Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tấn phong Giám mục Hong Kong
Kết thúc lễ tấn phong, tân Giám mục đã có những lời chia sẻ với các tín hữu, bày tỏ ước mong trở thành cầu nối giữa chính quyền và Giáo hội Hong Kong, giữa các tín hữu Công giáo, các Kitô hữu thuộc các hệ phái Kitô khác và các tôn giáo khác. Ngài khẳng định: “Lịch sử Giáo hội ở Trung Quốc và Hong Kong nói với chúng ta rằng Công giáo không phải là sự hiện diện của nước ngoài, nhưng là một phần của xã hội. Đại dịch đã dạy chúng ta phải biết giúp đỡ người khác, bất kể địa vị tôn giáo và chính trị, đây là con đường”.
Tân Giám mục nói thêm: “Chính nhờ sự gắn kết chân thành, mà sự hiểu biết sâu sắc có thể được thiết lập, sự đáng giá cao có thể được thúc đẩy, tôn trọng và tin tưởng có thể được đào sâu, và hy vọng cộng tác có thể trở thành một văn hoá sống trong cộng đoàn chúng ta”. Ngài kết luận bài phát biểu, trích dẫn lời của Đức Hồng y Luis Antonio Tagle, Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc: “Thiên Chúa làm những điều vĩ đại, chúng ta chỉ phải phân định và đi theo đường lối Người. Tôi phó thác vào lời cầu nguyện của anh chị em”.
Thánh lễ tấn phong có sự tham dự của đại diện các dòng tu đang dấn thân trong các hoạt động mục vụ và sứ vụ, các thực thể của Giáo hội địa phương, các đại diện của các tôn giáo khác, chính quyền dân sự do Đặc khu Trưởng, bà Lâm Trịnh Nguyệt Nga dẫn đầu.
Ngày 17/05/2021, Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm cha Stêphanô Chu Thủ Nhân, Dòng Tên, làm Giám mục Hong Kong. Với việc tấn phong này, từ nay Giáo phận Hong Kong chấm dứt nhiều tháng trống tòa; kể từ khi Đức cha Micae Dương Minh Chương qua đời vào 01/2019, Giáo phận đã được giao cho vị Giám quản Tông Tòa là Đức Hồng y Gioan Thang Hán, nguyên Giám mục Hong Kong.
Giáo hội Hong Kong có khoảng 550 ngàn người Công giáo trên tổng dân số 7,5 triệu dân. Giáo hội được thành lập vào năm 1841 với tư cách là Phủ doãn Tông tòa, sau đó được nâng lên thành Giáo phận vào năm 1946, gồm 51 giáo xứ và nhiều cơ sở bác ái.
Ngọc Yến - Vatican News
Vatican và đại học Al-Azhar đồng ý chống chủ nghĩa cực đoan, thù hận
Sự đồng thuận của Vatican và Đại học Hồi giáo Al-Azhar đã được khẳng định trong cuộc gặp gỡ giữa Đức Hồng y Miguel Angel Ayuso Guixot, Chủ tịch Hội đồng Toà Thánh về Đối thoại Liên tôn, và Đại Imam Sheikh Ahmed El-Tayyeb của Al-Azhar tại Ai Cập vào ngày 4/12/2021, với sự tham dự của Đức Tổng Giám mục Nicholas Henry, Sứ thần Toà Thánh tại Ai Cập.
Mô hình của mối quan hệ giữa Al-Azhar và Vatican
Đại Imam El-Tayyeb cho biết: “Mối quan hệ giữa Al-Azhar và Vatican vẫn là một mô hình hiệu quả và thực tế để truyền bá lòng khoan dung và hòa bình, đồng thời đối đầu với chủ nghĩa cực đoan, hận thù, chiến tranh và xung đột”. Ông nói thêm rằng thế giới đang rất cần các giá trị của tình huynh đệ, sự chung sống hòa bình và sự tôn trọng để đạt được sự ổn định.
Hồi tháng 10, Đại Imam của Al-Azhar đã gặp Đức Thánh Cha bên lề cuộc họp về biến đổi khí hậu mang tên “Đức tin và Khoa học: Hướng tới Hội nghị thượng đỉnh COP26”. Họ chỉ ra rằng có nhiều thách đố đòi hỏi sức mạnh và quyết tâm chịu đựng gian khổ và khó khăn, và nói thêm rằng quay trở lại với giáo lý của các tôn giáo là cách để cứu thế giới khỏi chủ nghĩa cực đoan và chia rẽ.
Đương đầu với các hiện tượng tiêu cực, đặc biệt là về khía cạnh đạo đức
Theo tuyên bố của đại học Al-Azhar hôm thứ Bảy 4/12/2021, Đại Imam Al-Tayeb nói rằng “các nhà lãnh đạo và học giả có nhiệm vụ tôn giáo và xã hội đương đầu với các hiện tượng tiêu cực, đặc biệt là về khía cạnh đạo đức”.
Đại học Al-Azhar và Vatican sẽ thực hiện các bước và biện pháp cần thiết để thực hiện các điều khoản được đề cập trong Tài liệu về Tình Huynh đệ Nhân loại. Tài liệu này đã được Đức Thánh Cha và Đại Imam Ahmad Al-Tayyeb của Al-Azhar ký ngày 4/2/2019 trong chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. (Asharq Al-awsat 05/12/2021)
Hồng Thủy - Vatican News
Toà Thánh tổ chức hội nghị về công nghệ mới trong thế giới hậu đại dịch
Theo thông cáo của Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện, sự kiện diễn ra theo hình thức tham gia trực tiếp và trực tuyến, sẽ quy tụ các chuyên gia đóng góp vào cuộc đối thoại toàn cầu về công nghệ mới trong một xã hội hậu Covid, nhằm hướng tới một hệ thống kinh tế cộng đồng, tốt đẹp hơn.
Hội nghị muốn nhấn mạnh đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng đến mọi hoạt động của con người, và thúc đẩy suy tư toàn cầu về các cơ cấu và hiện tượng chi phối thế giới. Trong những điều này, đáng chú ý là sự phát triển cách nhanh chóng các loại công nghệ, thế hệ trí tuệ nhân tạo mới, người máy. Nhưng những phát triển này lại không được suy tư đạo đức đồng hành, dẫn đến nguy cơ gia tăng bất bình đẳng và bỏ lại phía sau nhiều người. Vì vậy cần một tầm nhìn đạo đức sâu rộng để có thể thiết lập những công nghệ này theo hướng giảm tác hại và phục vụ sự phát triển con người toàn diện.
Theo tinh thần thông điệp Laudato si’, Hội nghị sẽ hướng tới mục tiêu đóng góp vào cuộc đối thoại toàn cầu về vai trò của công nghệ mới trong thời hậu đại dịch với quan điểm hướng tới sinh thái toàn diện, công lý và cách tiếp cận toàn diện “Một sức khỏe cho tất cả” và “một hệ thống kinh tế cộng đồng hơn”.
Các chuyên gia sẽ đưa ra các phân tích khoa học và đạo đức, cùng với các nghiên cứu điển hình, cho thấy cách công nghệ mới có thể được áp dụng để phục vụ sự phát triển toàn diện của con người, đặc biệt trong các lĩnh vực an ninh lương thực, chăm sóc sức khỏe - bao gồm cả việc thúc đẩy tiếp cận công bằng và bình đẳng đối với vắc-xin Covid-19, lao động, hòa bình và an ninh, và thúc đẩy một nền kinh tế xã hội. Các vấn đề quan trọng cũng sẽ được đặt ra liên quan đến việc sử dụng các công nghệ và tác động của chúng dưới ánh sáng của thông điệp Laudato si' và Fratelli tutti.
Ngọc Yến - Vatican News
Chính thống Nga: Chưa xác định ngày và nơi gặp gỡ giữa Đức Thượng phụ Kirill và Đức Giáo hoàng
Tòa Thượng phụ Chính thống Nga cho biết chưa xác định ngày và nơi gặp gỡ giữa Đức Giáo hoàng và Đức Thượng phụ Giáo chủ Kirill của Nga.
Tuyên bố trên máy bay, trên đường từ Hy Lạp về Roma, sáng ngày 06 tháng Mười Hai vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô tiết lộ rằng đang có dự án cuộc gặp gỡ lần thứ hai giữa ngài và Đức Thượng phụ Kirill, Giáo chủ Chính thống Nga. Ngài nói: “Một cuộc gặp gỡ với Đức Thượng phụ Kirill đang ở chân trời không quá xa. Tôi nghĩ rằng tuần tới đây, Đức Tổng giám mục Hilarion sẽ đến gặp tôi để thỏa thuận về một cuộc gặp gỡ có thể xảy ra. Có lẽ Đức Thượng phụ sẽ đi Phần Lan, và tôi thì sẵn sàng đến Mascơva để đối thoại với một người anh em”.
Bình luận về tin trên đây, Đức Tổng giám mục Hilarion, Chủ tịch Hội đồng ngoại vụ Tòa Thượng phụ Chính thống Nga, ra thông cáo nói rằng:
“Ngày 20 tháng Mười Hai tới đây, cuộc gặp gỡ của tôi với Đức Giáo hoàng Phanxicô của Roma đã được lên chương trình. Tôi muốn nhân danh Đức Thượng phụ Kirill chúc mừng ngài nhân dịp sinh nhật thứ 85 và thảo luận về một loạt các vấn đề quan hệ song phương giữa hai Giáo hội. Trong số các vấn đề đó, có cuộc gặp gỡ có thể giữa Đức Giáo hoàng Phanxicô với Đức Thượng phụ Kirill. Nơi và ngày của cuộc gặp gỡ này chưa được xác định”.
Về cuộc viếng thăm của Đức Thượng phụ Kirill tại Phần Lan, tôi có thể nói như sau: cách đây nhiều năm, Đức Thượng phụ đã nhận được lời mời của Thủ lãnh Giáo hội Tin lành Luther Phần Lan, Đức Tổng giám mục Chính thống và Đức giám mục Công giáo của giáo phận Helsinki. Tuy nhiên từ đó có nhiều điều xảy ra, tình hình nội bộ Chính thống đã thay đổi, và đại dịch bắt đầu. Nay cuộc chuẩn bị cho chuyến viếng thăm ấy đã bị ngưng lại.”
“Về cuộc viếng thăm của Đức Giáo hoàng tại Mascơva, tôi có thể nói rằng vấn đề này không được bàn tới ở cấp độ song phương.”
“Tôi hy vọng cuộc gặp gỡ vào Chúa nhật, ngày 19 tháng Mười Hai tới đây, sẽ là cơ hội để thảo luận về mọi vấn đề có liên hệ tới hai bên”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Công bố các qui luật tu chính về những tội nặng
Hôm ngày 07 tháng Mười Hai năm 2021, các qui luật tu chính về các tội nặng nghịch đức tin và luân lý dành quyền xét xử cho Bộ giáo lý đức tin, đã được Bộ này công bố.
Qui luật gồm 29 điều khoản, sửa đổi các qui luật do thánh Gioan Phaolô II ban hành cách đây 20 năm (30/4/2001), rồi được Đức Biển Đức XVI thay đổi ngày 21 tháng Năm năm 2010, gần đây được Đức Thánh cha Phanxicô thay đổi ngày 11 tháng Mười vừa qua.
Việc thay đổi này nhắm hòa hợp các qui luật với cuốn VI của Bộ giáo luật được tu chính và công bố với tự sắc “Pascite gregem Dei”, Hãy chăn dắt đoàn chiên Chúa, được Đức Thánh cha công bố ngày 23 tháng Năm năm nay và có hiệu lực từ ngày 08 tháng Mười Hai này (2021).
