Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Viện phụ Tổng quyền dòng Trappist xin mãn nhiệm sớm
Viện Phụ dòng Xitô nhặt phép, quen gọi là dòng Trappist, là cha Eamon Fitzgerald, xin mãn nhiệm trước thời hạn vì lý do sức khỏe.
Cha Fitzgerald, người Ailen, năm nay 76 tuổi (1945), gia nhập Đan viện Núi Melleray năm 1966, sau đó cha sang Nigeria nhiều năm, trước khi trở về Ailen vào năm 1989 và được bầu làm viện phụ Đan viện này. Tháng Chín năm 2008, cha được bầu làm Viện Tổng quyền dòng Trappist.
Hôm 29 tháng Mười Một vừa qua, trang mạng của dòng Trappist đưa tin: Cha Fitzgerald đã xin Ủy ban trung ương của dòng xúc tiến đáp ứng việc từ chức của cha. Cha đã dự định xin từ nhiệm trong tổng hội năm ngoái (2020) của dòng nhưng tổng tu nghị này bị hoãn lại vì đại dịch.
Trong cuộc họp mới đây tại Roma, Ủy ban trung ương dòng Trappist đã quyết định tiến hành Tổng tu nghị tới đây, tại Assisi qua hai giai đoạn: khóa họp thứ nhất, từ ngày 06 đến ngày 18 tháng Hai năm tới (2022) để bầu Viện phụ Tổng quyền mới. Tiếp đến giai đoạn thứ hai sẽ tiến hành vào tháng Chín, cũng trong năm tới.
Dòng Xitô nhặt phép tách khỏi dòng Xitô năm 1664 từ cuộc cải tổ dòng do Viện phụ Armand Jean Le Bouthillier de Rancé (1626-1700) của Đan viện Đức Bà La Trappe bên Pháp. Cuộc cải tổ này được Tòa Thánh phê chuẩn qua hai tông sắc năm 1677 và 1678. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 90 Đan viện Trappist, với 1.700 đan sĩ.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Thay đổi cách tham dự cuộc gặp gỡ giới trẻ Kitô Âu châu tại Torino
Vì những hạn chế mới do tình trạng đại dịch biến chuyển, đặc biệt do biến thể Omicron của Coronavirus, cộng đoàn đại kết Taizé phải thay đổi cách tham dự cuộc gặp gỡ giới trẻ Kitô Âu châu lần thứ 43, vào cuối năm nay tại thành phố Torino, tây bắc Italia, từ trực diện sang trực tuyến.
Lẽ ra, cuộc gặp gỡ tại Torino đã diễn ra hồi cuối năm 2020, nhưng vì đại dịch, nên bị hoãn lại cho tới ngày 28 tháng Mười Hai năm nay, và kéo dài đến ngày 01 tháng Giêng năm 2022.
Trong thông cáo, công bố hôm thứ Bảy, 27 tháng Mười Một vừa qua, các tu huynh trách nhiệm của Cộng đoàn Taizé nói rằng: “Vì những giới hạn mới do biến chuyển đại dịch, chúng tôi rất tiếc không thể để các bạn trẻ Âu châu cảm nghiệm cuộc gặp gỡ vào cuối năm nay, như chúng tôi đã trù định. Chúng tôi lấy làm tiếc vì không thể đón tiếp những người đã tổ chức chuyến đi tới Torino. Chúng tôi cám ơn các Giáo hội, các giáo xứ và mọi người tại Torino vì tất cả những cố gắng đã thực hiện trong những tháng gần đây”.
Trước tình trạng trên đây, cuộc gặp gỡ giới trẻ Kitô Âu châu tại Torino sẽ diễn ra qua hai giai đoạn: Giai đoạn trực tuyến vào cuối năm nay, từ 28 tháng Mười Hai năm 2021 đến 01 tháng Giêng năm 2022, và giai đoạn trực diện tại Torino vào tháng Bảy năm tới, 2022. Những người thiện nguyện có thể tham dự cuộc gặp gỡ này qua Internet. Chương trình sẽ được công bố trong thời gian tới đây.
Và từ ngày 07 đến ngày 10 tháng Bảy năm 2022, các Giáo hội Kitô tại Torino mời các bạn trẻ Kitô Âu châu đến tham dự tại đây, trong cuộc “lữ hành tin tưởng trên mặt đất”. Họ sẽ sống trong các gia đình và giáo xứ gần đó, tham dự các buổi cầu nguyện, trao đổi kinh nghiệm và hội thảo. Các bạn trẻ nào muốn, thì có thể lưu lại vài ngày tại cộng đoàn Taizé trên đường đi tới Torino.
Cuộc gặp gỡ giới trẻ lần thứ 42 trước đây, hồi cuối năm 2019 do Tu viện đại kết Taizé tổ chức đã diễn ra tại thành phố Wroclaw bên Ba Lan, với sự tham dự của 15.000 bạn trẻ Công giáo, Tin lành, Chính thống và Anh giáo, trong đó có khoảng 5.000 bạn trẻ Kitô Ba Lan và 10.000 còn lại đến từ các nước Âu châu khác.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Tiếp kiến chung của Đức Thánh cha: Thánh Giuse, người công chính và hôn phu của Đức Maria
Lúc 9 giờ, sáng thứ Tư 01 tháng Mười Hai, Đức Thánh cha Phanxicô đã tiếp kiến chung hơn 4.000 tín hữu hành hương, tại Đại thính đường Phaolô VI ở nội thành Vatican. Đây là buổi tiếp kiến chung thứ 38 tính từ đầu năm nay.
Sau khi Đức Thánh cha làm dấu thánh giá khai mạc, tám linh mục lần lượt đọc tám ngôn ngữ đoạn Tin mừng theo thánh Matthêu (1,18-19): “Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo”.
Bài huấn giáo
Tiếp đó là bài giáo lý về thánh Giuse. Bài thứ ba này tựa đề là: “Thánh Giuse, người công chính và hôn phu của Đức Maria”.
Đức Thánh cha nói: Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Chúng ta tiếp tục hành trình suy tư về thánh Giuse. Hôm nay, tôi muốn đào sâu sự “công chính” của thánh nhân và là “hôn phu của Đức Maria”, và qua đó gởi một sứ điệp tới tất cả những người đính hôn. Có nhiều câu chuyện về thánh Giuse được kể trong các trình thuật ngụy thư về Tin mừng, nghĩa là không được xếp vào sổ bộ Kinh thánh, nhưng những trình thuật ấy cũng ảnh hưởng tới nghệ thuật và nhiều nơi phụng tự. Những trình thuật ấy đáp ứng ước muốn bổ túc các trình thuật Tin mừng chính thức, vốn mang lại cho chúng ta tất cả những gì là thiết yếu đối với đức tin và đời sống Kitô.
