Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Diễn văn của ĐTC trước Chính quyền, Xã hội dân sự và Ngoại giao đoàn
Diễn văn của Đức Thánh Cha trước Chính quyền, Xã hội dân sự Và Ngoại Giao đoàn
(02/12/2021)
Ngài Tổng thống Nước Cộng hòa,
Các thành viên của Chính phủ và ngoại giao đoàn,
Quý lãnh đạo tôn giáo và dân sự,
Các đại diện xã hội và thế giới văn hóa,
Quý bà và quý ông thân mến,
Tôi thân ái chào quý vị, và tôi vui mừng hiện diện nơi đây cùng quý vị. Tôi cảm ơn ngài Tổng thống vì sự chào đón mà ngài thay mặt cho toàn thể người dân đã dành cho tôi. Như một người hành hương, tôi đến một đất nước bé nhỏ về địa lý nhưng vĩ đại về lịch sử; trên một hòn đảo mà qua nhiều thế kỷ đã không làm cho người dân thành ốc đảo, nhưng đã kết nối họ; ở một vùng đất có biên giới là biển; ở nơi đánh dấu cửa ngõ phía Đông với Châu Âu và phía Tây với Trung Đông. Quý vị là một cánh cửa rộng mở, một bến cảng kết nối: Sýp, ngã tư của nền văn minh, mang trong mình ơn gọi bẩm sinh để gặp gỡ, được ngưỡng mộ bởi đặc tính chào đón của người Sýp.
Chúng ta vừa bày tỏ lòng kính trọng đối với vị Tổng thống đầu tiên của đất nước Cộng hòa này, Đức Tổng Giám mục Makarios, và khi thực hiện cử chỉ này, tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng đối với tất cả người dân của đất nước. Tên của ông, Makarios, gợi lên lời mở đầu của diễn từ đầu tiên của Chúa Giêsu: Các Mối Phúc (x. Mt 5, 3-12). Ai là makarios, ai thực sự là người có phúc theo đức tin Kitô giáo, vốn gắn liền không thể tách biệt với vùng đất này? Tất cả đều có thể được chúc phúc, và trên hết họ là những người nghèo về tinh thần, những người bị thương tích bởi cuộc sống, những người sống hiền lành và thương xót, những người thực thi công lý và xây dựng hòa bình một cách không giả tạo. Thưa quý vị, Các Mối phúc là hiến chương vĩnh viễn của Kitô giáo. Việc sống Các Mối Phúc cho phép Tin Mừng luôn tươi trẻ và lấp đầy hy vọng cho xã hội. Các Mối Phúc là chiếc la bàn để định hướng, ở mọi vĩ độ, chỉ ra những lộ trình mà người Kitô hữu phải đi trong hành trình cuộc sống.
Chính từ nơi này, nơi Châu Âu và Phương Đông gặp nhau, cuộc hội nhập văn hóa vĩ đại đầu tiên của Tin Mừng trên lục địa này đã bắt đầu và tôi thật cảm động khi đi lại bước chân của các nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo hội tiên khởi, đặc biệt là các thánh Phaolô, Barnaba và Máccô. Vì vậy, tôi ở đây, một người hành hương giữa quý vị, để cùng đi với quý vị, những người Sýp thân yêu, tất cả quý vị, với mong ước rằng tin tức tốt lành của Tin Mừng có thể mang đến cho Châu Âu một sứ điệp của niềm vui, ngang qua dấu chỉ của Các Mối Phúc. Thật vậy, điều mà các Kitô hữu đầu tiên đã trao cho thế giới bằng sức mạnh dịu dàng của Thánh Thần là một thông điệp của vẻ đẹp chưa từng có. Đó là sự mới mẻ đáng ngạc nhiên của Các Mối Phúc, dành cho tất cả mọi người, đã thu phục được trái tim và sự tự do của nhiều người. Đất nước này có một di sản đặc biệt theo nghĩa này, như một sứ giả của vẻ đẹp giữa các lục địa. Sýp tỏa sáng với vẻ đẹp trên lãnh thổ của mình, lãnh thổ phải được bảo vệ và giữ gìn bằng các chính sách môi trường thích hợp đã được nhất trí cùng với các nước láng giềng. Vẻ đẹp ấy còn tỏa sáng trong kiến trúc, nghệ thuật, đặc biệt trong nghệ thuật thánh, và trong các nghề thủ công tôn giáo, trong nhiều kho tàng khảo cổ học. Vẽ một bức tranh từ vùng biển bao quanh chúng ta, tôi muốn nói rằng hòn đảo này thật là một viên ngọc trai quý giá giữa lòng Địa Trung Hải.
Thật vậy, một viên ngọc trai trở nên được như vậy bởi vì nó thành hình theo thời gian: phải mất nhiều năm để các lớp khác nhau trở nên rắn chắc và sáng bóng. Vì vậy, vẻ đẹp của vùng đất này bắt nguồn từ nhiều nền văn hóa được gặp gỡ và pha trộn qua nhiều thế kỷ. Ngay cả ngày nay, ánh sáng của Sýp có nhiều góc cạnh: có nhiều dân nhiều nước, với những màu sắc khác nhau, tạo nên gam màu của cộng đồng này. Tôi cũng nghĩ đến sự hiện diện của nhiều người nhập cư, với tỷ lệ đáng kể nhất trong số các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu. Giữ được vẻ đẹp đa sắc tộc, đa diện của tổng thể chẳng hề dễ dàng. Như trong việc hình thành một viên ngọc trai, nó đòi hỏi thời gian và sự kiên nhẫn, nó đòi hỏi một cái nhìn bao quát có khả năng ôm lấy sự đa dạng của nhiều nền văn hóa và hướng về tương lai với tầm nhìn xa. Theo nghĩa này, điều quan trọng là phải bảo vệ và thăng tiến mọi thành phần xã hội, đặc biệt là những nhóm thiểu số theo thống kê. Tôi cũng đang nghĩ đến các thực thể Công giáo khác nhau, khi có được sự công nhận chính thức thích hợp, họ có thể đóng góp cho xã hội thông qua các hoạt động của họ, đặc biệt về giáo dục và bác ái, được xác định rõ ràng theo quan điểm pháp lý.
Một viên ngọc trai hình thành vẻ đẹp của nó trong những hoàn cảnh khó khăn. Nó được sinh ra trong sự tối mờ, khi con hàu “đau đớn” vì bất ngờ gặp phải một đe doạ đến sự an toàn của nó, chẳng hạn như một hạt cát khiến nó khó chịu. Để bảo vệ bản thân, con hàu phản ứng bằng cách đồng hóa mình với những gì làm tổn thương nó: nó ngậm vật lạ và nguy hiểm và biến nó thành vẻ đẹp, thành một viên ngọc trai. Viên ngọc trai của Sýp đã bị mờ đi bởi đại dịch, khiến nhiều du khách không thể đến và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó. Tại đây, cũng như ở những nơi khác, điều này đã gây nên những hậu quả khủng hoảng kinh tế và tài chính. Tuy nhiên, trong giai đoạn phục hồi này, không phải sự hăng hái phục hồi lại những gì đã mất sẽ đảm bảo cho sự phát triển vững chắc và lâu dài, mà là việc dấn thân thúc đẩy phục hồi xã hội, đặc biệt là ngang qua một cuộc chiến kiên quyết chống tham nhũng và những vết thương làm tổn hại đến phẩm giá con người; ví dụ, tôi nghĩ đến nạn buôn người.
Nhưng vết thương gây đau khổ nhiều nhất cho vùng đất này là do những vết cắt khủng khiếp mà nó đã phải gánh chịu trong những thập kỷ gần đây. Tôi nghĩ đến nỗi đau sâu thẳm của những người không thể trở về nhà và nơi thờ tự của họ. Tôi cầu nguyện cho hòa bình của quý vị, cho hòa bình của toàn bộ hòn đảo, và tôi mong ước điều này bằng tất cả sức lực. Con đường dẫn đến hòa bình, chữa lành những xung đột và tái tạo vẻ đẹp của tình huynh đệ, được đánh dấu bằng một từ: đối thoại, mà Ngài Tổng thống lặp lại nhiều lần. Chính chúng ta phải giúp mình tin tưởng vào sức mạnh kiên nhẫn và ôn hoà của đối thoại, sức mạnh của sự kiên nhẫn “được vác trên vai”, hypomoné, được rút ra từ các Mối Phúc. Chúng ta biết đó không phải là một con đường dễ dàng; nó dài và quanh co, nhưng không có lựa chọn thay thế nào để đạt được sự hòa giải. Chúng ta nuôi dưỡng niềm hy vọng bằng “sức mạnh của những cử chỉ” thay vì hy vọng trong “những cử chỉ của sức mạnh”. Bởi vì có một sức mạnh của những cử chỉ chuẩn bị cho hòa bình: không phải là những cử chỉ quyền lực, đe dọa trả đũa và phô trương quyền lực, mà là những cử chỉ lắng dịu, những bước đối thoại cụ thể. Ví dụ, tôi nghĩ đến sự dấn thân chuẩn bị cho một cuộc thảo luận chân thành đặt nhu cầu của người dân lên hàng đầu, về sự tham gia ngày càng tích cực của cộng đồng quốc tế, về việc bảo vệ di sản văn hóa và tôn giáo, về việc phục hồi tất cả những gì đặc biệt thân thiết đối với mọi người, như những địa điểm hoặc ít nhất là những vật dụng thánh. Về vấn đề này, tôi muốn bày tỏ sự đánh giá cao và khích lệ đối với Nẻo đường tôn giáo trong Dự án Hòa bình Sýp (Religious Track of the Cyprus Peace Project) do Đại sứ quán Thụy Điển thúc đẩy, để vun đắp sự đối thoại giữa các nhà lãnh đạo tôn giáo.
Những thời điểm có vẻ không thuận lợi, khi đối thoại trì trệ, cũng có thể chính là những thời điểm chuẩn bị cho hòa bình. Viên ngọc trai vẫn nhắc nhở chúng ta về điều này, vì nó thành hình được như vậy là nhờ tiến trình kiên nhẫn âm thầm kết thêm chất mới bằng những tác nhân đã làm nó bị thương. Trong những tình huống này, hận thù không được phép lấn át, đừng từ bỏ việc hàn gắn vết thương, đừng quên những hoàn cảnh của những người biến mất. Và khi cảm giác nản lòng xuất hiện, hãy nghĩ đến các thế hệ tương lai, những người mong muốn được thừa hưởng một thế giới hòa bình, hợp tác, gắn kết, không phải là nơi sinh sống của những kẻ thù truyền kiếp và bị ô nhiễm bởi những tranh chấp chưa được giải quyết. Vì thế đối thoại là điều cần thiết, để tránh sự gia tăng nghi ngờ và oán hận. Chúng ta hãy đề cập đến Địa Trung Hải, bây giờ không may là một nơi của xung đột và thảm kịch nhân đạo; trong vẻ đẹp sâu xa của nó, nó là mare nostrum, là biển của tất cả các dân tộc gắn liền với nó, để được kết nối, không bị chia cắt. Sýp, ngã tư địa lý, lịch sử, văn hóa và tôn giáo, là vị trí để thực hiện một hành động hòa bình. Ước mong Sýp trở thành một công trường mở cho hòa bình ở Địa Trung Hải.
Hòa bình thường không nảy sinh từ những nhân vật vĩ đại, mà từ sự quyết tâm hằng ngày, mọi ngày, của những người nhỏ bé. Lục địa châu Âu cần hòa giải và hiệp nhất, cần can đảm và động lực để bước tới. Bởi vì, không phải những bức tường của sợ hãi và loại bỏ bị điều khiển bởi các lợi ích dân tộc chủ nghĩa sẽ giúp cho nó tiến bộ, cũng không phải duy chỉ phục hồi kinh tế sẽ đảm bảo cho an ninh và sự ổn định của nó. Chúng ta hãy nhìn lại lịch sử của Sýp và xem cuộc gặp gỡ và sự chào đón đã mang lại những hoa trái lợi ích lâu dài như thế nào. Sýp không chỉ là “bàn đạp” trên lục địa về lịch sử của Kitô giáo, mà còn về việc xây dựng một xã hội phong phú trong sự hội nhập. Tinh thần rộng mở này, khả năng nhìn vượt ra khỏi biên giới của chính mình sẽ mang lại sự trẻ trung, cho phép quý vị tái khám phá sự sáng rực đã mất.