Tiếp đến, bộ qui luật tu chính này tiếp nhận nhiều thay đổi trong các luật lệ được ban hành từ năm 2016 đến nay, nhắm bảo vệ hữu hiệu hơn các thiện ích lớn của Giáo hội là đức tin, sự thánh thiêng của các bí tích, và đời sống của những người yếu thế nhất, như các trẻ vị thành niên thiếu sử dụng hoàn toàn lý trí.
Sau cùng, Bộ Giáo lý đức tin muốn cải tiến các thủ tục xét xử của Giáo hội về các tội ác dành quyền cho Bộ này, trong đó có các tội nặng chống lại luân lý và việc cử hành bí tích, dựa trên kinh nghiệm 20 năm qua.
Trong số những thay đổi quan trọng nhất trong các qui luật mới, có sự phân biệt rõ ràng hơn giữa vụ xét xử trong tòa án và xét xử bằng sắc lệnh ngoài tòa án. Ngoài ra, có dự trù việc đệ trình vụ án trực tiếp lên Đức Thánh cha để ngài quyết định sa thải khỏi hàng giáo sĩ và chuẩn chước luật độc thân, các lời khấn dòng. Tiếp đến, thời hạn khiếu nại hay kháng án được gia hạn từ một tháng lên sáu mươi ngày. Sau cùng, luật qui định về sự cần thiết của người “bảo trợ” giúp bị cáo trong giai đoạn bị xét xử.
Các tội nặng dành quyền xét xử cho Bộ Giáo lý đức tin:
Trong khoản từ số 2 đến số 6, qui luật liệt kê các tội nặng thuộc quyền xét xử của Bộ là tội rối đạo, bỏ đạo, ly giáo, tội xúc phạm nặng nề đến Thánh Thể, mang và giữ Mình Thánh Chúa với mục đích phạm thánh, đồng tế với các thừa tác viên của các cộng đoàn Giáo hội không có sự Tông truyền (như Tin lành) và không nhìn nhận bí tích truyền chức thánh, các tội phạm đến đặc tính thánh thiêng của bí tích giải tội, giải tội cho đồng phạm về điều răn thứ sáu, giả bộ ban phép giải tội, vi phạm trực tiếp và gián tiếp bí mật tòa giải tội, truyền chức linh mục cho một phụ nữ. Đặc biệt điều số 6 nói về tội lỗi giới răn thứ 6 với trẻ vị thành niên dưới 18 tuổi và người chậm trí, thủ đắc, trình bày, lưu trữ và phổ biến các hình ảnh dâm ô trẻ vị thành niên.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Liên Hội đồng Giám mục Trung Mỹ quyết tâm tiến hành Giáo hội đồng hành
Liên Hội đồng Giám mục Trung Mỹ, gọi tắt là SEDAC, quyết tâm tiến hành Giáo hội đồng hành, hỗ trợ dân chúng trong cuộc chiến đấu chống bất công và đại dịch, liên đới với các nạn nhân bất công trong xã hội và Giáo hội.
Trên đây là nội dung chủ yếu trong sứ điệp chung kết, công bố sau khóa họp thường niên trực tuyến, từ ngày 30 tháng Mười Một đến ngày 03 tháng Mười Hai vừa qua, với sự tham dự của các đại diện của sáu Hội đồng Giám mục ở Trung Mỹ, là Costa Rica, El Salvador, Guatemala, Honduras, Nicaragua và Panamá.
Sứ điệp của các giám mục chia làm 6 phần, nói đến những quan tâm và các thách đố chính yếu của Giáo hội ở Trung Mỹ, đặc biệt qui trọng tâm về đặc tính đồng hành của Giáo hội, như đã được đề nghị trong Đại hội mới đây của Giáo hội tại Mỹ Latinh và quần đảo Caraibí. Đặc biệt, sứ điệp nhấn mạnh sự cần thiết phải lắng nghe tất cả mọi tín hữu đã chịu phép rửa tội, không phân biệt và loại trừ ai.
Trong số các thách đố, các giám mục Trung Mỹ nói đến những ưu tiên như: công nhận và và thăng tiến sự lãnh đạo của giáo dân, nhất là người trẻ và phụ nữ. Đồng thời các giám mục cũng tái khẳng định quyết tâm lắng nghe, đồng hành, hướng dẫn và bảo vệ các dân tộc tại Trung Mỹ, trong những cuộc chiến đấu những khát vọng và mong đợi của họ, nhất là trong lúc đại dịch Covid-19 làm gia tăng sự xa cách giữa thiểu số có rất nhiều và đại đa số hầu như không có gì”.
Các giám mục thuộc Liên hiệp SEDAC cũng đề nghị “liên đới với các nạn nhân bất công xã hội và Giáo hội: đảm nhận sự bảo vệ phẩm giá sự sống và nhân vị, loại trừ thái độ giáo sĩ trị, lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, những người bị loại trừ và bị gạt bỏ, cũng như tiếng kêu của các dân tộc bản địa và người gốc Phi châu, thăng tiến sự hội nhập văn hóa và liên văn hóa, cùng với tư tưởng xã hội của Hội thánh”.
Liên Hội đồng Giám mục Trung Mỹ được thành lập năm 1960 và có trụ sở tại San José, thủ đô Costa Rica.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Hội đồng Giám mục Đức kêu gọi các tín hữu tham gia lạc quyên Giáng sinh
Cuộc lạc quyên này là cao điểm của chiến dịch Mùa Vọng do Tổ chức bác ái Adveniat phát động mỗi năm.
Chiến dịch năm nay được khai mạc hôm 28 tháng Mười Một vừa qua, Chúa nhật thứ nhất mùa vọng, với chủ đề là: “Sống còn tại thành phố” và mời gọi các tín hữu Đức đặc biệt lưu ý về tình trạng dân nghèo và các nhu cầu của họ tại các thành thị ở Mỹ châu Latinh và quần đảo Caraibì. Tại đại lục này, 80% dân chúng sống tại các thành phố và rất nhiều người nghèo càng lâm cảnh lầm than hơn vì đại dịch Covid-19.
Các giám mục mời gọi các tín hữu nhiệt liệt hỗ trợ các cuộc lạc quyên trong hai ngày 24 và 25 tháng Mười Hai sắp tới, kể cả bằng các phương thế trên mạng.
Thông cáo của Hội đồng Giám mục Đức cho biết với sự cộng tác của các tổ chức đối tác ở địa phương, Giáo hội muốn là một dấu chỉ hy vọng, đứng trước tình trạng nghèo đói gia tăng, qua các hoạt động thoa dịu đau khổ, giúp đỡ các bệnh nhân, kiến tạo những điều kiện cơ bản để sinh sống, săn sóc những người yếu thế nhất: các trẻ em, người trẻ, các phụ nữ và các gia đình”.
Các giám mục Đức nhắc lại rằng từ hơn 60 năm nay, Tổ chức bác ái Adveniat vẫn đứng về phía những người nghèo nhất. Năm ngoái (2020), cùng với các tổ chức đối tác ở Mỹ Latinh, Tổ chức Adveniat đã dành 8 triệu Euro để tài trợ hơn 400 dự án bài trừ đại dịch Covid-19 và những hậu quả của nó. Tổng cộng trong năm 2020, ngân khoản tài trợ của Adveniat lên tới 35 triệu 300.000 Euro cho hơn 2.000 dự án. Chiến dịch Mùa Vọng năm nay đặc biệt nhắm đáp ứng tình trạng tại Mêhicô, Paraguay và Brazil.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Cuộc phỏng vấn ĐTC trên chuyến bay từ Hy Lạp về Roma
Vatican News
Constandinos Tsindas (CYBC): [Thưa Đức Thánh Cha], những nhận xét mạnh mẽ của ngài về đối thoại giữa các tôn giáo ở cả Sýp và Hy Lạp đã gây được tiếng vang lớn trên quốc tế và gây ra những kỳ vọng khá thách thức. Họ nói rằng xin lỗi là điều khó nhất, trong khi ngài đã làm được điều đó một cách ngoạn mục ở Athens. Nhưng Vatican đang có kế hoạch gì để quy tụ Chính thống và Công giáo. Có lẽ một Thượng hội đồng đang được lên chương trình? ... Cùng với Thượng phụ Bartolomeo, ngài đã kêu gọi các Kitô hữu vào năm 2025 mừng 17 thế kỷ kể từ công đồng đầu tiên ở Nixêa. Tiến trình này đang diễn ra như thế nào? Cuối cùng, một câu hỏi về tài liệu của Liên minh châu Âu liên quan đến thuật ngữ về Giáng sinh.
ĐTC Phanxicô: Vâng, cảm ơn bạn. Tôi đã xin lỗi; tôi đã xin lỗi trước Đức Ieronymos, người anh em Ieronymos của tôi. Tôi xin lỗi vì tất cả những chia rẽ đang có giữa các Kitô hữu, nhưng trên hết là vì những chia rẽ mà chúng ta đã gây nên: những người Công giáo.
Tôi cũng muốn xin lỗi, vì trong cuộc chiến tranh giành độc lập - Đức Ieronymos đã chỉ ra điều này cho tôi - một số người Công giáo đã đứng về phía các chính phủ châu Âu để ngăn cản nền độc lập của Hy Lạp. Mặt khác, ở các đảo, người Công giáo trên các đảo đã ủng hộ nền độc lập; họ thậm chí đã tham chiến, một số đã hy sinh mạng sống cho đất nước của họ. Nhưng trọng tâm, chúng ta nói như thế, vào thời điểm đó đã nghiêng về phía Châu Âu ... Tôi không biết chính phủ nào ở đó ... nhưng thực tế là như vậy. Và tôi cũng xin lỗi về vụ bê bối chia rẽ, ít nhất là về điều mà chúng ta có lỗi.
Tinh thần tự mãn - chúng ta ngậm miệng khi nghe rằng mình phải xin lỗi; đối với tôi, tôi luôn cảm thấy tốt khi nghĩ rằng Chúa không bao giờ mệt mỏi khi tha thứ, không bao giờ, không bao giờ ... Chính chúng ta mới mệt mỏi khi cầu xin sự tha thứ; và khi chúng ta không cầu xin Chúa tha thứ, thì sẽ thật khó để chúng ta xin anh chị em của chúng ta tha thứ. Cầu xin sự tha thứ từ một người anh em khó hơn là từ Thiên Chúa, bởi vì chúng ta biết rằng Chúa sẽ nói: “Được, hãy đi, con đã được tha thứ.” Ngược lại, với anh chị em của chúng ta ... có sự xấu hổ, và sự hạ mình ... Nhưng trong thế giới ngày nay, chúng ta cần có thái độ hạ mình và xin lỗi. Có quá nhiều thứ đang xảy ra trên thế giới, quá nhiều mạng sống bị thiệt mạng, quá nhiều cuộc chiến tranh ... Tại sao chúng ta không xin lỗi?
Trở lại vấn đề này, tôi muốn xin lỗi vì những chia rẽ, ít nhất là về những gì chúng ta đã gây ra. Những điều khác ... những người có trách nhiệm sẽ xin lỗi, nhưng tôi xin lỗi vì lỗi của chúng ta, và cũng xin lỗi cho giai đoạn đó trong cuộc chiến khi một số người Công giáo đứng về phía chính phủ châu Âu, và những người từ các hòn đảo đã chiến đấu để bảo vệ ... Tôi không biết đã đủ chưa ...
