hay sự thờ ơ.
Trong việc ‘loan báo chân lý tình yêu Đức Kitô trong xã hội’, Giáo Hội dấn thân trong các hoạt động bác ái xuất phát từ chân lý về con người, bằng đưa ra mọi con đường dẫn đến sự hoán cải, để chúng ta có cái nhìn về những người thân cận mình, dù là ai, người anh chị em trong một gia đình nhân loại, và để thừa nhận phẩm giá bẩm sinh của họ trong chân lý và tự do, như chuyện Josephine Bakhita soi sáng chúng ta. Vị thánh xuất thân từ vùng Darfur (Sudan) bị bắt cóc bởi những người buôn bán nô lệ và bị bán cho những ông chủ tàn ác khi thánh nhân chỉ mới 9 tuổi, từ chính những kinh nghiệm đau thương này, đã trở nên một ‘ái nữ tự do của Thiên Chúa’ nhờ đức tin sống trong sự hiến dâng sốt sắng và sự phục vụ người khác, đặc biệt là những người thấp bé và bất lực nhất. Thánh nhân đã sống giữa thế kỷ 19 và 20, giờ là một mẫu gương điển hình cho niềm hy vọng nơi nhiều nạn nhân của nạn nô lệ, nâng đỡ các nỗ lực cho những ai dấn thân trong cuộc đấu tranh chống ‘vết thương trên thân mình của nhân loại hiện tại, một vết thương trên thân xác Đức Kitô’. Thiên Chúa sẽ hỏi mỗi người chúng ta: ‘Ngươi đã làm gì em ngươi?’ (x. St 4,9-10). Sự thờ ơ đang đè nặng trên cuộc sống nhiều anh chị em chúng ta đòi mình phải tạo nên một sự toàn cầu hóa tình liên đới và tình huynh đệ, để có thể trao cho nhau niềm hy vọng mới và giúp nhau tiếp bước đi với sự dũng cảm qua những vấn đề thời đại chúng ta và những chân trời mới mở ra và được Thiên Chúa đặt để vào tay chúng ta.
II.- NGƯỜI VIỆT THỐNG TRỊ ĐỒNG BÀO.
Thi hành Hiệp định Genève 20.07.1954, cộng sản Bắc Việt, ngày 10.10.1954, đã vào tiếp thu Hà nội và đặt thể chế độc đảng tại Miền Bắc nước Việt. Để bảo vệ đảng, chế độ công an trị được khai triển mạnh và ‘nằm vùng’ tại các phòng tổ chức ở mọi công sở, trường học… Muốn là hiệu trưởng hay giáo sư gộc, họ phải là đảng viên chuyên cần theo dõi hơn dạy học sinh hầu đáp ứng tiêu chuẩn ‘hồng hơn chuyên’. Do đó, cả thầy lẫn trò phải hấp thụ lời Lê Duẫn dạy ‘Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung quốc’. Trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu thân 1968, cộng sản Hà nội đã đưa hàng ngàn trẻ em Việt vào chổ chết khi tấn công các thành phố Miền Nam và giết cư dân ở các nơi này :
"Giết! Giết! nữa bàn tay không ngừng nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong
Cho Đảng bền lâu cùng rắp bước chung lòng
Thờ Mao Chủ Tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt (Tố Hữu)
Do đó, khi chiếm được Miền Nam, giới Giáo chức này tiếp tục đào tạo những công dân chỉ biết cúi đầu trước bạo quyền mà không hề biết ‘Dân chủ phải được thể hiện qua Quyền Đầu phiếu và Tự do Ngôn luận’. Cử tri Việt Nam bị giới hạn trong ‘đảng cử, dân bầu’ (đảng đâu có ngu để cử người tài đức và cử tri yêu nước không dại mà bầu kẻ bất tài, thất đức). Sinh viên Nguyễn Phương Uyên bày tỏ lòng yêu nước (chống Trung quốc xâm lược : ‘Tàu khựa cút khỏi Biển Đông’) và thương đồng bào (‘Đảng cộng sản chết đi’ vì đảng đã tạo ra các nhóm lợi ích phá hoại nền kinh tế và dùng công an, côn đồ cướp đất người dân và đánh đập họ). Các hiệu trưởng và giáo sư Việt Nam đã im lặng khi hiệu trưởng Đặng Vũ Ngoạn ký quyết định buộc Phương Uyên thôi học với lý do cô đã vi phạm pháp luật. Đây là một quyết định vô nhân đạo đối với một sinh viên giỏi ở tuổi 21. Khôi nguyên Nobel Hòa bình 2014, nữ sinh Pakistan Malada Yousafzay, 17 tuổi, là một gương sáng tranh đấu cho người trẻ được quyền đi học. Các nhà mô phạm này cũng đã cấm sinh viên tham gia biểu tình chống Tàu cộng xâm lược, vi phạm nguyên tắc Tự trị Đại học.
Biết những hành động bất khả kính đó của họ, chúng ta có thể hiểu tại sao Cộng đảng không cho phép mở các trường tư Công Giáo trên Quê Hương vì hệ thống học đường này cung hiến cho Dân tộc Việt một nền giáo dục nhân bản để giúp học sinh phát triển toàn diện con người về luân lý và kiến thức… Trong lãnh vực được phép dạy, các tu sĩ nam nữ, như Đức Thánh Cha nhắc, luôn tận tâm đào tạo những công dân tốt cho xã hội mai sau. Vì tài nguyên quốc gia được thâu tóm bởi các nhóm lợi ích và bọn tư bản đỏ, nên các tu sĩ đã phải đôn đáo vận động tài chính khắp nơi để xây trường và điều hành việc dạy dỗ chỉ vì Kính Chúa và Thương Người.