Đề cập đến Sýp, sách Công vụ tông đồ kể rằng Phaolô và Barnaba đã “đi xuyên qua đảo” để đến Pa-phô (x. Cv 13:6). Tôi thật vui mừng, trong những ngày này, tôi có thể đi xuyên qua lịch sử và linh hồn của vùng đất này, với mong muốn rằng khát vọng hiệp nhất và thông điệp về vẻ đẹp của nó tiếp tục dẫn đường cho nó hướng đến tương lai. O Theós na evloghí tin Kípro! [Xin Chúa chúc lành cho Sýp!]
Tĩnh tâm Mùa Vọng 2021 cùng Giáo triều Rôma - Bài thứ nhất của Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa
Trong loạt bài suy niệm cho chương trình tĩnh tâm Mùa Vọng năm nay của Giáo triều Rôma, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, giảng thuyết viên của Phủ Giáo Hoàng tập trung vào việc đưa ra ánh sáng “vẻ huy hoàng bên trong của Giáo Hội và của đời sống Kitô hữu”, mà không “nhắm mắt trước thực tế của các sự kiện”, để mỗi người có thể đối mặt với trách nhiệm của mình từ góc độ đúng đắn.
Đức Hồng Y Cantalamessa cho biết ngày nay có nguy cơ nhiều người đang sống “như thể Giáo hội không hơn gì” những vụ bê bối, tranh cãi, xung đột cá tính, buôn chuyện, hoặc cùng lắm chỉ hữu ích chút đỉnh về mặt xã hội. Nói tóm lại, Giáo Hội chỉ là chuyện của con người, giống như mọi thứ khác trong quá trình lịch sử”. Trong những suy tư Mùa Vọng, Đức Hồng Y đề nghị chúng ta “nhìn Giáo hội từ bên trong, theo nghĩa mạnh nhất của từ này, dưới ánh sáng của mầu nhiệm mà Giáo hội mang trong mình”, để chúng ta không mất phương hướng.
Năm nay, chương trình tĩnh tâm Mùa Vọng gồm ba bài được trình bày vào ba thứ Sáu trước Lễ Giáng Sinh với chủ đề là “Khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của Người đến”, trích từ chương 4 Thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Galát trong đó tóm tắt toàn bộ mầu nhiệm của Kitô Giáo.
Bài suy niệm Mùa Vọng đầu tiên được tổ chức tại Đại Thính Đường Phaolô Đệ Lục có tựa đề là “Chúa đã sai Con Ngài đến để chúng ta có thể được nhận làm nghĩa tử của Thiên Chúa”
Bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Mùa Chay vừa qua tôi đã cố gắng làm sáng tỏ mối nguy hiểm của việc sống “etsi Christus non daretur,”, tức là “như thể Chúa Kitô chưa bao giờ tồn tại.” Tiếp tục dòng suy nghĩ này, trong các bài suy niệm Mùa Vọng năm nay, tôi muốn kêu gọi sự chú ý đến một mối nguy hiểm tương tự khác: đó là việc sống “như thể Giáo hội không hơn gì” những vụ bê bối, tranh cãi, xung đột cá tính, buôn chuyện, hoặc cùng lắm chỉ hữu ích chút đỉnh về mặt xã hội. Nói tóm lại, Giáo Hội chỉ là chuyện của con người, giống như mọi thứ khác trong quá trình lịch sử.
Tôi muốn làm sáng tỏ vẻ huy hoàng bên trong của Giáo hội và đời sống Kitô. Chúng ta không được nhắm mắt trước thực tế, cũng không được trốn tránh trách nhiệm của mình; đồng thời, chúng ta cần phải đối mặt với chúng từ một góc độ đúng đắn và không để bản thân mình bị chúng đè bẹp. Chúng ta không thể mong đợi các nhà báo và các phương tiện truyền thông tính đến quan điểm của chính Giáo hội, nhưng kết quả tồi tệ nhất có thể xảy ra nếu như chúng ta, những người thuộc về Giáo hội và những thừa tác viên của Tin Mừng, cuối cùng lại đánh mất đi mầu nhiệm ẩn chứa trong Giáo hội và thối lui để hành xử như người khác và luôn ở thế phòng thủ.
Nói về việc loan báo Tin Mừng, Thánh Tông đồ Phaolô viết: “Chúng ta đựng kho tàng này trong những bình sành dễ vỡ” (2Cr 4, 7). Thật là ngu ngốc khi dành toàn bộ thời gian và sức lực của chúng ta để tập trung vào “những chiếc lọ đất sét dễ vỡ” trong khi quên mất “kho báu”. Thánh Tông đồ cho chúng ta một lý do để khẳng định điều tích cực tồn tại ngay cả trong những tình cảnh như hoàn cảnh của chúng ta ngày nay. Ngài nói rằng điều này là “để có thể thấy rõ rằng quyền năng phi thường này thuộc về Thiên Chúa và không đến từ chúng ta” (2 Cr 4, 7).
Giáo Hội giống như những ô cửa kính màu của một nhà thờ lớn. (Tôi đã trải nghiệm điều này khi đến thăm nhà thờ chính tòa thành Chartres.) Nếu anh chị em nhìn vào các cửa sổ từ bên ngoài, từ đường phố, tất cả những gì anh chị em thấy là những mảnh kính đen được giữ lại với nhau bằng những dải chì sẫm màu. Nhưng nếu anh chị em đi vào bên trong và nhìn vào chính những ô cửa sổ đó với ánh sáng tràn vào, thì thật là một mảng màu rực rỡ, những câu chuyện và ý nghĩa mở ra trước mắt anh chị em! Tôi đề nghị rằng chúng ta nên nhìn Giáo hội từ bên trong, theo nghĩa sâu xa nhất của từ này, để thấy Giáo Hội dưới ánh sáng của mầu nhiệm mà Giáo Hội thủ đắc.
Trong Mùa Chay, Định nghĩa của Công Đồng Chalcedon theo đó Chúa Kitô thực sự là con người và thực sự là thần thánh trong một hữu thể duy nhất đã hướng dẫn chúng ta suy niệm. Trong Mùa Vọng này, chúng ta sẽ dõi theo một trong những bản văn phụng vụ Mùa Vọng tiêu biểu hơn, đó là thư Thánh Phaolô gởi tín hữu thành Galát chương 4, từ câu 4 đến câu 7, trong đó có đoạn:
Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con Ngài đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Abba, Cha ơi!” Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.
Nói một cách ngắn gọn, phân đoạn này là sự tổng hợp của toàn bộ mầu nhiệm Kitô Giáo. Nó bao gồm Thiên Chúa Ba Ngôi: Thiên Chúa Cha, Con của Người và Chúa Thánh Thần; mầu nhiệm nhập thể: “Thiên Chúa đã sai Con Ngài;” và tất cả những điều này, không phải là một kinh nghiệm trừu tượng, lạc hậu, mà là trong bối cảnh lịch sử cứu độ: “trong thời viên mãn”. Sự hiện diện của Đức Maria một cách kín đáo, nhưng không kém phần thiết yếu, là: “sinh ra bởi một người phụ nữ”. Và, cuối cùng, kết quả của tất cả những điều này là mọi người nam cũng như nữ được làm con cái của Thiên Chúa và là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Con cái của Chúa!
Trong bài suy niệm đầu tiên này, tôi muốn suy ngẫm về phần đầu của bản văn: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”. Tình phụ tử của Thiên Chúa là trọng tâm trong lời rao giảng của Chúa Giêsu. Ngay cả trong Kinh thánh tiếng Do Thái, Thiên Chúa được xem như một người cha. Điều mới lạ ở đây là giờ đây Thiên Chúa không được coi là “cha của dân tộc Israel” theo một nghĩa tập thể, có thể nói như vậy, mà là cha của mỗi con người theo một nghĩa cá nhân và cá vị, cha của cả người công chính lẫn người tội lỗi. Thiên Chúa quan tâm đến từng người như thể người đó là độc nhất vô nhị; Chúa biết nhu cầu, suy nghĩ và đếm số lượng sợi tóc trên đầu của mỗi người.
Sai lầm của Thần học Tự do, vào đầu thế kỷ 19 và 20 (đặc biệt là ở Adolf von Harnack, người đại diện nổi tiếng nhất của nó), là coi tình phụ tử của Thiên Chúa là yếu tính của Phúc âm, bỏ qua một bên thần tính của Chúa Kitô và Mầu nhiệm Vượt qua. Một sai lầm khác, bắt đầu từ lạc giáo Marcion vào thế kỷ thứ 2 và chưa từng bị xóa sổ hoàn toàn, là xem Thiên Chúa trong Kinh thánh tiếng Do Thái là Thiên Chúa công bình, thánh thiện, quyền năng và sấm sét, và Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa dịu dàng, là “hình bóng người cha” niềm nở và nhân từ.
Sự mới lạ do Chúa Kitô mang lại không bao gồm điều này. Thay vào đó, nó bao gồm thực tế là Thiên Chúa, Đấng vẫn như đã được mô tả trong Kinh Thánh tiếng Do Thái, cụ thể là, ba lần thánh, công bình và toàn năng, giờ đây đã được ban cho chúng ta làm cha của chúng ta! Đây là hình ảnh được Chúa Giêsu đặt ra trong lời mở đầu của Kinh Lạy Cha và diễn tả một cách ngắn gọn, tất cả những điều sau đây: “Cha chúng con, Đấng ngự trên trời”. Cha ngự trên trời, như thế Cha là Đấng Tối Cao, Đấng siêu việt, ở trên chúng ta như các tầng trời ở trên mặt đất, nhưng vẫn là “cha của chúng ta” - hay như nguyên tác đã viết: “Abba!” - hơi giống với cách nói bố của chúng ta, bố của con.
Đây cũng là hình ảnh của Thiên Chúa mà Giáo hội đặt ở đầu kinh Tin kính của mình. “Tôi tin kính một Thiên Chúa, là Cha toàn năng”: là cha, nhưng vẫn là đấng toàn năng: toàn năng, nhưng vẫn là cha, Đây rốt cuộc là điều mà mọi đứa trẻ cần - cha mẹ luôn cúi xuống với con, dịu dàng, có thể chơi với con, nhưng đồng thời là người mạnh mẽ và con có thể dựa vào để được bảo vệ, là người truyền cho con lòng dũng cảm và tự do.
Trong lời rao giảng của Chúa Giêsu, chúng ta có một cái nhìn thoáng qua về tính mới mẻ thực sự thay đổi mọi thứ. Thiên Chúa không chỉ là một người cha theo nghĩa ẩn dụ và đạo đức, theo nghĩa là Ngài đã tác tạo và chăm sóc cho dân tộc của mình. Thiên Chúa - trước hết - là một người cha thực sự của một người con thực sự được sinh ra “trước bình minh”, nghĩa là trước khi thời gian bắt đầu, và sẽ nhờ Người Con duy nhất này mà nhân loại cũng có thể trở thành con cái của Thiên Chúa theo nghĩa thực sự chứ không chỉ là một cách ẩn dụ. Sự mới lạ này tỏa sáng trong cách Chúa Giêsu tự xưng với Chúa Cha, gọi Người là Abba, và cũng qua lời Chúa Giêsu chúng ta biết rằng: “Không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Mt 11:27).
Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng trong lời rao giảng của Chúa Giêsu trần thế, tính mới mẻ triệt để mà Ngài mang lại vẫn chưa hiển nhiên. Phạm vi của danh hiệu “cha” kéo dài theo nghĩa đạo đức, nghĩa là, nó mô tả cách Thiên Chúa hành động đối với nhân loại và cảm giác mà nhân loại nên nuôi dưỡng về Chúa. Mối quan hệ vẫn thuộc loại hiện sinh, chưa mang tính bản thể học và bản chất. Để điều này xảy ra, Mầu nhiệm Vượt qua về cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là cần thiết.
Thánh Phaolô đã trình bày các suy tư liên quan đến giai đoạn đức tin sau Phục sinh này. Nhờ ơn cứu chuộc do Chúa Kitô mang lại và truyền cho chúng ta trong Bí tích Rửa tội, chúng ta không còn là con cái Thiên Chúa theo nghĩa luân lý đơn thuần, mà còn theo nghĩa thực tế, bản thể học. Chúng ta đã trở thành “những người con trong Chúa Con,” và Chúa Kitô đã trở thành “trưởng tử của nhiều anh chị em” (Rôma 8:29).