Và cũng có một lời xin lỗi cuối cùng - lời xin lỗi này đến từ trái tim tôi - lời xin lỗi vì thảm kịch của người di cư, vì bi kịch của rất nhiều sinh mạng bị chết đuối trên biển, v.v.
Về khía cạnh hiệp hành: đúng, chúng ta là một đàn chiên, đó là sự thật. Và khi phân chia - giáo sĩ và giáo dân - là một sự phân chia chức năng, vâng, về phẩm chất, nhưng có một sự hiệp nhất, một đàn chiên duy nhất. Và động lực giữa những khác biệt trong Giáo hội là tính hiệp hành: nghĩa là, lắng nghe nhau và cùng nhau bước đi. Syn hodòs: đi chung đường. Đây là ý nghĩa của tính hiệp hành: các Giáo hội Chính Thống của các bạn, và cả các Giáo hội Công giáo Đông phương, đã bảo tồn điều này. Ngược lại, Giáo hội Latinh đã quên mất Thượng hội đồng, và chính Thánh Phaolô VI là người đã khôi phục lại con đường công nghị cách đây 54 hoặc 56 năm. Và chúng ta đang thực hiện một cuộc hành trình để có được thói quen hiệp hành, cùng bước đi với nhau.
Cuối cùng, bạn nói đến tài liệu của Liên minh Châu Âu về Giáng sinh ... đây là một sự lạc hậu. Trong lịch sử, nhiều chế độ độc tài đã cố gắng làm như vậy. Hãy nghĩ về Napoléon: từ đó ... Hãy nghĩ đến chế độ độc tài của Đức Quốc xã, chế độ cộng sản ... đó là phong cách của một chủ nghĩa duy đời được làm cho dịu ngọt ... Nhưng đây là một thứ đã không hoạt động trong lịch sử.
Nhưng điều này khiến tôi nghĩ đến điều gì đó, nói về Liên minh Châu Âu, điều mà tôi tin là cần thiết: Liên minh Châu Âu phải tiếp thu những lý tưởng của những người sáng lập, đó là những lý tưởng về sự thống nhất, về sự vĩ đại, và hãy cẩn thận để tránh theo con đường thực dân hóa tư tưởng. Điều này có thể dẫn đến chia rẽ các quốc gia và [khiến] Liên minh Châu Âu sụp đổ. Liên minh châu Âu phải tôn trọng từng quốc gia như nó được cấu trúc bên trong, sự đa dạng của các quốc gia, và không muốn làm cho chúng đồng nhất. Tôi tin rằng nó sẽ làm điều đó, đó không phải là ý định của nó, nhưng hãy cẩn thận, bởi vì đôi khi họ đến, và họ ném những dự án như thế này ở đó và họ không biết họ làm gì; tôi không biết nghĩ đến điều gì ... Không, mỗi quốc gia có đặc thù riêng, nhưng mỗi quốc gia đều cởi mở với những quốc gia khác. Liên minh châu Âu: chủ quyền của nó, chủ quyền của những người anh em trong một khối thống nhất tôn trọng tính cá nhân của mỗi quốc gia. Và hãy cẩn thận để không trở thành phương tiện của sự thực dân hóa ý thức hệ. Đó là lý do tại sao [vấn đề] về Giáng sinh (trong tài liệu của châu Âu) là một sự lạc hậu.
Nhà báo Iliana Magra (Kathimerini): Thưa Đức Thánh Cha, cảm ơn ngài đã đến thăm Hy Lạp. Ngài đã nói chuyện trong phủ tổng thống ở Athens về thực tế là nền dân chủ đang suy thoái, đặc biệt là ở châu Âu. Ngài đang đề cập đến những quốc gia nào? Ngài sẽ nói gì với những nhà lãnh đạo tự xưng là Kitô hữu đạo đức nhưng đồng thời đề cao các giá trị và chính sách phi dân chủ?
ĐTC Phanxicô: Dân chủ là một kho tàng, một kho tàng của nền văn minh, và nó phải được bảo vệ; nó phải được bảo tồn. Và không chỉ được bảo vệ bởi một thực thể cấp cao, mà còn được bảo vệ bởi chính các quốc gia, [cần thiết] bảo vệ nền dân chủ của các quốc gia khác.
Tôi thấy có hai mối nguy hiểm đối với nền dân chủ ngày nay: một là chủ nghĩa dân túy, đang tồn tại đây đó, và đang bắt đầu lộ rõ móng vuốt của nó. Tôi đang nghĩ đến một chủ nghĩa dân túy vĩ đại của thế kỷ trước, chủ nghĩa Quốc xã, một chủ nghĩa dân túy bảo vệ các giá trị quốc gia, như nó đã nói, đã hủy diệt đời sống dân chủ, thực sự sống bằng cái chết của người dân, trở thành một chế độ độc tài đẫm máu. Hôm nay tôi sẽ nói, bởi vì bạn đã hỏi về các chính phủ cánh hữu, chúng ta hãy cẩn thận rằng các chính phủ - tôi không nói cánh hữu hay cánh tả, tôi đang nói điều gì đó khác - các chính phủ hãy cẩn thận để không bị rơi vào con đường của chủ nghĩa dân túy này, cái được gọi là "chủ nghĩa dân túy" chính trị, không liên quan gì đến chủ nghĩa bình dân, điều là sự tự do ngôn luận của mọi người, những người thể hiện bản sắc của họ, văn hóa dân gian, giá trị của họ, nghệ thuật của họ ... Chủ nghĩa dân túy là một điều [chủ nghĩa bình dân là một điều khác].
Mặt khác, nền dân chủ bị suy yếu, [nó] đi vào con đường nơi nó từ từ [suy yếu] khi các giá trị quốc gia bị hy sinh, bị lộn ngược, chúng ta dùng một từ không hay, nhưng tôi không thể tìm thấy một từ khác, hướng tới một 'đế chế', một loại chính phủ siêu quốc gia, và đây là điều khiến chúng ta phải suy nghĩ.
Chúng ta cũng không nên rơi vào chủ nghĩa dân túy, nơi mà người dân - chúng ta nói là người dân, nhưng đó không phải là người dân, mà là một chế độ độc tài của “chúng ta chứ không phải của những người khác” (hãy nghĩ về chủ nghĩa Quốc xã) cũng như không bị nhấn chìm bản sắc của chúng ta trong một chính phủ quốc tế. Về điều này có một cuốn tiểu thuyết được viết vào năm 1903 (bạn sẽ nói, "Vị Giáo hoàng này thật cổ hủ về văn học!") được viết bởi [Robert Hugh] Benson, một nhà văn người Anh, Chúa tể của thế giới, tưởng tượng một tương lai trong đó một chính phủ quốc tế thông qua các biện pháp kinh tế và chính trị điều hành tất cả các quốc gia khác. Và khi bạn có chính phủ kiểu này, ông ta giải thích, bạn mất tự do và bạn cố gắng đạt được sự bình đẳng giữa tất cả mọi người; điều này xảy ra khi có một siêu cường quyết định hành vi kinh tế, văn hóa và xã hội đối với các quốc gia khác.
Sự suy yếu của nền dân chủ là do nguy cơ của chủ nghĩa dân túy, không phải là chủ nghĩa bình dân, và sự nguy hiểm của những quy chiếu này đối với các cường quốc kinh tế và văn hóa quốc tế. Đó là những gì tôi nghĩ đến, nhưng tôi không phải là một nhà khoa học chính trị, tôi chỉ nói những gì tôi nghĩ.
Manuel Scharz: Di cư không chỉ là vấn đề trọng tâm ở Địa Trung Hải. Nó cũng liên quan đến các khu vực khác của châu Âu. Nó liên quan đến Đông Âu. Hãy nghĩ về những sợi dây thép gai. Ngài mong đợi điều gì từ Ba Lan, từ Nga chẳng hạn? Và từ các quốc gia khác như Đức, từ chính phủ mới ...
ĐTC Phanxicô: Về những điều mà những người ngăn cản việc di cư hoặc đóng cửa biên giới tôi sẽ nói điều này … Ngày nay việc xây các bức tường ... là mốt thời thượng. Họ thường làm những việc này để ngăn cản nhập cư ...
Điều đầu tiên tôi muốn nói là: Hãy nhớ lại khoảng thời gian khi bạn là một người di cư và họ không cho bạn vào. Chính bạn là người muốn thoát khỏi vùng đất của mình và bây giờ chính bạn là người muốn xây tường. Điều này là tốt. Bởi vì những người xây tường mất cảm giác về lịch sử, về lịch sử của chính họ, về thời họ còn là nô lệ của một quốc gia khác. Những người xây tường có trải nghiệm này, ít nhất là một phần lớn trong số họ: trải nghiệm từng là nô lệ. Bạn có thể nói với tôi, “Nhưng các chính phủ có nhiệm vụ quản lý. Và nếu một làn sóng người di cư đến, họ không thể quản lý." Tôi muốn nói điều này: Mọi chính phủ phải nói rõ ràng “Tôi có thể nhận rất nhiều ...” Bởi vì những người lãnh đạo biết họ có thể nhận bao nhiêu người di cư. Đây là quyền của họ. Đây là sự thật.
Nhưng người di cư phải được chào đón, đồng hành, thúc đẩy và hòa nhập. Nếu một chính phủ không thể tiếp nhận nhiều hơn một số lượng nhất định, thì chính phủ đó phải tham gia đối thoại với các quốc gia khác, những nước có thể quan tâm đến những người khác, mỗi nước. Đó là lý do tại sao Liên minh châu Âu là quan trọng. Bởi vì nó có thể tạo ra sự hài hòa giữa tất cả các chính phủ đối với việc phân bổ người di cư. Hãy nghĩ về Sýp, Hy Lạp, hoặc thậm chí là Lampedusa, Sicilia. Những người di cư đến và không có sự thoả thuận giữa tất cả các quốc gia để gửi họ đến nơi này hay nơi khác. Thiếu sự hài hòa chung này. Tôi lặp lại từ cuối cùng tôi đã nói: hoà nhập. Hoà nhập. Bởi vì nếu bạn không hòa nhập người di cư, người di cư này sẽ có quyền công dân của khu ổ chuột. Tôi không nhớ nếu tôi đã có nói điều đó một lần trên máy bay hay chưa.
Ví dụ khiến tôi ấn tượng nhất là thảm kịch ở Zaventem. Những người trẻ đã gây ra thảm họa đó tại sân bay là người Bỉ, nhưng là con của những người ở các trại tị nạn, những người di cư không được hòa nhập. Nếu bạn không hòa nhập người di cư với giáo dục, với công việc, với sự chăm sóc, bạn có nguy cơ gặp phải một chiến binh, một người sau đó làm những việc này. Không dễ để chào đón người di cư, để giải quyết vấn đề người di cư, nhưng nếu chúng ta không giải quyết vấn đề người di cư, chúng ta có nguy cơ tạo ra một con tàu đắm của nền văn minh, ngày nay, ở châu Âu, bởi vì như mọi thứ đang diễn ra, nền văn minh của chúng ta. Không chỉ đắm tàu ở Địa Trung Hải. Không, nền văn minh của chúng ta. Hãy để đại diện của các chính phủ châu Âu đi đến một thỏa thuận.