Hầu như mọi hình thức nô lệ mà Đức Thánh Cha đề cập đều xãy đến cho xã hội Việt Nam vì :
A.- Nhà nước độc tài cần có một lực lượng công an hết mình với đảng để chống lại nhân dân và, để được như vậy, họ được ban trọn quyền tàn bạo với đồng bào và số tướng công an đang ở mức cao nhất thế giới, hơn cả Mỹ và Tàu. Ngày 16.09.2014, Tổ chức theo dõi nhân quyền (Human Rights Watch, HRW) công bố phúc trình ‘Công bất an: Những vụ tử vong khi bị tạm giam, giữ và vấn nạn công an bạo hành tại Việt Nam’ mà các bị cáo lương tâm lẫn hình sự phải gánh chịu. HRW thu thập thông tin từ tháng 8-2010 đến tháng 7-2014 đã liệt kê 14 trường hợp chết do tra tấn, 4 vụ chết không biết lý do, 6 vụ bị cho là tự tử, 4 vụ báo cáo là chết vì bệnh và 22 người tù bị đánh trọng thương. Theo giới bảo vệ nhân quyền, các cuộc tấn công của lực lượng bạo lực nhà nước năm 2014 (tính đến tháng 11) là 31 vụ và trực tiếp xâm hại đến 115 người (18 vụ hơn năm 2013 và trực tiếp xâm hại đến 71 lượt người). Riêng các tù nhân lương tâm bị ngược đãi thì năm 2014 có ít nhất 18 người (hơn năm 2013 khoảng 12 người). (Theo bài ‘Nhận diện chủ trương tra tấn, bạo hành, hãm hại giới bảo vệ nhân quyền’ của Phạm Bá Hải). Trong những trường hợp phải thừa nhận là bạo hành, những công an phạm pháp chỉ bị kỷ luật nội bộ nhẹ nhàng, ít khi bị hạ cấp, thuyên chuyển hay buộc ra khỏi ngành, càng hiếm bị truy tố và kết án…
B.- Việt Nam đã ký tham gia ‘Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người’ tại New York ngày 07.11.2013 và được toàn thể đại biểu Quốc hội thông qua nghị quyết phê chuẩn ngày 28.11.2014, công an vẫn tra tấn tàn bạo các nghi can để bức cung (đánh đập để buộc phải khai theo ý đảng) để :
1/- ‘Làm quê’ những ai bênh vực các người bị bắt oan. Công an đánh nạn nhân bị đau quá phải nhận tội. Nếu đánh lỡ nạn nhân chết thì có ‘nhà nước no (lo)’. Nếu nạn nhân không chịu nổi phải nhận tội thì chúng chế nhạo các cá nhân hay tổ chức đã lên tiếng bênh vực sai hay đã lên tiếng vì được trả tiền {còn quá nhiều người không nhớ lời cố Tổng thống Thiệu ‘đừng tin những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì chúng làm’}.
2/- Buộc phải nhận tội mình không phạm, vì bị đánh quá đau hoặc do bị ngụy tạo vật chứng hay người chứng… Hai nạn nhân bị án tử oan đang được các tổ chức dân sự và truyền thông lên tiếng xin tái xét. Gia đình họ đã phải bỏ công ăn việc làm, thậm chí tán gia bại sản để đi đòi công lý cho người thân trong đau khổ và tuyệt vọng từ 6-7 năm qua :
a- Vụ án Nguyễn Văn Chưởng. Đêm 14.07.2007, một thiếu tá công an ở Hải Phòng bị giết chết. Tòa xử : Vũ Đoàn Trung, ở Hải phòng, nhận tội, 23 năm tù giam; Đỗ Văn Hoàng, ở Hải Phòng, không nhận tội, tù chung thân; và Nguyễn Văn Chưởng, ở Hải Dương (bị Vũ Đoàn Trung tố cáo là chủ mưu), không nhận tội, tử hình. Tháng 7 năm đó, Chưởng cùng với em lao động ở Hải Phòng. Tuy nhiên, cả 2 không có mặt tại đó vào đêm xảy ra án mạng (vì về thăm nhà ở tỉnh Hải Dương mỗi cuối tuần). Nhiều người thân lẫn người dân trong thôn đã làm chứng về sự có mặt 2 anh em đêm 14-7-2007, xa phạm trường tới 40km. Thế nhưng lời khai của các nhân chứng bị cơ quan điều tra hoặc xuyên tạc (như bà Nguyễn Thị Bích, mẹ bị cáo) hoặc dùng tra tấn để phải rút lại (như chị Nguyễn Thị Bảy, vợ bị cáo hoặc nhiều người dân trong làng). Các nhân chứng ấy không được ghi lời khai trong bản án cũng chẳng được triệu tập đến tòa trong ngày xử. Nhiều tình tiết cho thấy công an đã áp đặt tội cho Chưởng ngay từ khi khởi sự điều tra. Đó là bắt Nguyễn Trọng Đoàn (em của Chưởng) khi anh này đem đơn của mẹ kêu oan cho con (10.08.2007) và bị kết án 2 năm tù vì ‘che giấu tội phạm’. Đó là tra tấn dã man bị cáo Chưởng và nhiều chứng nhân để hủy bằng cớ ngoại phạm của anh. Đó là trong hồ sơ vụ án, giấy tờ giám định thương tích của Chưởng, lời khai của nhiều nhân chứng không có; chữ ký của Đoàn bị giả mạo; lời khai hai bị cáo Vũ Toàn Trung và Trần Thị Lan Phương (người yêu) rất mâu thuẫn nhau; yêu cầu của Chưởng xin được khôi phục các cuộc điện thoại của mình tối ngày 14 và sáng ngày 15-07-2007 cũng bị lờ hẳn. Ngoài ra, cơ quan điều tra còn gây khó khăn và chậm trễ trong việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa (hơn 3 tháng so với qui định là 3 ngày) khiến nhiều phiên thẩm vấn và biên bản lời khai không có luật sư tham dự. Tại phiên xét xử, tòa án không triệu tập nhân chứng và cũng không cho các bị cáo đối chất với nhau. Chưởng kêu bị tra tấn nhục hình thì Hội đồng xét xử bác bỏ vì cho rằng trong biên bản không ghi điều đó. Nhận thấy vụ án bất công, gia đình thuê luật sư bào chữa thì được trả lời: ‘Việt Nam không có luật! Nếu thực hiện đúng luật thì chúng tôi có thể cãi cho ông. Luật các nước khác thì chúng tôi cãi được còn Việt Nam không có luật nào cả. Nên chúng tôi chịu thua’. Thấy bản án oan ức, thân phụ bị cáo đã làm đơn gửi văn phòng Chủ tịch nước hàng ngàn lá và đến tận nhà riêng ông Trương Tấn Sang, để đưa cả đơn bằng máu mà báo Người Đưa Tin chụp tung lên mạng… nhưng nay (03.12.2014) vẫn không có phản hồi.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/being-victims-of-death-penalty-because-of-torture-ha-12032014134232.html