Để diễn tả tất cả điều này, Thánh Tông đồ sử dụng ý niệm về việc nhận con nuôi: “… để chúng ta có thể nhận làm nghĩa tử như con cái Ngài” “Thiên Chúa đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 1: 5). Nó chỉ là một phép tương tự, và như với bất kỳ phép tương tự nào, nó không thể diễn tả hết được mầu nhiệm này. Về bản chất, việc nhận làm con nuôi của con người chúng ta là một vấn đề luật pháp. Con nuôi có thể mang họ, quốc tịch và nơi cư trú của cha mẹ nuôi, nhưng chúng không có chung huyết thống hoặc DNA của bố mẹ. Việc thụ thai, mang nặng đẻ đau và sinh nở đều không liên quan. Đây không phải là trường hợp của chúng ta. Thiên Chúa không chỉ truyền cho chúng ta được gọi là con của Người, nhưng Người còn truyền cho chúng ta đời sống thân mật của Người, Thần Khí của Người, có thể nói được là truyền cho chúng ta DNA của Người. Nhờ Bí tích Rửa tội, chính sự sống của Thiên Chúa tuôn chảy trong chúng ta.
Về điểm này, Thánh Gioan táo bạo hơn Thánh Phaolô. Thánh Gioan không nói về việc nhận con nuôi, mà nói về sự sinh nở thực sự, Chúa đã sinh ra chúng ta. Những ai tin vào Đức Kitô “được Thiên Chúa sinh ra” (Ga 1,13); trong Phép Rửa, chúng ta được “sinh ra bởi Thánh Linh;” một người được “tái sinh từ trên cao” (xem Ga 3: 5-6).
Từ niềm tin đến sự ngạc nhiên
Cho đến nay, chúng ta đã chạm vào những chân lý đức tin của chúng ta. Tuy nhiên, tôi không muốn tập trung vào những điều này. Đây là những điều mà chúng ta đã biết và chúng ta có thể đọc trong bất kỳ sách hướng dẫn nào về thần học Kinh thánh, trong Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, và các sách về tâm linh. Vậy thì khía cạnh “khác biệt” mà chúng ta muốn tập trung vào trong bài suy niệm này là gì?
Điểm khởi đầu của tôi để khám phá là một câu được Đức Thánh Cha của chúng ta sử dụng trong bài giáo lý về Thư gửi tín hữu Galát tại buổi tiếp kiến chung vào ngày 8 tháng 9. Sau khi trích dẫn văn bản chúng ta vừa nghe về việc nhận chúng ta làm nghĩa tử, ngài nói thêm: “Những người Kitô hữu chúng ta thường xem thực tại được làm con cái Thiên Chúa là chuyện đương nhiên. Chúng ta cần phải sống ân sủng tuyệt vời mà chúng ta đã nhận được với một nhận thức sâu xa hơn, —và điều đó sẽ tốt cho chúng ta— nếu chúng ta luôn ghi nhớ khoảnh khắc của phép Rửa Tội khi chúng ta trở thành con cái Chúa”.
Tất cả chúng ta đều phải đối mặt với một mối nguy hiểm chết người, đó là việc coi thường những chân lý cao siêu nhất về đức tin của chúng ta, bao gồm chân lý chúng ta là con cái của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa của vũ trụ, Đấng Toàn Năng, Đấng Vĩnh Hằng, Đấng ban sự sống. Thánh Gioan Phaolô II, trong bức thư về Bí tích Thánh Thể, được viết không lâu trước khi ngài qua đời, đã nói về “sự kinh ngạc của Thánh Thể” mà các Kitô hữu phải tái khám phá. Điều tương tự cũng nên nói về việc chúng ta là con cái của Chúa: chúng ta phải chuyển từ niềm tin sang sự ngạc nhiên. Tôi sẽ đi xa hơn để nói từ niềm tin đến sự bất tín! Tôi nói về một kiểu không tin rất đặc biệt: đó là những người tin mà không thể nắm bắt được những gì mình tin bởi vì nó quá bao la và không thể tưởng tượng được.
Thật vậy, chúng ta ngại nói thành lời hậu quả của việc trở thành con cái của Thiên Chúa bởi vì điều đó chỉ đơn giản là làm lung lay tâm trí. Như vậy, khoảng cách bản thể học ngăn cách Thiên Chúa với con người ngắn hơn khoảng cách bản thể học ngăn cách chúng ta với phần còn lại của tạo vật, bởi vì nhờ ân sủng, chúng ta “được thông phần thiên tính” (2 Pt 1: 4).
Một ví dụ cụ thể có thể hữu ích cho chúng ta hơn là một loạt các lập luận để hiểu tại sao không nên xem việc được là con cái Thiên Chúa là chuyện đương nhiên. Sau khi cải đạo, Thánh Margaret thành Cortona đã trải qua một thời kỳ đau khổ khủng khiếp. Chúa dường như nổi giận với cô và đôi khi bắt cô phải nhớ lại từng tội lỗi mà cô đã phạm đến từng chi tiết nhỏ nhất, khiến cô muốn biến mất khỏi mặt đất này. Một ngày nọ, sau khi rước lễ, khá bất ngờ có một giọng nói bên trong cô ấy cất lên: “Con gái của Ta!” Cô đã chống lại việc xem xét lại tất cả lỗi lầm của mình, nhưng cô không thể cưỡng lại được sự dịu dàng của giọng nói này. Cô ấy rơi vào trạng thái ngây ngất và trong cơn ngây ngất ấy, những nhân chứng có mặt đã nghe thấy cô ấy điên cuồng lặp lại trong sự kinh ngạc:
Tôi là con gái của Người; chính Người đã nói như vậy. Ôi sự dịu dàng vô hạn của Chúa tôi! Đó là từ ngữ tôi đã khao khát! đã quyết liệt tìm kiếm! Lời Người có sự ngọt ngào vượt qua mọi sự ngọt ngào! Thật là một đại dương của niềm vui! Con gái Ta! Chúa tôi đã nói điều đó! Con gái Ta!
Trước Thánh Margaret từ lâu, Tông đồ Gioan đã đạt được nhận thức đáng kinh ngạc đó. Ngài viết: “Hãy chứng kiến tình yêu sâu đậm mà Thiên Chúa dành cho chúng ta đến mức chúng ta được gọi là con cái của Thiên Chúa. Và đó là những gì chúng ta thực sự là!” (1 Ga 3: 1). Câu này rõ ràng là có ý được đọc với một dấu chấm than.
Cởi trói cho phép Rửa của ta
Tại sao việc đi xa hơn niềm tin để đi đến sự ngạc nhiên, hay từ những niềm tin (fides quae) sang tin (fides qua), lại quan trọng đến vậy? Chỉ tin thôi chưa đủ à? Chưa, và vì một lý do rất đơn giản: bởi vì điều đó - và chỉ điều đó - mới thực sự thay đổi cuộc sống của anh chị em!
Hãy cùng nhìn lại con đường dẫn đến cấp độ đức tin mới này. Như chúng ta đã nghe, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta trở lại với Bí tích Rửa tội của mình. Để hiểu làm thế nào mà một bí tích đã lãnh nhận nhiều năm trước - thường là khi bắt đầu cuộc đời chúng ta - có thể đột ngột sống lại và giải phóng năng lượng tâm linh mới, chúng ta cần ghi nhớ một số khía cạnh của thần học về bí tích.
Thần học Công Giáo thừa nhận ý tưởng về một bí tích vừa thành sự vừa hợp luật, nhưng “bị trói buộc” hoặc “bị đóng băng”. Phép Rửa Tội thường là một bí tích “bị trói buộc”. Một bí tích được cho là “bị trói buộc” nếu tác dụng của nó vẫn còn bị hạn chế và cản trở do thiếu một số điều kiện để phát huy hiệu quả của nó. Một ví dụ cực đoan là Bí tích Hôn phối hoặc Truyền Chức Thánh được lãnh nhận trong tình trạng đang mắc tội trọng. Trong hoàn cảnh đó, các bí tích đó không thể mang lại bất kỳ ân sủng nào cho các cá nhân lãnh nhận. Tuy nhiên, một khi chướng ngại của tội lỗi được loại bỏ, qua một lời xưng tội tốt, người ta nói rằng bí tích hồi sinh (reviscit) mà không cần lặp lại nghi thức bí tích, nhờ vào sự trung tín và không thể đảo ngược của hồng ân Thiên Chúa.
Như tôi đã đề cập, Bí Tích Hôn Phối và Truyền Chức Thánh là những ví dụ điển hình, nhưng có thể có những trường hợp khác, trong đó một bí tích, mặc dù không hoàn toàn bị trói buộc, cũng không hoàn toàn được giải phóng, nghĩa là được tự do phát huy tác dụng của nó. Trong trường hợp của Bí tích Rửa tội, điều gì có thể khiến các tác động của bí tích bị trói buộc? Các bí tích không phải là những nghi thức ma thuật hoạt động một cách máy móc mà chúng ta không biết hoặc không có sự hợp tác của chúng ta. Hiệu quả của chúng là kết quả của sức mạnh tổng hợp hoặc sự cộng tác giữa quyền năng toàn năng của Thiên Chúa, cụ thể là ân sủng của Chúa Kitô, của Chúa Thánh Thần, và sự tự do của con người.
Một bí tích mà mọi sự tùy thuộc vào ân sủng hoặc thánh ý của Chúa Kitô thì được gọi là “opus operatum”, “công việc viên mãn”; nghĩa là công việc đã hoàn thành, những hiệu quả khách quan và tất yếu của bí tích ấy phát huy tác dụng nếu bí tích ấy được thực hiện một cách hợp lệ. Trái lại, một bí tích mà mọi thứ phụ thuộc vào quyền tự do và sự định đoạt của người nhận thì được gọi là “opus operantis”, “công việc chưa được hoàn thành”, nghĩa là còn những điều phải tiến hành, với sự đóng góp của con người.
Những gì chúng ta nhận được từ Thiên Chúa – trong điều được gọi là “hồng ân Phép Rửa” - là nhiều mặt và rất phong phú. Nó bao gồm việc chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa, được xóa bỏ tội lỗi, được Chúa Thánh Thần ngự trị, và được gieo mầm các nhân đức thần học như đức tin, đức cậy và đức mến vào tâm hồn chúng ta. Sự đóng góp của con người chủ yếu là niềm tin! “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ” (Mc 16,16). Khi ân sủng và tự do giao nhau trong một thể đồng bộ hoàn hảo, giống như hai cực, một cực dương và một cực âm, thì ánh sáng và sức mạnh được giải phóng.
Trong trường hợp Bí tích Rửa tội cho trẻ sơ sinh (và cả trong Bí tích Rửa tội dành cho người lớn khi thiếu niềm tin và thiếu sự tham gia sâu sắc), tính đồng bộ đó bị thiếu. Tôi không đề nghị chúng ta từ bỏ thực hành rửa tội cho trẻ sơ sinh. Giáo hội đã luôn luôn thực hành điều đó một cách đúng đắn và bảo vệ nó trên cơ sở rằng Bí tích Rửa tội là một hồng ân của Thiên Chúa ngay cả trước khi đó là kết quả của sự lựa chọn của con người. Thay vào đó, chúng ta cần thừa nhận những gì thực hành này có liên quan, trong hoàn cảnh lịch sử mới mà chúng ta đang sống.
Trong quá khứ, khi toàn bộ môi trường là Kitô Giáo và được thấm nhuần đức tin, đức tin này có thể nở rộ, mặc dù dần dần. Hành động đức tin tự do và cá vị được “Giáo hội cung cấp” và được thể hiện, như đã thường xảy ra là thông qua một bên thứ ba, cụ thể là cha mẹ và người đỡ đầu. Đây không còn là trường hợp của ngày hôm nay. Môi trường mà đứa trẻ lớn lên ngày nay ít thuận lợi hơn trong việc giúp đức tin nảy nở trong đứa trẻ. Môi trường gia đình cũng ít thuận lợi hơn xưa, hệ thống trường học còn ít thuận lợi hơn nữa, và tình hình còn thê thảm hơn trong toàn bộ xã hội và văn hóa của chúng ta.
Đây là lý do tại sao tôi đã nói về phép Rửa Tội như một bí tích “bị trói buộc”. Nó giống như một gói quà rất quý giá vẫn chưa được mở ra, giống như một món quà Giáng sinh, bị thất lạc ở đâu đó và bị lãng quên, ngay cả trước khi nó được mở ra. Bất cứ ai có nó đều có mọi thứ họ cần để thực hiện mọi hành vi cần thiết trong đời sống của một Kitô Hữu, và cũng trải nghiệm một số tác động của nó ít nhất là một phần, nhưng không tận hưởng được sự trọn vẹn của thực tại này. Theo ngôn ngữ của Thánh Augustinô, họ cảm nghiệm được bí tích (sacramentum), nhưng không cảm nghiệm được thực tại của bí tích (res sacramenti), hay chỉ cảm nghiệm được một phần.