Đối với tôi, một mô hình hội nhập, tiếp nhận, là Thụy Điển, nơi tiếp nhận những người di cư Mỹ Latinh chạy trốn khỏi các chế độ độc tài (người Chile, Argentina, Brazil, Uruguay) và hòa nhập họ. Hôm nay ở Athens, tôi đã đến một trường nội trú. Tôi đã quan sát. Và tôi nói với người phiên dịch, “Nhưng ở đây có món macedonia, (theo nghĩa đen là món salad trái cây) của các nền văn hóa”. Tất cả được hoà lẫn với nhau. Tôi đã sử dụng một cách diễn đạt bình dân. Người này trả lời: "Đây là tương lai của Hy Lạp." Hội nhập. Ngày càng phát triển trong hội nhập. Nó quan trọng. Nhưng có một bi kịch khác mà tôi muốn nhấn mạnh. Đó là khi những người di cư, trước khi đến, rơi vào tay những kẻ buôn người, những kẻ lấy hết tiền họ có và vận chuyển họ trên những chiếc ghe. Khi họ bị gửi trở về, những kẻ buôn người này sẽ giữ họ lại. Và có những bộ phim tại Phân bộ Di dân cho thấy những gì xảy ra ở những nơi họ đến khi họ bị trả về lại.
Cũng như chúng ta không thể chỉ chào đón họ rồi rời bỏ họ, mà phải đồng hành, thăng tiến họ một cách toàn diện; vì vậy nếu tôi gửi một người di cư trở về, tôi phải đồng hành với họ và thăng tiến và hòa nhập họ vào đất nước của họ; không để họ trên bờ biển Libya. Đây là sự tàn nhẫn. Nếu bạn muốn biết thêm, hãy hỏi Phân bộ di dân, nơi có bộ phim này. Cũng có một bộ phim của tổ chức “Vòng tay rộng mở” cho thấy thực tế này. Thật đau đớn. Nhưng chúng ta gây nguy hiểm cho nền văn minh. Chúng ta gây nguy hiểm cho nền văn minh.
Cecile Chambraud (Le Monde): Hôm thứ Năm, khi chúng ta đến nơi, chúng tôi được biết rằng ngài đã chấp nhận đơn từ chức của Tổng Giám mục Aupetit của Paris. Tại sao lại có sự vội vàng như vậy? Và liên quan đến báo cáo của Sauvé về sự lạm dụng: Giáo hội có trách nhiệm thể chế và hiện tượng này có tính cách hệ thống. Ngài nghĩ gì về tuyên bố này, và nó có ý nghĩa gì đối với Giáo hội hoàn vũ?
ĐTC Phanxicô: Tôi sẽ bắt đầu với câu hỏi thứ hai. Khi những nghiên cứu này được thực hiện, chúng ta phải cẩn thận trong các diễn giải mà chúng ta đưa ra cho từng khoảng thời gian. Khi bạn thực hiện một nghiên cứu trong một thời gian dài như vậy, sẽ có nguy cơ nhầm lẫn cách vấn đề được cảm nhận trong khoảng thời gian 70 năm trước một thời kỳ khác. Tôi chỉ muốn nói điều này như một nguyên tắc: một hoàn cảnh lịch sử nên được giải thích bằng cách diễn giải của thời đó, chứ không phải của riêng chúng ta. Ví dụ, chế độ nô lệ. Chúng tôi nói: "đó là một sự tàn bạo". Những vụ lạm dụng của 70 hay 100 năm trước là một sự tàn bạo, nhưng cách họ sống không giống như ngày nay. Ví dụ, trong trường hợp lạm dụng trong Giáo hội, thái độ là che đậy nó. Đó là một thái độ không may cũng được sử dụng trong nhiều gia đình, trong các khu phố. Chúng ta nói, "Không!" sự che đậy này là không đúng.
Nhưng chúng ta phải luôn giải thích theo cách diễn giải của thời đại, không phải bằng cách hiểu của chúng ta. Ví dụ, nghiên cứu Indianapolis nổi tiếng đã thất bại vì thiếu cách giải thích chính xác: một số điều đúng, một số điều khác thì không. Chúng đã được trộn lẫn với nhau. Việc phân thành thời gian sẽ giúp ích. Về phần báo cáo, tôi chưa đọc, tôi đã lắng nghe ý kiến của các giám mục Pháp. Các giám mục sẽ đến gặp tôi trong tháng này, và tôi sẽ yêu cầu họ giải thích điều đó cho tôi.
Về vụ Aupetit, tôi tự hỏi ngài đã làm gì quá nghiêm trọng đến mức phải từ chức. Ai đó trả lời cho tôi, ngài đã làm gì?
Cecile Chambraud: Chúng tôi không biết, đó là vấn đề điều hành hay điều gì khác.
ĐTC Phanxicô: Và nếu chúng ta không biết tội danh chúng ta không thể kết tội... Trước khi trả lời tôi sẽ nói: Các bạn hãy tiến hành một cuộc điều tra, được không? Bởi vì nguy hiểm khi nói rằng: ngài đã bị kết án. Ai đã lên án ngài? Dư luận, những lời đàm tiếu… chúng tôi không biết… nếu các bạn biết thì tại sao không nói? Nếu không, tôi không thể trả lời. Và bạn sẽ không biết, bởi vì đó là sự thiếu xót về phần ngài, sự thiếu xót đối với điều răn thứ sáu, nhưng không hoàn toàn, những cử chỉ âu yếm nhẹ nhàng của ngài với người thư ký; đây là lời buộc tội. Đây là tội lỗi nhưng nó không phải là tội trọng nhất, bởi vì tội lỗi của xác thịt không phải là tội trọng nhất.
Những tội trọng hơn là những tội có tính 'thiên thần' hơn: kiêu hãnh, hận thù. Vì vậy, Aupetit là một tội nhân, cũng như tôi… Có lẽ, cũng như thánh Phêrô, vị giám mục mà trên đó Chúa Giêsu Kitô đã thành lập Giáo Hội. Tại sao cộng đồng thời đó lại chấp nhận một giám mục tội lỗi, một giám mục đã phạm tội với nhiều 'tính chất thiên thần', như đã chối bỏ Chúa Kitô! Bởi vì đó là một Giáo hội bình thường, đã quen cảm thấy mình tội lỗi, mọi người. Đó là một Giáo hội khiêm tốn. Chúng ta có thể thấy rằng Giáo hội của chúng ta không quen có một giám mục tội lỗi. Chúng ta giả vờ nói: "Giám mục của tôi là một vị thánh". Không! cái mũ nhỏ màu đỏ này ... tất cả chúng ta đều là tội nhân. Nhưng khi những lời bàn tán gia tăng, phát triển, lớn lên và lấy đi danh tiếng của một người; không, người đó sẽ không thể cai quản vì đã mất danh tiếng của mình. Không phải vì tội lỗi của ngài, đó là tội lỗi - như của thánh Phêrô, như của tôi, như của bạn - mà là vì sự bàn tán của mọi người. Đó là lý do tại sao tôi chấp nhận sự từ chức, không phải trên bàn thờ của sự thật mà là trên bàn thờ của thói đạo đức giả.
Vera Scherbakova (Itar-Tass): Ngài đã gặp những người đứng đầu Giáo hội Chính thống và đã nói những lời tuyệt vời về sự hiệp thông và tái hiệp nhất: kế hoạch chung của ngài khi gặp Đức Thượng phụ Kirill là gì, và ngài gặp khó khăn gì trên con đường này?
ĐTC Phanxicô: Một cuộc gặp gỡ với ĐứcThượng phụ Kirill đang ở một chân trời không xa; tôi tin rằng tuần tới tổng giám mục Hilarion sẽ đến thăm tôi để thống nhất về một cuộc gặp có thể xảy ra. Đức Thượng Phụ phải đi, có thể đến Phần Lan, và tôi luôn sẵn lòng đến Mátxcơva, để đối thoại với một người anh em. Để đối thoại với một người anh em, không có những giao thức, một người anh em Chính Thống giáo tên là Kirill, Chrysostomos, Ieronymos, và khi gặp nhau, chúng tôi không nhảy điệu minuet; chúng tôi nói thẳng vào mặt nhau, nhưng với tư cách là anh em. Và thật đáng mừng khi thấy anh em cãi nhau bởi vì họ cùng thuộc một mẹ, Giáo hội Mẹ, nhưng họ có chút chia rẽ, một số vì di sản, một số vì lịch sử đã chia rẽ họ.
Nhưng chúng ta phải cố gắng đi cùng nhau, làm việc và bước đi trong sự hiệp nhất và vì sự hiệp nhất. Tôi biết ơn Đức Ieronymos, Đức Chrysostomos, và tất cả những Thượng phụ có mong muốn bước đi cùng nhau. Nhà thần học Chính Thống giáo vĩ đại Zizioulas, người nghiên cứu về thuyết cánh chung, từng nói đùa rằng: sự hiệp nhất sẽ được tìm thấy trong Eschaton! Ở đó sẽ có sự hiệp nhất. Nhưng đó là một cách nói: chúng ta không được đứng yên chờ các nhà thần học đồng ý. Điều người ta nói là Đức Athenagoras đã nói với Đức Phaolô VI: chúng ta hãy đặt tất cả các nhà thần học trên một hòn đảo để họ thảo luận và chúng ta sẽ cùng nhau đi đến một nơi khác. Nhưng đây là một câu chuyện đùa.
Hãy để các nhà thần học tiếp tục nghiên cứu vì điều này tốt cho chúng ta và hướng dẫn chúng ta hiểu cách tìm kiếm sự hiệp nhất tốt hơn. Nhưng trong lúc này, chúng ta cùng nhau tiến về phía trước, cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau làm việc bác ái. Ví dụ, tôi biết rằng ở Thụy Điển, các tín hữu Luther và Caritas Công giáo cùng với nhau. Chúng ta có thể làm việc và cầu nguyện cùng nhau, chúng ta để phần còn lại mà chúng ta không hiểu phải làm thế nào cho các nhà thần học.
Diễn văn của ĐTC trước Chính quyền, Xã hội dân sự và Ngoại giao đoàn
Diễn văn của Đức Thánh Cha trước Chính quyền, Xã hội dân sự Và Ngoại Giao đoàn
(02/12/2021)
Ngài Tổng thống Nước Cộng hòa,
Các thành viên của Chính phủ và ngoại giao đoàn,
Quý lãnh đạo tôn giáo và dân sự,
Các đại diện xã hội và thế giới văn hóa,
Quý bà và quý ông thân mến,
Tôi thân ái chào quý vị, và tôi vui mừng hiện diện nơi đây cùng quý vị. Tôi cảm ơn ngài Tổng thống vì sự chào đón mà ngài thay mặt cho toàn thể người dân đã dành cho tôi. Như một người hành hương, tôi đến một đất nước bé nhỏ về địa lý nhưng vĩ đại về lịch sử; trên một hòn đảo mà qua nhiều thế kỷ đã không làm cho người dân thành ốc đảo, nhưng đã kết nối họ; ở một vùng đất có biên giới là biển; ở nơi đánh dấu cửa ngõ phía Đông với Châu Âu và phía Tây với Trung Đông. Quý vị là một cánh cửa rộng mở, một bến cảng kết nối: Sýp, ngã tư của nền văn minh, mang trong mình ơn gọi bẩm sinh để gặp gỡ, được ngưỡng mộ bởi đặc tính chào đón của người Sýp.
