Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
ĐTC Phanxicô: Khi chúng ta theo Chúa, không có điều gì trong cuộc sống là tình cờ
Hồng Thuỷ - Vatican News
Trong buổi tiếp kiến chung cuối cùng trước khi bắt đầu tháng hè vào tháng 7, Đức Thánh Cha trình bày bài giáo lý thứ hai trong loạt bài về thư thánh Phaolô gửi các tín hữu Galát. Đức Thánh Cha suy tư về lời thánh Phaolô tự nhận mình là tông đồ thật sự qua việc thực thi quyền tông đồ của ngài. Thánh Phaolô bảo vệ thẩm quyền tông đồ của ngài bằng cách miêu tả cách trung thực hành trình hoán cải của ngài - từ kẻ bắt bớ Giáo hội dữ dội đến người được kêu gọi nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa để biết Chúa Giêsu Phục sinh và trở thành tông đồ cho các dân tộc.
Khi nhấn mạnh đến quyền năng của lòng thương xót Chúa hoạt động trong đời sống của ngài, thánh Phaolô mời gọi chúng ta suy gẫm về cách Chúa đi vào cuộc sống của chúng ta, làm chúng ta ngạc nhiên, đổi mới và biến đổi hoàn toàn chúng ta bởi Chúa Thánh Thần, và củng cố chúng ta trở thành những môn đệ truyền giáo để loan truyền Phúc Âm và sứ điệp giải phóng của Phúc Âm. Đức Thánh Cha nhắc rằng Chúa thêu dệt lịch sử cuộc đời chúng ta và nếu chúng ta đón nhận kế hoạch cứu độ của Chúa, ân sủng của Người sẽ biển đổi tâm hồn và cuộc sống của chúng ta và chỉ cho chúng ta những con đường mới.
Khẳng định tính mới mẻ của Tin Mừng
Mở đầu bài giáo lý, Đức Thánh Cha nhấn mạnh ý định của thánh Phaolô khi viết thư cho các tín hữu Galát. Ngài giải thích: “Những Kitô hữu này gặp mâu thuẫn về cách sống đức tin và thánh Phaolô bắt đầu viết Thư nhắc nhở họ về mối quan hệ trong quá khứ của họ, về sự đau buồn khi phải xa họ và tình yêu không thay đổi mà ngài dành cho mỗi người trong số họ. Tuy nhiên, ngài không thể không bày tỏ mối quan tâm của ngài là muốn các tín hữu Galát nên đi theo con đường đúng đắn: đó là mối quan tâm của một người cha, người đã sinh ra các cộng đoàn trong đức tin. Ý định của ngài rất rõ ràng: cần phải nhắc lại tính mới mẻ của Tin Mừng, mà người Galát đã nhận được qua lời rao giảng của ngài, để xây dựng căn tính đích thực làm nền tảng cho cuộc sống của họ”.
Không dừng lại ở bề mặt của vấn đề
Đức Thánh Cha nhận xét rằng thánh Phaolô hiểu biết sâu sắc về mầu nhiệm của Chúa Kitô. “Ngay từ đầu Thư của mình, ngài không theo những lý lẽ thấp kém được sử dụng bởi những người gièm pha ngài. Ngài ‘bay cao’ và như thế ngài chỉ cho chúng ta thấy cách phải hành xử khi xung đột nảy sinh trong cộng đoàn.” Chỉ đến cuối Thư, thánh Phaolô mới nói rõ trọng tâm của cuộc tranh luận là vấn đề cắt bì, là truyền thống chính của người Do Thái. Đức Thánh Cha giải thích tiếp: “Thánh Phaolô chọn đi sâu hơn, bởi vì điều đang bị đe dọa là chân lý của Phúc âm và sự tự do của Kitô hữu”. Cách hành động của thánh nhân là “Ngài không dừng lại ở bề mặt của các vấn đề, như chúng ta thường bị cám dỗ để tìm ra giải pháp tức thì, điều khiến chúng ta nghĩ cách sai lạc rằng tất cả chúng ta đều có thể đồng ý bằng một thỏa hiệp. Đây không phải là cách thức hoạt động của Phúc âm, và thánh tông đồ đã chọn con đường thử thách hơn.”
Tìm cách làm đẹp lòng Thiên Chúa
Thực tế là thánh Phaolô không viết Thư để tìm sự hài lòng của con người nhưng là sự đồng ý của Thiên Chúa, bởi vì như ngài viết: ‘Giờ đây tôi tìm cách lấy lòng người đời, hay lấy lòng Thiên Chúa? Phải chăng tôi tìm cách làm đẹp lòng người đời? Nếu tôi còn muốn làm đẹp lòng người đời, thì tôi không phải là tôi tớ của Đức Ki-tô’ (Gl 1,10). Do đó thánh Phaolô cảm thấy mình có nhiệm vụ nhắc nhở người dân Galát rằng ngài là tông đồ chân chính không phải bởi công lao của mình, mà do lời kêu gọi của Thiên Chúa. Ngài kể lại lịch sử ơn gọi và hoán cải của mình, trùng hợp với sự kiện Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra trong cuộc hành trình đến Damas (x. Cv 9,1-9).”