Thực tế là chúng ta đang ở đây suy ngẫm về điều này có nghĩa là chúng ta đã tin, rằng đức tin đã được kết hợp với bí tích trong chúng ta. Vậy thì chúng ta vẫn còn thiếu điều gì? Chúng ta thiếu niềm tin như một sự kinh ngạc, thiếu một sự trầm trồ tròn xoe đôi mắt! thiếu sự ngạc nhiên và phấn khích mà anh chị em có được khi mở một món quà, mà đối với người tặng quà đó là quà tặng tuyệt vời nhất. Các Giáo phụ Hy Lạp gọi Bí tích Rửa tội là “sự khai sáng” (phoismos). Loại giác ngộ đó đã bao giờ xuất hiện trong chúng ta chưa?
Chúng ta tự hỏi: liệu có khả thi, và thậm chí có đúng không, khi chúng ta khao khát đạt đến một mức độ khác của đức tin, trong đó chúng ta không chỉ tin một chân lý mà còn trải nghiệm và nếm trải chân lý mà chúng ta tin? Linh đạo Kitô giáo thường đi kèm với một sự miễn cưỡng và thậm chí, như trong trường hợp của các nhà Cải cách Tin Lành, còn đi kèm với sự phủ nhận chiều kích kinh nghiệm và thần bí của đời sống Kitô như thể nó thấp kém hơn và đi ngược lại với đức tin thuần túy cách này cách khác. Nhưng bất chấp những lạm dụng cũng đã xảy ra, truyền thống Kitô giáo chưa bao giờ hạ thấp truyền thống khôn ngoan cho rằng đỉnh cao của đức tin là ở chỗ “thưởng thức” chân lý của những gì chúng ta tin và “nếm” chân lý, bao gồm cả vị đắng của chân lý thập tự giá.
Theo ngôn ngữ Kinh thánh, biết không có nghĩa là có ý tưởng về một thứ gì đó vẫn tách biệt và xa rời tôi. Nó có nghĩa là bước vào một mối quan hệ và trải nghiệm nó. Thánh sử Gioan đã thốt lên: “Chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó” (1 Ga 4:16), và một lần nữa: “Chúng ta đã tin và biết rằng Người là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6: 69). Tại sao lại nói “đã biết và đã tin?” “Đã biết” thêm gì vào “đã tin”? Thưa: Nó thêm một xác tín nội tâm xảy ra khi sự thật đối đầu với tinh thần và người ta buộc phải thốt lên từ thẳm sâu trong lòng: “Đúng, đó là sự thật, không còn nghi ngờ gì nữa, chính là thế!” Sự thật được tin tưởng trở thành sự thật được sống. Thánh Thomas Aquinas đã nói như thế này: “Fides non terminatur ad enuntiabile sed ad rem”, nghĩa là “Đức tin không kết thúc bằng lời nói, nhưng bằng thực tế.” Chúng ta không ngừng tái khám phá những hệ quả thực tiễn của nguyên tắc này.
Vai trò của Lời Chúa
Làm thế nào chúng ta có thể thực hiện bước nhảy vọt về chất này từ đức tin đến sự ngạc nhiên khi biết mình là con cái Thiên Chúa? Câu trả lời đầu tiên là Lời Chúa! Có một phương tiện thiết yếu không kém, đó là Chúa Thánh Thần, nhưng chúng ta sẽ để lại điều đó cho lần suy niệm tiếp theo. Thánh Grêgôriô Cả đã so sánh Lời Chúa với đá lửa, tức là, với viên đá từng được dùng để tạo ra tia lửa đốt cháy. Thánh nhân nói rằng cần phải làm với Lời Chúa những gì được thực hiện với đá lửa: nghĩa là đánh nó liên tục cho đến khi nó tạo ra tia lửa. Suy ngẫm về nó, lặp lại nó, thậm chí lớn tiếng.
Trong giờ cầu nguyện hoặc giờ thờ phượng của anh chị em, với cả tấm lòng và không chán nản, hãy lặp lại trong chính anh chị em: “Con của Thiên Chúa! Tôi là con của Thiên Chúa; Tôi là con cái của Chúa. Chúa là cha tôi!” Hoặc chỉ cần lặp đi lặp lại một lúc: “Lạy Cha chúng con ngự trên trời” mà không tiếp tục phần còn lại của Kinh Lạy Cha. Khi làm như vậy, điều cần thiết hơn bao giờ hết là phải nhớ lời của Chúa Giêsu: “Hãy gõ thì cửa sẽ mở cho anh em” (Mt 7: 7). Không sớm thì muộn, và có lẽ khi anh chị em ít ngờ tới nhất, điều đó sẽ xảy ra - thực tại của những lời nói đó, dù chỉ trong chốc lát, sẽ bùng nổ trong anh chị em và sẽ là đủ cho phần còn lại của cuộc đời anh chị em. Và ngay cả khi không có gì giật gân xảy ra, hãy yên tâm rằng anh chị em đã đạt được những gì cần thiết. Phần còn lại sẽ được trao cho anh chị em ở trên trời: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3: 2)
Chúng ta tất cả là anh chị em!
Một trong những tác động tức thì của tất cả những điều này là anh chị em sẽ nhận thức được phẩm giá của mình. Vào đêm Giáng sinh, Thánh Lêô Đại Đế sẽ khuyên nhủ chúng ta: “Hỡi người Kitô hữu, hãy nhận biết phẩm giá của mình. Một khi anh chị em đã chia sẻ trong thần tính Thiên Chúa, anh chị em có thực sự còn muốn quay trở lại những điều tồi tệ trong quá khứ của mình không?” Còn phẩm giá nào có thể cao hơn là được làm con của Thiên Chúa? Có một câu chuyện kể về một cô công chúa xấu tính, kiêu ngạo con của nhà vua nước Pháp, là người đã liên tục mắng mỏ một trong những người hầu gái của mình. Một ngày nọ, cô ấy hét vào mặt người tớ gái, “Mày không biết rằng tao là con gái vua của mày à?” Người hầu gái trả lời: “Thế cô không biết rằng tôi là con gái Chúa của cô à?”
Một sản phẩm phụ khác thậm chí còn quan trọng hơn là anh chị em trở nên ý thức hơn về phẩm giá của những người khác, những người cũng là con trai và con gái của Thiên Chúa. Đối với Kitô Hữu chúng ta, tình liên đới giữa con người với tư cách là anh chị em, tối hậu bắt nguồn từ sự thật rằng Thiên Chúa là cha của tất cả chúng ta, và vì tất cả chúng ta đều là con trai và con gái của Thiên Chúa, nên tất cả chúng ta đều là anh chị em của nhau. Không có mối ràng buộc nào bền chặt hơn điều này, và đối với các tín hữu Kitô chúng ta, không có lý do khác cấp thiết hơn để thúc đẩy tình huynh đệ phổ quát. Thánh Cyprianô viết: “Anh chị em không thể xưng Thiên Chúa là cha của mình mà không coi Giáo hội như mẹ của mình.” Chúng ta nên nói thêm: “Anh chị em không thể xưng Thiên Chúa là cha mình mà không coi người hàng xóm là anh chị em với mình.”
Có một điều chúng ta nên ngưng ngay đừng làm nữa. Chúng ta đừng nói với Thiên Chúa, là Cha chúng ta, dù chỉ là những lời xa xôi bóng gió rằng: “Hãy chọn giữa con và kẻ thù của con; hãy quyết định xem Chúa đứng về phía nào!” Không một bậc cha mẹ nào đáng bị đặt vào tình thế không thể nhìn nhận một trong những con cái của mình chỉ đơn giản là vì bọn trẻ không thể hòa hợp với nhau. Vì thế, chúng ta đừng cầu xin Chúa đứng về phía chúng ta chống lại người khác.
Khi chúng ta xung đột với người khác - anh chị em của chúng ta - ngay cả trước khi chúng ta gặp họ để thảo luận về quan điểm của chúng ta, là điều không chỉ là đúng đắn mà đôi khi còn là cần thiết nữa, chúng ta hãy nói với Chúa: “Cha ơi, xin hãy cứu con, cứu cả anh trai hoặc em gái của con; cứu cả hai chúng con. Con không giành phần phải về mình, và anh ấy hoặc cô ấy không nhất thiết phải là sai. Con muốn người đó đứng về sự thật, hoặc ít nhất là có thiện ý”. Lòng thương xót của người này đối với người kia là điều không thể thiếu để sống đời sống Thánh Linh và đời sống cộng đồng dưới mọi hình thức của nó. Nó không thể thiếu đối với gia đình và mọi cộng đồng con người và tôn giáo, kể cả Giáo triều Rôma. Như thánh Augustinô đã nói, tất cả chúng ta đều là những hũ đất sét dễ vỡ: Chúng ta rất dễ làm tổn thương chính mình.
Trước đó, chúng ta đã nhắc nhớ đến sự phấn khích của Thánh Margaret thành Cortona khi cô ấy cảm thấy Chúa đang gọi cô ấy là “con gái của Ta”. “Tôi là con gái của Người; Người đã nói như vậy… Thật là một đại dương của niềm vui! Con gái Ta! Chúa tôi đã nói điều đó! Con gái Ta!” Chúng ta có thể trải nghiệm điều gì đó rất giống nếu chúng ta lắng nghe chính giọng nói đó của Thiên Chúa, không vang vọng trong tâm trí của chúng ta, điều này có thể bị đánh lừa!, nhưng xuất hiện tỏ tường như được viết trên trang Kinh thánh mà chúng ta đang xem xét: “Anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa!” (Gal 4:7)
Nếu Chúa muốn, như chúng ta sẽ thấy lần sau Thánh Linh sẵn sàng giúp chúng ta trong công việc này.
1. Gioan Phaolô II, Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia - Giáo Hội từ Thánh Thể, 6.
2. Giunta Bevegnati, Vita e miracoli della Beata Margherita da Cortona, II, 6 (Italian version, Vicenza 1978, p. 19f).
3. Xem A. Michel, Reviviscence des sacrements, in DTC, XIII,2, Paris 1937, coll. 2618-2628.
4. Summa theologiæ, II-II, 1, 2, ad 2.
5. Thánh Grêgôriô Cả, Các bài giảng về tiên tri Ezechiel, I,2,1.
6. Thánh Lêo Cả, Diễn từ về Giáng Sinh, 3.
7. Cyprianô, De unitate Ecclesiæ, 6.
8. Thánh Augustinô, Các diễn từ, 69 (PL 38, 440) (lutea vasa sibi invicem angustias facientes).
Source:Cantalamessa
Đức Tổng Giám mục Jéronymos II cám ơn “Người Anh Em Giáo hoàng Rôma”
Một “một cảm nghiệm thần bí của tình huynh đệ” trong hành động
Tổng giám mục Jéronymos và Đức Phanxicô tại tòa Sứ thần A-ten © Vatican Media
fr.zenit.org, Anita Bourdin, 2021-12-05
Và nếu ở Hy Lạp “Đức Thánh Cha” thành “Đức Thánh Anh em” được không (Très saint Frère)? Có, đó là từ của Tổng giám mục chính thống giáo A-ten dùng, ngài là người đứng đầu Giáo hội chính thống Hy Lạp. Chiều chúa nhật 5 tháng 12, ngài đã đến thăm Đức Phanxicô tại Tòa sứ thần A-ten.
Đức Phanxicô trở về từ Thính phòng Megaron, nơi ngài vừa cử hành thánh lễ. Tổng giám mục thăm trả lễ Đức Phanxicô vì ngày hôm qua, thứ bảy 4 tháng 12, Đức Phanxicô đã đến tư dinh thăm ngài.
Sau phần trao đổi, với sự giúp đỡ của thông dịch viên, và trước sự chứng kiến của phái đoàn hai bên, các ngài đã ký vào sổ danh dự của Sứ thần.
Tổng giám mục chính thống giáo viết: “Chiều hôm nay, ngày 5 tháng 12 năm 2021, lễ Thánh Saba, phái đoàn chúng tôi và tôi đến để cám ơn Đức Thánh Cha, Đức Thánh Anh Em, Giáo hoàng Phanxicô, đã đến thăm Hy Lạp. Chúng tôi chào ngài và chúc ngài lên đường bình an. Cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng tôi.”
Đức Phanxicô cũng viết vài dòng: “Với niềm vui và bình an, tôi được gặp người anh em yêu quý của tôi là Đức Jeronymos II. Tôi cám ơn ngài vì tình huynh đệ nhân hậu, sự dịu dàng và kiên nhẫn của ngài. Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ân sủng để tiếp tục cùng nhau đi trên con đường huynh đệ và bình an này. Tôi cám ơn Đức Jieronymos II về lòng quảng đại đã giúp chúng tôi cùng bước đi với nhau. Xin Thiên Chúa chúc lành cho hai Giáo hội anh em của chúng ta và xin Mẹ Thiên Chúa phù hộ chúng ta”.