Chúng ta vừa bày tỏ lòng kính trọng đối với vị Tổng thống đầu tiên của đất nước Cộng hòa này, Đức Tổng Giám mục Makarios, và khi thực hiện cử chỉ này, tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng đối với tất cả người dân của đất nước. Tên của ông, Makarios, gợi lên lời mở đầu của diễn từ đầu tiên của Chúa Giêsu: Các Mối Phúc (x. Mt 5, 3-12). Ai là makarios, ai thực sự là người có phúc theo đức tin Kitô giáo, vốn gắn liền không thể tách biệt với vùng đất này? Tất cả đều có thể được chúc phúc, và trên hết họ là những người nghèo về tinh thần, những người bị thương tích bởi cuộc sống, những người sống hiền lành và thương xót, những người thực thi công lý và xây dựng hòa bình một cách không giả tạo. Thưa quý vị, Các Mối phúc là hiến chương vĩnh viễn của Kitô giáo. Việc sống Các Mối Phúc cho phép Tin Mừng luôn tươi trẻ và lấp đầy hy vọng cho xã hội. Các Mối Phúc là chiếc la bàn để định hướng, ở mọi vĩ độ, chỉ ra những lộ trình mà người Kitô hữu phải đi trong hành trình cuộc sống.
Chính từ nơi này, nơi Châu Âu và Phương Đông gặp nhau, cuộc hội nhập văn hóa vĩ đại đầu tiên của Tin Mừng trên lục địa này đã bắt đầu và tôi thật cảm động khi đi lại bước chân của các nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo hội tiên khởi, đặc biệt là các thánh Phaolô, Barnaba và Máccô. Vì vậy, tôi ở đây, một người hành hương giữa quý vị, để cùng đi với quý vị, những người Sýp thân yêu, tất cả quý vị, với mong ước rằng tin tức tốt lành của Tin Mừng có thể mang đến cho Châu Âu một sứ điệp của niềm vui, ngang qua dấu chỉ của Các Mối Phúc. Thật vậy, điều mà các Kitô hữu đầu tiên đã trao cho thế giới bằng sức mạnh dịu dàng của Thánh Thần là một thông điệp của vẻ đẹp chưa từng có. Đó là sự mới mẻ đáng ngạc nhiên của Các Mối Phúc, dành cho tất cả mọi người, đã thu phục được trái tim và sự tự do của nhiều người. Đất nước này có một di sản đặc biệt theo nghĩa này, như một sứ giả của vẻ đẹp giữa các lục địa. Sýp tỏa sáng với vẻ đẹp trên lãnh thổ của mình, lãnh thổ phải được bảo vệ và giữ gìn bằng các chính sách môi trường thích hợp đã được nhất trí cùng với các nước láng giềng. Vẻ đẹp ấy còn tỏa sáng trong kiến trúc, nghệ thuật, đặc biệt trong nghệ thuật thánh, và trong các nghề thủ công tôn giáo, trong nhiều kho tàng khảo cổ học. Vẽ một bức tranh từ vùng biển bao quanh chúng ta, tôi muốn nói rằng hòn đảo này thật là một viên ngọc trai quý giá giữa lòng Địa Trung Hải.
Thật vậy, một viên ngọc trai trở nên được như vậy bởi vì nó thành hình theo thời gian: phải mất nhiều năm để các lớp khác nhau trở nên rắn chắc và sáng bóng. Vì vậy, vẻ đẹp của vùng đất này bắt nguồn từ nhiều nền văn hóa được gặp gỡ và pha trộn qua nhiều thế kỷ. Ngay cả ngày nay, ánh sáng của Sýp có nhiều góc cạnh: có nhiều dân nhiều nước, với những màu sắc khác nhau, tạo nên gam màu của cộng đồng này. Tôi cũng nghĩ đến sự hiện diện của nhiều người nhập cư, với tỷ lệ đáng kể nhất trong số các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu. Giữ được vẻ đẹp đa sắc tộc, đa diện của tổng thể chẳng hề dễ dàng. Như trong việc hình thành một viên ngọc trai, nó đòi hỏi thời gian và sự kiên nhẫn, nó đòi hỏi một cái nhìn bao quát có khả năng ôm lấy sự đa dạng của nhiều nền văn hóa và hướng về tương lai với tầm nhìn xa. Theo nghĩa này, điều quan trọng là phải bảo vệ và thăng tiến mọi thành phần xã hội, đặc biệt là những nhóm thiểu số theo thống kê. Tôi cũng đang nghĩ đến các thực thể Công giáo khác nhau, khi có được sự công nhận chính thức thích hợp, họ có thể đóng góp cho xã hội thông qua các hoạt động của họ, đặc biệt về giáo dục và bác ái, được xác định rõ ràng theo quan điểm pháp lý.
Một viên ngọc trai hình thành vẻ đẹp của nó trong những hoàn cảnh khó khăn. Nó được sinh ra trong sự tối mờ, khi con hàu “đau đớn” vì bất ngờ gặp phải một đe doạ đến sự an toàn của nó, chẳng hạn như một hạt cát khiến nó khó chịu. Để bảo vệ bản thân, con hàu phản ứng bằng cách đồng hóa mình với những gì làm tổn thương nó: nó ngậm vật lạ và nguy hiểm và biến nó thành vẻ đẹp, thành một viên ngọc trai. Viên ngọc trai của Sýp đã bị mờ đi bởi đại dịch, khiến nhiều du khách không thể đến và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó. Tại đây, cũng như ở những nơi khác, điều này đã gây nên những hậu quả khủng hoảng kinh tế và tài chính. Tuy nhiên, trong giai đoạn phục hồi này, không phải sự hăng hái phục hồi lại những gì đã mất sẽ đảm bảo cho sự phát triển vững chắc và lâu dài, mà là việc dấn thân thúc đẩy phục hồi xã hội, đặc biệt là ngang qua một cuộc chiến kiên quyết chống tham nhũng và những vết thương làm tổn hại đến phẩm giá con người; ví dụ, tôi nghĩ đến nạn buôn người.
Nhưng vết thương gây đau khổ nhiều nhất cho vùng đất này là do những vết cắt khủng khiếp mà nó đã phải gánh chịu trong những thập kỷ gần đây. Tôi nghĩ đến nỗi đau sâu thẳm của những người không thể trở về nhà và nơi thờ tự của họ. Tôi cầu nguyện cho hòa bình của quý vị, cho hòa bình của toàn bộ hòn đảo, và tôi mong ước điều này bằng tất cả sức lực. Con đường dẫn đến hòa bình, chữa lành những xung đột và tái tạo vẻ đẹp của tình huynh đệ, được đánh dấu bằng một từ: đối thoại, mà Ngài Tổng thống lặp lại nhiều lần. Chính chúng ta phải giúp mình tin tưởng vào sức mạnh kiên nhẫn và ôn hoà của đối thoại, sức mạnh của sự kiên nhẫn “được vác trên vai”, hypomoné, được rút ra từ các Mối Phúc. Chúng ta biết đó không phải là một con đường dễ dàng; nó dài và quanh co, nhưng không có lựa chọn thay thế nào để đạt được sự hòa giải. Chúng ta nuôi dưỡng niềm hy vọng bằng “sức mạnh của những cử chỉ” thay vì hy vọng trong “những cử chỉ của sức mạnh”. Bởi vì có một sức mạnh của những cử chỉ chuẩn bị cho hòa bình: không phải là những cử chỉ quyền lực, đe dọa trả đũa và phô trương quyền lực, mà là những cử chỉ lắng dịu, những bước đối thoại cụ thể. Ví dụ, tôi nghĩ đến sự dấn thân chuẩn bị cho một cuộc thảo luận chân thành đặt nhu cầu của người dân lên hàng đầu, về sự tham gia ngày càng tích cực của cộng đồng quốc tế, về việc bảo vệ di sản văn hóa và tôn giáo, về việc phục hồi tất cả những gì đặc biệt thân thiết đối với mọi người, như những địa điểm hoặc ít nhất là những vật dụng thánh. Về vấn đề này, tôi muốn bày tỏ sự đánh giá cao và khích lệ đối với Nẻo đường tôn giáo trong Dự án Hòa bình Sýp (Religious Track of the Cyprus Peace Project) do Đại sứ quán Thụy Điển thúc đẩy, để vun đắp sự đối thoại giữa các nhà lãnh đạo tôn giáo.
Những thời điểm có vẻ không thuận lợi, khi đối thoại trì trệ, cũng có thể chính là những thời điểm chuẩn bị cho hòa bình. Viên ngọc trai vẫn nhắc nhở chúng ta về điều này, vì nó thành hình được như vậy là nhờ tiến trình kiên nhẫn âm thầm kết thêm chất mới bằng những tác nhân đã làm nó bị thương. Trong những tình huống này, hận thù không được phép lấn át, đừng từ bỏ việc hàn gắn vết thương, đừng quên những hoàn cảnh của những người biến mất. Và khi cảm giác nản lòng xuất hiện, hãy nghĩ đến các thế hệ tương lai, những người mong muốn được thừa hưởng một thế giới hòa bình, hợp tác, gắn kết, không phải là nơi sinh sống của những kẻ thù truyền kiếp và bị ô nhiễm bởi những tranh chấp chưa được giải quyết. Vì thế đối thoại là điều cần thiết, để tránh sự gia tăng nghi ngờ và oán hận. Chúng ta hãy đề cập đến Địa Trung Hải, bây giờ không may là một nơi của xung đột và thảm kịch nhân đạo; trong vẻ đẹp sâu xa của nó, nó là mare nostrum, là biển của tất cả các dân tộc gắn liền với nó, để được kết nối, không bị chia cắt. Sýp, ngã tư địa lý, lịch sử, văn hóa và tôn giáo, là vị trí để thực hiện một hành động hòa bình. Ước mong Sýp trở thành một công trường mở cho hòa bình ở Địa Trung Hải.
Hòa bình thường không nảy sinh từ những nhân vật vĩ đại, mà từ sự quyết tâm hằng ngày, mọi ngày, của những người nhỏ bé. Lục địa châu Âu cần hòa giải và hiệp nhất, cần can đảm và động lực để bước tới. Bởi vì, không phải những bức tường của sợ hãi và loại bỏ bị điều khiển bởi các lợi ích dân tộc chủ nghĩa sẽ giúp cho nó tiến bộ, cũng không phải duy chỉ phục hồi kinh tế sẽ đảm bảo cho an ninh và sự ổn định của nó. Chúng ta hãy nhìn lại lịch sử của Sýp và xem cuộc gặp gỡ và sự chào đón đã mang lại những hoa trái lợi ích lâu dài như thế nào. Sýp không chỉ là “bàn đạp” trên lục địa về lịch sử của Kitô giáo, mà còn về việc xây dựng một xã hội phong phú trong sự hội nhập. Tinh thần rộng mở này, khả năng nhìn vượt ra khỏi biên giới của chính mình sẽ mang lại sự trẻ trung, cho phép quý vị tái khám phá sự sáng rực đã mất.
Đề cập đến Sýp, sách Công vụ tông đồ kể rằng Phaolô và Barnaba đã “đi xuyên qua đảo” để đến Pa-phô (x. Cv 13:6). Tôi thật vui mừng, trong những ngày này, tôi có thể đi xuyên qua lịch sử và linh hồn của vùng đất này, với mong muốn rằng khát vọng hiệp nhất và thông điệp về vẻ đẹp của nó tiếp tục dẫn đường cho nó hướng đến tương lai. O Theós na evloghí tin Kípro! [Xin Chúa chúc lành cho Sýp!]
Tĩnh tâm Mùa Vọng 2021 cùng Giáo triều Rôma - Bài thứ nhất của Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa
Trong loạt bài suy niệm cho chương trình tĩnh tâm Mùa Vọng năm nay của Giáo triều Rôma, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, giảng thuyết viên của Phủ Giáo Hoàng tập trung vào việc đưa ra ánh sáng “vẻ huy hoàng bên trong của Giáo Hội và của đời sống Kitô hữu”, mà không “nhắm mắt trước thực tế của các sự kiện”, để mỗi người có thể đối mặt với trách nhiệm của mình từ góc độ đúng đắn.