b- Vụ án Hồ Duy Hải. Hai nhân viên bưu điện bị hãm hiếp, giết chết đoạn cướp của ngày 14-01-2008 ở bưu cục Cầu Voi (Long an). Sau đó, công an bắt sinh viên Hồ Duy Hải. Hai cấp tòa sơ thẩm và phúc thẩm đều tuyên án tử hình cho anh về các tội ‘giết người và cướp tài sản’. Trong các bản khai, Hồ Duy Hải có thừa nhận tội lỗi, nhưng trước tòa hai cấp và khi gặp thân nhân, anh đều kêu oan và cho biết mình đã bị tra tấn dã man nên phải ký nhận những bản khai viết sẵn. Trong phiên sơ thẩm ngày 28.11.2008, luật sư bào chữa Nguyễn Văn Đạt đã đưa ra đến 41 điểm sai phạm trong quá trình tố tụng và điều tra xét hỏi, như không có vật chứng (các dấu vân tay tại phạm trường chẳng phải là của bị cáo, con dao và tấm thớt gây nên cái chết cho 2 nạn nhân là đồ đi mua ở chợ về sau, mẫu máu và tóc lại để tới 5 tháng sau đó mới xét nghiệm), không có nhân chứng xác nhận bị cáo có mặt tại phạm trường. Các chi tiết này không được cơ quan điều tra giải đáp. Đến phiên xử tiếp, luật sư chỉ định Võ Thành Quyết đã không bào chữa, lại còn ‘xin nhận tội’ và ‘xin được hưởng’ án chung thân giùm cho bị cáo (luật sư ‘quốc doanh’ này ‘đớp’ 10 triệu đồng của gia đình Hải có vi phạm Thông tư liên tịch bộ Tài chính-bộ Tư pháp số 66/2007/TTLT-BTC-BTP ngày 19.06.2007 ‘… luật sư không được nhận thêm bất cứ khoản tiền nào từ bị can, bị cáo hoặc thân nhân của họ’ không ?). Trong đơn đề nghị giám đốc thẩm ngày 11.01.2012, luật sư Trần Hồng Phong đã chỉ ra vô số điểm mâu thuẫn để rồi nhận định: ‘Việc xét xử phiến diện, thiếu khách quan, bất chấp kết quả giám định khoa học; kết luận trong bản án không phù hợp với các tình tiết khách quan vụ án; vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm sai lệch hồ sơ vụ án; áp dụng pháp luật không đúng, xét xử sai tội danh’. Ngoài ra, sau khi vụ án xảy ra, nhiều tờ báo đã có bài viết, nêu nhiều tình tiết cho thấy hung thủ có thể là một kẻ khác và đã được cơ quan điều tra lấy lời khai ngay từ khi mới phát hiện vụ việc. Thế mà toàn bộ các tình tiết ấy đã không nằm trong hồ sơ. Đó là chưa kể có mật lệnh cấm nhiều tờ báo không được viết gì về vụ Hồ Duy Hải !?! Sau khi bị án tử hình, Hải và gia đình không viết đơn xin ân xá (dù có bị ép) gửi đến Chủ tịch nước mà chỉ liên tục kêu oan vì họ cho rằng anh không có tội. Sáu năm qua, gia đình đã gửi đơn khắp nơi đề nghị giám đốc thẩm để giải oan cho Hải, đến Quốc hội và nhà riêng các lãnh đạo cao cấp để kêu cứu nhưng vô vọng. Thậm chí bà còn bị dọa đổ keo vào miệng để không la được nữa và dì ruột Hải thì bị công an côn đồ đánh cho thâm tím tay chân khi hai bà căng biểu ngữ trước Tòa án tối cao ngày 28.11.2014. Ngày 07.12.2014, bà Loan, mẹ của Hải, gởi Đơn kêu oan khẩn cấp đến Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và ngày 09.12.2014, Văn phòng Chính phủ gởi ‘hỏa tốc’ thư yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân tối cao đình chỉ thi hành án xét lại bản án tử hình Hồ Duy Hải trong vòng một tháng.
Ngày 30.12.2014, gia đình Hải đến thăm anh như thường lệ tại trại giam Long An, nhưng Giám thị trại nói do vụ án đang trong giai đoạn được các cơ quan liên quan xem xét giải quyết nên hạn chế gia đình tiếp xúc với phạm nhân mà chỉ cho phép gửi đồ thôi. Xin mà không gặp được trưởng trại mà chỉ được trung tá Giang cho biết có văn bản từ Hà nội không cho thăm Hồ Duy Hải. Gia đình xin xem vì hai tháng nay, mẹ nó nhớ nó lắm. Chúng trả lời rằng không có giấy gì hết. Lo sợ anh Hải đã bị thủ tiêu để bịt miệng, bà Loan đã cởi áo quần ra phản đối và kêu gào thảm thiết. Sau đó, bà cho RFA biết vì bức xúc quá, gia đình ghi lên lưng tôi ‘con tôi vô tội cho tôi gặp con tôi tại sao cấm không cho tôi gặp con tôi?’, rồi tôi viết trên quần lót... mình là con người đâu có muốn trần truồng giữa đám đông như vậy? Viết trên trang giấy nào công an cũng lấy hết rồi. Ngoài ra, công an ép bịnh viện nơi cô Hồ Thị Thu Thủy, em gái Hải, làm việc phải cử người đến trại giam bằng xe bệnh viện với hai người nói lãnh đạo kêu Thủy về bệnh viện hai lần, nhưng cô đều nói thà mất việc chứ Thủy không thể bỏ mẹ trong lúc này. Sau đó, công an nói với giám đôc bệnh viện là Thủy phải làm đơn xin nghỉ việc chứ nói bằng miệng thì công an không chấp nhận. Đúng là công an sách nhiễu thân nhân dù bà Loan có công lớn với cách mạng. Nhưng đụng bức tường Bộ Chính trị cộng đảng thì khó thoát qua… dù ai cũng biết Sự Thật : Hồ Duy Hải vô can giết người, đoạt của.
Tối ngày 28.12.2014, gia đình anh Hải đã tham dự Thánh Lễ đồng tế cầu nguyện cho Công lý và Hòa bình hàng tháng. Ý cầu nguyện hôm nay gồm cho Hồ Duy Hải và Nguyễn Văn Chưởng bị kết án tử hình nhưng có nhiều dấu hiệu oan sai mà gia đình đã đi kêu oan trong những năm tháng qua và được công luận trong và ngoài nước chú ý và cũng để cầu nguyện cho lãnh đạo các quốc gia bỏ án tử hình. Linh mục chủ tọa Thánh Lễ, Cha Vinhsơn Phạm Trung Thành, trong bài giảng, nhấn mạnh sự sống là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người và không ai có quyền lấy đi sự sống của người khác. Hỡi những ai ủng hộ sự chết, hỡi những ai chủ trương sử dụng sự chết, nhân danh bất kỳ một lợi ích nào, hãy biết ‘phương tiện xấu không thể mang lại sự tốt’. Hãy chấm dứt ngay những hành động uy hiếp sự sống! Hãy dừng tay lại, đừng tiến hành bất cứ một hành động nào gây ra cái chết, cho dù nhân danh bất cứ điều gì. Chúng tôi khẩn thiết kêu gọi chấm dứt án tử hình, suy xét lại các án tử hình, nhất là các vụ án có dấu hiệu oan sai, đặc biệt là vụ án Hồ Duy Hải và Nguyễn Văn Chưởng. Xem xét lại cẩn thận và công minh. Chúng ta không mất gì cả, nhưng nếu quả thật là oan sai, chúng ta cứu được mạng người; mà sự sống thì vô giá, không ai gầy tạo được sự sống’.
C.- Buôn bán người tị nạn. Nhân có tin nhóm 13 người Thượng ở Tây Nguyên trốn sang Campuchia và được Liên hiệp quốc bảo lãnh, chị Việt Hà (đài RFA) đã phỏng vấn luật sư Scott Johnson ở Australia. Ông cho biết :
- năm 2001, xảy ra một vụ biểu tình lớn ở Việt Nam của người Thượng, và họ phải bỏ trốn và, từ đó, những gì đã diễn ra vẫn đang diễn ra, như sự đàn áp tôn giáo, các nhóm thờ phượng tại nhà và đạo Thiên Chúa vẫn bị đàn áp khiến họ phải liên tục chạy sang Campuchia. Tôi có thể nói tình hình rất xấu và cho thấy sự vô vọng của người Thượng tỵ nạn. Liên Hiệp Quốc, Hoa kỳ, Campuchia và Việt Nam, cả Liên hiệp Âu châu nữa, thực sự vẫn chưa giải quyết được cái gì.