Có vẻ như “cảm nghiệm thần bí của tình huynh đệ” mà Đức Phanxicô kêu gọi đang được thực hiện. Ngày hôm qua, Đức Phanxicô phát biểu trước Thượng hội đồng chính thống giáo: “Thách thức là phát triển một đam mê chung để dẫn chúng ta, người công giáo và chính thống giáo cũng như anh chị em các tín ngưỡng khác lắng nghe nhau, để ước mơ và cùng làm việc chung với nhau, vun trồng cảm nghiệm thần bí trong tình huynh đệ.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
ĐTC từ giã Hy Lạp trở về Roma
Sau cuộc gặp gỡ giới trẻ, Đức Thánh Cha đi ra phi trường Athens để trở về Roma.
Tại phi trường đã diễn ra nghi lễ từ giã. Bộ trưởng Ngoại vụ của Hy Lạp đã đón Đức Thánh Cha tại sảnh VIP và hội kiến riêng với ngài trong ít phút.
Sau đó Đức Thánh Cha đi qua hàng quân danh dự, chào các phái đoàn và bước lên máy bay.
Chiếc máy bay A320neo của hãng hàng không Aegean cất cánh đưa Đức Thánh Cha vượt qua đoạn đường 1.100km, kéo dài hơn 2 giờ bay, trở về Roma.
Ngay sau khi khởi hành, Đức Thánh Cha đã gửi điện văn cho Tổng thống Hy Lạp, Katerina Sakellaropoulou, thông điệp cầu nguyện và chúc lành cho quốc gia và đặc biệt là "lòng biết ơn sâu sắc" về sự tiếp đón nồng nhiệt ngài đã nhận được trong thời gian viếng thăm Hy Lạp.
Trên chuyến bay đã diễn ra cuộc họp báo, như thường lệ, với các nhà báo trên máy bay đã tháp tùng chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha.
Đức Thánh Cha đã kết thúc chuyến tông du thứ 35 tại nước ngoài, với cuộc viếng thăm kéo dài 5 ngày, từ ngày 2-6/12/2021, tại hai nước Sýp và Hy Lạp.
Hồng Thủy - Vatican News
Những hoạt động cuối cùng của Đức Thánh cha tại Hy Lạp
Sáng thứ Hai, ngày 06 tháng Mười Hai năm 2021 là ngày chót trong ba ngày viếng thăm của Đức Thánh cha Phanxicô tại Hy Lạp.
Ban sáng, lúc 7 giờ, Đức Thánh cha cử hành thánh lễ riêng tại nguyện đường Tòa Sứ thần Tòa Thánh, và lúc 8 giờ 15, ngài tiếp kiến Chủ tịch Quốc hội Hy Lạp, ông Konstantinos Tasoulas.
Ông năm nay 62 tuổi, nguyên là một luật gia và làm đại biểu quốc hội từ hơn 20 năm nay. Ông cũng từng làm thứ trưởng quốc phòng Hy Lạp, Bộ trưởng Văn hóa và thể thao. Từ hai năm nay ông là Chủ tịch quốc hội.
Tiếp đến, Đức Thánh cha giã từ các nhân viên Tòa Sứ thần, cám ơn các ân nhân đã hỗ trợ việc tổ chức chuyến viếng thăm của ngài, rồi tới trường thánh Dionigi của các nữ tu dòng Ursuline ở Maroussi, ngoại ô Athènes, cách đó 9 cây số, để gặp gỡ giới trẻ tại Hội trường, từ lúc gần 10 giờ.
Đức Thánh cha gặp gỡ giới trẻ Công giáo tại Hy Lạp
Các nữ tu dòng thánh Ursuline đến Hy Lạp lần đầu tiên cách đây 350 năm (1670) và định cư tại thành Naxos, nơi các chị lập một trường học và một lưu xá. Đó là trường ngoại quốc đầu tiên được thành lập tại Hy Lạp.
Trong thế kỷ XIX, các chị mở thêm trường ở đảo Tinos và đến năm 1947, các chị định cư ở thủ đô Athènes. Đến năm 1959, các chị di chuyển về đường Psychiko và tại đây hiện có trường Mỹ, trường tiểu học thánh Dionigi và một trường mẫu giáo quốc tế. Số học sinh gia tăng nên năm 1962, các nữ tu tậu một khu nhà ở vùng Maroussi, ngoại ô phía bắc của Athènes.
Khi Đức Thánh cha đến đây vào lúc gần 10 giờ, ngài được các nữ tu và các học sinh chào đón nồng nhiệt. Khi ngài tiến vào nơi gặp gỡ, là Hội trường đa dụng, nơi đây cũng là một sân chơi bóng rổ. Hiện diện tại đây có gần 100 người trẻ, cùng với một ca đoàn học sinh của trường Ursuline.
Chào mừng Đức Thánh cha
Trong lời chào mừng Đức Thánh cha, linh mục đặc trách mục vụ giới trẻ Công giáo Hy Lạp cho biết các bạn trẻ nam nữ hiện diện vui mừng và phấn khởi chào mừng Đức Thánh cha. Họ đến đây từ mọi góc trời của Hy Lạp và bằng mọi phương tiện để thấy và nghe Đức Thánh cha, và để tiếp tục với một đà tiến mới trong hành trình đức tin của họ.
Cha cũng nói rằng: Tại Hy Lạp, các tín hữu Công giáo chỉ là một đoàn chiên nhỏ bé bị phân tán trong các cộng đoàn bé nhỏ, và một số bạn trẻ sống và học hành tại các thành phố, không có cộng đoàn Công giáo nào nâng đỡ. Kinh nghiệm về các cuộc gặp gỡ giới trẻ liên Hy Lạp và cả Ngày Quốc tế giới trẻ nâng đỡ sự hăng say và giúp họ nuôi dưỡng ý thức rằng họ đang ở trên hành trình đức tin cùng với các bạn trẻ toàn thế giới và trong tình hiệp thông với toàn thể Giáo hội.
Các chứng từ
Tiếp đến, xen kẽ giữa những điệu vũ và bài ca, Đức Thánh cha và mọi người đã nghe chứng từ của vài bạn trẻ.
Trước tiên là cô Ioanna Vidali, 26 tuổi, người Hy Lạp thuộc giáo phận Tinos, đã học về xã hội học, nhưng hiện đang hành nghề làm bánh ngọt, một hoạt động mà cô yêu thích và thấy có nhiều cơ hội sáng tác. Cô thuộc một gia đình sùng đạo, được mẹ và bà nội giáo huấn về đức tin, và lớn lên được một nữ tu dòng Ursuline nâng đỡ, giúp cô ý thức về niềm vui cho đi và liên đới.
Nhưng khi chuẩn bị vào đại học, Ioanna trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin, bắt đầu sợ Thiên Chúa và nghi ngờ về hành trình đức tin của mình. Thế nhưng một đêm kia, trong tình trạng căng thẳng xuống tinh thần, và định rời bỏ đức tin, trong giấc mơ, cô Ioanna thấy một hình người giống Chúa Kitô, thanh thản và tươi cười, chào cô từ xa xa. Cô do dự và đến gần, Chúa nói: “Dù con có làm ngơ không biết Cha, đối với Cha đó không phải là điều quan trọng, Cha chỉ cần hiện diện đối với tất cả những người tin là Cha hiện hữu, vậy là đủ rồi”.
Cô Ioanna cho biết từ lúc đó, đức tin của cô được củng cố và đón nhận sự cao cả của tình yêu Chúa. Chúa đã cho cô sai lầm, và đã làm cho cô tìm được nhiều câu trả lời. Cô tỉnh dậy và ngày hôm sau đã thuật lại cho một trong các cô giáo của cô và hôm nay, đây là lần đầu tiên cô kể lại với Đức Thánh cha và mọi người.
Cô cũng cho biết từ đó cô gắng giúp đỡ các bạn trẻ khác khám phá sự cao cả của Thiên Chúa.
Chứng từ thứ hai là của cô Katerina Binibini, người Philippines. Cô cho biết cô bị thử thách về đức tin mỗi khi thấy những người chịu đau khổ vì những hành động xấu của những người khác. Và mỗi khi cô nói chuyện với những người trẻ cùng lứa tuổi, họ hỏi cô về đức tin, nhưng cô không biết trả lời thế nào. Họ nói: “Nếu có Thiên Chúa thì tại sao Chúa cho phép bao nhiêu sự ác và đau khổ trên thế giới như thế?”. Có những lúc cô gặp những người hảo tâm, nhưng họ không có đức tin. Từ đó cô tự hỏi: tại sao tôi phải tin để được coi là người tốt lành. Nhiều khi cô tức bực và ghen tương khi thấy những người không tin tưởng, nhưng dường như họ không chịu đau khổ và không có vấn đề, trong khi cô là tín hữu Kitô mà lại liên tục cảm thấy bị thử thách.
Trong thời đại dịch, đức tin của cô Katerina được củng cố. Cộng đoàn của cô bị mất một người rất được cộng đoàn quí mến, cũng là người hướng dẫn cộng đoàn, đó là nữ tu Emma. Nhưng cô không nghĩ đó là lỗi của Thiên Chúa vì chị Emma qua đời như vậy, trái lại nhờ đó cô có thể suy nghĩ và nói với Chúa trong một bầu không khí an bình. Cô thấy Chúa bảo vệ gia đình và tất cả những người chung quanh cô. Và cô không còn ghen tương với những người được đặc ân hơn cô. Cô biết ơn vì trong những khó khăn, Chúa đã soi sáng cho cô thực hiện những điều quan trọng nhất trong cuộc sống. Nhờ đó cô đã tìm lại được an ủi trong Kinh thánh và hiểu dễ dàng hơn tình thương của Chúa đối với cô.
Chứng từ thư ba là của anh Aboud Babro, gốc Syria 18 tuổi, có em trai 12 tuổi đi kèm. Gia đình anh ở thành Aleppo bị thảm cảnh chiến tranh, chịu mọi thiếu thốn và năm 2012, anh quyết định rời bỏ Syria sau khi đạn pháo rơi trúng phòng ngủ của cha mẹ anh, nhưng may mắn cả gia đình thoát nạn.
Aboud vượt biên, sau khi hai lần làm đơn xin nhập cảnh tại đại sứ quán Hy Lạp tại Liban và Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng đều bị từ chối, vì thế anh phải vượt biên và đến Hy Lạp vào năm 2020. Tại đây anh được người chú và các nữ tu dòng thanh Giuse giúp đỡ lập lại cuộc đời. Hiện anh đang học năm thứ ba trung học cấp hai.
Huấn từ của Đức Thánh cha
Trong huấn từ, Đức Thánh cha lần lượt dựa vào những chứng từ của các bạn trẻ để đưa ra những nhận xét và kèm theo những lời nhắn nhủ.
Ngờ vực về đức tin
Đi từ những nghi ngờ về đức tin như được trình bày trong hai chứng từ, Đức Thánh cha mời gọi các bạn trẻ đừng sợ những ngờ vực về đức tin. Đó không phải là những thiếu sót về đức tin, trái lại những nghi ngờ là “vitamin” của đức tin, giúp củng cố và làm cho đức tin trở nên vững mạnh hơn, nghĩa là ý thức, tự do và trưởng thành hơn. Những nghi ngờ làm cho ta sẵn sàng hơn lên đường, tiến bước trong khiêm tốn, ngày qua ngày. Đức tin chính là một hành trình hằng ngày với Chúa Giêsu, Chúa cầm tay và đồng hành với chúng ta, khích lệ chúng ta, và khi chúng ta ngã, Chúa nâng chúng ta dậy. Đó là một thứ chuyện tình, trong đó ta cùng nhau tiến bước, ngày qua ngày.
Ơn tha thứ
Đức Thánh cha cũng mời gọi các bạn trẻ ngạc nhiên về ơn tha thứ của Chúa. Trong sự ngạc nhiên ấy, chúng ta tìm được khuôn mặt của Chúa Cha và an bình nội tâm. Chúa nâng chúng ta trỗi dây và đổ tình thương của Ngài, vòng tay nâng chúng ta lên, phá tan sự ác đã phạm và làm cho sự đẹp đẽ tái rạng ngời trong chúng ta, làm nổi bật thân phận chúng ta là những người con được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương. Đức Thánh cha nhấn mạnh rằng: “Chúng ta đừng để cho sự lười biếng, sợ hãi hoặc tủi hổ cướp mất kho tàng ơn tha thứ. Chúng ta hãy để cho mình ngạc nhiên về tình thương của Thiên Chúa!”