Đức Thánh Cha nhận xét: “Thật thú vị khi quan sát những gì thánh nhân khẳng định về cuộc đời của mình trước sự kiện đó: ‘Tôi đã quá hăng say bắt bớ và muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa. Trong việc giữ đạo Do Thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông’ (Gl 1, 13-14). Thánh Phaolô dám khẳng định rằng trong Do Thái giáo, ngài vượt trội hơn tất cả những người khác, ngài là một người Pharisiêu thực sự nhiệt thành, ‘về sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi’ (Pl 3, 6). Hai lần ngài nhấn mạnh rằng ngài là người bảo vệ ‘truyền thống của cha ông’ và là người ‘trung thành tuân thủ lề luật’”.
Lòng thương xót của Thiên Chúa đã biến đổi
Một mặt, thánh nhân kiên quyết nhấn mạnh rằng ngài đã bắt bớ Giáo hội dữ dội và ngài là một “kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược” (1Tim 1, 13); mặt khác, ngài nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa đối với ngài, điều đã khiến ngài biến đổi triệt để, như tất cả đều biết. Ngài viết: “Nhưng lúc ấy các Hội Thánh Đức Kitô tại miền Giuđê không biết mặt tôi. Họ chỉ nghe nói rằng: ‘Người trước đây bắt bớ chúng ta, bây giờ lại loan báo đức tin mà xưa kia ông những muốn tiêu diệt’” (Gl 1, 22-23). Đức Thánh Cha nhận định rằng “thánh Phaolô nêu bật sự thật về ơn gọi của ngài qua sự tương phản nổi bật đã được hình thành trong cuộc đời ngài: từ việc là người bắt bớ các Kitô hữu vì không tuân giữ các truyền thống và lề luật, ngài được kêu gọi trở thành tông đồ để loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô.”
Trở thành tông đồ nhờ ân sủng của Chúa
Đức Thánh Cha nhận định: “Thánh Phaolô được tự do: tự do loan báo Tin Mừng và ngài cũng được tự do thú nhận tội lỗi của mình. ‘Tôi đã như thế này’: đó là sự thật mang lại tự do cho trái tim, đó là sự tự do của Thiên Chúa”. Đức Thánh Cha nói thêm: “Nghĩ lại câu chuyện này, thánh Phaolô hết sức ngạc nhiên và biết ơn. Dường như ngài muốn nói với các tín hữu Galát rằng ngài đã có thể là bất cứ điều gì, ngoại trừ là một tông đồ”. Sự thật là từ khi còn là một cậu bé, ngài đã được nuôi dưỡng để trở thành một người tuân giữ Luật Môsê hoàn hảo, và hoàn cảnh đã khiến ngài phải chiến đấu với các môn đệ của Chúa Kitô. Tuy nhiên, một điều bất ngờ đã xảy ra: “Thiên Chúa, bằng ân sủng của Người, đã mặc khải cho thánh Phaolô về Con của Người đã chết và sống lại, để ngài có thể trở thành sứ giả giữa các dân ngoại (x. Gl 1, 15-6).
Đừng quên khi Chúa đi vào cuộc đời chúng ta
Đức Thánh Cha cảm thán: “Đường lối của Chúa thật khó hiểu biết bao! Chúng ta trải nghiệm điều này mỗi ngày, nhưng cách đặc biệt nếu chúng ta nghĩ lại những lần Chúa gọi chúng ta.” Và Đức Thánh Cha nhắc nhở: “Chúng ta không bao giờ được quên thời gian và cách thức Chúa bước vào cuộc đời chúng ta: chúng ta hãy luôn ghi nhớ trong tâm hồn và tâm trí của chúng ta cuộc gặp gỡ ân sủng đó, khi Chúa thay đổi cuộc sống của chúng ta.”
Được kêu gọi để phục vụ Tin Mừng
Kết thúc bài giáo lý, Đức Thánh Cha nêu lên câu hỏi: “Trước những hoạt động vĩ đại của Chúa, thường xuất hiện câu hỏi: Làm sao Thiên Chúa lại sử dụng một người tội lỗi, một người bất toàn yếu đuối, để thực hiện thánh ý Nguời?” Và Đức Thánh Cha khẳng định rằng không có điều gì là tình cờ. Ngài khuyến khích: “Bởi vì mọi thứ đã được chuẩn bị trong kế hoạch của Thiên Chúa. Người thêu dệt nên lịch sử của chúng ta và nếu chúng ta tin tưởng theo kế hoạch cứu độ của Người, thì chúng ta sẽ nhận ra điều đó. Lời kêu gọi luôn bao hàm một sứ mạng mà chúng ta được định sẵn; đó là lý do tại sao chúng ta được yêu cầu chuẩn bị bản thân một cách nghiêm túc, biết rằng chính Thiên Chúa là Đấng sai chúng ta và hỗ trợ chúng ta bằng ân sủng của Người. Chúng ta hãy để cho mình được dẫn dắt bởi nhận thức này: tính ưu việt của ân sủng biến đổi cuộc sống và làm cho nó xứng đáng được sử dụng để phục vụ Tin Mừng.”
ĐHY Parolin thăm Berlin nhân kỷ niệm 100 năm quan hệ ngoại giao giữa Toà Thánh và Đức
Hồng Thuỷ - Vatican News
Ngày 30/6/1920, Sứ thần Toà Thánh đầu tiên tại Berlin, Đức tổng giám mục Eugenio Pacelli, sau này là Đức Giáo hoàng Pio XI, đã trình uỷ nhiệm thư lên Tổng thống Friedrich Ebert của Đức.
Lễ kỷ niệm 100 năm quan hệ ngoại giao giữa Toà Thánh và Đức lẽ ra được tổ chức vào năm ngoái, nhưng do đại dịch nên được dời sang năm nay.