- chúng tôi chứng kiến nhiều người bị bắt và bị trả về Việt Nam. Tôi đã phỏng vấn nhiều người trong họ. Tất cả đều nói về những truy bức, tra tấn, đe dọa bởi công an Việt Nam. Cảnh sát Campuchia đã truy tìm và bắt họ để bán cho Việt Nam với giá 60 mỹ kim mỗi người. Do đó, Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn trên Campuchia và muốn nhận những người Thượng đó để đối xử họ rất tàn tệ. HRW ghi nhận nhiều trường hợp bị chết khi bị giam giữ. Ai đã may mắn sống sót thì đã bị thương tổn trong nội tạng được thả về, sau đó, sẽ chết trong cộng đồng.
D. Buôn bán phụ nữ Việt sang Tàu và các nước khác. Tại Việt Nam, cái gọi là ‘Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa’, tuy không ai định nghĩa được là gì, nhưng ai cũng nhìn thấy nó đem lại sự giàu sang cho đảng viên cộng sản và những ai biết mánh mung với chúng. Đồng bào làm ăn chất phác, không vây cánh, phải cam phận nghèo khổ. Những cha mẹ bất lương khai thác con cái, với chút hy vọng con mình có đời sống khá hơn để có thể giúp họ… Các đoạn phóng sự này cho thấy các cô gái Việt được đưa đi theo chồng sang sống tại Tàu và nếu hắn không vừa ý thì có thể đổi cô khác như ‘hàng hóa’ :
https://www.youtube.com/watch?v=4eHJJsDob40
Trafic de femmes vietnamiennes en Chine- Buôn bán phụ nữ Việt Nam sang Trung Quốc
https://www.youtube.com/watch?v=umyLKkwGoAA
Trafic de Femmes Vietnamiennes en Chine (2/3) - 07.03.2013
https://www.youtube.com/watch?v=kc1V-IOux6k
Trafic de Femmes Vietnamiennes en Chine (3/3) - 07.03.2013
E. Lường gạt lao động nước ngoài. Các công ty môi giới xuất cảng lao động chỉ biết thu tiền các công nhân muốn đi làm, nhưng họ biết rất ít điều kiện làm việc tại các xí nghiệp hải ngoại khiến đồng bào bị thiệt hại về tài chính và, có khi đến tính mạng. Tiền môi giới thì biết nhận, nhưng khi họ gặp nạn nhờ can thiệp thì các công ty lờ đi. Xin mời xem :
https://www.youtube.com/watch?v=nLa_IrXSuP8
Nhân chứng sống: Nạn nhân buơn người của CHXHCN VN
https://www.youtube.com/watch?v=8FN3QRcJ6Ac
Lời cầu cứu của nô lệ xứ người !
Hà Minh Thảo
- Viết bởi Nhóm Phóng viên Phật giáo Hòa Hảo Thuần Túy
VRNs (03.01.2015) – Sáng ngày 02/01/2015 ông Trương Thành Long phó Tổng vụ trưởng Vụ truyền thông GHTƯPGHHTT cho biết: hôm nay GHTUPGHHTT dự định tổ chức lễ ra mắt Nhiệm kỳ 2014 – 2018 tại tư gia ông Lê Văn Sóc thuộc xã Đông Thạnh, Tx Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long. Từ các nẻo đường tiến đến điểm lễ công an canh giữ khắp mọi nơi.
Ông Nguyễn Văn Điền phó Hội trưởng Trung Ương GHPGHHTT cho chúng tôi biết qua điện thoại: Tôi và một số đồng đạo vừa xuất phát khỏi nhà tôi tại xã Tân Phước, huyện Lai Vung, Đồng Tháp; xuất hiện một đám công an do Trần Thanh Duyệt cán bộ công an phòng an ninh tỉnh Đồng Tháp cản đầu xe tôi và một số đồng đạo không cho xe chạy.
Ông Bùi văn Luốc, Nguyễn Ngọc Tân, Nguyễn Quốc Trung, Quách Hồng Phúc, Nguyễn Thị Kim Liên, Lê Thị Vàng…vừa ra khỏi nhà tại quốc lộ 54 xã Đông Thành, Tx Bình Minh, Vĩnh Long bị cảnh sát giao thông , CS 113, công an xã, côn an mật vụ, dân quân tự vệ…cản đường không cho đi.
Ông Bùi Văn Luốc Hội trưởng GHPGHHTT tỉnh Vĩnh Long bức xúc nói: “Mấy ngày qua bọn mật vụ côn an cứ bám theo chúng tôi suốt. Sáng nay chúng tôi khoảng 10 người vừa rời khỏi nhà, bọn chúng không cho chúng tôi đi. Tôi hỏi lý do thì chúng trả lời, với tư cách là người quản lý địa phương không cho mấy chú hôm nay ra khỏi địa phương. Tôi hỏi lệnh này của ai. Bọn chúng nói không cần biết lệnh của ai. Rồi họ đuổi chúng tôi trở về nhà và tiếp tục canh giữ.”
Ông Lê Văn Sóc ban tổ chức buổi lễ cho biết: các loại công an vây kín hai đầu đường nhà tôi. Bọn chúng chặn đuổi các phái đoàn ra khỏi địa phương: Phái đoàn ông Tống Văn Chín ở An Giang, phái đoàn ông Nguyễn Văn Thơ ở Đồng Tháp, phái đoàn ông Phan Tấn Hòa ở Ô Môn, Tp Cần Thơ, phái đoàn ông Trần Văn Minh ở Vĩnh Thạnh Tp Cần Thơ, phái đoàn nhạc sĩ Hà Phương ở Tiền Giang…
Đươc biết GHPGHH do Đức Huỳnh Giáo Chủ PGHH thành lập năm 1945 sau khi ngài khai sáng Đạo Phật Giáo Hòa Hảo, tiền thân là Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội.
GHPGHHH là cơ cấu hành chính của Đạo PGHH nhầm thực hiện nhiệm vụ hoằng pháp lợi sinh, từ thiên xã hội…
GHPGHH cùng với nền Đạo PGHH trải qua bao thăng trằm của hoàn cảnh lich sử dân tộc. Có những lúc GHPGHH phải gián đoạn hoạt động.
Đặc biệt là sau biến cố 30/4/1975, Phật Giáo Hòa Hảo gặp đại pháp nạn, GHPGHH bị giải tán. Quyền tín ngưỡng của tín đồ PGHH bị chà đạp một cách thô bạo.
Đến năm 1999, trước sự đấu tranh của các nhân sĩ, cựu Trị sự viên PGHH… và sức ép của quốc tế, buộc nhà cầm quyền CSVN cho ra đời Ban đại diện PGHH sau này là Ban Trị sự GHPGHH quốc doanh. Cầm đầu là những đảng viên cs và cán bộ về hưu họ dùng tổ chức này để khống chế và kềm hãm sự phát triển của PGHH. Và cũng dùng tổ chức này để làm công cụ trấn áp các tổ chức PGHH thuần túy.
Trước hoàn cảnh đó các nhân sĩ, Trị sự viên PGHH… đứng đầu là cụ Lê Quang Liêm đã tái phục hoạt Giáo Hội PGHH vào tháng giêng năm Canh Thìn (2000) lấy tên là GHPGHH Thuần Túy để đối lại Ban Trị Sự GHPGHH quốc doanh do CS thành lập.
Trải qua một thời gian dài từ năm 2000 đến 2014 GHPGHH TT bị đàn áp khốc liệt, hàng trăm người quy kết tội một cách vô lý để tù đày.
Hiện nay còn rất nhiều người trong vòng lao lý của chế độ cs: ông Nguyễn Văn Lía, Dương Thị Tròn, Mai Thị Dung, Bùi Văn Trung , Bùi Văn Thâm, Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Văn Thả…
Nhiều người nhà tan cửa nát, có hai người đã lấy thân mình thắp lên ngọn đuốc hầu đánh động từ tâm của thế giới tự do gây sức ép cho nhà cầm quyền CSVN thay đổi chính sách được tự do tôn giáo.
Vào ngày 01/11/2014, phiên đại hội thu hẹp bí mật tại Sài Gòn đã bầu lại nhân sự GH TƯ PGHH TT nhằm thực hiện nhiệm vụ:
- Bảo vệ giáo lý chân truyền của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
- Bảo vệ truyền thống của PGHH
- Đấu tranh cho quyền tự do tôn giáo ở VN.
Ông Trương Thành Long cho biết thêm: Trong thời gian gần đây GHPGHHTT tổ chức các ngày lễ lớn trong Đạo, đám giỗ đám lễ tuần tại các tư gia đồng đạo, hội họp… đều bị công an ngăn cản, sách nhiễu , đàn áp thường xuyên. Đặc biệt là côn an thường giả dạng côn đồ hành hung các chức sắc và tín đồ PGHH Thuần Túy.
Nhóm Phóng viên Phật giáo Hòa Hảo Thuần Túy
Nguồn: DCCT
- Viết bởi Phạm Trần
VRNs (02.01.2015) – Washington DC, USA – Trước Đại hội Đảng XII mà cả nước chỉ nghe Lãnh đạo kêu gọi chống nói xấu lãnh đạo, chận đứng thông tin chia rẽ nội bộ và không được hoang mang giao động thì đó là điềm không sáng.
Có người như ông Nguyễn Chiến Thắng – Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa “đã thẳng thắn cho rằng, mỗi khi đất nước chuẩn bị có sự kiện chính trị gì thì thông tin trên mạng khiến người dân xôn xao, băn khoăn.”
Ông bảo: “Bây giờ cũng thế. Đề nghị các Bộ chức năng phải ứng phó kịp thời để ổn định chính trị” (trích Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) ngày 29.12.2014).
Nhưng ai, nhóm nào, phe nào trong đảng đã tung các loại tin này để gây bất ổn chính trị, tạo cơ hội vây bè kết cánh hay tạo áp lực để mua chuộc nhau ?
Không thấy ai dám nói thẳng ra tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ với các địa phương ngày 29.12.2014, nhưng Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh, theo tin của VOV, đã “đề nghị Bộ Công an, Thông tin Truyền thông cần quản lý tốt an ninh mạng.”
Ông Thanh nói: “Đúng như các đồng chí nói, khi sắp Đại hội, lấy phiếu tín nhiệm, trên mạng lại rộ lên một đợt thông tin nói xấu Đảng, Nhà nước, lãnh đạo chủ chốt, gây phân tâm, mất niềm tin trong dân chúng. Đề nghị cần tăng cường công tác quản lý thông tin mạng để khắc phục tình trạng này. Ai có khuyết điểm gì thì Ban Kiểm tra trung ương sẽ có trách nhiệm xem xét, làm rõ và xử lý. Trên mạng cứ đưa thông tin tràn lan thế này tôi phân tâm lắm. Tôi giáo dục tư tưởng chính trị trong quân đội rất rõ, nhưng các anh em trẻ đọc các thông tin này thì sao giữ vững niềm tin. Đề nghị phải có biện pháp chứ không nên thả nổi như hiện nay.”
Khi Quân đội và ngay cả tướng Thanh cũng “phân tâm lắm” thì “thông tin tràn lan thế này” phải ghê gớm chứ chẳng phải tầm thường.
Bởi vì chính Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang cũng phải “Kiến nghị các cơ quan lãnh đạo, chủ đạo báo chí trong thông tin tuyên truyền cần chủ động định hướng cho dư luận, đấu tranh phản bác kịp thời các luận điệu sai trái thù địch và những quan điểm thiếu tính xây dựng.”
Ông Quang không hé răng tiết lộ kẻ nào, hay nhóm nào đứng sau chiến dịch thông tin bất lợi này, nhưng ông đã yêu cầu cần: “Chú trọng kiểm soát chặt chẽ việc truy cập khai thác thông tin qua mạng Internet nhằm hạn chế thấp nhất tác động xấu vào nội bộ và lộ bí mật nhà nước, bí mật nội bộ.”
Ông cảnh giác: “Ta truy cập vào Internet để lấy thông tin thì đồng thời đối phương cũng lấy được tất cả những thứ trong mạng nội bộ của chúng ta, kể cả USB (Universal Serial Bus,USB) . Hơn nữa, thông tin trên mạng rất phong phú, đa dạng, có cả tốt cả xấu, nhưng hết sức chú ý tránh những luận điệu sai trái, thù địch, thông tin độc hại, đả kích, chia rẽ, bôi nhọ, xuyên tạc nội bộ”.
Báo Dân Trí (29.12.2014) cũng thông tin Bộ trưởng Công an còn yêu cầu: “Nên tập trung kiểm soát việc tung các tài liệu không đúng sự thật về các đồng chí lãnh đạo trên mạng, gây chia rẽ nội bộ, nhất là trước thời điểm Đại hội Đảng.”
Ông Quang còn cho biết năm 2015: “Công an sẽ tiếp tục phối hợp với các ngành chức năng tăng cường cấp phép dịch vụ Internet, tập trung ngăn chặn việc phát tán các tài liệu trên mạng không đúng sự thật nhằm bôi nhọ, đả kích các lãnh đạo, gây chia rẽ nội bộ.”
Ông nói: “Có thể thấy có rất nhiều loại thông tin như thế, gây tác động rất xấu trong nội bộ, cần lên án và ngăn chặn, giảm thiểu sự độc hại tác động vào nội bộ” (theo VOV 29.12.2014)
Nhưng kẻ nào tung tin và cho ai hứng ? Dân thì chắc là không làm gì có các chuyện “thâm cung bí sử” thần kỳ của Lãnh đạo để moi ra cho thiên hạ coi, vì chẳng lợi lộc gì mà còn mắc họa vào thân.
Chỉ có “người trong nhà” và phải là “lãnh đạo” mới biết chuyện của nhau nên đã moi ra cho đàn em đánh phủ đầu để ngăn chặn tham vọng của đối phương hay để phòng ngừa trước Đại hội Đảng XII.
AI ĐANG PHÁ AI ?
Vậy ai đang đánh ai trong số 4 Lãnh đạo hàng đầu và những Ủy viên Trung ương muốn củng cố thế đứng trong các kỳ Đại hội đảng địa phương diễn ra trong năm 2015 ?
Tin nội bộ từ Hà Nội nói rằng, nhiều Ủy viên Trung ương khóa đảng XI không hài lòng với đường lối lãnh đạo thân Trung Quốc của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng. Ông Trọng, quê Hà Nội, cũng bị chê đã qúa già ở tuổi 72 so với chức vụ khi mãn nhiệm vào tháng 1.2016.
Ông còn bị dèm pha thiếu kiên quyết chống tham nhũng, chủ trương “dĩ hòa vi qúy” và không đủ uy tín để lãnh đạo như đã chứng minh tại 2 kỳ Hội nghị Trung ương 6 (không kỷ luật nổi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng) và 7 (thất bại trong việc đưa 2 ông Nguyễn Bá Thanh, trưởng ban Nội chính Trung ương và ông Vương Đình Huệ, trưởng ban Kinh tế Trung ương vào Bộ Chính trị).
Người thứ hai bị phê bình “ba phải” là Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang, 67 tuổi vào năm 2016. Ông Sang sinh ra ở Long An, có thêm quyền khi Hiến pháp 2013 sửa đổi được ban hành tháng 11.2013, nhưng chỉ là hình thức, lễ trang. Ông cũng là người nói nhiều về chống tham nhũng và dễ thỏa hiệp với những than phiền và chỉ trích của cử tri nhắm vào Đảng và Chính phủ đã thất bại trong công tác chống “quốc nạn” tham nhũng, lãng phí nhưng chính ông lại là một trong số lãnh đạo hàng đầu quan trọng của hệ thống thì không biết ông đang chỉ trích ai ?
Đứng hàng thứ ba trong “tứ trụ triều đình” là Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, quê Nghệ An, sẽ 70 tuổi vào dịp Đại hội đảng XII. Ông Hùng bị nhiều đảng viên Đại biểu lên án không tích cực đấu tranh để Quốc hội ra Nghị quyết về tình hình Biển Đông khi Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng Đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN từ ngày 02.05 đến 17.07.2014.
Ông Hùng thường dễ dàng bị dị ứng với nhóm chữ “vấn đề nhạy cảm” khi đụng đến Trung Quốc nên đã mau mắn thỏa hiệp với áp lực chính trị của Bộ Chính trị 16 người, do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, người “vốn rất thân Trung Quốc” (lời Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh) cầm đầu.
Ông Hùng cũng là người đã đồng ý Quốc hội khoá 13 hõan thảo luận Luật Biểu Tình theo đề nghị của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vì là vấn đề “nhạy cảm” dễ đụng chạm với Bắc Kinh.
THẾ CHÍNH TRỊ CỦA THỦ TƯỚNG
Sau cùng là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, 67 tuổi người Cà Mâu. Ông Dũng đã tạo được uy tín trong nước và nước ngòai khi ông một mình đưa ra nhiều lời tuyên bố bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và chống hành động chiếm lấn biển đảo Việt Nam của Trung Quốc, nhất là trong vụ Bắc Kinh đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (từ 02.05 đến 17.07.2014).
Ông cũng là người đã tạo được cảm tình với các nhà đấu tranh dân chủ trong nước khi ông nói rằng: “Chúng tôi tin rằng nhân quyền, tự do, dân chủ là xu hướng không thể đảo ngược và là đòi hỏi khách quan của xã hội loài người. VN không phải ngoại lệ, không đứng ngoài xu thế này” (nói chuyện tại Viện Koerber (Berlin, CHLB Đức) hôm 15.10.)
Sau khi thoát nạn “kỷ luật” của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị 6, ông Dũng đã có những hoạt động và tuyên bố bắt đúng mạch của dư luận đòi dân chủ hóa chế độ và Luật Biểu tình.
Tại cuộc chất vấn của Quốc hội ngày 25.11.2011, ông Dũng đã đưa ra 3 lý do cần phải có Luật Biểu tình như sau:
Thứ nhất, thực hiện Hiến pháp. Hiến pháp điều 69 quy định công dân được quyền biểu tình theo pháp luật. Nhưng chúng ta chưa có luật biểu tình. Như vậy chúng ta nên bắt tay nghiên cứu xây dựng luật biểu tình. Tôi muốn nói ngắn gọn là căn cứ thực hiện Hiến pháp.
Thứ hai, trên thực tế, các vị đại biểu Quốc hội ngồi đây đều chắc thấy rõ một thực tế trong cuộc sống của chúng ta đã có nhiều cuộc đồng bào ta tụ tập đông người, biểu tình, bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị với chính quyền. Có thực tế như thế. Nhưng chúng ta chưa có luật để quản lý, điều chỉnh vấn đề này. Do đó, cũng khó cho người dân khi thực hiện quyền mà được Hiến pháp quy định và cũng khó cho quản lý của chính quyền. Đã khó như vậy sẽ nảy sinh những lúng túng trong quản lý, từ đó xuất hiện những biểu hiện mất an ninh trật tự, đã xuất hiện những việc lợi dụng để kích động xuyên tạc gây phương hại xã hội.
Thứ ba, trước thực trạng như thế, Chính phủ đã có báo cáo kiến nghị với Quốc hội khóa trước, Quốc hội khóa trước đã ban hành nghị định để quản lý, điều chỉnh hiện tượng này. Chính phủ đã ban hành nghị định số 38 để quản lý, điều chỉnh hiện tượng này nhưng Nghị định của chính phủ hiệu lực thấp chưa đáp ứng yêu cầu, tầm vóc như hiến pháp quy định và cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế cuộc sống đang đặt ra.
Chính phủ mới thấy phải kiến nghị đưa vào chương trình xây dựng luật để chúng ta có bộ luật, một luật biểu tình. Luật đó phù hợp Hiến pháp, phù hợp đặc điểm lịch sử, văn hóa, điều kiện cụ thể của Việt Nam cũng như thông lệ quốc tế và đảm bảo quyền tự do dân chủ của người dân theo đúng quy định của hiến pháp và pháp luật, đồng thời luật đó có yêu cầu ngăn chặn những việc làm, hành vi gây xâm hại an ninh trật tự, lợi ích của xã hội, nhân dân.” (Theo báo VNNET, 25.11.2011)
Tuy nhiên sau đó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sin Hùng đã tán thành đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang, cơ quan sọan thảo Luật Biểu tình, hõan đưa ra Quốc hội trong năm 2014 vì lý do chưa chuẩn bị xong và được gọi là “nhạy cảm”, nhưng đúng ra là sợ đụng chạm đến Trung Quốc khi người dân xuống đường biểu tình chống chính sách chiếm đóng biển đảo Việt Nam của Bắc Kinh như đã diễn ra từ năm 2011.
Nhưng tại kỳ họp của Chính phủ cuối năm 2014 ngày 30.12.2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã một lần nữa bác ý kiến của Bộ trưởng Trần Đại Quang và một số nhân viên Nội các xin rút dự luật biểu tình khỏi chương trình làm luật của Quốc hội năm 2015.
Bản tin của Chính phủ loan báo sự kiện này như sau:
“Cũng trong công tác xây dựng luật và pháp lệnh, theo Nghị quyết của Chính phủ, trong quý I.2015, dự án Luật Biểu tình phải được trình Chính phủ xem xét trước khi trình Quốc hội. Tuy nhiên, cơ quan soạn thảo dự luật này (Bộ Công an) xin rút khỏi chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, do biểu tình là một vấn đề nhạy cảm, phức tạp nên cần có thêm thời gian để khảo sát, tham khảo kinh nghiệm quốc tế.
Sau các ý kiến thảo luận, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ Hiến pháp quy định người dân có quyền biểu tình và quyền này do luật quy định, nhưng hiện mới chỉ có Nghị định của Chính phủ quy định. Hiến pháp cũng quy định việc hạn chế quyền của người dân phải do luật định. Trên tinh thần đó, Thủ tướng đề nghị Bộ Công an, cơ quan chủ trì soạn thảo dự thảo luật này, cần nghiên cứu kỹ và chỉ xin lùi thời điểm trình dự án luật bởi việc xây dựng luật này đã được Bộ Chính trị và Quốc hội quyết định. Hơn nữa, việc xin rút dự án luật này ra khỏi chương trình phải có đủ lý lẽ thuyết phục và phải có đủ cơ sở.” (Bản tin Chính phủ ngày 30.12.2014)
Có tin ông Dũng nuôi tham vọng trở thành Tổng Bí thư đảng, nhưng ông lại không chiếm được cảm tình của các “cây cổ thụ bảo thủ” trong đảng người miền Bắc và miền Trung. Nhiều đảng viên lãnh đạo còn phê bình ông Dũng có đầu óc “gia đình trị”, “vây bè kết cánh” theo phương án các “nhóm lợi ích” để tạo thế lực.
Quan chức thứ năm muốn ngấp nghé chiếc ghế Tổng Bí thư là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị, 67 tuổi người Thanh Hóa. Nhưng ông Nghị lại bị chê là người có nhiêu mưu mô và thuộc hàng ngũ thân Trung Quốc. Ông Nghị không được giới Trí thức và cựu đảng viên lão thành Cách mạng ủng hộ vì chính ông đã “điều binh khiển tướng” chống các cuộc biểu tình tại Thủ đô Hà Nội của nhân dân chống Trung Quốc và tưởng niệm ghi công các chiến sỹ đã hy sinh chống quân Trung Quốc xâm lược ở Hòang Sa, Trường Sa và chiến tranh biên giới 1979-1989.
Người thứ sáu đang muốn dòm ngó chức Thủ tướng là Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Xuân Phúc, Phó Thủ tướng, 62 tuổi (năm 2016) gốc người Quảng Nam, nhưng ông Phúc đang bị chê thiếu kinh nghiệm và chưa đủ úy tín trong đảng.
Đó là 6 khuôn mặt nổi cộm đang được các thông tin trong nước trao qua đổi lại vào thời điểm các Tổ chức đảng chuẩn bị Đại hội bầu bán ở địa phương để chọn người dự Đại hội đảng XII. Nhưng không ai biết liệu có ai trong số 6 chóp bu này đã nhúng tay vào việc tung lên mạng các tin nói xấu lãnh đạo và chia rẽ nội bộ như lời cáo buộc và báo động của hai Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh và Công an Trần Đại Quang ?
BÁO QUÂN ĐỘI ĐÁNH LẠC HƯỚNG
Trong khi đó thì có điều chắc chắn là báo Quân đội Nhân dân trong bài viết “Kiên quyết đẩy lùi những thông tin bất lợi cho đất nước” của Thiện Văn, ra ngày 29.12.2014 đã cố tình nói lọai thông tin “nói xấu lãnh đạo, gây chia rẽ” không xuất xứ từ nội bộ đảng mà do các mạng báo chống phá đảng trong-ngòai cấu kết với nhau thực hiện.
Tác gỉa mở đầu: “Thời gian qua, các trang mạng hải ngoại và một số trang mạng trong nước có máy chủ ở nước ngoài vẫn ráo riết chống phá cách mạng Việt Nam bằng những thủ đoạn tinh vi, xảo trá, nham hiểm.”
Thiện Văn lập luận: “Một điểm đáng lưu ý nữa là, bên ngoài thì tỏ vẻ đứng trên lập trường khách quan, sốt sắng “lo lắng cho vận mệnh dân tộc, tương lai đất nước”, nhưng thực chất các “nhà dân chủ”, “nhà báo đấu tranh cho tự do”, “blogger yêu chuộng công lý”, các “nhà đài, nhà mạng” ở hải ngoại lại cố tình thông tin, tuyên truyền theo kiểu “lập lờ đánh lận con đen”. Bằng cách thông tin này, họ cố ý làm cho ranh giới tốt-xấu, thật -giả, đúng-sai, phải-trái lẫn lộn vào nhau, nhằm gây nhiễu nội dung thông tin, đánh lạc hướng dư luận xã hội, đưa công chúng lạc vào một “ma trận thông tin” rối ren, phức tạp. Đây là một kiểu “cài bẫy thông tin” rất tinh vi, nham hiểm, nếu ai thiếu bản lĩnh, thiếu hiểu biết và không tỉnh táo, mơ hồ, mất cảnh giác thì rất dễ bị “sập bẫy”. Khi ấy mưu đồ, dụng ý xấu của họ đã phần nào được hiện thực hóa.”
Tác gỉa của tờ báo Quân Đội bao biện rằng: “Không chỉ lợi dụng những lúc đất nước khó khăn để tìm cách đưa tin theo kiểu “té nước theo mưa”, “giậu đổ bìm leo”, mà vào những dịp nước ta tổ chức các sự kiện lịch sử lớn, các trang mạng “ngoài lề” cũng cố tình “lôi ra, lục lại, tái diễn” những quan điểm lạc hậu, những chiêu trò cũ rích.”
Người viết còn vẽ ra muôn hình vạn trạng để cáo buộc các mạng báo xã hội trong nước và bên ngòai Việt Nam chứ không phải từ trong nội bộ đảng, là thủ phạm những tin nói xấu lãnh đạo và gây chia rẽ trong đảng.
Thiện Văn bầy binh bố trận thế này: “Cần phải nhắc lại một điều không mới, nhưng luôn có ý nghĩa thời sự: Một trong những âm mưu mà các thế lực thù địch kiên trì theo đuổi là triệt để lợi dụng tính hai mặt của thời đại “thế giới phẳng” để tiến công phá hoại nền tảng tư tưởng-văn hóa của nước ta. Với phương châm “Đầu tư 1USD cho mặt trận tư tưởng-văn hóa hiệu quả hơn đầu tư 10USD cho mặt trận quân sự”, những năm qua, họ đã tiêu tốn hàng triệu USD vào việc xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật và đào tạo nhân lực để hình thành “đế quốc thông tin” chĩa thẳng vào Việt Nam nhằm làm chuyển biến hệ tư tưởng, thay đổi hệ giá trị văn hóa, đảo lộn những chuẩn mực đạo đức xã hội ở nước ta.”
Thế rồi, bài viết lại vẽ rắn thêm râu, vẽ rồng thêm cánh để khóac lên đầu những tờ báo và mạng truyền thông của người Việt ở nước ngòai và các mạng xã hội dân sự trong nước với lời vu cáo không cần bằng chứng: “Theo thống kê của cơ quan chức năng, hiện có 62 đài phát thanh có chương trình tiếng Việt, 390 báo, tạp chí, 88 nhà xuất bản và 397 trang web, blog, mạng xã hội có máy chủ ở nước ngoài thường xuyên “nuôi dưỡng” nguồn tin và cung cấp, đăng tải những thông tin thiếu thiện chí, bất lợi cho Việt Nam. Hàng ngày, hàng giờ, hàng phút, những tờ báo, chương trình phát thanh, trang web, blog, mạng xã hội đó dù “bao bọc” với đủ cái tên “thiện chí, mỹ miều”, hay ra vẻ “trung lập, khách quan” thì cũng có chung một ý đồ là ra sức “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” nhằm xuyên tạc tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa của nước ta, nói xấu chế độ, bôi nhọ Đảng ta; đồng thời cổ xúy lối sống cá nhân vị kỷ và huyễn hoặc, lôi kéo thế hệ trẻ đi tìm “chân trời mới” bằng những viễn cảnh ảo tưởng, xa thực tế.”
Cuối cùng, Tác gỉa kêu gọi: “Trước những thông tin bất lợi, độc hại nhằm vào nước ta ngày càng nhiều, với tần suất lớn và mật độ dày, tại hội nghị tổng kết công tác năm 2014 và triển khai nhiệm vụ năm 2015 của ngành thông tin và truyền thông vừa diễn ra mới đây, một đồng chí lãnh đạo Chính phủ khẳng định: Năm 2015, nước ta sẽ tổ chức kỷ niệm nhiều sự kiện lịch sử trọng đại và tổ chức đại hội Đảng các cấp. Do vậy, càng gần đến các sự kiện lớn cần phải chú trọng đấu tranh, phản bác và làm thất bại những thông tin không đúng sự thật, thông tin bất lợi, gây chia rẽ, nhụt chí trong nhân dân.”
Để kết luận, Tác gỉa Thiện Văn đã làm nhiệm vụ của Công an để xúi Chính phủ: “Bên cạnh đó, cần ra sức khuyến cáo, cảnh tỉnh, cảnh báo cho công chúng những trang tin điện tử, mạng xã hội, blog… chủ ý cung cấp những thông tin tạp nham, vô bổ, trái quan điểm đường lối của Đảng và gây phương hại đến ổn định an ninh tư tưởng, an ninh chính trị quốc gia. Đối với những trang mạng, blog cố tình sai phạm, được nhắc nhở nhiều lần mà không chuyển biến, không cầu thị vì lợi ích quốc gia, dân tộc, thì phải kiên quyết “đóng cửa” để góp phần làm trong sạch, lành mạnh môi trường thông tin ở nước ta.”
Nhưng muốn làm sạch “môi trường thông tin” thì trước hết, đảng cần làm sáng tỏ tại sao khi Thế giới Cộng sản theo chủ nghĩa Mác-Lênin đã sụp đổ từ năm 1991 mà đảng Cộng sản Việt Nam vẫn còn bám lấy để chận đứng đà tiến hoá của dân tộc ?
Những lý luận trái chiều và chói tai như “kiên định xây dựng đất nước dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng (Cộng sản) Hồ Chí Minh”, hoặc chủ trương làm “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” đã không giải quyết được những khó khăn của đất nước như đã chứng minh sau gần 30 năm đổi mới.
Đảng cũng cần giải thích tại sao đất nước đã độc lập mà dân chưa có tự do, và cụm từ “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được thực thi từ sau Đại hội đảng lần thứ X (tháng 04.2006) mà nay đa số trong dân 90 triệu người vẫn còn nghèo nàn và chậm tiến nhất trong khu vực; công bằng chưa dành cho dân; dân chủ vẫn còn là hình thức và lạc hậu vẫn là nỗi ám ảnh triền miên ở Thế kỷ 21 ?
Như vậy có phải con đường đảng chọn gọi là “qúa độ lên xã hội chủ nghĩa” đã không những mơ hồ, ảo tưởng, phù phiếm mà đã chệch hướng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhìn nhận ngày 23.10.2013 rằng: “Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa.”
Vậy mà, cũng chính ông Trọng trong lời phát biểu ngày 27.12.2014 với Hội đồng Lý luận Trung ương vẫn có thể nói như mê sảng rằng: “ Các đồng chí cần chủ động tăng cường hơn nữa tổ chức trao đổi đối thoại, lý luận tranh luận khoa học đặc biệt đối với các ý kiến trái chiều, khác nhau ta cũng trao đổi thông qua tăng cường tọa đàm, đối thoại. Đối với các quan điểm sai trái thù địch nhất là liên quan đến cương lĩnh, Hiến pháp đến đường lối cơ bản của Đảng dứt khoát phải đấu tranh phê phán bác bỏ, ở đây đòi hỏi người làm công tác lý luận phải có bản lĩnh, trình độ nắm vững trình độ lí luận cơ bản.”
Lý do duy nhất để ông Trọng đòi hỏi như thế vì cả Cương lĩnh và Hiến pháp là hai văn kiện cốt lõi được viết ra chỉ để bảo vệ quyền lãnh đạo độc tôn và độc tài cho đảng.
Nhưng cả hai Văn kiện này đã và đang bị nhiều giới đảng viên và trí thức chỉ trích và đòi phải thay đổi khi đảng chuẩn bị Đại hội đảng XII.
Nghịch lý của nỗ lực chống tin xấu là chỗ Đảng, Quân đội và Công an đã không dám đả động gì đến các hoạt động bành trướng và chiếm đóng biển đảo Việt Nam của Trung Quốc ở Biển Đông, như đang diễn ra ở Trường Sa từ hai năm qua.
Hay là Lãnh đạo đảng khi mải mê chống nhau và chống dân đòi dân chủ và tự do thì đã coi Trung Quốc không còn là kẻ thù nữa mà là láng giềng tốt, đồng chí tốt nên cứ để cho Bắc Kinh thỏai mái làm ăn ở Biển Đông ?
Phạm Trần
Nguồn: DCCT