Niềm vui phục vụ
Từ chứng từ của cô Ioanna về những người khác trong hành trình đức tin của cô: một nữ tu đã tỏ cho cô thấy niềm vui khi coi cuộc sống như một việc phục vụ, Đức Thánh cha nói: đúng vậy, phục vụ tha nhân là con đường để chinh phục niềm vui. Xả thân giúp người khác không phải là người đang bị mất mát, nhưng là những người chiến thắng, đó là con đường để thực hiện một cái gì đó thực sự là mới trong lịch sử.
“Các bạn muốn làm cái gì đó mới mẻ trong cuộc sống ư? Các bạn muốn tái trẻ trung ư? Đừng hài lòng với việc công bố vài post hay vài tweet trên mạng. Đừng hài lòng với những cuộc gặp gỡ tiềm thể, trực tuyến, nhưng hãy tìm những cuộc gặp gỡ thực sự, nhất là với những người đang cần bạn. Đó là điều đặc sắc và cách mạng. Bao nhiêu người ngày nay ở trên mạng xã hội mà lại ít xã hội: họ khép kín nơi mình, là tù nhân của điện thoại họ cầm ở tay. Nhưng trên màn hình lại thiếu người khác, thiếu những đôi mắt, hơi thở, đôi bàn tay. Màn hình dễ trở thành một tấm gương nơi ta tưởng đang đứng trước thế giới, nhưng trong thực tế, bạn cô độc, trong một thế giới tiềm thể đầy những vẻ bề ngoài, đầy những hình ảnh được sửa đổi và tô điểm để luôn có vẻ đẹp hơn và tươi trẻ hơn. Trái lại, thật là đẹp khi ở với những người khác, khám phá sự mới mẻ của tha nhân!
Cầu nguyện
Sau huấn từ của Đức Thánh cha, các bạn trẻ còn cùng nhau dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện, nói lên những âu lo của họ trước sự ác, và họ cầu xin Chúa giúp họ đón nhận mọi cơ hội để tăng trưởng trong tình thương, để có thể tha thứ cho anh chị em. Họ cũng cầu nguyện cho sự hiệp nhất của các Giáo hội, đồng thời cầu xin Chúa giúp các cộng đoàn bé nhỏ tại Hy Lạp được củng cố trong tình huynh đệ và hiệp nhất.
Sau khi Đức Thánh cha ban phép lành kết thúc, một nhóm năm bạn trẻ đã tặng Đức Thánh cha một cây kiểng, và ngài cũng tặng lại cho họ những hộp tràng hạt.
Cuộc gặp gỡ kết thúc lúc gần 11 giờ, giờ địa phương, và liền đó Đức Thánh cha ra phi trường quốc tế Athènes, cách đó gần 30 cây số. Tại đây, có nghi thức tiễn biệt đơn sơn với sự hiện diện của Ngoại trưởng Hy Lạp.
Máy bay Airbus 320 của hãng Aegean chở Đức Thánh cha và đoàn tùy tùng về tới phi trường Ciampino ở Roma khoảng 12 giờ 30 trưa, kết thúc tốt đẹp chuyến tông du thứ 35 của ngài tại nước ngoài.
Trên đường về, như thường lệ, Đức Thánh cha ghé lại Đền thờ Đức Bà Cả để cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ là “phần rỗi của dân Roma”, cảm tạ Mẹ Thiên Chúa vì ơn phù trợ trong cuộc viếng thăm vừa qua.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Thánh cha họp báo trên máy bay từ Hy Lạp về Roma
Trên chuyến bay dài hai tiếng đồng hồ từ thủ đô Athènes của Hy Lạp về Roma, sáng ngày 06 tháng Mười Hai năm 2021, Đức Thánh cha Phanxicô đã trả lời một số câu hỏi của các ký giả cùng đi, về một số vấn đề thời sự, như: di dân, tương quan thân hữu với Chính thống, văn kiện của Liên hiệp Âu châu về lễ Giáng sinh, và cả vụ Đức Tổng giám mục Giáo phận Paris từ chức.
Về tương quan với Chính thống Nga, Đức Thánh cha tiết lộ rằng đang có dự án cuộc gặp gỡ lần thứ hai, giữa ngài và Đức Thượng phụ Kirill, Giáo chủ Chính thống Nga. Đức Thánh cha nói: “Một cuộc gặp gỡ với Đức Thượng phụ Kirill đang ở chân trời không quá xa. Tôi nghĩ rằng tuần tới đây, Đức Tổng giám mục Hilarion (Chủ tịch Hội đồng ngoại vụ của Giáo hội Chính thống Nga) sẽ đến gặp tôi để thỏa thuận về một cuộc gặp gỡ có thể xảy ra. Có lẽ Đức Thượng phụ sẽ đi Phần Lan, và tôi thì sẵn sàng đến Mascơva để đối thoại với một người anh em. Không có thủ tục để đối thoại với một người anh em Chính thống tên là Kirill, Crysostomos (Giáo chủ Chính thống Cipro), Hieronymos (Giáo chủ Chính thống Hy Lạp) ...
Về vụ Đức Tổng giám mục Michel Aupetit, Tổng giám mục Paris, từ chức và Đức Thánh cha đã nhận đơn hôm 02 tháng Mười Hai vừa qua, nữ ký giả người Pháp hỏi: tại sao Đức Thánh cha vội vã nhận đơn từ chức như vậy?
Đức Thánh cha cho biết Đức Tổng giám mục là nạn nhân của những vụ “nói xấu nói hành” đến độ không thể tiếp tục cai quản giáo phận nữa. Ngài nói: “Tôi tự hỏi Đức cha ấy đã làm điều gì nặng đến độ phải từ chức? Có ai trả lời được cho tôi, Đức cha đã làm gì? Nếu chúng ta không biết lời cáo buộc thì chúng ta không thể kết án... Trước khi trả lời câu hỏi của bà, tôi nói rằng: ‘Quí vị hãy làm cuộc điều tra đi, vì thật là nguy hiểm khi nói rằng: Đức cha đã bị kết án. Ai kết án? Dư luận, hay là những chuyện tầm phào nói hành nói xấu. Chúng tôi không biết. Nếu quí vị biết thì hãy nói, chẳng vậy tôi không thể trả lời. Và quí vị cũng không biết đó là một sự sai lỗi của Đức cha, một sự thiếu sót nghịch điều răn thứ sáu, vuốt ve bà thư ký, đó là lời cáo buộc. Nhưng đây không phải là một tội nặng, đó là tội nhưng không phải là một trong những tội nặng, vì những tội xác thịt không phải là những tội nặng nhất. Những tội nặng nhất là tội có vẻ là ‘thiên thần’: tội kiêu ngạo, oán ghét.
“Như thế Đức cha Aupetit là người có tội, cũng như tôi là kẻ tội lỗi, và có lẽ cả thánh Phêrô nữa, là vị giám mục mà Chúa Giêsu đã thiết lập Giáo hội của Ngài trên đó. Hồi đó, cộng đoàn đã chấp nhận một giám mục tội lỗi, tội chối Chúa Kitô! Ta thấy ngày nay Giáo hội chúng ta không quen có một giám mục tội nhân, chúng ta giả bộ nói rằng giám mục của tôi là một vị thánh... Không phải vậy, tất cả chúng ta đều là người tội lỗi. Nhưng khi những chuyện nói xấu gia tăng, gia tăng, thì làm mất thanh danh của một người, người ấy không thể cai quản, vì đã mất thanh danh, không phải vì tội của người ấy - cũng như tội thánh Phêrô, hay của tôi - nhưng vì sự nói hành nói xấu của người ta. Vì thế, tôi đã chấp nhận sự từ chức của Đức cha Aupetit, không phải vì Đức cha có tội, nhưng vì sự giả hình của người ta, làm cho Đức cha bị mất thanh danh, không thể tiếp tục cai quản giáo phận nữa.”
Về Phúc trình của Ủy ban Sauvé về những vụ lạm dụng tính dục trong Giáo hội Công giáo Pháp trong 70 năm qua, Đức Thánh cha cho biết ngài không đọc phúc trình này, và chỉ nghe những bình luận của các giám mục Pháp. Các giám mục Pháp sẽ đến gặp ngài trong tháng này và ngài sẽ yêu cầu các vị giải thích.
Và Đức Thánh cha nhấn mạnh rằng “cần phải giải thích và thẩm định Phúc trình Sauvé theo quan niệm thời đó, chứ không phải với quan điểm của chúng ta ngày nay. Cũng như với chế độ nô lệ: Ngày nay chúng ta gọi nô lệ là một sự tàn bạo. Những vụ lạm dụng cách đây 70 năm hoặc 100 năm là một sự tàn bạo. Nhưng cách thức người ta sống thời đó khác với ngày nay. Ví dụ, trong trường hợp những vụ lạm dụng, trong Giáo hội thời ấy có thái độ che đậy. Nhưng đó là thái độ người ta còn áp dụng trong phần lớn các gia đình và các khu phố ngày nay. Bây giờ chúng ta nói: không được che đậy những vụ lạm dụng. Nhưng cần luôn giải thích chúng theo thông diễn học (ermeneutica) của thời đó, chứ không phải theo quan niệm thời nay của chúng ta.
Trả lời câu hỏi của một ký giả về văn kiện mới đây của Ủy ban bình quyền của Liên hiệp Âu châu đề nghị bãi bỏ việc dùng từ lễ Giáng sinh và thay thế bằng thành ngữ “lễ cuối năm”, Đức Thánh cha nói đó là một lập trường “lỗi thời”. “Trong lịch sử cũng có nhiều chế độ độc tài tìm cách làm như thế, như Napoléon, hoặc chế độ Đức quốc xã, chế độ cộng sản. Đó là một thứ “chủ trương duy đời” (laicisme) theo kiểu “thuốc viên bọc đường”, đó là điều không ổn trong lịch sử.
Trong chiều hướng này, Đức Thánh cha kêu gọi Liên hiệp Âu châu hãy tôn trọng ý hướng của các vị khởi xướng Liên hiệp và tránh mở đường cho một sự “thực dân hóa ý thức hệ”, vì thái độ này có thể gây chia rẽ giữa các quốc gia thành viên và làm cho Liên hiệp Âu châu thất bại. Liên hiệp phải tôn trọng mỗi nước có cơ cấu riêng, những sắc thái riêng, cởi mở đối với những nước khác và đừng muốn đồng nhất hóa.
Trả lời câu hỏi về vấn đề di dân ở Âu châu, Đức Thánh cha khẳng định rằng chính phủ mỗi nước phải nói rõ “chúng tôi có thể nhận bao nhiêu người di dân. Đó là quyền của họ. Nhưng dầu sao những người di dân cần được đón nhận, đồng hành, thăng tiến và hội nhập. Nếu một chính phủ không thể đón nhận nhiều hơn một con số nào đó, thì phải đối thoại với các nước khác, chăm sóc lẫn nhau. Vì thế, Liên hiệp Âu châu có vai trò quan trọng cả trong vấn để này, vì có thể thực hiện được một sự hòa hợp giữa tất cả các nước về sự phân phối người di dân. Hiện nay không có sự hòa hợp giữa tất cả các nước, họ đẩy người di dân đi đây, đi đó, thiếu sự hòa hợp chung”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVAĐức Thượng phụ Pizzaballa ca ngợi cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha tại Cipro
Đức Thượng phụ Pizzaballa, chủ chăn của các tín hữu Công giáo Latinh ở đảo Cipro, nhận định rằng cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha Phanxicô, từ ngày 02 đến 04 tháng Mười Hai vừa qua tại đảo này mang lại an ủi và khích lệ cho toàn thể cộng đoàn Công giáo tại địa phương.
Đức Pizzaballa cũng là chủ chăn của các tín hữu Công giáo Latinh ở Thánh địa và Vương quốc Giordani. Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, hôm 04 tháng Mười Hai vừa qua, ngài nói: “Cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha tại Cipro thực là một dấu hiệu khích lệ rất tích cực. Những lời của Đức Thánh cha chống lại những bức tường và chia cách ở Cipro cũng rất can đảm”.
Trong huấn từ tại buổi cầu nguyện đại kết với những người di dân tại thủ đô Nicosia của Cipro, ngài tố giác những hàng rào kẽm gai và các trại tị nạn. Đức Thượng phụ nói: “Đây là những vết thương còn mở toang và sẽ còn tiếp tục như thế, và rất tiếc chúng ta không có ảo tưởng gì về vấn đề này. Nhưng tôi nghĩ thật là điều can đảm khi Đức Giáo hoàng nói lên điều đó. Sự kiện là những hàng rào kẽm gai ấy là một sự lăng mạ đối với nhân loại và thường người ta không nói như vậy. Mỗi chia cắt hoặc mỗi hàng rào là một dấu hiệu sợ hãi, thiếu viễn tượng, thiếu hy vọng và thiếu cái nhìn về tương lai”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Sứ thần Toà Thánh tại Liên minh châu Âu qua đời vì Covid-19
Nhiều sứ điệp chia buồn trước cái chết của Đức tổng giám mục Giordano.