Quan hệ chặt chẽ giữa Toà Thánh và Đức
Chiều ngày 28/6 Đức Hồng y Quốc vụ khanh Toà Thánh đã gặp những người đứng đầu các tổ chức nhân đạo của Giáo hội.
Sáng 29/6, ngài đã gặp Tổng thống Liên bang Frank-Walter Steinmeier và Thủ tướng Angela Merkel. Cuộc gặp gỡ nhắm nhấn mạnh mối quan hệ hữu nghị giữa Vatican và Cộng hòa Liên bang Đức và mối quan hệ chặt chẽ giữa Tòa thánh và Giáo hội Đức, vốn được đánh giá cao ở cấp độ quốc tế, đặc biệt là đối với hoạt động bác ái.
Giáo hội Công giáo: cộng đồng cứu độ phổ quát
Chiều ngày 29/6 Đức Hồng y đã cử hành lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô tại đền thờ thánh Gioan ở Berlin, với sự tham dự của Sứ thần Tòa thánh tại Đức, Đức Tổng Giám mục Nikola Eterović; Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, Đức cha Georg Bätzing; Đức Hồng y Reinhard Marx của Munich; và Đức Hồng y Rainer Maria Woelki của Koeln.
Trong bài giảng, Đức Hồng y nhấn mạnh những lời của các giám mục Đức trong thông cáo được đăng trên trang web của Hội đồng giám mục: “Sau sự sụp đổ của bức tường Berlin, một dấu hiệu của sự sụp đổ của hệ thống cộng sản ở châu Âu, thành phố đã biết hiệp nhất với nhau và tạo ra những động lực quan trọng cho quá trình và thốnghiệp nhất và thống nhất quốc gia".
Đức Hồng y đã yêu cầu rằng Giáo hội phải được đánh giá cao theo nghĩa đích thực của cụm từ "Công giáo", tức là một cộng đồng cứu độ phổ quát. Sau đó, về tính đồng nghị, ngài nói thêm: "Mong muốn của Chúa là chúng ta không chỉ theo Nguời trên con đường của Người, mà chúng ta cùng nhau bước đi, trong một thượng hội đồng, theo nghĩa đen của thuật ngữ… Thánh Phêrô và Phaolô đã chia sẻ điều không thể đoán trước: kinh nghiệm về một Thiên Chúa thay đổi hoàn toàn kế hoạch của họ và mở rộng tầm nhìn của họ theo những cách không thể tưởng tượng được".
Chiều ngày 30/6 có diễn đàn trực tuyến “Từ Roma đến Berlin” do Viện Thần học Công giáo Trung ương của đại học Humboldt phối hợp với Toà Sứ thần Tòa Thánh tại Berlin tổ chức. Hội nghị chuyên đề sẽ đề cập đến các khía cạnh lịch sử và quan điểm thần học, và sẽ được phát trực tiếp trên youtube. (Sismografo 29/06/2021)
Thiên Chúa yêu thương và công bằng
Thứ Tư tuần XIII TN - Năm lẻ
Bài đọc: St 21, 5. 8-20; Mt 8, 28-34.
Thiên Chúa là Đấng sáng tạo đầy khôn ngoan và yêu thương. Ngài hiểu rõ cái gì có ích, cái gì có hại cho con người nên Ngài ban Tập Giới để con người dựa vào đó mà sống hạnh phúc đời này và đời sau. Ma quỷ là kẻ ganh tỵ và xảo trá, nó không muốn con người đạt hạnh phúc như Chúa muốn, nên nó tấn công cám dỗ để con người đi ngược lại Thập Giới. Chúng biết con người có cái nhìn thiển cận, chỉ thấy cái lợi trước mắt, nên nó không ngừng giở trò đưa ra những ảo ảnh dụ dỗ. Trong bài đọc 1, tác giả Sách Sáng Thế tường thuật lý do tại sao bà Xa-ra bắt ông Abraham phải trục xuất mẹ con Hagar ra khỏi nhà, vì bà không muốn Ismael, con của Hagar, được đồng thừa tự với Isaac, con bà. Bà ganh tỵ, chỉ thấy cái lợi cho con bà là Isaac. Nếu ban khoan dung hơn, thì đâu có sự đối chọi lớn sau này giữa Hồi giáo (nhánh Ismael con của Hagar) và Ki-tô giáo (nhánh của Isaac con bà Xa-ra). Tất cả đều là con của Abraham. Trong Tin Mừng, dân miền Ga-đa-ra vì thấy mất lợi nhuận nên không đón tiếp Đức Giê-su.
1. Xem
Khi ấy, Đức Giê-su sang bờ bên kia, đến vùng đất của dân Ga-đa-ra, thì có hai người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả ra đón Người ; chúng rất dữ tợn, đến nỗi không ai dám qua lại lối ấy. Chúng la lên rằng : “Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi can gì đến ông ? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây hành hạ chúng tôi sao ?” Khi ấy, ở đàng xa, có một bầy heo rất đông đang ăn. Bọn quỷ nài xin Người rằng : “Nếu ông đuổi chúng tôi, thì xin sai chúng tôi nhập vào bầy heo kia.” Người bảo : “Đi đi !” Chúng liền ra khỏi hai người đó và nhập vào bầy heo. Thế là tất cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống biển và chết đuối hết. Các người chăn heo bỏ chạy vào thành, kể lại mọi sự, và những gì đã xảy ra cho những người bị quỷ ám. Bấy giờ, cả thành ra đón Đức Giê-su, và khi gặp Người, họ xin Người rời khỏi vùng đất của họ.
2. Xét
Theo thánh sử Mat-thêu, Sau khi chữa bệnh cho bà mẹ vợ Phê-rô, chiều đến người ta đem nhiều bệnh nhân đến với Ngài. Sáng hôm sau, Ngài quyết định xuống thuyền cùng các tông đồ sang bên kia biển hồ Ti-bê-ri-a, tức vùng Ga-đa-ra, Ngài đem ánh sáng Tin Mừng đến cho những vùng xung quanh hồ. Vừa đến nơi, Đức Giê-su gặp 2 người bị quỷ ám trong mồ mả bước ra. Mồ mả là nơi dành cho người chết, người bị quỷ ám không bao giờ làm chủ được mình, sống cũng như chết, nên họ không ở chung với người sống được, chỉ tìm nơi mồ mả trú ẩn thôi. Ma quỷ điều khiển người đó, nên người đó trở nên dữ tợn, như Mat-thêu mô tả: “chúng rất dữ tợn, đến nỗi không ai dám qua lại lối ấy.”.
Khi biết Đức Giê-su đặt chân đến, hai người bị quỷ ám xông ra nói: “Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi can gì đến ông ? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây hành hạ chúng tôi sao ?” Chúng nói cách chính xác về Đức Giê-su “Hỡi Con Thiên Chúa”. Đó không phải là lời tuyên xưng đức tin, vì ma quỷ đối nghịch với Thiên,Chúa, nhưng không là đối thủ với Ngài vì Ngài có quyền trên chúng. Dụng ý câu nói “Hỡi Con Thiên Chúa” nằm ở phần sau “Chưa tới lúc mà ông đã đến đây hành hạ chúng tôi sao ?” Câu nói này làm cho những người nghe hôm ấy dễ hiểu lầm: giữa Thiên Chúa và ma quỷ dường như có ‘giao kèo’ gì đó, nhưng Đức Giê-su đến trước ‘giao kèo’. Đúng là ma quỷ đầy xảo trá, gian manh! Chúng luôn gây chia rẽ Thiên Chúa với con người. Nhưng dẫu sao chúng cũng biết sợ hiện diện của Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, nên chúng xin Ngài: “Nếu ông đuổi chúng tôi, thì xin sai chúng tôi nhập vào bầy heo kia.” Đức Giê-su cho phép chúng, yhe61 là cả bầy heo từ trên sườn núi (theo Mác-cô gồm 2.000 con heo) nhào xuống biển chết đuối hết. Sau đó dân làng ra không phải đón tiếp Đức Giê-su nhưng mời Ngài đi cho vì họ mất lợi nhuận kinh tế từ đàn heo.
Đáng lý ra dân làng phải biết ơn Đức Giê-su vì đã trụt xuất ma quỷ ra khỏi vùng, trả lại sự bình an. Đàng này họ xem lợi nhuận kinh tế quan trọng hơn là đón nhận ánh sáng Tin Mừng. Vấn đề là tại sao Đức Giê-su lại cho phép ma quỷ nhập vào bầy heo? Ngài thừa biết với bầy heo (2.000 con theo Mác-cô) chết đuối như vậy sẽ thất thu kinh tế cho dân làng, nhưng Ngài vẫn làm, vì Ngài coi trọng con người hơn. Cứu hai mạng người rất quan trọng đối với Thiên Chúa; bầy heo mất đi có thể gầy bầy heo mới cách dễ dàng. Hơn nữa, dân làng cũng có lỗi trong việc này, chăn heo phải chăn nơi đồng bằng an toàn, đàng này để bầy heo bên sườn núi nguy hiểm, khi mq quỷ nhập vào đương nhiên phải lao xuống biển hết.
3. Làm
Việc ma quỷ xin Chúa cho nhập vào đàn heo bên sườn núi cũng là mưu đồ ác độc của chúng. Chúng điều khiển cho đàn heo chết đuối, để dân làng kết luận chính Chúa làm thiệt hại và từ chối Chúa. Thật ra, đàn heo chết là do chúng. Và y như rằng, dân làng mời Chúa ra khỏi vùng của họ. Thật đáng tiếc cho họ không nhận ra tình yêu của Chúa dành cho họ!
Thiên Chúa yêu thương con người (bài Tin Mừng) và công bằng trong cách cư xử ( với mẹ con Hagar và mẹ con Xa-ra) để tất cả đều nằm trong dòng chảy tình yêu của Ngài. Chúng ta cần khám phá Chúa cư xử và yêu thương chúng ta hết mực dường nào. Đừng bắt chước dân Ga-đa-ra từ chối Chúa, mời Chúa ra khỏi lòng trí chúng ta. Bao lâu ta giữ Chùa trong lòng trì, ta sẽ được tất cả mọi điều tốt đẹp; bao lâu ta đánh mất Chúa, ta sẽ mất tát cả.
@ Lời nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa cứu độ, xin nhậm lời chúng con, xin biến đổi chúng con thành những kẻ dõi theo ánh sáng và dám làm điều chân thật, Chúa đã sinh chúng con ra làm con cái sự sáng, thì xin cho chúng con cũng can đảm làm chứng cho Chúa trước mặt mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Con Chúa, là Thiên Chúa và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
Lm. Nan Quang
Tin vui cho Giáo Hội Pháp: 12 thầy đã được phong chức linh mục tại nhà thờ Saint-Sulpice vào ngày 26 tháng 6
Hôm thứ Bẩy 26 tháng Sáu, Đức Tổng Giám Mục Michel Aupetit của Paris đã phong chức linh mục cho 12 thầy phó tế.
Hình ảnh lễ phong chức
Mở đầu bài giảng trong thánh lễ, Đức Tổng Giám Mục nói:
Khi tôi nghe anh em trả lời “Này con đây” trước lời mời gọi của Chúa, tôi không thể không nghĩ đến những lời này trong Phúc Âm: “Ngài đã chọn Nhóm Mười Hai”. Đúng thế, chính Chúa Giêsu chọn chúng ta. Và tại sao Ngài lại làm điều đó? Thưa: Câu trả lời trong Phúc Âm rất đơn giản: “Để ở với Ngài”.
Trước tiên, đó là sự sống trong tình thân mật với Chúa Kitô. Đối với tất cả chúng ta, điều đó được hình thành trong lời cầu nguyện, trong sự tôn thờ, trong lòng trung thành từ trái tim đến trái tim với Người. Nhưng trên hết, trong Bí tích Thánh Thể, sự thân mật này giữa linh mục và Chúa Kitô đạt đến mức cao nhất. Nó mạnh mẽ đến nỗi chính Chúa Giêsu đến để nói trong miệng vị tư tế: “Này là Mình Thầy”. Vị linh mục không thể nói những lời này một cách xác thực nếu Chúa Kitô không phải là người bạn thân nhất, người bạn thân tình của vị linh mục ấy. Được như thế, anh em sẽ có thể cử hành cho thế giới, và trên thế giới với những người đã chịu phép rửa tội, những người đã hiến mình với Chúa Kitô vì ơn cứu rỗi của muôn dân và ơn cứu rỗi của cả những người chưa biết Chúa.
Trong Thánh Lễ, Chúa Kitô tóm tắt lại tất cả những gì Ngài đã trải qua trên thế giới, những gì đã được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần, Thần Khí Tác Tạo, Đấng hành động mặc dù chúng ta phớt lờ Người. Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha món quà này của chính Người và của Giáo hội để cứu rỗi mọi người.
Anh em đã đọc lời cầu nguyện của Giáo Hội mà anh em nhận được khi còn là các phó tế. Các Giờ Kinh Phụng Vụ là lời cầu nguyện của Giáo Hội cho thế giới này, cho thế giới do Thiên Chúa tạo dựng.
Trong một thời gian ngắn sắp đến, mọi người sẽ gọi anh em là “Cha”. Nó phải làm anh em ngạc nhiên, phải làm anh em kinh ngạc. Trong mọi trường hợp chúng tôi phải gọi anh em như thế. Tại sao lại có sự xưng hô như thế? Qua phép Rửa trong Chúa Giêsu Kitô, trước hết chúng ta là anh chị em với nhau. Tất cả cùng nhau, chúng ta là con trai và con gái của Thiên Chúa và chính tình anh em đã tạo nên chúng ta. Đầu tiên anh em phải học làm con. Làm con nghĩa là nhận mình từ người khác. Đối mặt với ảo tưởng về sự tự tạo đang phổ biến ngày nay, có một thực tế cơ bản đã tạo nên chúng ta. Chúng ta đến từ một công đoàn yêu thương. Chúng ta được sinh ra từ một hành động của tình yêu mà nhất thiết chúng ta phải nói đến hành động ban đầu và tối cao của tình yêu: đó là sự sáng tạo bởi Thiên Chúa. “Thiên Chúa là tình yêu”.
Tất cả tình phụ tử chỉ có thể đến từ Cha trên trời. Không có tình phụ tử nào lại thiếu yếu tố linh thánh. Mọi người cha trên trái đất đều nhận được tình phụ tử của mình từ Thiên Chúa. Do đó, một linh mục không phải là một người cha trừ khi anh ta nhận mối quan hệ làm cha thiêng liêng này như nguyên ủy của mọi sự sống, của sự sống tuyệt đối nhận được từ sự sống tự hữu duy nhất của Thiên Chúa. Đây là lý do tại sao nhiệm vụ của anh em về cơ bản là truyền đạt sự sống này mà anh em không tạo ra trên trái đất nhưng là sự sống mà Thiên Chúa đã tạo ra từ muôn thuở trong mỗi người, và qua anh em Ngài tiếp tục sinh ra hôm nay và mỗi ngày trong cuộc đời anh em.
Đó là một ân sủng lạ thường được ban cho anh em ngày hôm nay. Anh em sẽ thực sự là những người cha bằng cách thông truyền cuộc sống này của Thiên Chúa mà anh em đã nhận lãnh trách nhiệm.
Đó là vì anh em có thể nói như thánh Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16), vì anh em tham dự vào tình thân mật sâu xa với Người, để với Người như thánh Phaolô nói “anh đã được hiến tế”, để anh em nhận lại chính mình trong Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, để rồi anh em có thể đảm nhận vai trò làm cha này, là điều ban sự sống, sự sống dồi dào, sự sống đời đời.
Source:L'Eglise Catholique à Paris
Bom nổ trong nhà thờ Công giáo ở Cộng hòa Dân chủ Congo
Cha Isidore Kambale Masingo cho biết bom nổ vào khoảng 6 giờ sáng, trước khi Thánh lễ Chúa Nhật bắt đầu. Hai bà mẹ đến nhà thờ sớm để chuẩn bị nhà thờ cho Thánh lễ đã bị thương nặng và được nhanh chóng đưa đến bệnh viện.
Đức ông Laurent Sondirya, tổng đại diện của giáo phận Butemb-Beni, nói với truyền thông địa phương rằng ngài tin rằng vụ tấn công nhắm vào đám đông, bởi vì Thánh lễ Thêm Sức được lên chương trình vào ngày hôm đó, nhiều trẻ em sẽ đến nhà thờ cùng với cha mẹ và các tín hữu khác.
Khu vực đông bắc Cộng hòa Dân chủ Congo, nơi xảy ra vụ nổ, đã từng hứng chịu các cuộc tấn công từ Lực lượng Dân chủ Đồng minh (ADF), một nhóm phiến quân liên kết với nhóm Nhà nước Hồi giáo từ nước láng giềng Uganda.
Theo hãng tin AFP, có 3 vụ tấn công bằng bom tại thành phố Beni vào cuối tuần qua. Sau vụ nổ tại nhà thờ Công giáo, một vụ nổ bom tự sát xảy ra bên ngoài một quán bar. Một quả bom khác đã nổ tại một cây xăng ở ngoại ô thành phố vào ngày 26/6 trước đó.
Tấn công khủng bố nhắm vào Ki-tô hữu
Tháng trước, Đức cha Melchisedec Sikuli Paluku của giáo phận Butembo-Beni đã tố cáo các vụ vi phạm nhân quyền và các cuộc tấn công khủng bố nhắm vào các Kitô hữu trong giáo phận của ngài. Ngài nói rằng số lượng các cuộc tấn công khủng bố dường như “đặc biệt cao ở phía bắc của giáo phận chúng tôi.”
Trong một báo cáo được tổ chức Trợ giúp các Giáo hội đau khổ công bố, Đức cha Paluku nói: “Các nhóm vũ trang đang phá hủy trường học và bệnh viện. Giáo viên và học sinh bị giết. Họ thậm chí sát hại những người bệnh đang nằm trên giường bệnh. Không một ngày nào trôi qua mà không có người bị giết.” Ngài kêu gọi ủng hộ các nạn nhân của các vụ tấn công khủng bố. “Chúng tôi cần những trung tâm nơi mọi người có thể đến để trị liệu. Nhiều người bị chấn thương tâm lý.”
Đức cha cũng tố cáo “một dự án quy mô lớn đang được tiến hành để Hồi giáo hóa hoặc trục xuất các nhóm dân bản địa.” “Bất cứ ai bị bắt cóc bởi những nhóm khủng bố này và sống sót thoát được đều kể lại câu chuyện tương tự. Họ buộc phải chọn giữa cái chết và cải sang đạo Hồi.” (CNA 28/06/2021)
Hồng Thủy - Vatican News
ĐTC Phanxicô và các GM Mexico gần gũi với các nạn nhân vụ thảm sát Reynosa
Reynosa nằm giáp với biên giới bang Texas, Hoa Kỳ. Ít nhất 15 người chết khi một nhóm người có vũ khí bắn vào đám đông. Trong số những người chết có cả những kẻ tấn công. Động cơ của vụ thảm sát chưa được xác định nhưng có giả thuyết rằng đây là một cuộc thanh toán giữa những kẻ buôn ma túy. Trên thực tế, thành phố Reynosa được coi là đầu mối chính của nạn buôn bán ma túy.
Lời chia buồn của Đức Thánh Cha được Đức cha Eugenio Andrés Lira của giáo phận Matamoros, thông báo vào hôm 27/6. Đức Thánh Cha mạnh mẽ kêu gọi đừng để biến cố bạo lực không thể chấp nhận được như thế xảy ra nữa.
Lời kêu gọi của giám mục Mexico
Hôm 23/6, trong Thánh lễ cử hành tại nhà thờ Đức Mẹ Guadalupe ở địa phương để cầu nguyện cho các nạn nhân, trong bài giảng, Đức cha Lira lên án bạo lực, gây nên “thiệt hại, đau thương và tàn phá” xuất phát từ “bạo lực ích kỷ và vô nhân đạo”, vì “lóa mắt trước tiền bạc và quyền lực”, làm phương hại đến “sự sống, phẩm giá và quyền của người khác”.
Do đó, Đức cha mời gọi hướng về Chúa, Đấng hướng dẫn đến hòa bình và hòa giải, vì chỉ có Tình yêu mới có thể “chiến thắng tội lỗi, sự dữ và sự chết, và luôn luôn làm cho sự thiện và sự sống chiến thắng”. Ngài kêu gọi: “Đừng gây nên bạo lực nữa! Tất cả chúng ta đều là con cái của Chúa. Hãy để Reynosa, Mexico và thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy làm điều này! Hãy vươn lên!”. (CSR_4678_2021)
Hồng Thủy - Vatican News
Công giáo Hy Lạp Slovak hành hương Roma
Trước khi đến Roma vào ngày 28/6, ảnh thánh Mẹ Thiên Chúa đã dừng lại tại Croatia trong hai ngày 26 và 27/6. Đức cha Eparchiale di Križevci cùng với các linh mục và giáo dân đã chào đón Đức Mẹ bằng các cử hành phụng vụ và cầu nguyện.
Tại Roma, đoàn hành hương tham dự các cử hành phụng vụ với sự đồng hành của ảnh thánh Đức Mẹ: thứ Hai, hành hương đến Đền thờ thánh Phaolô Ngoại thành; thứ Ba, tham dự Thánh lễ do Đức Thánh Cha chủ sự tại Đền thờ Thánh Phêrô và cầu nguyện buổi chiều tại Đền thờ thánh Gioan Latêranô; sáng thứ Tư, đoàn hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung với Đức Thánh Cha, và buổi chiều tham dự buổi cầu nguyện tại Đền thờ Đức Bà Cả. Cuộc hành hương kết thúc vào sáng thứ Năm với giờ cử hành phụng vụ tại Đền thờ Thánh Phêrô.
Klokočov là một ngôi làng nhỏ ở phía đông Slovak, nơi có đông người Công giáo Đông phương. Nước mắt xuất hiện trên tranh thánh vào năm 1670, vào thời điểm được đánh dấu bằng một loạt các cuộc nổi dậy chống Hapsburg. Sau sự khởi đầu này, những giọt nước mắt cũng xuất hiện trên bảy tranh thánh khác trong khu vực và đã được thẩm quyền Giáo hội thẩm tra.
Một nhóm binh lính đã xông vào nhà thờ Klokočov, và xúc phạm ảnh thánh bằng vũ khí, từ đó nước mắt càng tuôn ra nhiều hơn. Những người lính đã đốt nhà thờ, nhưng một người trong số họ đã cứu được ảnh Đức Mẹ và mang đến thành phố Prešov (Slovak). Từ đó ảnh được một phụ nữ quý tộc lưu giữ cẩn thận tại lâu đài Mukachevo (Ukraine). Sau đó, ảnh thánh này được đưa đến Thổ Nhĩ Kỳ và dấu vết của ảnh gốc đã biến mất.
Hoàng hậu Maria Theresia đã có một bản sao của ảnh thánh Klokočov được thực hiện vào năm 1769 và giao cho Chính quyền thành phố Prešov. Năm 1907, ảnh được chuyển đến nhà nguyện của giám mục và được trưng bày cho các tín hữu trong Nhà thờ Chính tòa vào dịp lễ Mẹ Thiên Chúa. Các bản sao khác được thực hiện cho Nhà thờ Chính tòa Uzhorod (Ukraine) và cho nhà thờ Klokočov. Tại đây, ở Klokočov, ảnh thánh đã được đội vương miện vào năm 1948 bởi Đức Giám mục Chân phước tử đạo Vasiľ Hopko. Một bản sao khác được tạo thực hiện tại đan viện Grottaferrata gần Roma đã được Đức Giáo Hoàng Piô XII làm phép vào năm 1955.
Với sự chấp thuận của Bộ các Giáo hội Đông Phương, lễ nhớ ảnh thánh Mẹ Thiên Chúa của Klokočov đã được thành lập gần đây, sẽ được cử hành hàng năm vào Chúa nhật đầu tiên của tháng 10.
Ngọc Yến - Vatican News
Nhà thờ Đức Bà Paris đang được phục hồi tốt
Đây là Thánh lễ đầu tiên được Đức Tổng Giám mục Aupetit chủ sự sau vụ hỏa hoạn. Việc cử hành có ý nghĩa vì đây là ngày kỷ niệm Cung hiến Nhà thờ. Đức Tổng Giám mục nói: “Chúng ta vui, vì giờ đây nhà thờ của chúng ta đã được củng cố. Hiện chúng ta đang bước vào giai đoạn trùng tu. Nhà thờ sẽ đẹp hơn bao giờ hết và điều này mang lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng trong tâm hồn”.
Đức Tổng Giám mục khẳng định: “Như Nhà thờ Đức Bà bị thiêu rụi và được phục hồi, Giáo hội Chúa cũng vậy. Một số người tin rằng Giáo hội đang đổ nát và ở bên bờ vực sụp đổ. Tuy nhiên, Chúa Kitô đã khẳng định cửa địa ngục sẽ không thắng được Giáo hội. Chúng ta tin vào điều đó. Như Nhà thờ Chính tòa của chúng ta, Giáo hội Chúa Kitô sẽ luôn đứng vững”.
Sau khi bày tỏ lòng biết ơn đối với các nhà tài trợ và các kỹ thuật viên, những người đang khôi phục Nhà thờ, Đức Tổng Giám mục nhắc lại: “Kiến trúc sư chính là Chúa Cha, mẫu gương là Chúa Kitô, đạo diễn là Chúa Thánh Thần. Điều sẽ gắn kết chúng ta lại với nhau, sẽ chỉnh đốn chúng ta, và sẽ hiệp nhất chúng ta để xây dựng một Giáo hội tốt đẹp hơn”.
Thánh lễ được cử hành hai ngày sau “lời kêu gọi lòng quảng đại” mới từ Tổng Giáo phận Paris, ngày 14/6. Nếu việc trùng tu là công việc của chính phủ, thì việc tu bổ nội thất hoàn toàn do Giáo hội chịu trách nhiệm. Và đây là một chương trình nhằm mục đích trước hết là khôi phục nơi thờ phượng- chức năng chính của nhà thờ- và để phục vụ cho nhu cầu viếng thăm của sáu triệu tín hữu, khách hành hương và khách du lịch mỗi năm.
Để làm được điều này, từ nay đến 15/6/2024 cần có từ 5 đến 6 triệu euro để thực hiện hai dự án sẽ được trình bày cho các nhà tài trợ Pháp và nước ngoài. Hai dự án đầu tiên được trình bày trong thời gian ngắn cho các nhà tài trợ sẽ là phục hồi hộp đựng tượng Vương miện Mão Gai, bị hư hại trong quá trình giải cứu thánh tích; và thực hiện một nhà tạm mới.
Các dự án trong tương lai sẽ bao gồm chỗ ngồi mới cho dàn hợp xướng và cộng đoàn, ánh sáng, hệ thống âm thanh và phòng âm nhạc. Một phần mở rộng của phong cầm cũng được thực hiện. Dự án khánh thành bàn thờ sẽ được công bố vào năm 2024. (Acistampa 28/6/2021)
Ngọc Yến - Vatican News
ĐTC chúc mừng và cảm ơn ĐGH Biển Đức XVI nhân 70 năm linh mục
Đức Thánh Cha nhắc lại ngày 29/6/1951, ngày Đức Joseph Ratzinger lãnh nhận thiên chức linh mục tại nhà thờ chính tòa Freising.
Đức Thánh Cha nói: “Cách nay 70 năm, Đức Giáo hoàng Biển Đức đã được thụ phong linh mục. Xin gửi tới ngài, Đức Biển Đức, người cha và người anh em thân mến, tình cảm, lòng biết ơn và sự gần gũi của chúng con."
Đức Thánh Cha gọi Đức Biển Đức là nhà chiêm niệm: "Ngài sống trong đan viện, một nơi dành đón tiếp các cộng đồng chiêm niệm tại Vatican, để cầu nguyện cho Giáo hội. Hiện tại, ngài là nhà chiêm niệm của Vatican, ngài đã dành cả cuộc đời để cầu nguyện cho Giáo hội và cho giáo phận Roma, mà ngài là giám mục danh dự."
Và trước khi kết thúc, Đức Thánh Cha nhắc lại lời cảm ơn: “Xin cảm ơn Đức Biển Đức, người cha và người anh thân yêu. Cảm ơn chứng tá đáng tin cậy của ngài. Cảm ơn vì ánh mắt của ngài luôn hướng về phía chân trời của Thiên Chúa: cảm ơn ngài!"
Hồng Thủy - Vatican News
ĐTC Phanxicô: Các tông đồ không làm chứng bằng lời nói, nhưng bằng việc làm
Sau Thánh lễ trọng kính hai thánh Phê-rô và Phao-lô tông đồ, vào lúc 12 giờ trưa, Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phê-rô.
Các con bảo Thầy là ai?
Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, dựa trên câu hỏi Chúa Giê-su hỏi các môn đệ: “Anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16,15), Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu đưa ra câu trả lời của lòng mình. Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của câu hỏi, mà Chúa Giê-su cũng lặp lại với chúng ta: “Đối với các con, những người đã đón nhận đức tin nhưng vẫn còn sợ hãi ra khơi theo Lời Ta, Ta là ai? Ta là ai đối với các con, những người đã là Ki-tô hữu từ lâu nhưng đã bị mòn mỏi vì thói quen, có phải các con đã đánh mất mối tình đầu? Ta là ai đối với các con, những người đang trải qua một giai đoạn khó khăn và cần vực dậy bản thân để bắt đầu lại?”
Chúa là tình yêu của cuộc đời chúng ta
Đức Thánh Cha lưu ý rằng câu hỏi của Chúa Giê-su về việc người ta nghĩ Người là ai là một trắc nghiệm, và câu hỏi này cho thấy sự khác nhau căn bản trong cuộc sống của Ki-tô hữu; đó là sự khác biệt giữa những người dừng lại ở câu hỏi đầu tiên và ở những ý kiến về Chúa Giê-su, với những người “nói với Chúa Giê-su, đưa Người vào cuộc đời họ đi vào tương quan với Chúa và đưa ra quyết định. Và Đức Thánh Cha khẳng đinh: “điều Chúa quan tâm đó là ở trọng tâm suy nghĩ của chúng ta, trở thành điểm tham chiếu cho tình cảm của chúng ta; tóm lại, là tình yêu của cuộc đời chúng ta.”
Các tông đồ không tin bằng lời nói nhưng bằng hành động
Liên kết với cuộc đời hai thánh Phê-rô và Phao-lô, Đức Thánh Cha lưu ý rằng các ngài đã đưa ra bước quyết định và trở thành chứng nhân của Chúa, là người bắt chước chứ không chỉ ngưỡng mộ, là người hành động chứ không phải khán giả của Tin Mừng. “Các ngài không tin bằng lời nói nhưng bằng hành động.”
Đức Thánh Cha nhận định: “Các chứng nhân không đánh mất chính mình trong lời nói, nhưng họ sinh hoa kết quả. Họ không phàn nàn về người khác và thế giới, nhưng họ bắt đầu với chính họ. Họ nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa không phải để được chứng minh, nhưng được chỉ ra; không được công bố bằng những tuyên ngôn mà được thể hiện bằng những gương mẫu”.
Chứng nhân không luôn là gương mẫu
Hai thánh tông đồ là chứng nhân nhưng không luôn là gương mẫu. Nhưng các ngài làm chứng về sự thất bại của các ngài. Đó chính là “sự thật về chính các ngài, với cuộc chiến chống lại sự hai lòng và giả dối. Đức Thánh Cha khẳng định rằng “Thiên Chúa có thể làm những điều lớn lao qua chúng ta khi chúng ta đừng lo bảo vệ hình ảnh của mình, nhưng mở lòng với Người và với tha nhân.”
Đức Thánh Cha kết luận rằng, qua hai thánh Phê-rô và Phao-lô, Thiên Chúa kêu gọi chúng ta gỡ bỏ mặt nạ của mình, từ chối những thứ nửa vời và những lý do khiến chúng ta trở nên hờ hững và tầm thường.
Hồng Thủy - Vatican News