Đức Hồng Y Cantalamessa cho biết ngày nay có nguy cơ nhiều người đang sống “như thể Giáo hội không hơn gì” những vụ bê bối, tranh cãi, xung đột cá tính, buôn chuyện, hoặc cùng lắm chỉ hữu ích chút đỉnh về mặt xã hội. Nói tóm lại, Giáo Hội chỉ là chuyện của con người, giống như mọi thứ khác trong quá trình lịch sử”. Trong những suy tư Mùa Vọng, Đức Hồng Y đề nghị chúng ta “nhìn Giáo hội từ bên trong, theo nghĩa mạnh nhất của từ này, dưới ánh sáng của mầu nhiệm mà Giáo hội mang trong mình”, để chúng ta không mất phương hướng.
Năm nay, chương trình tĩnh tâm Mùa Vọng gồm ba bài được trình bày vào ba thứ Sáu trước Lễ Giáng Sinh với chủ đề là “Khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của Người đến”, trích từ chương 4 Thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Galát trong đó tóm tắt toàn bộ mầu nhiệm của Kitô Giáo.
Bài suy niệm Mùa Vọng đầu tiên được tổ chức tại Đại Thính Đường Phaolô Đệ Lục có tựa đề là “Chúa đã sai Con Ngài đến để chúng ta có thể được nhận làm nghĩa tử của Thiên Chúa”
Bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Mùa Chay vừa qua tôi đã cố gắng làm sáng tỏ mối nguy hiểm của việc sống “etsi Christus non daretur,”, tức là “như thể Chúa Kitô chưa bao giờ tồn tại.” Tiếp tục dòng suy nghĩ này, trong các bài suy niệm Mùa Vọng năm nay, tôi muốn kêu gọi sự chú ý đến một mối nguy hiểm tương tự khác: đó là việc sống “như thể Giáo hội không hơn gì” những vụ bê bối, tranh cãi, xung đột cá tính, buôn chuyện, hoặc cùng lắm chỉ hữu ích chút đỉnh về mặt xã hội. Nói tóm lại, Giáo Hội chỉ là chuyện của con người, giống như mọi thứ khác trong quá trình lịch sử.
Tôi muốn làm sáng tỏ vẻ huy hoàng bên trong của Giáo hội và đời sống Kitô. Chúng ta không được nhắm mắt trước thực tế, cũng không được trốn tránh trách nhiệm của mình; đồng thời, chúng ta cần phải đối mặt với chúng từ một góc độ đúng đắn và không để bản thân mình bị chúng đè bẹp. Chúng ta không thể mong đợi các nhà báo và các phương tiện truyền thông tính đến quan điểm của chính Giáo hội, nhưng kết quả tồi tệ nhất có thể xảy ra nếu như chúng ta, những người thuộc về Giáo hội và những thừa tác viên của Tin Mừng, cuối cùng lại đánh mất đi mầu nhiệm ẩn chứa trong Giáo hội và thối lui để hành xử như người khác và luôn ở thế phòng thủ.
Nói về việc loan báo Tin Mừng, Thánh Tông đồ Phaolô viết: “Chúng ta đựng kho tàng này trong những bình sành dễ vỡ” (2Cr 4, 7). Thật là ngu ngốc khi dành toàn bộ thời gian và sức lực của chúng ta để tập trung vào “những chiếc lọ đất sét dễ vỡ” trong khi quên mất “kho báu”. Thánh Tông đồ cho chúng ta một lý do để khẳng định điều tích cực tồn tại ngay cả trong những tình cảnh như hoàn cảnh của chúng ta ngày nay. Ngài nói rằng điều này là “để có thể thấy rõ rằng quyền năng phi thường này thuộc về Thiên Chúa và không đến từ chúng ta” (2 Cr 4, 7).
Giáo Hội giống như những ô cửa kính màu của một nhà thờ lớn. (Tôi đã trải nghiệm điều này khi đến thăm nhà thờ chính tòa thành Chartres.) Nếu anh chị em nhìn vào các cửa sổ từ bên ngoài, từ đường phố, tất cả những gì anh chị em thấy là những mảnh kính đen được giữ lại với nhau bằng những dải chì sẫm màu. Nhưng nếu anh chị em đi vào bên trong và nhìn vào chính những ô cửa sổ đó với ánh sáng tràn vào, thì thật là một mảng màu rực rỡ, những câu chuyện và ý nghĩa mở ra trước mắt anh chị em! Tôi đề nghị rằng chúng ta nên nhìn Giáo hội từ bên trong, theo nghĩa sâu xa nhất của từ này, để thấy Giáo Hội dưới ánh sáng của mầu nhiệm mà Giáo Hội thủ đắc.
Trong Mùa Chay, Định nghĩa của Công Đồng Chalcedon theo đó Chúa Kitô thực sự là con người và thực sự là thần thánh trong một hữu thể duy nhất đã hướng dẫn chúng ta suy niệm. Trong Mùa Vọng này, chúng ta sẽ dõi theo một trong những bản văn phụng vụ Mùa Vọng tiêu biểu hơn, đó là thư Thánh Phaolô gởi tín hữu thành Galát chương 4, từ câu 4 đến câu 7, trong đó có đoạn:
Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con Ngài đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Abba, Cha ơi!” Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.
Nói một cách ngắn gọn, phân đoạn này là sự tổng hợp của toàn bộ mầu nhiệm Kitô Giáo. Nó bao gồm Thiên Chúa Ba Ngôi: Thiên Chúa Cha, Con của Người và Chúa Thánh Thần; mầu nhiệm nhập thể: “Thiên Chúa đã sai Con Ngài;” và tất cả những điều này, không phải là một kinh nghiệm trừu tượng, lạc hậu, mà là trong bối cảnh lịch sử cứu độ: “trong thời viên mãn”. Sự hiện diện của Đức Maria một cách kín đáo, nhưng không kém phần thiết yếu, là: “sinh ra bởi một người phụ nữ”. Và, cuối cùng, kết quả của tất cả những điều này là mọi người nam cũng như nữ được làm con cái của Thiên Chúa và là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Con cái của Chúa!
Trong bài suy niệm đầu tiên này, tôi muốn suy ngẫm về phần đầu của bản văn: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”. Tình phụ tử của Thiên Chúa là trọng tâm trong lời rao giảng của Chúa Giêsu. Ngay cả trong Kinh thánh tiếng Do Thái, Thiên Chúa được xem như một người cha. Điều mới lạ ở đây là giờ đây Thiên Chúa không được coi là “cha của dân tộc Israel” theo một nghĩa tập thể, có thể nói như vậy, mà là cha của mỗi con người theo một nghĩa cá nhân và cá vị, cha của cả người công chính lẫn người tội lỗi. Thiên Chúa quan tâm đến từng người như thể người đó là độc nhất vô nhị; Chúa biết nhu cầu, suy nghĩ và đếm số lượng sợi tóc trên đầu của mỗi người.
Sai lầm của Thần học Tự do, vào đầu thế kỷ 19 và 20 (đặc biệt là ở Adolf von Harnack, người đại diện nổi tiếng nhất của nó), là coi tình phụ tử của Thiên Chúa là yếu tính của Phúc âm, bỏ qua một bên thần tính của Chúa Kitô và Mầu nhiệm Vượt qua. Một sai lầm khác, bắt đầu từ lạc giáo Marcion vào thế kỷ thứ 2 và chưa từng bị xóa sổ hoàn toàn, là xem Thiên Chúa trong Kinh thánh tiếng Do Thái là Thiên Chúa công bình, thánh thiện, quyền năng và sấm sét, và Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa dịu dàng, là “hình bóng người cha” niềm nở và nhân từ.
Sự mới lạ do Chúa Kitô mang lại không bao gồm điều này. Thay vào đó, nó bao gồm thực tế là Thiên Chúa, Đấng vẫn như đã được mô tả trong Kinh Thánh tiếng Do Thái, cụ thể là, ba lần thánh, công bình và toàn năng, giờ đây đã được ban cho chúng ta làm cha của chúng ta! Đây là hình ảnh được Chúa Giêsu đặt ra trong lời mở đầu của Kinh Lạy Cha và diễn tả một cách ngắn gọn, tất cả những điều sau đây: “Cha chúng con, Đấng ngự trên trời”. Cha ngự trên trời, như thế Cha là Đấng Tối Cao, Đấng siêu việt, ở trên chúng ta như các tầng trời ở trên mặt đất, nhưng vẫn là “cha của chúng ta” - hay như nguyên tác đã viết: “Abba!” - hơi giống với cách nói bố của chúng ta, bố của con.
Đây cũng là hình ảnh của Thiên Chúa mà Giáo hội đặt ở đầu kinh Tin kính của mình. “Tôi tin kính một Thiên Chúa, là Cha toàn năng”: là cha, nhưng vẫn là đấng toàn năng: toàn năng, nhưng vẫn là cha, Đây rốt cuộc là điều mà mọi đứa trẻ cần - cha mẹ luôn cúi xuống với con, dịu dàng, có thể chơi với con, nhưng đồng thời là người mạnh mẽ và con có thể dựa vào để được bảo vệ, là người truyền cho con lòng dũng cảm và tự do.
Trong lời rao giảng của Chúa Giêsu, chúng ta có một cái nhìn thoáng qua về tính mới mẻ thực sự thay đổi mọi thứ. Thiên Chúa không chỉ là một người cha theo nghĩa ẩn dụ và đạo đức, theo nghĩa là Ngài đã tác tạo và chăm sóc cho dân tộc của mình. Thiên Chúa - trước hết - là một người cha thực sự của một người con thực sự được sinh ra “trước bình minh”, nghĩa là trước khi thời gian bắt đầu, và sẽ nhờ Người Con duy nhất này mà nhân loại cũng có thể trở thành con cái của Thiên Chúa theo nghĩa thực sự chứ không chỉ là một cách ẩn dụ. Sự mới lạ này tỏa sáng trong cách Chúa Giêsu tự xưng với Chúa Cha, gọi Người là Abba, và cũng qua lời Chúa Giêsu chúng ta biết rằng: “Không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Mt 11:27).
Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng trong lời rao giảng của Chúa Giêsu trần thế, tính mới mẻ triệt để mà Ngài mang lại vẫn chưa hiển nhiên. Phạm vi của danh hiệu “cha” kéo dài theo nghĩa đạo đức, nghĩa là, nó mô tả cách Thiên Chúa hành động đối với nhân loại và cảm giác mà nhân loại nên nuôi dưỡng về Chúa. Mối quan hệ vẫn thuộc loại hiện sinh, chưa mang tính bản thể học và bản chất. Để điều này xảy ra, Mầu nhiệm Vượt qua về cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là cần thiết.
Thánh Phaolô đã trình bày các suy tư liên quan đến giai đoạn đức tin sau Phục sinh này. Nhờ ơn cứu chuộc do Chúa Kitô mang lại và truyền cho chúng ta trong Bí tích Rửa tội, chúng ta không còn là con cái Thiên Chúa theo nghĩa luân lý đơn thuần, mà còn theo nghĩa thực tế, bản thể học. Chúng ta đã trở thành “những người con trong Chúa Con,” và Chúa Kitô đã trở thành “trưởng tử của nhiều anh chị em” (Rôma 8:29).
Để diễn tả tất cả điều này, Thánh Tông đồ sử dụng ý niệm về việc nhận con nuôi: “… để chúng ta có thể nhận làm nghĩa tử như con cái Ngài” “Thiên Chúa đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 1: 5). Nó chỉ là một phép tương tự, và như với bất kỳ phép tương tự nào, nó không thể diễn tả hết được mầu nhiệm này. Về bản chất, việc nhận làm con nuôi của con người chúng ta là một vấn đề luật pháp. Con nuôi có thể mang họ, quốc tịch và nơi cư trú của cha mẹ nuôi, nhưng chúng không có chung huyết thống hoặc DNA của bố mẹ. Việc thụ thai, mang nặng đẻ đau và sinh nở đều không liên quan. Đây không phải là trường hợp của chúng ta. Thiên Chúa không chỉ truyền cho chúng ta được gọi là con của Người, nhưng Người còn truyền cho chúng ta đời sống thân mật của Người, Thần Khí của Người, có thể nói được là truyền cho chúng ta DNA của Người. Nhờ Bí tích Rửa tội, chính sự sống của Thiên Chúa tuôn chảy trong chúng ta.
Về điểm này, Thánh Gioan táo bạo hơn Thánh Phaolô. Thánh Gioan không nói về việc nhận con nuôi, mà nói về sự sinh nở thực sự, Chúa đã sinh ra chúng ta. Những ai tin vào Đức Kitô “được Thiên Chúa sinh ra” (Ga 1,13); trong Phép Rửa, chúng ta được “sinh ra bởi Thánh Linh;” một người được “tái sinh từ trên cao” (xem Ga 3: 5-6).
Từ niềm tin đến sự ngạc nhiên
Cho đến nay, chúng ta đã chạm vào những chân lý đức tin của chúng ta. Tuy nhiên, tôi không muốn tập trung vào những điều này. Đây là những điều mà chúng ta đã biết và chúng ta có thể đọc trong bất kỳ sách hướng dẫn nào về thần học Kinh thánh, trong Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, và các sách về tâm linh. Vậy thì khía cạnh “khác biệt” mà chúng ta muốn tập trung vào trong bài suy niệm này là gì?
Điểm khởi đầu của tôi để khám phá là một câu được Đức Thánh Cha của chúng ta sử dụng trong bài giáo lý về Thư gửi tín hữu Galát tại buổi tiếp kiến chung vào ngày 8 tháng 9. Sau khi trích dẫn văn bản chúng ta vừa nghe về việc nhận chúng ta làm nghĩa tử, ngài nói thêm: “Những người Kitô hữu chúng ta thường xem thực tại được làm con cái Thiên Chúa là chuyện đương nhiên. Chúng ta cần phải sống ân sủng tuyệt vời mà chúng ta đã nhận được với một nhận thức sâu xa hơn, —và điều đó sẽ tốt cho chúng ta— nếu chúng ta luôn ghi nhớ khoảnh khắc của phép Rửa Tội khi chúng ta trở thành con cái Chúa”.
Tất cả chúng ta đều phải đối mặt với một mối nguy hiểm chết người, đó là việc coi thường những chân lý cao siêu nhất về đức tin của chúng ta, bao gồm chân lý chúng ta là con cái của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa của vũ trụ, Đấng Toàn Năng, Đấng Vĩnh Hằng, Đấng ban sự sống. Thánh Gioan Phaolô II, trong bức thư về Bí tích Thánh Thể, được viết không lâu trước khi ngài qua đời, đã nói về “sự kinh ngạc của Thánh Thể” mà các Kitô hữu phải tái khám phá. Điều tương tự cũng nên nói về việc chúng ta là con cái của Chúa: chúng ta phải chuyển từ niềm tin sang sự ngạc nhiên. Tôi sẽ đi xa hơn để nói từ niềm tin đến sự bất tín! Tôi nói về một kiểu không tin rất đặc biệt: đó là những người tin mà không thể nắm bắt được những gì mình tin bởi vì nó quá bao la và không thể tưởng tượng được.
Thật vậy, chúng ta ngại nói thành lời hậu quả của việc trở thành con cái của Thiên Chúa bởi vì điều đó chỉ đơn giản là làm lung lay tâm trí. Như vậy, khoảng cách bản thể học ngăn cách Thiên Chúa với con người ngắn hơn khoảng cách bản thể học ngăn cách chúng ta với phần còn lại của tạo vật, bởi vì nhờ ân sủng, chúng ta “được thông phần thiên tính” (2 Pt 1: 4).
Một ví dụ cụ thể có thể hữu ích cho chúng ta hơn là một loạt các lập luận để hiểu tại sao không nên xem việc được là con cái Thiên Chúa là chuyện đương nhiên. Sau khi cải đạo, Thánh Margaret thành Cortona đã trải qua một thời kỳ đau khổ khủng khiếp. Chúa dường như nổi giận với cô và đôi khi bắt cô phải nhớ lại từng tội lỗi mà cô đã phạm đến từng chi tiết nhỏ nhất, khiến cô muốn biến mất khỏi mặt đất này. Một ngày nọ, sau khi rước lễ, khá bất ngờ có một giọng nói bên trong cô ấy cất lên: “Con gái của Ta!” Cô đã chống lại việc xem xét lại tất cả lỗi lầm của mình, nhưng cô không thể cưỡng lại được sự dịu dàng của giọng nói này. Cô ấy rơi vào trạng thái ngây ngất và trong cơn ngây ngất ấy, những nhân chứng có mặt đã nghe thấy cô ấy điên cuồng lặp lại trong sự kinh ngạc:
Tôi là con gái của Người; chính Người đã nói như vậy. Ôi sự dịu dàng vô hạn của Chúa tôi! Đó là từ ngữ tôi đã khao khát! đã quyết liệt tìm kiếm! Lời Người có sự ngọt ngào vượt qua mọi sự ngọt ngào! Thật là một đại dương của niềm vui! Con gái Ta! Chúa tôi đã nói điều đó! Con gái Ta!
Trước Thánh Margaret từ lâu, Tông đồ Gioan đã đạt được nhận thức đáng kinh ngạc đó. Ngài viết: “Hãy chứng kiến tình yêu sâu đậm mà Thiên Chúa dành cho chúng ta đến mức chúng ta được gọi là con cái của Thiên Chúa. Và đó là những gì chúng ta thực sự là!” (1 Ga 3: 1). Câu này rõ ràng là có ý được đọc với một dấu chấm than.
Cởi trói cho phép Rửa của ta
Tại sao việc đi xa hơn niềm tin để đi đến sự ngạc nhiên, hay từ những niềm tin (fides quae) sang tin (fides qua), lại quan trọng đến vậy? Chỉ tin thôi chưa đủ à? Chưa, và vì một lý do rất đơn giản: bởi vì điều đó - và chỉ điều đó - mới thực sự thay đổi cuộc sống của anh chị em!
Hãy cùng nhìn lại con đường dẫn đến cấp độ đức tin mới này. Như chúng ta đã nghe, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta trở lại với Bí tích Rửa tội của mình. Để hiểu làm thế nào mà một bí tích đã lãnh nhận nhiều năm trước - thường là khi bắt đầu cuộc đời chúng ta - có thể đột ngột sống lại và giải phóng năng lượng tâm linh mới, chúng ta cần ghi nhớ một số khía cạnh của thần học về bí tích.
Thần học Công Giáo thừa nhận ý tưởng về một bí tích vừa thành sự vừa hợp luật, nhưng “bị trói buộc” hoặc “bị đóng băng”. Phép Rửa Tội thường là một bí tích “bị trói buộc”. Một bí tích được cho là “bị trói buộc” nếu tác dụng của nó vẫn còn bị hạn chế và cản trở do thiếu một số điều kiện để phát huy hiệu quả của nó. Một ví dụ cực đoan là Bí tích Hôn phối hoặc Truyền Chức Thánh được lãnh nhận trong tình trạng đang mắc tội trọng. Trong hoàn cảnh đó, các bí tích đó không thể mang lại bất kỳ ân sủng nào cho các cá nhân lãnh nhận. Tuy nhiên, một khi chướng ngại của tội lỗi được loại bỏ, qua một lời xưng tội tốt, người ta nói rằng bí tích hồi sinh (reviscit) mà không cần lặp lại nghi thức bí tích, nhờ vào sự trung tín và không thể đảo ngược của hồng ân Thiên Chúa.
Như tôi đã đề cập, Bí Tích Hôn Phối và Truyền Chức Thánh là những ví dụ điển hình, nhưng có thể có những trường hợp khác, trong đó một bí tích, mặc dù không hoàn toàn bị trói buộc, cũng không hoàn toàn được giải phóng, nghĩa là được tự do phát huy tác dụng của nó. Trong trường hợp của Bí tích Rửa tội, điều gì có thể khiến các tác động của bí tích bị trói buộc? Các bí tích không phải là những nghi thức ma thuật hoạt động một cách máy móc mà chúng ta không biết hoặc không có sự hợp tác của chúng ta. Hiệu quả của chúng là kết quả của sức mạnh tổng hợp hoặc sự cộng tác giữa quyền năng toàn năng của Thiên Chúa, cụ thể là ân sủng của Chúa Kitô, của Chúa Thánh Thần, và sự tự do của con người.
Một bí tích mà mọi sự tùy thuộc vào ân sủng hoặc thánh ý của Chúa Kitô thì được gọi là “opus operatum”, “công việc viên mãn”; nghĩa là công việc đã hoàn thành, những hiệu quả khách quan và tất yếu của bí tích ấy phát huy tác dụng nếu bí tích ấy được thực hiện một cách hợp lệ. Trái lại, một bí tích mà mọi thứ phụ thuộc vào quyền tự do và sự định đoạt của người nhận thì được gọi là “opus operantis”, “công việc chưa được hoàn thành”, nghĩa là còn những điều phải tiến hành, với sự đóng góp của con người.
Những gì chúng ta nhận được từ Thiên Chúa – trong điều được gọi là “hồng ân Phép Rửa” - là nhiều mặt và rất phong phú. Nó bao gồm việc chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa, được xóa bỏ tội lỗi, được Chúa Thánh Thần ngự trị, và được gieo mầm các nhân đức thần học như đức tin, đức cậy và đức mến vào tâm hồn chúng ta. Sự đóng góp của con người chủ yếu là niềm tin! “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ” (Mc 16,16). Khi ân sủng và tự do giao nhau trong một thể đồng bộ hoàn hảo, giống như hai cực, một cực dương và một cực âm, thì ánh sáng và sức mạnh được giải phóng.
Trong trường hợp Bí tích Rửa tội cho trẻ sơ sinh (và cả trong Bí tích Rửa tội dành cho người lớn khi thiếu niềm tin và thiếu sự tham gia sâu sắc), tính đồng bộ đó bị thiếu. Tôi không đề nghị chúng ta từ bỏ thực hành rửa tội cho trẻ sơ sinh. Giáo hội đã luôn luôn thực hành điều đó một cách đúng đắn và bảo vệ nó trên cơ sở rằng Bí tích Rửa tội là một hồng ân của Thiên Chúa ngay cả trước khi đó là kết quả của sự lựa chọn của con người. Thay vào đó, chúng ta cần thừa nhận những gì thực hành này có liên quan, trong hoàn cảnh lịch sử mới mà chúng ta đang sống.
Trong quá khứ, khi toàn bộ môi trường là Kitô Giáo và được thấm nhuần đức tin, đức tin này có thể nở rộ, mặc dù dần dần. Hành động đức tin tự do và cá vị được “Giáo hội cung cấp” và được thể hiện, như đã thường xảy ra là thông qua một bên thứ ba, cụ thể là cha mẹ và người đỡ đầu. Đây không còn là trường hợp của ngày hôm nay. Môi trường mà đứa trẻ lớn lên ngày nay ít thuận lợi hơn trong việc giúp đức tin nảy nở trong đứa trẻ. Môi trường gia đình cũng ít thuận lợi hơn xưa, hệ thống trường học còn ít thuận lợi hơn nữa, và tình hình còn thê thảm hơn trong toàn bộ xã hội và văn hóa của chúng ta.
Đây là lý do tại sao tôi đã nói về phép Rửa Tội như một bí tích “bị trói buộc”. Nó giống như một gói quà rất quý giá vẫn chưa được mở ra, giống như một món quà Giáng sinh, bị thất lạc ở đâu đó và bị lãng quên, ngay cả trước khi nó được mở ra. Bất cứ ai có nó đều có mọi thứ họ cần để thực hiện mọi hành vi cần thiết trong đời sống của một Kitô Hữu, và cũng trải nghiệm một số tác động của nó ít nhất là một phần, nhưng không tận hưởng được sự trọn vẹn của thực tại này. Theo ngôn ngữ của Thánh Augustinô, họ cảm nghiệm được bí tích (sacramentum), nhưng không cảm nghiệm được thực tại của bí tích (res sacramenti), hay chỉ cảm nghiệm được một phần.
Thực tế là chúng ta đang ở đây suy ngẫm về điều này có nghĩa là chúng ta đã tin, rằng đức tin đã được kết hợp với bí tích trong chúng ta. Vậy thì chúng ta vẫn còn thiếu điều gì? Chúng ta thiếu niềm tin như một sự kinh ngạc, thiếu một sự trầm trồ tròn xoe đôi mắt! thiếu sự ngạc nhiên và phấn khích mà anh chị em có được khi mở một món quà, mà đối với người tặng quà đó là quà tặng tuyệt vời nhất. Các Giáo phụ Hy Lạp gọi Bí tích Rửa tội là “sự khai sáng” (phoismos). Loại giác ngộ đó đã bao giờ xuất hiện trong chúng ta chưa?
Chúng ta tự hỏi: liệu có khả thi, và thậm chí có đúng không, khi chúng ta khao khát đạt đến một mức độ khác của đức tin, trong đó chúng ta không chỉ tin một chân lý mà còn trải nghiệm và nếm trải chân lý mà chúng ta tin? Linh đạo Kitô giáo thường đi kèm với một sự miễn cưỡng và thậm chí, như trong trường hợp của các nhà Cải cách Tin Lành, còn đi kèm với sự phủ nhận chiều kích kinh nghiệm và thần bí của đời sống Kitô như thể nó thấp kém hơn và đi ngược lại với đức tin thuần túy cách này cách khác. Nhưng bất chấp những lạm dụng cũng đã xảy ra, truyền thống Kitô giáo chưa bao giờ hạ thấp truyền thống khôn ngoan cho rằng đỉnh cao của đức tin là ở chỗ “thưởng thức” chân lý của những gì chúng ta tin và “nếm” chân lý, bao gồm cả vị đắng của chân lý thập tự giá.
Theo ngôn ngữ Kinh thánh, biết không có nghĩa là có ý tưởng về một thứ gì đó vẫn tách biệt và xa rời tôi. Nó có nghĩa là bước vào một mối quan hệ và trải nghiệm nó. Thánh sử Gioan đã thốt lên: “Chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó” (1 Ga 4:16), và một lần nữa: “Chúng ta đã tin và biết rằng Người là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6: 69). Tại sao lại nói “đã biết và đã tin?” “Đã biết” thêm gì vào “đã tin”? Thưa: Nó thêm một xác tín nội tâm xảy ra khi sự thật đối đầu với tinh thần và người ta buộc phải thốt lên từ thẳm sâu trong lòng: “Đúng, đó là sự thật, không còn nghi ngờ gì nữa, chính là thế!” Sự thật được tin tưởng trở thành sự thật được sống. Thánh Thomas Aquinas đã nói như thế này: “Fides non terminatur ad enuntiabile sed ad rem”, nghĩa là “Đức tin không kết thúc bằng lời nói, nhưng bằng thực tế.” Chúng ta không ngừng tái khám phá những hệ quả thực tiễn của nguyên tắc này.
Vai trò của Lời Chúa
Làm thế nào chúng ta có thể thực hiện bước nhảy vọt về chất này từ đức tin đến sự ngạc nhiên khi biết mình là con cái Thiên Chúa? Câu trả lời đầu tiên là Lời Chúa! Có một phương tiện thiết yếu không kém, đó là Chúa Thánh Thần, nhưng chúng ta sẽ để lại điều đó cho lần suy niệm tiếp theo. Thánh Grêgôriô Cả đã so sánh Lời Chúa với đá lửa, tức là, với viên đá từng được dùng để tạo ra tia lửa đốt cháy. Thánh nhân nói rằng cần phải làm với Lời Chúa những gì được thực hiện với đá lửa: nghĩa là đánh nó liên tục cho đến khi nó tạo ra tia lửa. Suy ngẫm về nó, lặp lại nó, thậm chí lớn tiếng.
Trong giờ cầu nguyện hoặc giờ thờ phượng của anh chị em, với cả tấm lòng và không chán nản, hãy lặp lại trong chính anh chị em: “Con của Thiên Chúa! Tôi là con của Thiên Chúa; Tôi là con cái của Chúa. Chúa là cha tôi!” Hoặc chỉ cần lặp đi lặp lại một lúc: “Lạy Cha chúng con ngự trên trời” mà không tiếp tục phần còn lại của Kinh Lạy Cha. Khi làm như vậy, điều cần thiết hơn bao giờ hết là phải nhớ lời của Chúa Giêsu: “Hãy gõ thì cửa sẽ mở cho anh em” (Mt 7: 7). Không sớm thì muộn, và có lẽ khi anh chị em ít ngờ tới nhất, điều đó sẽ xảy ra - thực tại của những lời nói đó, dù chỉ trong chốc lát, sẽ bùng nổ trong anh chị em và sẽ là đủ cho phần còn lại của cuộc đời anh chị em. Và ngay cả khi không có gì giật gân xảy ra, hãy yên tâm rằng anh chị em đã đạt được những gì cần thiết. Phần còn lại sẽ được trao cho anh chị em ở trên trời: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3: 2)
Chúng ta tất cả là anh chị em!
Một trong những tác động tức thì của tất cả những điều này là anh chị em sẽ nhận thức được phẩm giá của mình. Vào đêm Giáng sinh, Thánh Lêô Đại Đế sẽ khuyên nhủ chúng ta: “Hỡi người Kitô hữu, hãy nhận biết phẩm giá của mình. Một khi anh chị em đã chia sẻ trong thần tính Thiên Chúa, anh chị em có thực sự còn muốn quay trở lại những điều tồi tệ trong quá khứ của mình không?” Còn phẩm giá nào có thể cao hơn là được làm con của Thiên Chúa? Có một câu chuyện kể về một cô công chúa xấu tính, kiêu ngạo con của nhà vua nước Pháp, là người đã liên tục mắng mỏ một trong những người hầu gái của mình. Một ngày nọ, cô ấy hét vào mặt người tớ gái, “Mày không biết rằng tao là con gái vua của mày à?” Người hầu gái trả lời: “Thế cô không biết rằng tôi là con gái Chúa của cô à?”
Một sản phẩm phụ khác thậm chí còn quan trọng hơn là anh chị em trở nên ý thức hơn về phẩm giá của những người khác, những người cũng là con trai và con gái của Thiên Chúa. Đối với Kitô Hữu chúng ta, tình liên đới giữa con người với tư cách là anh chị em, tối hậu bắt nguồn từ sự thật rằng Thiên Chúa là cha của tất cả chúng ta, và vì tất cả chúng ta đều là con trai và con gái của Thiên Chúa, nên tất cả chúng ta đều là anh chị em của nhau. Không có mối ràng buộc nào bền chặt hơn điều này, và đối với các tín hữu Kitô chúng ta, không có lý do khác cấp thiết hơn để thúc đẩy tình huynh đệ phổ quát. Thánh Cyprianô viết: “Anh chị em không thể xưng Thiên Chúa là cha của mình mà không coi Giáo hội như mẹ của mình.” Chúng ta nên nói thêm: “Anh chị em không thể xưng Thiên Chúa là cha mình mà không coi người hàng xóm là anh chị em với mình.”
Có một điều chúng ta nên ngưng ngay đừng làm nữa. Chúng ta đừng nói với Thiên Chúa, là Cha chúng ta, dù chỉ là những lời xa xôi bóng gió rằng: “Hãy chọn giữa con và kẻ thù của con; hãy quyết định xem Chúa đứng về phía nào!” Không một bậc cha mẹ nào đáng bị đặt vào tình thế không thể nhìn nhận một trong những con cái của mình chỉ đơn giản là vì bọn trẻ không thể hòa hợp với nhau. Vì thế, chúng ta đừng cầu xin Chúa đứng về phía chúng ta chống lại người khác.
Khi chúng ta xung đột với người khác - anh chị em của chúng ta - ngay cả trước khi chúng ta gặp họ để thảo luận về quan điểm của chúng ta, là điều không chỉ là đúng đắn mà đôi khi còn là cần thiết nữa, chúng ta hãy nói với Chúa: “Cha ơi, xin hãy cứu con, cứu cả anh trai hoặc em gái của con; cứu cả hai chúng con. Con không giành phần phải về mình, và anh ấy hoặc cô ấy không nhất thiết phải là sai. Con muốn người đó đứng về sự thật, hoặc ít nhất là có thiện ý”. Lòng thương xót của người này đối với người kia là điều không thể thiếu để sống đời sống Thánh Linh và đời sống cộng đồng dưới mọi hình thức của nó. Nó không thể thiếu đối với gia đình và mọi cộng đồng con người và tôn giáo, kể cả Giáo triều Rôma. Như thánh Augustinô đã nói, tất cả chúng ta đều là những hũ đất sét dễ vỡ: Chúng ta rất dễ làm tổn thương chính mình.
Trước đó, chúng ta đã nhắc nhớ đến sự phấn khích của Thánh Margaret thành Cortona khi cô ấy cảm thấy Chúa đang gọi cô ấy là “con gái của Ta”. “Tôi là con gái của Người; Người đã nói như vậy… Thật là một đại dương của niềm vui! Con gái Ta! Chúa tôi đã nói điều đó! Con gái Ta!” Chúng ta có thể trải nghiệm điều gì đó rất giống nếu chúng ta lắng nghe chính giọng nói đó của Thiên Chúa, không vang vọng trong tâm trí của chúng ta, điều này có thể bị đánh lừa!, nhưng xuất hiện tỏ tường như được viết trên trang Kinh thánh mà chúng ta đang xem xét: “Anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa!” (Gal 4:7)
Nếu Chúa muốn, như chúng ta sẽ thấy lần sau Thánh Linh sẵn sàng giúp chúng ta trong công việc này.
1. Gioan Phaolô II, Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia - Giáo Hội từ Thánh Thể, 6.
2. Giunta Bevegnati, Vita e miracoli della Beata Margherita da Cortona, II, 6 (Italian version, Vicenza 1978, p. 19f).
3. Xem A. Michel, Reviviscence des sacrements, in DTC, XIII,2, Paris 1937, coll. 2618-2628.
4. Summa theologiæ, II-II, 1, 2, ad 2.
5. Thánh Grêgôriô Cả, Các bài giảng về tiên tri Ezechiel, I,2,1.
6. Thánh Lêo Cả, Diễn từ về Giáng Sinh, 3.
7. Cyprianô, De unitate Ecclesiæ, 6.
8. Thánh Augustinô, Các diễn từ, 69 (PL 38, 440) (lutea vasa sibi invicem angustias facientes).
Source:Cantalamessa