Đức tổng giám mục Giordano sinh năm 1954 và chịu chức linh mục năm 1979. Sau khi đậu cử nhân thần học và cử nhân triết, từ năm 1982-1996 ngài là giáo sư triết học tại học viện thần học liên giáo phận và trường Khoa học tôn giáo của Fossano. Năm 1995 ngài được bầu làm Tổng Thư ký của Hội đồng giám mục Liên minh châu Âu và chuyển đến trụ sở tại Thuỵ Sĩ. Ngài phục vụ trong trách nhiệm này 13 năm.
Năm 2008, ngài được bổ nhiệm làm Quan sát viên Thường trực của Tòa thánh tại Hội đồng Châu Âu ở Strasbourg. Năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đặt ngài làm Sứ thần Tòa Thánh tại Venezuela, và ngài được tấn phong giám mục vào tháng 12 cùng năm. Cuối cùng, vào tháng 5 năm nay, Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm ngài làm đại diện Toà Thánh tại Liên minh châu Âu. (SIR 02/12/2021)
Hồng Thủy - Vatican News
Thánh lễ tại Thính phòng Megaron
Thính phòng Megaron
Thính phòng Megaron được coi là di sản văn hóa quốc gia, ngôi đền của âm nhạc và các hoạt động văn hóa, giáo dục của thủ đô Hy Lạp. Tọa lạc trên đại lộ Vasilissis Sofias, ra đời vào những năm 70 từ ý tưởng của một số trí thức khai sáng như Alexandra Trianti và Christos Lambrakis. Nhờ sự giúp đỡ của một số nhà tài trợ, trong đó có nhà soạn nhạc và nhạc trưởng, Dimitris Mitropoulos, thính phòng được giao cho các kiến trúc sư và kỹ sư giỏi nhất của Hy Lạp và châu Âu chuyên về âm học. Thính phòng được khánh thành vào năm 1991 bởi Tổng thống Cộng hòa Kōnstantinos Karamanlīs, và được mở rộng dần với các phòng đa chức năng, không gian ngoài trời cho các hoạt động văn hóa, một thư viện âm nhạc uy tín với khoảng 10.000 bản ghi âm của các nhà soạn nhạc, các bộ sưu tập âm nhạc truyền thống và quý hiếm, một trung tâm quốc tế cho Hội nghị, phòng diễn tập và ghi âm, và không gian triển lãm. Ở thính phòng này, âm nhạc cổ điển và opera là lĩnh vực chính, được lồng ghép bởi thế giới đương đại của các nghệ sĩ từ khắp nơi trên thế giới, kết hợp với sân khấu, điện ảnh, khiêu vũ. Dàn nhạc ở nơi cư trú, Dàn nhạc Quốc gia Athen.
Thánh lễ
Tại Thính phòng Megaron, Đức Thánh Cha cử hành Thánh lễ theo phụng vụ Chúa nhật II Mùa Vọng. Nghi thức Thánh lễ bằng tiếng latinh, hai bài đọc và Tin Mừng bằng tiếng Hy Lạp.
Sau đây là bài giảng của Đức Thánh Cha:
Vào Chúa nhật thứ hai Mùa Vọng này, Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt của Thánh Gioan Tẩy Giả. Tin Mừng nhấn mạnh hai điều quan trọng: nơi Gioan hiện diện, đó là hoang địa, và nội dung sứ điệp của Thánh Gioan, đó là sám hối. Hoang địa và sám hối: Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh nhiều lần những lời này để làm cho chúng ta hiểu rằng những lời này liên quan trực tiếp đến chúng ta. Chúng ta hãy đón nhận cả hai.
Chúa đến không theo cách con người nghĩ
Hoang địa. Thánh sử Luca giới thiệu nơi này một cách cụ thể. Ngài nói về những hoàn cảnh trang trọng và những nhân vật vĩ đại của thời đó. Ngài đề cập đến năm thứ 15 của hoàng đế Tibêriô, tổng trấn Phongxiô Philatô, vua Hêrôđê và các “nhà lãnh đạo chính trị” khác của thời đó. Sau đó, Thánh Luca nhắc đến những vị lãnh đạo tôn giáo Khanan và Caipha, những người đang phục vụ Đền thờ Giêrusalem (Lc 3,1-2). Đến đây, Thánh Luca tuyên bố: “Lời Thiên Chúa phán cùng ông Gioan trong sa mạc” (Lc 3,2). Nhưng Lời đó đến bằng cách nào? Chúng ta đã mong đợi Lời Chúa sẽ được nói với một trong những nhân vật nổi danh vừa được kể đến. Thay vào đó, một điều trớ trêu tinh tế xuất hiện nơi những dòng Tin Mừng: từ vị trí trên cao của những người quyền bính, lại bất ngờ xuất hiện trong hoang địa một người vô danh, đơn độc. Thiên Chúa làm chúng ta ngạc nhiên. Đường lối Người làm chúng ta ngạc nhiên vì nó khác với sự mong đợi của con người chúng ta; chúng không phản ánh sức mạnh và sự vĩ đại mà chúng ta dựa vào. Thiên Chúa ưa thích sự nhỏ bé và khiêm nhường. Ơn cứu độ không bắt đầu từ Giêrusalem, Athens hay Roma, nhưng trong hoang địa. Cách tiếp cận nghịch lý này mang đến cho chúng ta một thông điệp rất đẹp: quyền bính, học thức và nổi tiếng không có gì bảo đảm làm đẹp lòng Chúa, vì những điều này có thể dẫn đến kiêu ngạo và từ chối Người. Thay vào đó, cần phải có cái nghèo nội tâm, nghèo như hoang địa.
Chúa đến với chúng ta trong những lúc thử thách
Chúng ta hãy suy nghĩ thêm về nghịch lý của hoang địa. Gioan Tẩy Giả - Vị Tiền hô - chuẩn bị sự xuất hiện của Đấng Kitô tại một nơi khó tiếp cận và đầy nguy hiểm. Ngày nay, nếu ai đó muốn đưa ra một loan báo quan trọng, người này thường đến những địa điểm ấn tượng, nơi có nhiều người, nơi có thể được nhìn thấy rõ. Trái lại, Gioan rao giảng trong hoang địa. Chính ở nơi đó, nơi khô cằn, trong không gian trống vắng và nơi hầu như không có sự sống, ở đó vinh quang của Chúa được tỏ bày, như lời Kinh Thánh đã tiên báo (Is 40, 3-4), Thiên Chúa biến hoang địa thành hồ ao, đất khô cằn thành mạch nước dồi dào (Is 41,18). Và một thông điệp đáng khích lệ khác: Thiên Chúa, nay cũng như xưa, hướng mắt nhìn đến bất cứ nơi nào có nhiều nỗi buồn và cô đơn. Chúng ta có thể trải nghiệm điều đó trong cuộc sống. Chúa thường không đến được với chúng ta khi chúng ta đang ở giữa những tiếng vỗ tay và chỉ nghĩ đến mình, nhưng Chúa đến với chúng ta trong những lúc thử thách. Người đến thăm chúng ta trong những hoàn cảnh khó khăn, lấp đầy khoảng trống nội tâm của chúng ta khi chúng ta để chỗ cho Người, trong những sa mạc hiện sinh của chúng ta.
Sa mạc tâm hồn là nơi Chúa tỏ hiện
Anh chị em thân mến, trong cuộc sống của chúng ta với tư cách là cá nhân hay quốc gia, không thiếu những giây phút chúng ta có cảm tưởng như đang ở trong sa mạc. Và đây chính là nơi Thiên Chúa tỏ hiện. Chúa thường không đến với những ai cảm thấy mình thành công, nhưng đến với những người cảm thấy mình không thể làm gì được. Và Người đến với những lời gần gũi, trắc ẩn và dịu dàng: “Đừng sợ hãi: có Ta ở với ngươi. Đừng nhớn nhác: Ta là Thiên Chúa của ngươi. Ta cho ngươi vững mạnh, Ta lại còn trợ giúp với tay hữu toàn thắng của Ta"(Is 41, 10). Bằng cách rao giảng trong sa mạc, Thánh Gioan đảm bảo với chúng ta rằng Chúa đến để giải thoát chúng ta và ban lại sự sống cho chúng ta trong những hoàn cảnh tưởng chừng như không thể cứu vãn, không có lối thoát. Do đó, không có nơi nào mà Chúa không muốn đến viếng thăm. Và hôm nay chúng ta không thể không cảm nhận niềm vui khi thấy Người chọn sa mạc, để đến với chúng ta trong sự nhỏ bé của chúng ta để yêu thương, và trong sự khô cằn của chúng ta để làm dịu cơn khát! Anh chị em thân mến, đừng sợ sự nhỏ bé, vì nhỏ bé không phải là vấn đề, miễn là chúng ta mở lòng với Chúa và với tha nhân. Và đừng sợ sự khô khan, bởi vì Thiên Chúa không sợ điều này, ở đó, trong sự khô khan Chúa đến thăm chúng ta.
Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang điều thứ hai, sám hối. Thánh Gioan Tẩy Giả đã rao giảng điều đó không ngừng và với cung giọng mạnh mẽ (Lc 3, 7). Đây cũng là một chủ đề “khó chịu”. Cũng như sa mạc không phải là nơi đầu tiên chúng ta muốn đến, thì lời mời sám hối chắc chắn không phải là lời đề nghị đầu tiên mà chúng ta muốn nghe. Nói về sám hối có thể khơi dậy nỗi buồn; nó dường như khó hòa hợp với Tin Mừng của niềm vui. Nhưng điều này xảy ra khi chúng ta cho rằng sám hối đơn giản chỉ sự phấn đấu của chúng ta để nên hoàn thiện về mặt đạo đức, như thể đó là điều chúng ta có thể đạt được nhờ nỗ lực của chính chúng ta. Vấn đề nằm ở chỗ: chúng ta nghĩ mọi thứ tuỳ thuộc vào chúng ta. Và điều này dẫn đến nỗi buồn và thất vọng tinh thần. Vì chúng ta muốn sám hối, trở nên tốt hơn, vượt qua những lỗi lầm và thay đổi, nhưng chúng ta cảm thấy mình không đủ khả năng và mặc dù có thiện chí, chúng ta lại luôn vấp ngã. Chúng ta có kinh nghiệm giống Thánh Phaolô, chính từ vùng đất này, ngài đã viết: “Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm”(Rm 7, 18-19). Như thế, tự mình, chúng ta không có khả năng làm điều tốt chúng ta muốn, vậy có nghĩa gì khi chúng ta phải sám hối?
Sám hối: suy nghĩ vượt lên trên
Ở đây ngôn ngữ đẹp của anh chị em, ngôn ngữ Hy Lạp có thể giúp chúng ta hiểu động từ “sám hối”, metanoéin. Động từ này bao gồm metá, có nghĩa là vượt lên trên, và noéin có nghĩa là suy nghĩ. Như vậy, sám hối có nghĩa là suy nghĩ vượt lên trên, nghĩa là vượt lên trên những suy nghĩ thông thường của chúng ta, vượt ra ngoài thế giới quan thông thường của chúng ta. Tất cả những lối suy nghĩ đó làm giảm đi mọi thứ cho chính chúng ta, cho niềm tin của việc thấy mình tự đủ của chúng ta. Hoặc những lối suy nghĩ tự cho mình là trung tâm được đánh dấu bằng sự cứng nhắc và sợ hãi làm tê liệt, bởi sự cám dỗ nói “chúng tôi luôn làm theo cách này”, bởi ý tưởng rằng sa mạc của cuộc sống là nơi chết chóc, và không có sự hiện diện của Chúa.