Thánh Giuse, người công chính
Thánh sử Tin mừng Matthêu định nghĩa thánh Giuse là “Người công chính”. Chúng ta hãy nghe trình thuật về ngài: “Này đây sự giáng sinh của Chúa Giêsu Kitô xảy ra như sau: Đức Maria Mẹ Ngài, đã đính hôn với Giuse, trước khi đoàn tụ với nhau, thì Người có thai nhờ Chúa Thánh Thần. Giuse, hôn phu của người, là người công chính và không muốn tố giác người, nên đã quyết định âm thầm từ bỏ người” (1, 18-19)
Hôn nhân theo truyền thống Do thái
Để hiểu thái độ của thánh Giuse đối với Mẹ Maria, cũng nên nhắc lại tập tục hôn nhân thời cổ của Israel. Hôn nhân gồm hai giai đoạn được xác định rõ ràng. Giai đoạn thứ nhất như một cuộc đính hôn chính thức, bao gồm một tình trạng mới: đặc biệt người nữ, tuy tiếp tục sống ở nhà cha mẹ trong một năm, được coi là “vợ” trong thực tế, được hứa hôn cho hôn phu. Giai đoạn thứ hai là sự di chuyển của hôn thê từ nhà cha mẹ về nhà hôn phu. Điều này diễn ra với lễ rước dâu, hoàn tất hôn lễ. Trên nền tảng những tập tục đó, sự kiện “trước khi về ở chung với nhau, Đức Maria có thai” khiến Đức Trinh Nữ có thể bị cáo về tội ngoại tình. Và theo luật xưa, tội này bị trừng trị bằng hình phạt ném đá (Xc Dnl 22,20-21). Tuy nhiên, trong tập tục Do thái giáo sau đó, có một sự giải thích nhẹ hơn, chỉ buộc phải ly dị nhưng với những hậu quả về dân sự và hình luật đối với phụ nữ.
Thái độ của thánh Giuse
Tin mừng nói rằng Giuse là “người công chính” vì tuân giữ luật như mọi người Israel đạo đức. Nhưng trong tâm hồn của thánh Giuse, tình yêu đối với Đức Maria, và lòng tín thác nơi vị hôn thê đã gợi ý cho thánh nhân một cách thức cứu vãn việc tuân giữ luật và danh dự của hôn thê: thánh nhân quyết định âm thầm rời bỏ, không ồn ào, không buộc Đức Maria bị nhục nhã công khai. Thánh Giuse chọn con đường kín đáo, không xét xử và trả đũa.
Sứ thần Chúa can thiệp
Nhưng thánh sử Matthêu nói thêm ngay: Trong khi Giuse nghĩ đến những điều đó, thì này đây sứ thần Chúa hiện ra trong giấc ngủ và nói với thánh nhân: “Hỡi Giuse, con Vua Davit, đừng ngại nhận lấy Maria, hôn thê, vì điều xảy ra nơi Maria đến từ Thánh Linh. Maria sẽ sinh một con trai và ông sẽ gọi Người là Giêsu: thực vậy, Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi” (1,20-21).
Tiếng Chúa xảy ra qua một giấc mơ, trong khi Giuse phân định, tỏ cho thánh nhân một ý nghĩa lớn hơn chính công lý của Giuse. Điều này quan trọng đối với mỗi người trong chúng ta, đó là vun trồng một đời sống công chính và đồng thời luôn cảm thấy mình cần sự giúp đỡ của Thiên Chúa, để có thể mở rộng những chân trời của chúng ta và coi những hoàn cảnh của cuộc sống dưới một quan điểm khác, bao quát hơn. Bao nhiêu lần chúng ta cảm thấy mình là tù nhân của những gì xảy ra cho chúng ta; nhưng chính khi đứng trước một số hoàn cảnh của cuộc sống, ban đầu có vẻ là bi thảm đối với chúng ta, trong đó có tiềm ẩn một sự quan phòng của Chúa, với thời gian, hoàn cảnh ấy có một hình thái và soi sáng ý nghĩa cả sự đau khổ mà chúng ta gặp phải.
Bài học từ trường hợp thánh Giuse và Mẹ Maria
Nhưng tôi muốn chúng ta dừng lại để suy nghĩ về một khía cạnh trong câu chuyện được Tin mừng thuật lại. Mẹ Maria và thánh Giuse là hai người đính hôn, có lẽ đã nuôi dưỡng những ước mơ và những mong đợi về cuộc sống của mình và về tương lai chung. Thiên Chúa dường như đi vào như một sự bất ngờ trong cuộc sống của họ và tuy ban đầu có vất vả khó khăn, nhưng cả hai đã mở rộng tâm hồn đối với thực tại xảy ra trước mặt.
Anh chị em thân mến, nhiều khi cuộc sống chúng ta không xảy ra như chúng ta tưởng tượng. Nhất là trong những quan hệ yêu thương, tình cảm, chúng ta khó đi từ tình trạng phải lòng nhau, yêu nhau lúc ban đầu, đến tình trạng tình yêu chín mùi. Giai đoạn đầu tiên luôn có một sự mê hoặc nào đó, làm cho chúng ta sống chìm đắm trong một sự tưởng tượng nhiều khi không tương ứng với thực tại. Nhưng chính khi sự yêu nhau với những mong đợi dường như chấm dứt, thì lúc đó mới bắt đầu tình yêu đích thực. Quả vậy, yêu không phải là đòi người khác hoặc cuộc sống phải tương ứng với trí tưởng tượng của chúng ta, nhưng đúng hơn có nghĩa là chọn lựa trong tự do hoàn toàn lãnh nhận trách nhiệm về cuộc sống, như xảy ra cho chúng ta. Đó là lý do thánh Giuse mang cho chúng ta một bài học quan trọng, chọn Maria “với đôi mắt mở toang”. Thực vậy, Tin mừng nói: “Khi tỉnh dậy, Giuse làm như lời thiên thần Chúa đã truyền và đưa hôn thê của mình về nhà, và Maria đã sinh một con trai mà Giuse đặt tên là Giêsu” (Mt 1,24-25).
Và Đức Thánh cha kết luận: “Các Kitô hữu đính hôn được kêu gọi làm chứng về một tình yêu như thế, có can đảm đi từ những tình trạng mới yêu nhau đến những tình trạng tình yêu trưởng thành. Đó là một chọn lựa đòi nhiều yêu sách, thay vì đóng kín cuộc sống, thì có thể củng cố tình yêu để nó được lâu bền trước những thử thách của thời gian. Khiết tịnh, chung thủy, tôn trọng, lắng nghe không phải là những đức tính cần phải có trong sự đính hôn để khơi lên cảm thức tội lỗi, nhưng là để chỉ dẫn một hướng đi, chỉ có đường hướng này mới có thể làm cho các mơ ước của chúng ta có thể được thể hiện và lâu bền.”
Đức Thánh cha cũng ứng khẩu nhắc nhở các đôi vợ chồng đừng bao giờ kết thúc một ngày mà không làm hòa với nhau, nếu đã làm phật lòng nhau, vì chiến tranh lạnh làm hại hôn phối.
Đức Thánh cha nói: Lần này chúng ta cũng kết thúc với một kinh nguyện.
“Lạy thánh Giuse, người đã yêu thương Đức Maria trong tự do, và đã chọn lựa từ bỏ sự tưởng tượng của mình để dành chỗ cho thực tại, xin giúp mỗi người chúng con để cho mình được Thiên Chúa làm ngạc nhiên và đón nhận cuộc sống không phải như một sự bất ngờ phải chống lại, nhưng như một mầu nhiệm giấu ẩn một bí quyết vui mừng đích thực.
“Xin thánh Giuse làm cho tất cả các Kitô hữu đính hôn được niềm vui và sự quyết liệt, nhưng luôn bảo tồn ý thức rằng chỉ có lòng từ bi và tha thứ làm cho tình yêu có thể. Amen”.
Chào thăm và nhắn nhủ
Bài giáo lý bằng tiếng Ý trên đây của Đức Thánh cha sau đó được các linh mục thông dịch lần lượt tóm lược trong các thứ tiếng khác nhau, kèm theo lời chào thăm của Đức Thánh cha.
Đặc biệt bằng tiếng Ba Lan, Đức Thánh cha nhắc nhở rằng: “Chúa nhật tới đây, 05 tháng Mười Hai, tại Ba Lan sẽ cử hành Ngày cầu nguyện và giúp đỡ Giáo hội ở miền Đông. Tôi cám ơn tất cả những người, từ hơn 20 năm nay đón nhận sáng kiến này của Hội đồng Giám mục Ba Lan, hỗ trợ Giáo hội tại các nước Đông âu và Á châu bằng lời cầu nguyện và sự giúp đỡ cụ thể. Xin Chúa trả công bằng ơn thánh của Ngài cho sự ân cần quảng đại đối với các anh chị em Kitô đang ở trong tình trạng túng thiếu.
Bằng tiếng Ý, Đức Thánh cha nhắc đến Ngày Thế giới chống bệnh Sida (Aids). Ngài nói: “Đây là dịp quan trọng để nhớ đến bao nhiêu người bị virus này, nhiều người trong đó ở những vùng trên thế giới không có những sự chữa trị thiết yếu. Tôi cầu mong có sự tái dấn thân liên đới để bảo đảm một sự chữa trị y tế công bằng và hữu hiệu.”
Đức Thánh cha nói thêm rằng: “Ngày mai, tôi sẽ đi Cipro rồi sang Hy Lạp để viếng thăm dân chúng yêu quí tại hai nước ấy, phong phú về lịch sử, linh đạo và văn minh. Đây là một chuyến đi về nguồn mạch đức tin tông truyền và huynh đệ giữa các Kitô hữu thuộc các hệ phái khác nhau. Tôi cũng sẽ có dịp đến gần nhân loại bị thương tổn, nơi bao nhiêu người di dân đang tìm kiếm hy vọng. Tôi sẽ đến đảo Lesbo. Tôi xin anh chị em vui lòng tháp tùng tôi bằng lời cầu nguyện.”
Đức Thánh cha cũng chào thăm các tín hữu hành hương và nhắc đến các dòng nữ đang cử hành Tổng tu nghị: các nữ tu Dòng thánh Giuse ở Chambéry, các nữ tu Thừa sai giáo lý, các nữ Thừa sai Tông đồ Công giáo và các nữ tu dòng Bệnh viện Thương xót. Ngài cầu xin ơn phù trợ của Chúa cho mỗi nữ tu, để những lúc suy tư và phân định củng cố các chị trong sự dấn thân quảng đại cho Tin mừng.
Sau cùng, Đức Thánh cha chào thăm những người cao niên, bệnh nhân, người trẻ và hàng chục đôi tân hôn. Ngài nhắc họ rằng “Mùa Vọng mời gọi chúng ta chuẩn bị lễ Giáng sinh, đón nhận, không chút sợ hãi, Chúa Giêsu Kitô đến giữa chúng ta. Nếu chúng ta mở rộng cánh cửa cuộc sống, thì mọi sự sẽ được một ánh sáng mới và gia đình, việc làm, đau khổ, sức khỏe, tình bạn, cũng trở thành những cơ hội để khám phá sự hiện diện an ủi của Chúa, sự hiện diện của Đức Emmanuel-Chúa ở cùng chúng ta, và để làm chứng sự hiện diện của Chúa nơi tha nhân.
Buổi tiếp kiến kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành của Đức Thánh cha.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Những vấn đề chính trong chuyến viếng thăm của Đức Thánh cha tại Cipro và Hy Lạp
Đối thoại đại kết và tình hiệp thông của các Giáo hội tại những nơi vốn là chiếc nôi của thế giới Tây phương, từ đó có những căn cội của Âu châu, từ đó có một sứ điệp quan trong về tình huynh đệ liên quan đến những người di dân và tị nạn.
Ông Matteo Bruni, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, nói rằng trên đây là những ý tưởng nổi bật trong chuyến tông du thứ 35 của Đức Thánh cha Phanxicô, từ ngày 02 đến ngày 06 tháng Mười Hai này tại đảo Cipro và Hy Lạp.
Trong cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh, hôm 30 tháng Mười Một vừa qua, ông Bruni nói: Cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha Phanxicô tại hai nước vừa nói có sắc thái mạnh mẽ về đại kết: tại đây các cộng đoàn Công giáo chỉ là thiểu số so với đại đa số dân theo Chính thống giáo. Nhiều vấn đề xã hội sẽ được Đức Thánh cha đề cập đến trong các cuộc gặp gỡ, trong đó đứng đầu là thảm trạng người di dân và tị nạn.
Theo ông Bruni, tình trạng ngày nay khác với tình trạng cách đây 5 năm. Đảo Lesbo của Hy Lạp không còn đầy ắp những người di dân như hồi đó, và điều kiện sống của họ đã được cải tiến, nhưng đảo Lesbo vẫn còn là một biểu tượng đối với cộng đồng quốc tế về “nghĩa trang lớn nhất trên thế giới” là Địa Trung Hải, như Đức Thánh cha Phanxicô đã nhiều lần nói tới.
Trả lời câu hỏi: liệu Đức Thánh cha có mang theo ngài một số người di dân và tị nạn về Ý, như chuyến viếng thăm của ngài tại đảo Lesbo hồi tháng Tư năm 2016 hay không, ông Bruni cho biết đây là điều đã được nghiên cứu nhưng sự phức tạp của các luật lệ không có phép đưa ra câu trả lời chung kết. Đàng khác, đây là những điều được nói đến sau đó. Dầu sao đây không phải là “một hành lang nhân đạo” nhưng nếu có thì chỉ là một sự di chuyển người tị nạn từ một nước Âu châu này đến một nước khác ở cùng Âu châu.
Sau cùng, theo ông Bruni, vấn đề đảo Cipro bị chia cắt, với hy vọng tái thống nhất cũng sẽ được nói đến trong cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Sứ điệp video của ĐTC trước chuyến tông du đảo Sýp và Hy Lạp
(2-6/12/2021)
Anh chị em đảo Sýp và Hy Lạp quý mến, kaliméra sas! Chào anh chị em!
Chỉ còn một vài ngày là đến cuộc gặp gỡ của chúng ta và tôi đang chuẩn bị hành hương đến những miền đất đẹp đẽ của anh chị em, nơi được phong phú bởi lịch sử, văn hoá và Tin Mừng! Tôi đến với niềm vui, chính xác là nhân danh Tin Mừng, theo bước chân của những nhà truyền giáo vĩ đại đầu tiên, đặc biệt là các tông đồ Phaolô và Barnaba. Thật tốt đẹp khi trở về nguồn cội và thật quan trọng đối với Giáo hội để khám phá lại niềm vui của Tin Mừng. Với tinh thần đó tôi đang chuẩn bị cho cuộc hành hương đến các suối nguồn này, và tôi xin mọi người giúp tôi chuẩn bị bằng những lời cầu nguyện.
Khi gặp gỡ anh chị em, tôi sẽ có thể làm dịu cơn khát của mình tại những nguồn mạch của tình huynh đệ, những điều rất quý giá vào thời điểm chúng ta vừa mới bắt đầu hành trình công nghị hoàn vũ. Có một “ân sủng hiệp hành”, một tình huynh đệ tông đồ mà tôi rất ao ước, và vô cùng kính trọng: đó là kỳ vọng được viếng thăm các Đức tổng giám mục Chrysostomos và Hieronymos, những người đứng đầu các Giáo hội Chính Thống địa phương. Như là người anh em trong đức tin, tôi sẽ được hân hạnh được anh chị em đón nhận và gặp gỡ anh chị em nhân danh Chúa của Bình an. Hỡi anh chị em Công giáo thân mến, tôi đến với anh chị em, được quy tụ thành từng đàn chiên nhỏ ở những miền đất đó, được Chúa Cha hết sức dịu dàng yêu thương và Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành lặp lại với anh chị em: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ hãi” (Lc 12,32). Tôi chân thành đến để mang lại cho anh chị em sự khuyến khích của toàn thể Giáo hội Công giáo.
Việc viếng thăm anh chị em cũng sẽ cho tôi cơ hội uống từ những nguồn mạch cổ kính của châu Âu: đảo Sýp, chi nhánh của Thánh Địa trên lục địa; Hy Lạp, quê hương của nền văn hóa cổ điển. Nhưng ngay cả ngày nay, châu Âu cũng không thể bỏ qua Địa Trung Hải, vùng biển đã chứng kiến sự truyền bá của Tin Mừng và sự phát triển của các nền văn minh vĩ đại. Miền biển của chúng ta, nơi kết nối rất nhiều vùng đất, mời gọi chúng ta cùng nhau vượt biển, không bị chia cắt bởi vì đi theo những con đường riêng biệt của chúng ta, đặc biệt là vào thời điểm mà cuộc chiến chống đại dịch vẫn cần nhiều sự nỗ lực và cuộc khủng hoảng khí hậu đang đe doạ nặng nề.
Biển cả, nơi ôm ấp nhiều dân tộc, với những bến cảng rộng mở nhắc nhở chúng ta rằng các nguồn của sự chung sống nằm ở việc chấp nhận lẫn nhau. Ngay từ bây giờ tôi cảm thấy được chào đón bởi tình cảm của anh chị em và tôi cảm ơn những người trong một thời gian đang chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của tôi. Nhưng tôi cũng đang nghĩ đến những người, trong những năm gần đây và cho đến ngày nay, đang chạy trốn chiến tranh và đói nghèo, đặt chân lên bờ lục địa và những nơi khác, và thay vì gặp được lòng hiếu khách, lại gặp phải sự thù địch và thậm chí là bóc lột. Họ là anh chị em của chúng ta. Bao nhiêu người đã mất mạng trên biển! Ngày nay "Biển của Chúng ta", Địa Trung Hải, là một nghĩa trang lớn. Hành hương đến những nguồn mạch của nhân loại, tôi sẽ đến Lesvos một lần nữa, với lòng tin chắc rằng những nguồn mạch của sự chung sống sẽ chỉ nảy nở trở lại trong tình huynh đệ và sự hội nhập: cùng với nhau. Không có con đường nào khác, và với quan điểm này, tôi đến với anh chị em.
Các anh chị em thân mến, chính với những tình cảm này, tôi rất mong được gặp tất cả anh chị em, mọi người trong anh chị em! Không chỉ tất cả tín hữu Công giáo! Tôi cầu xin mọi phúc lành của Đấng Tối Cao đổ xuống trên anh chị em, trong khi từ bây giờ tôi đã mang đến trước Người những khuôn mặt và kỳ vọng, lo lắng và hy vọng của anh chị em. Na íste pánda kalá! [Cầu chúc anh chị em luôn khỏe mạnh!]
Các Giám mục Úc kêu gọi bình đẳng và hòa nhập cho người khuyết tật
Trong một sứ điệp có tựa đề “‘Chúng ta’ không phải ‘Họ’ - khuyến khích sự tham gia tích cực”, được ký bởi Đức cha Donald Sproxton, phụ trách về các vấn đề liên quan đến người khuyết tật của Ủy ban Giám mục về Công bằng Xã hội, các Giám mục Úc viết: “Cả nước có 4,4 triệu người khuyết tật, vì vậy Ngày Quốc tế Người Khuyết tật nhằm mục đích giúp xã hội nhận thức, hòa nhập và gần gũi hơn đối với những người gặp nhiều khó khăn hơn những người khác. Những người khuyết tật, cùng với gia đình của họ, thường bị thiệt thòi. Vì thế, Giáo hội có nhiệm vụ nhìn nhận họ là anh chị em được Thiên Chúa yêu thương và có chỗ đứng trong cộng đoàn”.
Đức cha Donald Sproxton nhấn mạnh rằng vấn đề người khuyết tật không chỉ là khuyết tật, nhưng là sự thiếu hiểu biết, bất khoan dung, bất công và loại trừ, tước đi phẩm giá và phẩm tính của con người. Người khuyết tật không chỉ là đối tượng cần được chăm sóc, nhưng còn là tác nhân cho chính cuộc sống của họ, là những người có quyền được lắng nghe. Thực tế, tính đa dạng lớn trong kinh nghiệm của những người khuyết tật phải được công nhận và họ phải được đồng hành với sự công bằng và hòa nhập. Nhờ đó, họ cũng có cơ hội bình đẳng và được nhìn nhận và cho phép họ đóng góp vào công ích.
Từ điểm này, Giáo hội Úc mời gọi tất cả các giáo xứ thúc đẩy một thái độ chào đón giữa các tín hữu đối với những người gặp nhiều khó khăn hơn. Các Giám mục lưu ý thêm, điều này không có nghĩa đơn giản chỉ là những thái độ trong việc giải quyết các vấn đề về khả năng tiếp cận thể lý dành cho người khuyết tật. Cần phải vượt lên trên suy nghĩ này, nghĩa là mỗi người phải được chấp nhận như những anh chị em trong cộng đoàn.
Được công bố vào năm 1992 theo nghị quyết 47/3 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Ngày Quốc tế Người khuyết tật nhằm mục đích cổ võ việc bảo vệ nhân phẩm, quyền và hạnh phúc của những người khuyết tật. Cho năm 2021, chủ đề được chọn cho Ngày này là “Sự lãnh đạo và tham gia của người khuyết tật hướng tới một thế giới bao gồm, dễ tiếp cận và bền vững trong một thế giới hậu Covid-19”. Trong dịp này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một sứ điệp có tựa đề “Anh em là bạn hữu của Thầy” (Ga 15,14), trong đó ngài bày tỏ sự phân biệt đối xử hiện hữu trong xã hội và nhắc lại rằng tình bạn với Chúa Giêsu có thể là chìa khóa tinh thần để chấp nhận giới hạn tình trạng mỗi người. (CSR_7674_2021)
Ngọc Yến - Vatican News
Các giám mục Canada cầu nguyện cho việc chữa lành và hoà giải với các nhóm “Dân tộc Đầu tiên”
Ngày Toàn quốc Cầu nguyện liên đới với Người Bản địa được tổ chức hàng năm vào dịp lễ Đức Mẹ Guadalupe, 12/12. Năm nay Ngày này chỉ diễn ra vài ngày trước cuộc gặp của một số đại biểu Người Bản địa với Đức Thánh Cha tại Vatican, từ ngày 17-20/12/2021.
Sự đa dạng chống lại sự chia rẽ
Sứ điệp của các giám mục Canada bắt đầu bằng việc nhắc lại rằng: là Thân Mình của Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi sống trong tình thân hữu và hoà hợp với mọi dân tộc. Thiên Chúa tạo dựng và duy trì sự đa dạng tuyệt vời của các dân tộc, văn hoá, sắc tộc và tín ngưỡng. Do đó thật đáng buồn khi sự đa dạng phong phú này trở thành nguồn gốc chia rẽ, đe doạ và bất khoan dung.
Không có công lý nếu không có sự tha thứ
Nhắc rằng sự chia rẽ cũng có thể được tiếp sức bởi sự nhượng bộ trước cám dỗ trả thù cho những tổn thương trong quá khứ; điều này làm mất đi “cơ hội được tha thứ và chữa lành”. Các giám mục nói rằng “nếu chúng ta không chịu trách nhiệm về việc chữa lành của mình, thì rất khó để tiến về phía trước”. Các ngài nhắc lại lời của Thánh Gioan Phaolô II: “Không có hòa bình nếu không có công lý, không có công lý nếu không có sự tha thứ”.
Không nhượng bộ trước sức mạnh của sự huỷ diệt
Các giám mục nói rằng tha thứ không thể là “tạm thời hoặc nông cạn” và trích dẫn thông điệp Fratelli tutti: “Sự tha thứ nhưng không và chân thành phản ánh khả năng tha thứ vô hạn của Thiên Chúa. Những ai thật lòng tha thứ thì không quên, nhưng họ chọn không nhượng bộ trước sức mạnh hủy diệt tương tự, điều đã gây ra cho họ quá nhiều đau khổ”.
Ơn tha thứ của Thiên Chúa và trách nhiệm của chúng ta
Các giám mục nói thêm rằng đặc ân được Thiên Chúa tha thứ vô hạn cho những lỗi lầm của chúng ta đi cùng với trách nhiệm tôn trọng và chăm sóc cho anh chị em của chúng ta - đặc biệt là những người phải đối mặt với những trở ngại, bất công hoặc những rào cản khác đối với tự do và phúc lành của họ trong tư cách là con người. (Vatican News 29/11/2021)
Hồng Thủy - Vatican News
Giáo hội Công giáo tại Sýp và Hy Lạp trước chuyến viếng thăm của ĐTC
Kitô giáo ở Sýp và Hy Lạp bắt nguồn từ thời các thánh Tông đồ, cụ thể là với thánh Phaolô, người đã giảng đạo ở Hy Lạp, nhưng cũng loan báo Tin Mừng ở Sýp cùng với thánh Barnaba, người được coi là vị sáng lập Giáo hội Sýp. Hơn nữa, cả hai quốc gia đều theo truyền thống Chính Thống giáo, với Chính Thống giáo chiếm đa số.
Công giáo tại Cộng hoà Sýp
Tại Cộng hoà Sýp, quốc gia có diện tích 9.251 km2, tín hữu Công giáo chiếm 4,75% trong 850.000 dân, tương đương với 38.000, và phần lớn thuộc nghi lễ Latinh. Phần lớn trong số họ là hậu duệ của các nhà Thập tự chinh, những người đã định cư ở đó từ thế kỷ XII, sau cuộc Thập tự chinh lần thứ ba (1191) và sự sụp đổ của Giêrusalem (1187).
Cộng đoàn Công giáo Latinh tại Sýp
Các tín hữu Công giáo Latinh phát triển mạnh cho đến khi đảo Sýp bị Thổ Nhĩ Kỳ chinh phục vào năm 1570-1573, khi hàng ngàn người bị giết, các nhà thờ bị biến thành đền thờ Hồi giáo, và Giáo hội Công giáo Latinh bị giải thể. Tuy nhiên, họ sống sót qua sự cai trị của đế chế Ottoman một phần lớn là nhờ Dòng Phanxicô, đã có mặt trên đảo từ khi thành lập vào thế kỷ XIII và vẫn đóng vai trò trung tâm trong Giáo hội địa phương ngày nay.
Chính sách khoan dung dưới sự cai trị sau đó của người Anh (1878-1960) đã củng cố cộng đồng Công giáo Latinh, cho phép họ hội nhập hoàn toàn vào xã hội Sýp. Quá trình giải phóng đã tiến triển hơn nữa kể từ khi đảo này độc lập vào năm 1960, khi Hiến pháp mới chính thức nhìn nhận Giáo hội Công giáo và ở cấp độ chính trị, dành một ghế trong Quốc hội cho mỗi cộng đồng trong ba cộng đồng Công giáo hiện diện trên đảo.
Dù cuộc xâm lược của Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1974 khiến nhiều gia đình Công giáo phải rời bỏ miền Bắc, cộng đồng Công giáo Latinh ở Sýp vẫn tiếp tục phát triển mạnh, đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục. Cộng đồng Công giáo Latinh cũng rất tích cực trong lĩnh vực xã hội, thông qua các tổ chức từ thiện giúp đỡ những người nghèo và dễ bị tổn thương nhất, người tị nạn và người lao động nước ngoài.
Giáo hội Công giáo Latinh ở Sýp thuộc Quyền tài phán của Tòa Thượng phụ Latinh của Giêrusalem và được giao cho một Đại diện của Tòa Thượng phụ Latinh, hiện nay là cha Jerzy Kraj, dòng Phanxicô. Tòa Thượng Phụ phụ trách giáo xứ thánh Phaolô ở Paphos, trong khi ba giáo xứ còn lại do dòng Phanxicô quản lý.
Cộng đoàn Công giáo Maronite tại Sýp
Cộng đồng Công giáo lớn thứ hai ở Sýp là cộng đồng Công giáo nghi lễ Maronite (đọc: Ma-rô-nít), hiện chiếm 1,5% dân số. Họ đến đảo Sýp trong nhiều đợt, bắt đầu từ thế kỷ thứ VIII và những đợt mới vào cuối thế kỷ XIII, và vào thời đó, họ trở thành cộng đồng Kitô giáo phương Đông lớn nhất sau cộng đồng Hy Lạp. Các con số đã giảm đáng kể sau khi đế quốc Ottoman thống trị đảo Sýp vào thế kỷ XVI và các cuộc đàn áp sau đó. Họ bắt đầu phát triển trở lại dưới sự cai trị của Anh và sau khi độc lập, với nhiều người Libăng đến sau cuộc chiến ở Libăng vào năm 1975.
Tuy nhiên, sau khi đảo Sýp bị phân chia vào năm 1974, số tín hữu Maronite đã giảm đáng kể ở miền Bắc. Nhìn chung, tín hữu Công giáo nghi lễ Maronite lên tới khoảng 13.000 người vào năm 2019. Họ tập trung phần lớn ở Nicosia và thuộc quyền của Tổng giáo phận đảo Sýp, hiện do Đức Tổng giám mục Selim Jean Sfeir cai quản.
Về đặc điểm văn hóa, tín hữu Công giáo Maronite của Sýp chủ yếu là người nói tiếng Hy Lạp bản địa. Tuy nhiên, hiện tại, họ cũng nói các ngôn ngữ khác, như trong suốt lịch sử của họ, bao gồm tiếng Syriac, tiếng Ả Rập, tiếng Pháp và tiếng Ý.
Cộng đồng Công giáo Armeni tại Sýp
Cộng đồng Công giáo nhỏ nhất ở đảo Sýp là cộng đồng Công giáo Armeni. Họ hiện diện tại đây từ thế kỷ VI khi các tù nhân Armeni được chuyển đến đảo. Sau đó, nhiều Kitô hữu Armeni, chủ yếu thuộc Giáo hội Chính Thống tông truyền Armeni, đến đảo Sýp, đặc biệt vào thế kỷ XIII.
Tín hữu Công giáo Armeni cũng được hưởng lợi dưới sự thống trị của Anh. Nhiều người Armeni đến Sýp trong các cuộc thảm sát của Thổ Nhĩ Kỳ trong Thế chiến thứ nhất, sự phân chia của Palestine vào năm 1948, và cuộc chiến ở Libăng (1975-1990). Ngày nay có khoảng 3.000-4.000 tín hữu Công giáo Armeni sống ở Sýp, phần lớn ở thủ đô Nicosia.
Tương quan với các Giáo hội Kitô khác
Các Giáo hội Kitô lớn ở Sýp, bao gồm cả Tin lành và Anh giáo, hợp tác chặt chẽ với nhau và có mối quan hệ đại kết tốt đẹp. Trong 15 năm qua, Tòa Thánh và phần lớn Giáo hội Chính Thống đã củng cố mối quan hệ huynh đệ, được sự hỗ trợ tích cực của Giáo chủ Chrysostomos II, Tổng giám mục của New Giustiniana và Toàn đảo Sýp.
Vào ngày 16/6/2007, Giáo chủ Chính Thống giáo đã ký Tuyên bố chung với Đức Biển Đức XVI nhân chuyến thăm Vatican. Sau đó, Đức Biển Đức XVI đã gặp Đức Tổng Giám mục Chrysostomos II trong hai lần nữa: vào ngày 5/6/2010, trong chuyến viếng thăm đảo Sýp, khi ngài trao cho Giáo chủ Chính Thống giáo một bản tài liệu làm việc của Thượng Hội đồng Giám mục Đặc biệt về Trung Đông, được tổ chức vào tháng 10 năm đó; và lần thứ hai vào ngày 28/3/2011, tại Vatican.
Công giáo tại Hy Lạp
Tại Hy Lạp, quốc gia có diện tích 131.957 km2, Giáo hội Chính Thống đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử nước này. Các hiến pháp của Hy Lạp qua các thời kỳ và cả hiến pháp dân chủ mới năm 1974 đã khẳng định sự trỗi vượt của Chính Thống giáo. Hiến pháp năm 1974 xác định Chính Thống là tôn giáo “thịnh hành” trong nước, mặc dù nó công nhận quyền tự do tôn giáo cho tất cả các tín ngưỡng. Ngày nay, 90% người Hy Lạp vẫn xác định là Chính thống giáo Hy Lạp, mặc dù không phải tất cả đều là tín hữu thực hành.
Các tôn giáo thiểu số bao gồm Công giáo, Tin lành, Anh giáo, cũng như Hồi giáo (1%) tập trung ở biên giới với Thổ Nhĩ Kỳ, và một cộng đồng nhỏ Do Thái.
Đa số là người nhập cư
Theo số liệu mới nhất của Vatican, người Công giáo, chủ yếu theo nghi lễ Latinh, chiếm 1,2% dân số (tức là 133.000 trong số khoảng 11 triệu dân), hầu hết không phải là người Hy Lạp. Tuy nhiên, số liệu địa phương cho thấy con số cao hơn, bao gồm vài ngàn lao động nhập cư có giấy phép cư trú tạm thời, người tị nạn và xin tị nạn. Năm 2018, Giáo hội Công giáo Hy Lạp ước tính có tới 400.000 người Công giáo sinh sống tại nước này.
Các nhóm người nước ngoài đông nhất là công dân Ba Lan (40.000) và Philippines (45.000). Ngoài ra, số người Công giáo từ Trung Đông đã tăng lên đáng kể do chiến tranh, cụ thể là từ Iraq và Syria. Các nhóm sắc tộc khác bao gồm người Albania, Bulgaria, Ucraina và Armenia. Hơn nữa, việc nhập cư đã gia tăng số tín hữu Công giáo theo nghi lễ Đông phương.
Các cộng đồng Công giáo quan trọng nằm ở Quần đảo Cyclades (đặc biệt là ở Syros và Tinos) và cả ở Corfu, Patras, Giannitsa, Thessalonica, Kavala, Volos và ở một số thành phố khác trong đất liền của Hy Lạp.
Tích cực trong hoạt động mục vụ và xã hội
Giáo hội địa phương tích cực trong hoạt động mục vụ và xã hội. Tuy nhiên, do cộng đồng Công giáo rải rác ở nhiều nơi và thành phần không đồng nhất của nó, trong bối cảnh các ơn gọi địa phương ngày càng giảm, đã làm cho công việc này trở nên khó khăn hơn.
Việc di dân chắc chắn đã làm phong phú thêm cho Giáo hội địa phương, nhưng cũng đòi hỏi nguồn nhân lực và tài chính tăng lên để đáp ứng nhu cầu mục vụ và xã hội ngày càng tăng, cũng như để hòa nhập những người mới đến trong các cộng đồng giáo xứ địa phương.
Cuộc khủng hoảng kinh tế đang diễn ra từ năm 2009 đã khiến những khó khăn này càng thêm trầm trọng. Việc châu Âu thắt chặt tài chính đối với Hy Lạp cũng đã gây căng thẳng cho tài chính của các giáo phận, giáo xứ và tổ chức từ thiện Công giáo tham gia vào việc hỗ trợ các gia đình Hy Lạp nghèo khó, cũng như hàng ngàn người nhập cư và tị nạn chạy trốn chiến tranh và đói nghèo.
Với việc chi phí gia tăng và số tiền dâng cúng vào Chúa Nhật giảm, Giáo hội Công giáo đang phải trả thuế cao hơn đáng kể so với trước đây.
Các giám mục Công giáo Hy Lạp đã nhiều lần kêu gọi chú ý đến những khó khăn này; các ngài cũng chỉ trích các chính sách thắt lưng buộc bụng do châu Âu áp đặt đã làm gia tăng tình trạng nghèo đói trên khắp đất nước, như mạng lưới Caritas địa phương xác nhận.
Thật vậy, Caritas Hy Lạp phối hợp với Caritas Quốc tế và các tổ chức từ thiện Công giáo khác đã đi đầu trong việc ứng phó với khủng hoảng và hỗ trợ các nhu cầu của người nghèo và những người dễ bị tổn thương nhất, bao gồm cả những người di cư ở quần đảo Aegean và ở lục địa Hy Lạp. Công việc này đã được tiếp tục trong đại dịch Covid-19.
Quan hệ đại kết Công giáo và Chính Thống Hy Lạp
Mối quan hệ đại kết giữa Công giáo và Giáo hội Chính Thống giáo chiếm đa số ở Hy Lạp đã đạt được một số tiến bộ trong những năm gần đây. Một bước tiến quan trọng là Cuộc Hành hương Năm Thánh của thánh Gioan Phaolô II theo dấu chân của thánh Phaolô Tông đồ, vào năm 2001. Đây là chuyến thăm đầu tiên của một Giáo hoàng tại đất nước này. Điểm nổi bật của sự kiện lịch sử đó là việc thánh Giáo hoàng xin tha thứ cho việc cướp phá Constantinople vào năm 1204 bởi cuộc Thập tự chinh và việc ký kết Tuyên bố chung về nguồn gốc Kitô giáo ở châu Âu với Giáo chủ Chính thống Hy Lạp Christòdoulos, vào ngày 4/5/2001.
Kể từ đó, Tòa thánh và Giáo hội Chính Thống tự trị của Hy Lạp đã tìm kiếm sự hợp tác chặt chẽ hơn trong lĩnh vực mục vụ và trong các vấn đề thực tế chung, đặc biệt là trong bối cảnh của Liên minh châu Âu. Điều này càng được chứng thực bằng Tuyên bố chung được ký bởi Đức Thánh Cha Phanxicô, Giáo chủ Chính Thống giáo Hy Lạp Hieronymos II và Thượng phụ Bartolomeo I của Constantinople, trong chuyến thăm trại tị nạn Moria, trên đảo Lesvos của Hy Lạp, vào ngày 16/4/2016.
Trong Tuyên bố đó, ba nhà lãnh đạo của Giáo hội đã cùng kêu gọi cộng đồng quốc tế “sử dụng mọi cách để đảm bảo rằng các cá nhân và cộng đồng, bao gồm cả Kitô hữu, vẫn ở lại quê hương của họ và hưởng quyền cơ bản được sống trong hòa bình và an ninh”, đồng thời dấn thân “kiên định và hết lòng” để tăng cường nỗ lực của họ “để thúc đẩy sự hiệp nhất trọn vẹn của tất cả các Kitô hữu”.
Đức Hồng y Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo hội Đông phương, đã nhắc lại hy vọng của Tòa thánh về sự cộng tác nhiều hơn nữa giữa hai Giáo hội, đặc biệt trong việc phục vụ bác ái và trong việc quảng bá các giá trị Kitô giáo trong xã hội Hy Lạp, nhân dịp ngài thăm đất nước này vào tháng 11/2019.
Hồng Thủy - Vatican News
Toà Thánh phát động chiến dịch cho người khuyết tật
Chiến dịch bắt đầu vào ngày 06/12 và diễn ra trong 5 tuần. Mỗi tuần, Bộ Giáo dân Gia đình và Sự sống sẽ cho phát hành một video, với nội dung nói về chứng tá của các Kitô hữu khuyết tật trong các cộng đoàn Giáo hội. Chính người khuyết tật sẽ kể lại kinh nghiệm đức tin của họ và khẳng định “Tôi là Giáo hội”.
Trong sứ điệp gửi đến những người khuyết tật nhân Ngày Quốc tế dành riêng cho họ, Đức Thánh Cha đã lưu ý rằng bí tích Rửa tội mang lại cho mỗi người trong chúng ta trở thành thành viên trọn vẹn của Giáo hội, “không có sự loại trừ hoặc phân biệt đối xử, tất cả đều có thể khẳng định ‘Tôi là Giáo hội’”. Đức Thánh Cha còn nói thêm rằng Giáo hội luôn yêu thương người khuyết tật, Giáo hội thực sự là ngôi nhà của người khuyết tật; và trong việc loan báo Tin Mừng, Giáo hội cần những người khuyết tật để có thể hoàn thành sứ vụ.
Chính trong tinh thần này, Bộ Giáo dân Gia đình và Sự sống cho phát hành các video, với mục đích chỉ ra những đóng góp mà người khuyết tật có thể thực hiện cho cộng đoàn Giáo hội trong cuộc sống thường ngày như: Hoạt động loan báo Tin Mừng của một số bạn trẻ khiếm thính ở Mexicô; Đan viện ở Pháp với một số nữ tu mắc hội chứng Down; Một nhóm bạn trẻ Ý bị thiểu năng trí tuệ tham gia Ngày Giới trẻ Thế giới. Đây chỉ là một số ví dụ về một thực tế rộng lớn hơn mà chiến dịch dự định bắt đầu chỉ ra.
Bà Gabriella Gambino, Phó Tổng Thư ký Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống nhận xét: “Chúng tôi tin chắc rằng nếu chúng ta chú ý lắng nghe tiếng nói của các anh chị em khuyết tật, thì cộng đoàn Giáo hội sẽ thực sự phong phú”.
Các video sẽ được phát trên các kênh YouTube của Vatican News và Bộ Giáo dân Gia đình và Sự sống.
Ngọc Yến - Vatican News
Sứ điệp ĐTC gửi Đức Thượng phụ Chính Thống Constantinople nhân lễ thánh Anrê
Đức Hồng y Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Toà Thánh về Đối thoại liên tôn, đã dẫn đầu phái đoàn của Toà Thánh đến Thổ Nhĩ Kỳ tham dự Thánh lễ kính nhớ thánh Anrê tại nhà thờ thánh George, để chuyển những lời chúc tốt đẹp của niềm vui và bình an đến Đức Thượng Phụ, các Giám mục, các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân. Đức Hồng y đã trao Sứ điệp của Đức Thánh Cha cho Đức Thượng phụ và ngài đã đọc trước khi buổi cử hành phụng vụ kết thúc.
Mối quan hệ đức tin và đức ái
Trong Sứ điệp, Đức Thánh Cha cho biết ngài gửi thư không chỉ vì tình bằng hữu huynh đệ giữa ngài và Đức Thượng phụ Bartolomeo, nhưng còn vì mối quan hệ đức tin và bác ái lâu đời và sâu sắc giữa Giáo hội Roma và Giáo hội Constantinople.
Như truyền thống lâu đời, Toà Thượng phụ Constantinople thường gửi phái đoàn đến Roma để mừng lễ thánh Phêrô, bổn mạng Giáo hội Công giáo, và Toà Thánh cũng gửi một phái đoàn Constantinople để mừng lễ thánh Anrê, bổn mạng của Giáo hội Chính Thống Constantinople.
Quan tâm chung đến các vấn đề của nhân loại
Đức Thánh Cha nhắc lại niềm vui trong chuyến thăm Roma của Đức Thượng phụ Bartolomeo mới đây, khi các ngài không những chia sẻ mối quan tâm chung về hiện tại và tương lai của thế giới mà còn thể hiện cam kết chung trong việc giải quyết các vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với cả gia đình nhân loại, bao gồm việc chăm sóc thụ tạo, giáo dục thế hệ tương lai, đối thoại giữa các truyền thống tôn giáo khác nhau và theo đuổi hòa bình.
Làm cho sự hiệp thông trở nên hữu hình
Đức Thánh Cha mời gọi “quyết tâm tìm cách làm cho sự hiệp thông của chúng ta trở nên hữu hình”. Ngài nói: “Trong khi nhìn nhận rằng vẫn còn những vấn đề thần học và Giáo hội học ở trọng tâm của công việc đối thoại thần học đang diễn ra của chúng ta, tôi hy vọng rằng các tín hữu Công giáo và Chính Thống giáo có thể ngày càng hợp tác với nhau trong những lĩnh vực không chỉ có thể mà còn thực sự đòi buộc chúng ta phải làm”.
Kết thúc thư Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “sự hiệp nhất trọn vẹn mà chúng ta khao khát là một món quà từ Thiên Chúa, nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần”. Ngài cầu xin Chúa “giúp chúng ta sẵn sàng đón nhận món quà này qua lời cầu nguyện, sự hoán cải nội tâm và cởi mở tìm kiếm và trao ban sự tha thứ”. (CSR_7680_2021)
Hồng Thủy - Vatican News