Khi khuyến khích chúng ta sám hối, Thánh Gioan mời gọi chúng ta vượt ra ngoài nơi chúng ta hiện diện; vượt xa những gì bản năng nói với chúng ta và tư tưởng ảnh hướng đến chúng ta, bởi vì thực tế còn vĩ đại hơn. Thực tế là Chúa vĩ đại hơn. Vì vậy, sám hối có nghĩa là không nghe những gì làm mất niềm hy vọng, không nghe những người luôn nói rằng sẽ không có gì thay đổi trong cuộc sống. Sám hối có nghĩa là từ chối tin rằng chúng ta đã bị định sẵn để chìm vào vũng lầy của sự tầm thường. Nó có nghĩa là không quy phục trước những sợ hãi bên trong, xuất hiện đặc biệt trong những lúc thử thách để làm chúng ta nản lòng và nói với chúng ta rằng chúng ta sẽ không vượt qua được, rằng mọi thứ đã sai và việc nên thánh không dành cho chúng ta. Không phải như vậy, bởi vì Thiên Chúa luôn hiện diện. Cần phải tin cậy nơi Chúa, bởi vì Người là điều vượt trên của chúng ta, là sức mạnh của chúng ta. Mọi thứ thay đổi nếu chúng ta dành cho Người vị trí đầu tiên. Chúng ta chỉ cần mở cửa để Chúa bước vào và làm những điều kỳ diệu. Chỉ như sa mạc và lời của Gioan là đủ để Chúa đến thế gian.
Chúng ta hãy cầu xin ân sủng để tin rằng với Chúa, mọi thứ sẽ thay đổi, rằng Người chữa lành nỗi sợ hãi của chúng ta, chữa lành vết thương của chúng ta, biến những nơi khô cằn thành suối nước. Chúng ta cầu xin ân sủng của hy vọng. Vì hy vọng làm sống lại đức tin và khơi lại lòng bác ái. Bởi vì đó là hy vọng mà các sa mạc của thế giới ngày nay đang khát.
Và trong lúc cuộc gặp gỡ này đổi mới chúng ta trong niềm hy vọng và niềm vui của Chúa Giêsu, và tôi vui mừng khi được ở giữa anh chị em, chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ giúp chúng ta, giống như Mẹ, trở nên những người gieo rắc hy vọng, những người gieo niềm vui xung quanh chúng ta, không chỉ vào lúc này, khi chúng ta hạnh phúc và ở cùng nhau, nhưng hàng ngày, trong những sa mạc nơi chúng ta hiện diện. Vì chính nơi đó, với ơn Chúa, cuộc đời chúng ta được mời gọi sám hối và nở hoa.
Chào cám ơn
Trước khi kết thúc Thánh lễ, Đức Tổng Giám mục Theodoros Kontidis của Tổng Giáo phận Athen, đại diện cộng đoàn cám ơn Đức Thánh Cha. Đức Tổng Giám mục nói rằng sự hiện diện của Đức Thánh Cha tại Hy Lạp làm cho mọi người cảm nhận được sự hiệp nhất với Giáo hội như một thân thể trong Đức Kitô. Ngài nói: “Chúng con chân thành cám ơn Đức Thánh Cha vì đã đến đây với chúng con, cùng cử hành Thánh lễ, và cám ơn vì tất cả những gì Đức Thánh Cha đã làm cho Giáo hội trên thế giới và vì những lời giảng dạy đã khuyến khích mọi người đi theo đường lối Chúa Giêsu”.
Đáp lời Đức Tổng Giám mục, Đức Thánh Cha cũng bảy tỏ lòng biết ơn đến chính quyền dân sự và các Giám mục, cũng như tất cả những người bằng nhiều cách khác nhau đã cộng tác chuẩn bị và tổ chức chuyến thăm này.
Sau Thánh lễ, Đức Thánh Cha trở về Toà Sứ thần.
Thăm Đức Thượng phụ Jeronymos II
Tại Toà Sứ thần, vào lúc 19 giờ, Đức Thánh Cha có cuộc gặp gỡ với Đức Thượng phụ Jeronymos II và đoàn tuỳ tùng tại hội trường của Toà sứ thần.
Ngọc Yến - Vatican News
Đức Thánh cha đến Hy lạp
Sau 1 giờ 40 phút bay, máy bay chở Đức Thánh cha và đoàn tháp tùng đã đáp xuống phi trường quốc tế Athènes, thủ đô Hy Lạp, lúc quá 11 giờ.
Khi máy bay dừng hẳn, Đức Tổng giám mục Savio Hàn Đại Huy, người Hong Kong, thuộc dòng Don Bosco, Sứ thần Tòa Thánh tại Hy Lạp, cùng với ông trưởng Ban nghi lễ ngoại giao của chính phủ, đã bước lên máy bay chào Đức Thánh cha và mời ngài xuống.
Ở dưới chân thang có ngoại trưởng Hy Lạp chào đón ngài và 4 em bé trong y phục cổ truyền tặng hoa cho Đức Thánh cha. Liền đó ngài lên xe đi thẳng về Phủ Tổng thống Hy Lạp, cách đó hơn 30 cây số để gặp Tổng thống và chính phủ.
Đức Thánh cha gặp gỡ Tổng thống và chính quyền Hy Lạp
Khi đến Phủ Tổng thống lúc 12 giờ trưa, Đức Thánh cha đã được bà Tổng thống Ekaterini Sakellaropoulos tiếp đón với nghi thức ngoại giao chính thức, đoàn quân danh dự, quốc thiều và giới thiệu hai phái đoàn, trước khi ngài được mời vào thư phòng của Tổng thống để hội kiến riêng.
Bà Ekaterini năm nay 65 tuổi (1956), nguyên là một luật gia, hoạt động trong tham chính viện, Tòa án hành chánh tối cao của Hy Lạp, rồi làm Chủ tịch của tòa này cho đến năm ngoái (2020). Tiếp đến bà trở thành phụ nữ đầu tiên được bầu làm Tổng thống Cộng hòa Hy Lạp, với 261 phiếu trên tổng số 300.
Trong khi Đức Thánh cha gặp riêng bà Tổng thống, thì tại một phòng bên cạnh, có cuộc gặp gỡ ngắn giữa Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh và thủ tướng Hy Lạp, có sự tham dự của Đức Tổng giám mục Phụ tá Quốc vụ khanh và Ngoại trưởng của Tòa Thánh.
Sau khi hội kiến với bà Tổng thống, Đức Thánh cha còn gặp Thủ tướng Kyriakos Mitsotakis của Hy Lạp. Ông năm nay 53 tuổi, là con của cựu Thủ tướng Konstantinos Mitsotakis.
Sau các cuộc gặp gỡ trên đây, Đức Thánh cha được bà Tổng thống hướng dẫn, đến một hội trường trong Phủ Tổng thống để gặp gỡ chung các giới chức chính quyền và tôn giáo, cũng như ngoại giao đoàn, và đại diện xã hội dân sự của Hy Lạp, tổng cộng khoảng 150 người.
Diễn từ của Đức Thánh cha
Sứ điệp của Hy Lạp
Lên tiếng sau lời chào mừng của bà Tổng thống, Đức Thánh cha đề cao vai trò quan trọng về văn hóa của thành Athènes và Hy Lạp đối với Âu châu và thế giới. Những di tích lịch sử tại đây vẫn còn nhắc nhở cho nhân loại về sự khôn ngoan, và mời gọi hướng thượng, giữa lúc ngày nay tại Tây Phương khai sinh từ đây, có sự lu mờ về “nhu cầu Trời Cao và bị mắc kẹt ở giữa vì hàng ngàn cuộc chạy đua trần tục và sự ham hố vô độ của chủ nghĩa duy tiêu thụ vô nhân cách. Những nơi này ở Hy Lạp mời gọi chúng ta hãy để cho mình ngạc nhiên vì sự vô hạn, về vẻ đẹp của sự hiện hữu và niềm vui của đức tin. Những con đường của Tin mừng cũng đã tiến qua đây, nối kết Đông và Tây Phương, những nơi thánh và Âu Châu, Jerusalem và Roma...”. Xu hướng thu hẹp dân chủ.
Đức Thánh cha cũng nhận xét rằng Hy Lạp là chiếc nôi của nền dân chủ của nhân loại. Dân chủ đã nảy sinh từ đây, nhưng ngài không quên bày tỏ lo âu vì ngày nay, không những tại Âu châu, người ta thấy có sự thu hẹp dân chủ. Dân chủ đòi sự tham gia và can dự của tất cả mọi người, và vì thế nó đòi những cố gắng vất vả và kiên nhẫn. Dân chủ thì phức tạp, trong khi chủ nghĩa độc đoán thì vội vã và những lời cam đoan dễ dàng do những chủ nghĩa mị dân đưa ra thì có vẻ hấp dẫn. Trong nhiều xã hội, người ta bận tâm về vấn đề an ninh và bị mê hoặc vì chủ nghĩa tiêu thụ, sự mệt mỏi và bất mãn đưa tới một thái độ hoài nghi về dân chủ. Sự tham gia của tất cả mọi người là một đòi hỏi cơ bản, không những để đạt tới những mục tiêu chung, nhưng còn vì nó đáp ứng thực tại chúng ta là những hữu thể xã hội, không thể lập lại và đồng thời lệ thuộc lẫn nhau”.
Thách đố về khí hậu: thi hành những cam kết
Trong số nhiều vấn đề được Đức Thánh cha đề cập đến, những thách đố về khí hậu, đại dịch, thị trường chung và nhất là nạn nghèo đói lan rộng. “Đó là những thách đố đòi sự cộng tác cụ thể và tích cực. Cộng đồng quốc tế cần có sự cộng tác như thế để mở ra những con đường hòa bình qua những chính sách đa phương, không bị bóp nghẹt vì những chủ trương quốc gia chủ nghĩa thái quá. Nền chính trị cũng cần sự cộng tác như thế, để đặt những đòi hỏi chung lên trên tư lợi”.
Đức Thánh cha cầu mong những cam kết đã được đưa ra trong cuộc chiến chống những thay đổi khí hậu ngày càng được mọi nước chia sẻ và thực thi, chứ không phải chỉ là những cam kết ngoài mặt. “Việc làm phải đi theo lời nói để các con cháu không phải trả giá vì sự giả hình của cha ông như đã xảy ra bao nhiêu lần”.
Vấn đề di dân
Đức Thánh cha không quên nhắc đến vấn đề di dân. Càng ngày càng có những người di dân cập bến Hy Lạp và nhiều khi số người này vượt quá số dân tại những đảo họ đến, làm gia tăng những khó khăn mà dân chúng tại đó vốn đã chịu vì khủng hoảng kinh tế. Về mặt này, Đức Thánh cha đặc biệt phê bình thái độ trì hoãn của Âu châu: “Cộng đồng Âu châu, bị xâu xé vì sự ích kỷ quốc gia, thay vì là động lực lôi kéo tình liên đới, nhiều khi có vẻ bị mắc kẹt và thiếu phối hợp. Trước kia sự xung đột ý thức hệ đã cản trở việc xây dựng những cây cầu giữa đông và tây Âu, thì ngày nay vấn đề di cư cũng mở ra những lỗ hổng giữa bắc và nam. Tôi muốn tái kêu gọi Âu châu hãy có một cái nhìn tổng thể và cộng đồng đứng trước vấn đề di cư và tôi khích lệ quan tâm đến những người gặp khó khăn nhất, để theo khả năng của mỗi người, người di dân được đón nhận, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập trong sự tôn trọng hoàn toàn các nhân quyền và phẩm giá của họ. Điều này không phải là một cản trở hiện tại nhưng đúng hơn là một bảo đảm cho tương lai vì đó là một dấu hiệu sống chung hòa bình với những người ngày càng bị bó buộc phải trốn chạy để tìm kiếm một gia cư và tìm hy vọng”.
Cám ơn chính phủ Hy Lạp nhìn nhận Công giáo
Về Giáo hội Công giáo tại Hy Lạp, Đức Thánh cha tái bày tỏ lòng biết ơn vì chính phủ nước này đã công khai nhìn nhận Cộng đồng Giáo hội và ngài cam kết ý chí của Giáo hội thăng tiến công ích trong xã hội Hy Lạp, theo chiều hướng đặc tính đại đồng của Giáo hội Công giáo, đồng thời Đức Thánh cha cầu mong rằng trong thực hành Giáo hội Công giáo tại nước này luôn được bảo đảm những điều kiện cần thiết để chu toàn việc phục vụ.”
Sau cuộc gặp gỡ chung trên đây, Đức Thánh cha còn dừng lại ở phòng Bizantine và ký vào sổ danh dự và trao đổi quà tặng với Tổng thống, trước khi giã từ để về Tòa Sứ thần Tòa Thánh, cách đó gần 6 cây số để cùng bữa trưa và nghỉ ngơi, lúc 1 giờ 30.
Tòa Thánh và Hy Lạp thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau trên cấp đại sứ từ năm 1979, tuy rằng từ năm 1834, Tòa Thánh đã có vị Khâm sứ, không có tư cách ngoại, Đại diện Đức Giáo hoàng trước mặt Giáo hội Công giáo ở Hy Lạp.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu