Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Phanxicô gặp lực lượng mũ xanh Argentina đang làm nhiệm vụ ở Sýp
Ngày thứ bảy 4 tháng 12, Đức Phanxicô gặp Lực lượng mũ xanh Argentina gìn giữ hòa bình tại Tòa đại sứ thần Nicosia, đảo Sýp © Bộ Quốc phòng Argentina / @JorgeTaiana
Một sứ mệnh gìn giữ hòa bình và nhân đạo
fr.zenit.org, Anita Bourdin, 2021-12-05
Đức Phanxicô gặp các quân nhân “mũ xanh” thuộc lực lượng duy trì hòa bình trên đảo Sýp (Unficyp), đất nước bị chia cắt kể từ khi phần biên giới phía Bắc đảo bị Thổ Nhĩ Kỳ sáp nhập từ năm 1974: một biên giới chưa bao giờ được Liên Hiệp Quốc chính thức công nhận. Nhưng những người gìn giữ hòa bình này là đồng hương của Đức Phanxicô: những quân nhân Argentina trẻ và họ đã gặp ngài ở Tòa Sứ thần Nicosia ngày thứ bảy 4 tháng 12.
Lực lượng gìn giữ hòa bình – lục quân, không quân và hải quân – được cha tuyên úy Mario Cáceres của họ hướng dẫn đến gặp Đức Phanxicô.
Những “chiếc mũ xanh” này có mặt trong thánh lễ tại sân vận động PSG Nicosia ngày thứ sáu 3 tháng 12 và một phái đoàn Mũ xanh đã đến chào Đức Phanxicô ở Tòa sứ thần Sýp sáng thứ bảy, trước khi ngài ra phi trường đi Hy Lạp.
Đức Phanxicô nói với họ: “Tôi muốn nói lên lòng biết ơn cho tất cả sự chào đón và tình cảm mà mọi người dành cho tôi, tôi thật ấm lòng khi biết cộng đoàn tín hữu sống trong hy vọng và cởi mở hướng về tương lai, họ chia sẻ tầm nhìn cao lớn này với những người thiếu thốn nhất.” Đức Phanxicô cám ơn quân đội Argentina về sứ mệnh của họ: “Đảo Sýp sẽ như thế nào nếu không có sứ mệnh này?”
Phái bộ gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc mà các lực lượng này là thành viên hoạt động theo “giới tuyến xanh” chia Cộng hòa Sýp ở phía nam (thành viên của Liên minh châu Âu) và Cộng hòa Sýp thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ở phía Bắc.
Trên trang Twitter, Bộ trưởng Quốc phòng Argentina Jorge Taiana giải thích: “@CascosazulesARG thực hiện các sứ mệnh gìn giữ hòa bình ở Sýp đã có cuộc gặp nồng ấm với Giáo hoàng Phanxicô, họ cho ngài biết về cam kết của nước Argentina và của tổ chức @MindefArg trong việc hợp tác duy trì hòa bình và viện trợ nhân đạo cho người tị nạn”.
Tổng cộng đội ngũ của họ có 268 nam và nữ quân nhân tạo thành Nhóm FTA có mặt tại Sýp từ năm 1993. Họ có hai căn cứ trên đảo: San Martín và Campo Roca, và một đơn vị trực thăng.
Họ thực hiện sứ mệnh gìn giữ hòa bình và nhân đạo dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng
Một ngày trước đó, Đức Phanxicô lên tiếng xin phá bỏ “những bức tường của sự sợ hãi” và phá bỏ hàng rào thép gai đánh dấu sự phân chia của Đảo hoặc các phân chia khác ở châu Âu, trong một cuộc họp đại kết với những người di cư, ngài nói: “Đó là lịch sử của nền văn minh phát triển mà chúng ta gọi là phương Tây. Và sau đó – xin lỗi, nhưng tôi muốn nói những gì đến trong tâm trí tôi, ít nhất là để chúng ta có thể cầu nguyện cho nhau và làm điều gì đó – và sau đó là hàng rào thép gai. Chúng ta có thể thấy nó ở đây: đó là cuộc chiến căm thù chia cắt một đất nước. Nhưng dây thép gai, và ở những nơi khác, được giăng ra để không cho người tị nạn vào, những người đến xin tự do, bánh mì, xin giúp đỡ, xin tình huynh đệ, niềm vui, những người chạy trốn hận thù, thấy mình đứng trước một mối hận thù được gọi là dây thép gai. Xin Chúa đánh thức lương tâm của mỗi người chúng ta trước tất cả những điều này.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Tại A-ten, Đức Phanxicô đưa ra hai cây sào để hỗ trợ người chính thống giáo
cath.ch, I. Media, 2021-12-05
Tại Hy Lạp, Đức Phanxicô đưa ra hai cây sào để hòa giải với người chính thống giáo. Tổng Giám mục Jeronymus II tại A-ten ngày thứ bảy 4 tháng 12 năm 2021 | © Keystone
Trong lần Đức Phanxicô gặp Tổng giám mục Jeronymos II ngày thứ bảy 4 tháng 12 , ngài nói lên sự “xấu hổ” của Giáo hội công giáo và xin anh em chính thống của mình tha lỗi. Luật sư Carol Saba, luật sư tại Paris và là Trưởng ban Truyền thông của Hội đồng Giám mục Chính thống Pháp giải thích.
Lời xin tha thứ của Đức Phanxicô với Tổng Giám mục Athens Jeronymos II có mang tính lịch sử không?
Luật sư Carol Saba: Lời xin tha thứ này nằm trong quá trình lịch sử hòa giải giữa thế giới chính thống giáo và công giáo. Tôi nhận ra nơi Đức Phanxicô, ngài là người con thiêng liêng của Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII, “giáo hoàng nhân hậu”, người biết rất rõ về chính thống giáo, ngài là sứ thần Tòa Thánh ở Bulgaria. Ngài cũng biết Thượng phụ đại kết Athenagoras ở Constantinople. Sự thúc đẩy của Đức Gioan XXIII đã mở con đường dẫn đến cuộc gặp gỡ lịch sử giữa người kế vị ngài, Đức Phaolô VI với Đức Athenagoras tại Giêrusalem năm 1964.
Chúng ta vẫn đang ở trong dòng lịch sử này. Và chúng ta cũng có thể hiểu bối cảnh này theo trình tự lời xin tha thứ của Đức Gioan-Phaolô II năm 2001. Ngài đã long trọng ngỏ lời với Đức Christodule I trong chuyến đi lịch sử đến A-ten.
Luật sư thấy gì đặc biệt trong bài phát biểu của Đức Phanxicô?
Tôi thấy Đức Phanxicô dùng thuật ngữ “xấu hổ” rất hay. Đó là một từ rất mạnh nhắc lại rằng, những quyết định – hay những thiếu sót – của người công giáo trong quá khứ có thể đã đụng chạm và làm tổn thương sự hiệp thông giữa các Giáo hội.
Thêm nữa, tôi thấy Đức Phanxicô kết thúc bài phát biểu bằng cách nói về tính đồng nghị, ngài giải thích Giáo hội công giáo đang bắt đầu tiến trình đồng nghị và chính thống giáo có rất nhiều điều để dạy. Điều này muốn nói đến người chính thống giáo. Tóm lại, hôm nay ngài đã đưa ra hai cây sào lớn cho chính thống giáo.
Tổng Giám mục A-ten, trong bài phát biểu trước bài diễn văn của giáo hoàng, dường như yêu cầu Giáo hội công giáo xin lỗi về thái độ của họ trong cuộc chiến giành độc lập vào đầu thế kỷ 19 của Hy Lạp… Chuyện gì đã xảy ra? Đức Phanxicô có trả lời cho ngài không?
Hy Lạp và văn hóa Hy Lạp là nền tảng của văn hóa châu Âu. Nhưng nghịch lý thay, người Hy Lạp luôn có một e ngại nào đó với phương Tây, như thử có một oán giận nào đó. Đây không phải là câu chuyện mới xảy ra.
Vào năm 1453, khi Constantinople sụp đổ, người Hy Lạp chờ một sự giúp đỡ nào đó của phương Tây và của anh em kitô giáo để chống lại mối đe dọa của Đế chế Thổ. Đầu thế kỷ 19, khi phong trào kháng chiến và giải phóng dân tộc ở Hy Lạp bắt đầu nổi lên, họ cũng mong muốn nhận sự giúp đỡ của phương Tây để có thể kháng cự và ly khai khỏi Đế chế Thổ. Trong phong trào giải phóng này, Giáo hội công giáo không tham dự. Đó là điều mà Tổng giám mục A-ten muốn ám chỉ.
Đây không phải là một cái gì đó trung lập để có thể đề cập đến một cách rõ ràng. Chúng ta biết thế giới chính thống giáo đang bị căng thẳng, đang đi qua các trào lưu. Có nhiều chỉ trích về chuyến đi này của Đức Phanxicô trong nội bộ Giáo hội Hy Lạp.
Ngoài ra, chúng ta thấy trong bài phát biểu của tổng giám mục Jeronymos II, ngay từ đầu ngài đã nói rõ, chuyến đi của giáo hoàng là chuyến đi cấp Quốc Gia. Nước Cộng hòa Hy Lạp mời giáo hoàng chứ không phải Giáo hội chính thống mời. Bắt đầu bài phát biểu như thế này không phải là không quan trọng. Nó có thể đưa ra một số chứng cứ nào đó.
Hai nhà lãnh đạo tôn giáo đã nói về người di cư, nhưng quan điểm của họ dường như khác nhau. Tổng giám mục A-ten có hoài nghi về bài phát biểu của Đức Phanxicô về vấn đề di cư không?
Nhìn từ A-ten, tình huống không giống như nhìn từ Rôma. Tổng giám mục A-ten tập trung bài phát biểu của mình vào khía cạnh chính trị của vấn đề di cư. Dĩ nhiên sự đón nhận, tình huynh đệ và lòng bác ái là những điểm được cả hai Giáo hội tiếp nhận và chia sẻ. Điều này không có gì phải bàn cãi. Nhưng lời của Đức Jeronymos II nằm ở cấp độ chính trị. Ngài muốn nói về những rủi ro của việc công cụ hóa dòng người di cư, đặc biệt ngài nêu lên thái độ của người Thổ Nhĩ Kỳ.
Tôi nghĩ ngài muốn nói sự thật. Vấn đề di cư không chỉ là vấn đề nhân đạo mà nó còn là vấn đề chính trị. Chính thống giáo Hy Lạp đã nhận thức được chiều kích này, vì họ sống thực tế hàng ngày với dòng người di cư. Vì thế chúng ta thấy nó hiện diện nhiều hơn trong bài phát biểu của ngài hơn là bài của Đức Phanxicô.
Có nên xem đây là lời chỉ trích ẩn giấu bài phát biểu của Đức Phanxicô không?
Tôi nghĩ vậy. Vì một bên là có lý tưởng, bên kia là phải trách nhiệm và đối diện với thực tế của dòng người di cư. Đức Tổng Giám mục nhắc lại, phải tính đến tất cả các thách thức của vấn đề di cư – chẳng hạn trên lãnh vực địa chính trị và địa chiến lược. Câu hỏi về “bom người” và ván bài của Thổ Nhĩ Kỳ trước Liên minh châu Âu về người di cư đáng được phân tích.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Tấn phong Giám mục Hong Kong
Kết thúc lễ tấn phong, tân Giám mục đã có những lời chia sẻ với các tín hữu, bày tỏ ước mong trở thành cầu nối giữa chính quyền và Giáo hội Hong Kong, giữa các tín hữu Công giáo, các Kitô hữu thuộc các hệ phái Kitô khác và các tôn giáo khác. Ngài khẳng định: “Lịch sử Giáo hội ở Trung Quốc và Hong Kong nói với chúng ta rằng Công giáo không phải là sự hiện diện của nước ngoài, nhưng là một phần của xã hội. Đại dịch đã dạy chúng ta phải biết giúp đỡ người khác, bất kể địa vị tôn giáo và chính trị, đây là con đường”.
Tân Giám mục nói thêm: “Chính nhờ sự gắn kết chân thành, mà sự hiểu biết sâu sắc có thể được thiết lập, sự đáng giá cao có thể được thúc đẩy, tôn trọng và tin tưởng có thể được đào sâu, và hy vọng cộng tác có thể trở thành một văn hoá sống trong cộng đoàn chúng ta”. Ngài kết luận bài phát biểu, trích dẫn lời của Đức Hồng y Luis Antonio Tagle, Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc: “Thiên Chúa làm những điều vĩ đại, chúng ta chỉ phải phân định và đi theo đường lối Người. Tôi phó thác vào lời cầu nguyện của anh chị em”.
Thánh lễ tấn phong có sự tham dự của đại diện các dòng tu đang dấn thân trong các hoạt động mục vụ và sứ vụ, các thực thể của Giáo hội địa phương, các đại diện của các tôn giáo khác, chính quyền dân sự do Đặc khu Trưởng, bà Lâm Trịnh Nguyệt Nga dẫn đầu.
Ngày 17/05/2021, Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm cha Stêphanô Chu Thủ Nhân, Dòng Tên, làm Giám mục Hong Kong. Với việc tấn phong này, từ nay Giáo phận Hong Kong chấm dứt nhiều tháng trống tòa; kể từ khi Đức cha Micae Dương Minh Chương qua đời vào 01/2019, Giáo phận đã được giao cho vị Giám quản Tông Tòa là Đức Hồng y Gioan Thang Hán, nguyên Giám mục Hong Kong.
Giáo hội Hong Kong có khoảng 550 ngàn người Công giáo trên tổng dân số 7,5 triệu dân. Giáo hội được thành lập vào năm 1841 với tư cách là Phủ doãn Tông tòa, sau đó được nâng lên thành Giáo phận vào năm 1946, gồm 51 giáo xứ và nhiều cơ sở bác ái.
Ngọc Yến - Vatican News
Vatican và đại học Al-Azhar đồng ý chống chủ nghĩa cực đoan, thù hận
Sự đồng thuận của Vatican và Đại học Hồi giáo Al-Azhar đã được khẳng định trong cuộc gặp gỡ giữa Đức Hồng y Miguel Angel Ayuso Guixot, Chủ tịch Hội đồng Toà Thánh về Đối thoại Liên tôn, và Đại Imam Sheikh Ahmed El-Tayyeb của Al-Azhar tại Ai Cập vào ngày 4/12/2021, với sự tham dự của Đức Tổng Giám mục Nicholas Henry, Sứ thần Toà Thánh tại Ai Cập.
Mô hình của mối quan hệ giữa Al-Azhar và Vatican
Đại Imam El-Tayyeb cho biết: “Mối quan hệ giữa Al-Azhar và Vatican vẫn là một mô hình hiệu quả và thực tế để truyền bá lòng khoan dung và hòa bình, đồng thời đối đầu với chủ nghĩa cực đoan, hận thù, chiến tranh và xung đột”. Ông nói thêm rằng thế giới đang rất cần các giá trị của tình huynh đệ, sự chung sống hòa bình và sự tôn trọng để đạt được sự ổn định.
Hồi tháng 10, Đại Imam của Al-Azhar đã gặp Đức Thánh Cha bên lề cuộc họp về biến đổi khí hậu mang tên “Đức tin và Khoa học: Hướng tới Hội nghị thượng đỉnh COP26”. Họ chỉ ra rằng có nhiều thách đố đòi hỏi sức mạnh và quyết tâm chịu đựng gian khổ và khó khăn, và nói thêm rằng quay trở lại với giáo lý của các tôn giáo là cách để cứu thế giới khỏi chủ nghĩa cực đoan và chia rẽ.
Đương đầu với các hiện tượng tiêu cực, đặc biệt là về khía cạnh đạo đức
Theo tuyên bố của đại học Al-Azhar hôm thứ Bảy 4/12/2021, Đại Imam Al-Tayeb nói rằng “các nhà lãnh đạo và học giả có nhiệm vụ tôn giáo và xã hội đương đầu với các hiện tượng tiêu cực, đặc biệt là về khía cạnh đạo đức”.
Đại học Al-Azhar và Vatican sẽ thực hiện các bước và biện pháp cần thiết để thực hiện các điều khoản được đề cập trong Tài liệu về Tình Huynh đệ Nhân loại. Tài liệu này đã được Đức Thánh Cha và Đại Imam Ahmad Al-Tayyeb của Al-Azhar ký ngày 4/2/2019 trong chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. (Asharq Al-awsat 05/12/2021)
Hồng Thủy - Vatican News
Toà Thánh tổ chức hội nghị về công nghệ mới trong thế giới hậu đại dịch
Theo thông cáo của Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện, sự kiện diễn ra theo hình thức tham gia trực tiếp và trực tuyến, sẽ quy tụ các chuyên gia đóng góp vào cuộc đối thoại toàn cầu về công nghệ mới trong một xã hội hậu Covid, nhằm hướng tới một hệ thống kinh tế cộng đồng, tốt đẹp hơn.
Hội nghị muốn nhấn mạnh đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng đến mọi hoạt động của con người, và thúc đẩy suy tư toàn cầu về các cơ cấu và hiện tượng chi phối thế giới. Trong những điều này, đáng chú ý là sự phát triển cách nhanh chóng các loại công nghệ, thế hệ trí tuệ nhân tạo mới, người máy. Nhưng những phát triển này lại không được suy tư đạo đức đồng hành, dẫn đến nguy cơ gia tăng bất bình đẳng và bỏ lại phía sau nhiều người. Vì vậy cần một tầm nhìn đạo đức sâu rộng để có thể thiết lập những công nghệ này theo hướng giảm tác hại và phục vụ sự phát triển con người toàn diện.
Theo tinh thần thông điệp Laudato si’, Hội nghị sẽ hướng tới mục tiêu đóng góp vào cuộc đối thoại toàn cầu về vai trò của công nghệ mới trong thời hậu đại dịch với quan điểm hướng tới sinh thái toàn diện, công lý và cách tiếp cận toàn diện “Một sức khỏe cho tất cả” và “một hệ thống kinh tế cộng đồng hơn”.
Các chuyên gia sẽ đưa ra các phân tích khoa học và đạo đức, cùng với các nghiên cứu điển hình, cho thấy cách công nghệ mới có thể được áp dụng để phục vụ sự phát triển toàn diện của con người, đặc biệt trong các lĩnh vực an ninh lương thực, chăm sóc sức khỏe - bao gồm cả việc thúc đẩy tiếp cận công bằng và bình đẳng đối với vắc-xin Covid-19, lao động, hòa bình và an ninh, và thúc đẩy một nền kinh tế xã hội. Các vấn đề quan trọng cũng sẽ được đặt ra liên quan đến việc sử dụng các công nghệ và tác động của chúng dưới ánh sáng của thông điệp Laudato si' và Fratelli tutti.
Ngọc Yến - Vatican News
Chính thống Nga: Chưa xác định ngày và nơi gặp gỡ giữa Đức Thượng phụ Kirill và Đức Giáo hoàng
Tòa Thượng phụ Chính thống Nga cho biết chưa xác định ngày và nơi gặp gỡ giữa Đức Giáo hoàng và Đức Thượng phụ Giáo chủ Kirill của Nga.
Tuyên bố trên máy bay, trên đường từ Hy Lạp về Roma, sáng ngày 06 tháng Mười Hai vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô tiết lộ rằng đang có dự án cuộc gặp gỡ lần thứ hai giữa ngài và Đức Thượng phụ Kirill, Giáo chủ Chính thống Nga. Ngài nói: “Một cuộc gặp gỡ với Đức Thượng phụ Kirill đang ở chân trời không quá xa. Tôi nghĩ rằng tuần tới đây, Đức Tổng giám mục Hilarion sẽ đến gặp tôi để thỏa thuận về một cuộc gặp gỡ có thể xảy ra. Có lẽ Đức Thượng phụ sẽ đi Phần Lan, và tôi thì sẵn sàng đến Mascơva để đối thoại với một người anh em”.
Bình luận về tin trên đây, Đức Tổng giám mục Hilarion, Chủ tịch Hội đồng ngoại vụ Tòa Thượng phụ Chính thống Nga, ra thông cáo nói rằng:
“Ngày 20 tháng Mười Hai tới đây, cuộc gặp gỡ của tôi với Đức Giáo hoàng Phanxicô của Roma đã được lên chương trình. Tôi muốn nhân danh Đức Thượng phụ Kirill chúc mừng ngài nhân dịp sinh nhật thứ 85 và thảo luận về một loạt các vấn đề quan hệ song phương giữa hai Giáo hội. Trong số các vấn đề đó, có cuộc gặp gỡ có thể giữa Đức Giáo hoàng Phanxicô với Đức Thượng phụ Kirill. Nơi và ngày của cuộc gặp gỡ này chưa được xác định”.
Về cuộc viếng thăm của Đức Thượng phụ Kirill tại Phần Lan, tôi có thể nói như sau: cách đây nhiều năm, Đức Thượng phụ đã nhận được lời mời của Thủ lãnh Giáo hội Tin lành Luther Phần Lan, Đức Tổng giám mục Chính thống và Đức giám mục Công giáo của giáo phận Helsinki. Tuy nhiên từ đó có nhiều điều xảy ra, tình hình nội bộ Chính thống đã thay đổi, và đại dịch bắt đầu. Nay cuộc chuẩn bị cho chuyến viếng thăm ấy đã bị ngưng lại.”
“Về cuộc viếng thăm của Đức Giáo hoàng tại Mascơva, tôi có thể nói rằng vấn đề này không được bàn tới ở cấp độ song phương.”
“Tôi hy vọng cuộc gặp gỡ vào Chúa nhật, ngày 19 tháng Mười Hai tới đây, sẽ là cơ hội để thảo luận về mọi vấn đề có liên hệ tới hai bên”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Công bố các qui luật tu chính về những tội nặng
Hôm ngày 07 tháng Mười Hai năm 2021, các qui luật tu chính về các tội nặng nghịch đức tin và luân lý dành quyền xét xử cho Bộ giáo lý đức tin, đã được Bộ này công bố.
Qui luật gồm 29 điều khoản, sửa đổi các qui luật do thánh Gioan Phaolô II ban hành cách đây 20 năm (30/4/2001), rồi được Đức Biển Đức XVI thay đổi ngày 21 tháng Năm năm 2010, gần đây được Đức Thánh cha Phanxicô thay đổi ngày 11 tháng Mười vừa qua.
Việc thay đổi này nhắm hòa hợp các qui luật với cuốn VI của Bộ giáo luật được tu chính và công bố với tự sắc “Pascite gregem Dei”, Hãy chăn dắt đoàn chiên Chúa, được Đức Thánh cha công bố ngày 23 tháng Năm năm nay và có hiệu lực từ ngày 08 tháng Mười Hai này (2021).
Tiếp đến, bộ qui luật tu chính này tiếp nhận nhiều thay đổi trong các luật lệ được ban hành từ năm 2016 đến nay, nhắm bảo vệ hữu hiệu hơn các thiện ích lớn của Giáo hội là đức tin, sự thánh thiêng của các bí tích, và đời sống của những người yếu thế nhất, như các trẻ vị thành niên thiếu sử dụng hoàn toàn lý trí.
Sau cùng, Bộ Giáo lý đức tin muốn cải tiến các thủ tục xét xử của Giáo hội về các tội ác dành quyền cho Bộ này, trong đó có các tội nặng chống lại luân lý và việc cử hành bí tích, dựa trên kinh nghiệm 20 năm qua.
Trong số những thay đổi quan trọng nhất trong các qui luật mới, có sự phân biệt rõ ràng hơn giữa vụ xét xử trong tòa án và xét xử bằng sắc lệnh ngoài tòa án. Ngoài ra, có dự trù việc đệ trình vụ án trực tiếp lên Đức Thánh cha để ngài quyết định sa thải khỏi hàng giáo sĩ và chuẩn chước luật độc thân, các lời khấn dòng. Tiếp đến, thời hạn khiếu nại hay kháng án được gia hạn từ một tháng lên sáu mươi ngày. Sau cùng, luật qui định về sự cần thiết của người “bảo trợ” giúp bị cáo trong giai đoạn bị xét xử.
Các tội nặng dành quyền xét xử cho Bộ Giáo lý đức tin:
Trong khoản từ số 2 đến số 6, qui luật liệt kê các tội nặng thuộc quyền xét xử của Bộ là tội rối đạo, bỏ đạo, ly giáo, tội xúc phạm nặng nề đến Thánh Thể, mang và giữ Mình Thánh Chúa với mục đích phạm thánh, đồng tế với các thừa tác viên của các cộng đoàn Giáo hội không có sự Tông truyền (như Tin lành) và không nhìn nhận bí tích truyền chức thánh, các tội phạm đến đặc tính thánh thiêng của bí tích giải tội, giải tội cho đồng phạm về điều răn thứ sáu, giả bộ ban phép giải tội, vi phạm trực tiếp và gián tiếp bí mật tòa giải tội, truyền chức linh mục cho một phụ nữ. Đặc biệt điều số 6 nói về tội lỗi giới răn thứ 6 với trẻ vị thành niên dưới 18 tuổi và người chậm trí, thủ đắc, trình bày, lưu trữ và phổ biến các hình ảnh dâm ô trẻ vị thành niên.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Liên Hội đồng Giám mục Trung Mỹ quyết tâm tiến hành Giáo hội đồng hành
Liên Hội đồng Giám mục Trung Mỹ, gọi tắt là SEDAC, quyết tâm tiến hành Giáo hội đồng hành, hỗ trợ dân chúng trong cuộc chiến đấu chống bất công và đại dịch, liên đới với các nạn nhân bất công trong xã hội và Giáo hội.
Trên đây là nội dung chủ yếu trong sứ điệp chung kết, công bố sau khóa họp thường niên trực tuyến, từ ngày 30 tháng Mười Một đến ngày 03 tháng Mười Hai vừa qua, với sự tham dự của các đại diện của sáu Hội đồng Giám mục ở Trung Mỹ, là Costa Rica, El Salvador, Guatemala, Honduras, Nicaragua và Panamá.
Sứ điệp của các giám mục chia làm 6 phần, nói đến những quan tâm và các thách đố chính yếu của Giáo hội ở Trung Mỹ, đặc biệt qui trọng tâm về đặc tính đồng hành của Giáo hội, như đã được đề nghị trong Đại hội mới đây của Giáo hội tại Mỹ Latinh và quần đảo Caraibí. Đặc biệt, sứ điệp nhấn mạnh sự cần thiết phải lắng nghe tất cả mọi tín hữu đã chịu phép rửa tội, không phân biệt và loại trừ ai.
Trong số các thách đố, các giám mục Trung Mỹ nói đến những ưu tiên như: công nhận và và thăng tiến sự lãnh đạo của giáo dân, nhất là người trẻ và phụ nữ. Đồng thời các giám mục cũng tái khẳng định quyết tâm lắng nghe, đồng hành, hướng dẫn và bảo vệ các dân tộc tại Trung Mỹ, trong những cuộc chiến đấu những khát vọng và mong đợi của họ, nhất là trong lúc đại dịch Covid-19 làm gia tăng sự xa cách giữa thiểu số có rất nhiều và đại đa số hầu như không có gì”.
Các giám mục thuộc Liên hiệp SEDAC cũng đề nghị “liên đới với các nạn nhân bất công xã hội và Giáo hội: đảm nhận sự bảo vệ phẩm giá sự sống và nhân vị, loại trừ thái độ giáo sĩ trị, lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, những người bị loại trừ và bị gạt bỏ, cũng như tiếng kêu của các dân tộc bản địa và người gốc Phi châu, thăng tiến sự hội nhập văn hóa và liên văn hóa, cùng với tư tưởng xã hội của Hội thánh”.
Liên Hội đồng Giám mục Trung Mỹ được thành lập năm 1960 và có trụ sở tại San José, thủ đô Costa Rica.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Hội đồng Giám mục Đức kêu gọi các tín hữu tham gia lạc quyên Giáng sinh
Cuộc lạc quyên này là cao điểm của chiến dịch Mùa Vọng do Tổ chức bác ái Adveniat phát động mỗi năm.
Chiến dịch năm nay được khai mạc hôm 28 tháng Mười Một vừa qua, Chúa nhật thứ nhất mùa vọng, với chủ đề là: “Sống còn tại thành phố” và mời gọi các tín hữu Đức đặc biệt lưu ý về tình trạng dân nghèo và các nhu cầu của họ tại các thành thị ở Mỹ châu Latinh và quần đảo Caraibì. Tại đại lục này, 80% dân chúng sống tại các thành phố và rất nhiều người nghèo càng lâm cảnh lầm than hơn vì đại dịch Covid-19.
Các giám mục mời gọi các tín hữu nhiệt liệt hỗ trợ các cuộc lạc quyên trong hai ngày 24 và 25 tháng Mười Hai sắp tới, kể cả bằng các phương thế trên mạng.
Thông cáo của Hội đồng Giám mục Đức cho biết với sự cộng tác của các tổ chức đối tác ở địa phương, Giáo hội muốn là một dấu chỉ hy vọng, đứng trước tình trạng nghèo đói gia tăng, qua các hoạt động thoa dịu đau khổ, giúp đỡ các bệnh nhân, kiến tạo những điều kiện cơ bản để sinh sống, săn sóc những người yếu thế nhất: các trẻ em, người trẻ, các phụ nữ và các gia đình”.
Các giám mục Đức nhắc lại rằng từ hơn 60 năm nay, Tổ chức bác ái Adveniat vẫn đứng về phía những người nghèo nhất. Năm ngoái (2020), cùng với các tổ chức đối tác ở Mỹ Latinh, Tổ chức Adveniat đã dành 8 triệu Euro để tài trợ hơn 400 dự án bài trừ đại dịch Covid-19 và những hậu quả của nó. Tổng cộng trong năm 2020, ngân khoản tài trợ của Adveniat lên tới 35 triệu 300.000 Euro cho hơn 2.000 dự án. Chiến dịch Mùa Vọng năm nay đặc biệt nhắm đáp ứng tình trạng tại Mêhicô, Paraguay và Brazil.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Cuộc phỏng vấn ĐTC trên chuyến bay từ Hy Lạp về Roma
Vatican News
Constandinos Tsindas (CYBC): [Thưa Đức Thánh Cha], những nhận xét mạnh mẽ của ngài về đối thoại giữa các tôn giáo ở cả Sýp và Hy Lạp đã gây được tiếng vang lớn trên quốc tế và gây ra những kỳ vọng khá thách thức. Họ nói rằng xin lỗi là điều khó nhất, trong khi ngài đã làm được điều đó một cách ngoạn mục ở Athens. Nhưng Vatican đang có kế hoạch gì để quy tụ Chính thống và Công giáo. Có lẽ một Thượng hội đồng đang được lên chương trình? ... Cùng với Thượng phụ Bartolomeo, ngài đã kêu gọi các Kitô hữu vào năm 2025 mừng 17 thế kỷ kể từ công đồng đầu tiên ở Nixêa. Tiến trình này đang diễn ra như thế nào? Cuối cùng, một câu hỏi về tài liệu của Liên minh châu Âu liên quan đến thuật ngữ về Giáng sinh.
ĐTC Phanxicô: Vâng, cảm ơn bạn. Tôi đã xin lỗi; tôi đã xin lỗi trước Đức Ieronymos, người anh em Ieronymos của tôi. Tôi xin lỗi vì tất cả những chia rẽ đang có giữa các Kitô hữu, nhưng trên hết là vì những chia rẽ mà chúng ta đã gây nên: những người Công giáo.
Tôi cũng muốn xin lỗi, vì trong cuộc chiến tranh giành độc lập - Đức Ieronymos đã chỉ ra điều này cho tôi - một số người Công giáo đã đứng về phía các chính phủ châu Âu để ngăn cản nền độc lập của Hy Lạp. Mặt khác, ở các đảo, người Công giáo trên các đảo đã ủng hộ nền độc lập; họ thậm chí đã tham chiến, một số đã hy sinh mạng sống cho đất nước của họ. Nhưng trọng tâm, chúng ta nói như thế, vào thời điểm đó đã nghiêng về phía Châu Âu ... Tôi không biết chính phủ nào ở đó ... nhưng thực tế là như vậy. Và tôi cũng xin lỗi về vụ bê bối chia rẽ, ít nhất là về điều mà chúng ta có lỗi.
Tinh thần tự mãn - chúng ta ngậm miệng khi nghe rằng mình phải xin lỗi; đối với tôi, tôi luôn cảm thấy tốt khi nghĩ rằng Chúa không bao giờ mệt mỏi khi tha thứ, không bao giờ, không bao giờ ... Chính chúng ta mới mệt mỏi khi cầu xin sự tha thứ; và khi chúng ta không cầu xin Chúa tha thứ, thì sẽ thật khó để chúng ta xin anh chị em của chúng ta tha thứ. Cầu xin sự tha thứ từ một người anh em khó hơn là từ Thiên Chúa, bởi vì chúng ta biết rằng Chúa sẽ nói: “Được, hãy đi, con đã được tha thứ.” Ngược lại, với anh chị em của chúng ta ... có sự xấu hổ, và sự hạ mình ... Nhưng trong thế giới ngày nay, chúng ta cần có thái độ hạ mình và xin lỗi. Có quá nhiều thứ đang xảy ra trên thế giới, quá nhiều mạng sống bị thiệt mạng, quá nhiều cuộc chiến tranh ... Tại sao chúng ta không xin lỗi?
Trở lại vấn đề này, tôi muốn xin lỗi vì những chia rẽ, ít nhất là về những gì chúng ta đã gây ra. Những điều khác ... những người có trách nhiệm sẽ xin lỗi, nhưng tôi xin lỗi vì lỗi của chúng ta, và cũng xin lỗi cho giai đoạn đó trong cuộc chiến khi một số người Công giáo đứng về phía chính phủ châu Âu, và những người từ các hòn đảo đã chiến đấu để bảo vệ ... Tôi không biết đã đủ chưa ...
Và cũng có một lời xin lỗi cuối cùng - lời xin lỗi này đến từ trái tim tôi - lời xin lỗi vì thảm kịch của người di cư, vì bi kịch của rất nhiều sinh mạng bị chết đuối trên biển, v.v.
Về khía cạnh hiệp hành: đúng, chúng ta là một đàn chiên, đó là sự thật. Và khi phân chia - giáo sĩ và giáo dân - là một sự phân chia chức năng, vâng, về phẩm chất, nhưng có một sự hiệp nhất, một đàn chiên duy nhất. Và động lực giữa những khác biệt trong Giáo hội là tính hiệp hành: nghĩa là, lắng nghe nhau và cùng nhau bước đi. Syn hodòs: đi chung đường. Đây là ý nghĩa của tính hiệp hành: các Giáo hội Chính Thống của các bạn, và cả các Giáo hội Công giáo Đông phương, đã bảo tồn điều này. Ngược lại, Giáo hội Latinh đã quên mất Thượng hội đồng, và chính Thánh Phaolô VI là người đã khôi phục lại con đường công nghị cách đây 54 hoặc 56 năm. Và chúng ta đang thực hiện một cuộc hành trình để có được thói quen hiệp hành, cùng bước đi với nhau.
Cuối cùng, bạn nói đến tài liệu của Liên minh Châu Âu về Giáng sinh ... đây là một sự lạc hậu. Trong lịch sử, nhiều chế độ độc tài đã cố gắng làm như vậy. Hãy nghĩ về Napoléon: từ đó ... Hãy nghĩ đến chế độ độc tài của Đức Quốc xã, chế độ cộng sản ... đó là phong cách của một chủ nghĩa duy đời được làm cho dịu ngọt ... Nhưng đây là một thứ đã không hoạt động trong lịch sử.
Nhưng điều này khiến tôi nghĩ đến điều gì đó, nói về Liên minh Châu Âu, điều mà tôi tin là cần thiết: Liên minh Châu Âu phải tiếp thu những lý tưởng của những người sáng lập, đó là những lý tưởng về sự thống nhất, về sự vĩ đại, và hãy cẩn thận để tránh theo con đường thực dân hóa tư tưởng. Điều này có thể dẫn đến chia rẽ các quốc gia và [khiến] Liên minh Châu Âu sụp đổ. Liên minh châu Âu phải tôn trọng từng quốc gia như nó được cấu trúc bên trong, sự đa dạng của các quốc gia, và không muốn làm cho chúng đồng nhất. Tôi tin rằng nó sẽ làm điều đó, đó không phải là ý định của nó, nhưng hãy cẩn thận, bởi vì đôi khi họ đến, và họ ném những dự án như thế này ở đó và họ không biết họ làm gì; tôi không biết nghĩ đến điều gì ... Không, mỗi quốc gia có đặc thù riêng, nhưng mỗi quốc gia đều cởi mở với những quốc gia khác. Liên minh châu Âu: chủ quyền của nó, chủ quyền của những người anh em trong một khối thống nhất tôn trọng tính cá nhân của mỗi quốc gia. Và hãy cẩn thận để không trở thành phương tiện của sự thực dân hóa ý thức hệ. Đó là lý do tại sao [vấn đề] về Giáng sinh (trong tài liệu của châu Âu) là một sự lạc hậu.
Nhà báo Iliana Magra (Kathimerini): Thưa Đức Thánh Cha, cảm ơn ngài đã đến thăm Hy Lạp. Ngài đã nói chuyện trong phủ tổng thống ở Athens về thực tế là nền dân chủ đang suy thoái, đặc biệt là ở châu Âu. Ngài đang đề cập đến những quốc gia nào? Ngài sẽ nói gì với những nhà lãnh đạo tự xưng là Kitô hữu đạo đức nhưng đồng thời đề cao các giá trị và chính sách phi dân chủ?
ĐTC Phanxicô: Dân chủ là một kho tàng, một kho tàng của nền văn minh, và nó phải được bảo vệ; nó phải được bảo tồn. Và không chỉ được bảo vệ bởi một thực thể cấp cao, mà còn được bảo vệ bởi chính các quốc gia, [cần thiết] bảo vệ nền dân chủ của các quốc gia khác.
Tôi thấy có hai mối nguy hiểm đối với nền dân chủ ngày nay: một là chủ nghĩa dân túy, đang tồn tại đây đó, và đang bắt đầu lộ rõ móng vuốt của nó. Tôi đang nghĩ đến một chủ nghĩa dân túy vĩ đại của thế kỷ trước, chủ nghĩa Quốc xã, một chủ nghĩa dân túy bảo vệ các giá trị quốc gia, như nó đã nói, đã hủy diệt đời sống dân chủ, thực sự sống bằng cái chết của người dân, trở thành một chế độ độc tài đẫm máu. Hôm nay tôi sẽ nói, bởi vì bạn đã hỏi về các chính phủ cánh hữu, chúng ta hãy cẩn thận rằng các chính phủ - tôi không nói cánh hữu hay cánh tả, tôi đang nói điều gì đó khác - các chính phủ hãy cẩn thận để không bị rơi vào con đường của chủ nghĩa dân túy này, cái được gọi là "chủ nghĩa dân túy" chính trị, không liên quan gì đến chủ nghĩa bình dân, điều là sự tự do ngôn luận của mọi người, những người thể hiện bản sắc của họ, văn hóa dân gian, giá trị của họ, nghệ thuật của họ ... Chủ nghĩa dân túy là một điều [chủ nghĩa bình dân là một điều khác].
Mặt khác, nền dân chủ bị suy yếu, [nó] đi vào con đường nơi nó từ từ [suy yếu] khi các giá trị quốc gia bị hy sinh, bị lộn ngược, chúng ta dùng một từ không hay, nhưng tôi không thể tìm thấy một từ khác, hướng tới một 'đế chế', một loại chính phủ siêu quốc gia, và đây là điều khiến chúng ta phải suy nghĩ.
Chúng ta cũng không nên rơi vào chủ nghĩa dân túy, nơi mà người dân - chúng ta nói là người dân, nhưng đó không phải là người dân, mà là một chế độ độc tài của “chúng ta chứ không phải của những người khác” (hãy nghĩ về chủ nghĩa Quốc xã) cũng như không bị nhấn chìm bản sắc của chúng ta trong một chính phủ quốc tế. Về điều này có một cuốn tiểu thuyết được viết vào năm 1903 (bạn sẽ nói, "Vị Giáo hoàng này thật cổ hủ về văn học!") được viết bởi [Robert Hugh] Benson, một nhà văn người Anh, Chúa tể của thế giới, tưởng tượng một tương lai trong đó một chính phủ quốc tế thông qua các biện pháp kinh tế và chính trị điều hành tất cả các quốc gia khác. Và khi bạn có chính phủ kiểu này, ông ta giải thích, bạn mất tự do và bạn cố gắng đạt được sự bình đẳng giữa tất cả mọi người; điều này xảy ra khi có một siêu cường quyết định hành vi kinh tế, văn hóa và xã hội đối với các quốc gia khác.
Sự suy yếu của nền dân chủ là do nguy cơ của chủ nghĩa dân túy, không phải là chủ nghĩa bình dân, và sự nguy hiểm của những quy chiếu này đối với các cường quốc kinh tế và văn hóa quốc tế. Đó là những gì tôi nghĩ đến, nhưng tôi không phải là một nhà khoa học chính trị, tôi chỉ nói những gì tôi nghĩ.
Manuel Scharz: Di cư không chỉ là vấn đề trọng tâm ở Địa Trung Hải. Nó cũng liên quan đến các khu vực khác của châu Âu. Nó liên quan đến Đông Âu. Hãy nghĩ về những sợi dây thép gai. Ngài mong đợi điều gì từ Ba Lan, từ Nga chẳng hạn? Và từ các quốc gia khác như Đức, từ chính phủ mới ...
ĐTC Phanxicô: Về những điều mà những người ngăn cản việc di cư hoặc đóng cửa biên giới tôi sẽ nói điều này … Ngày nay việc xây các bức tường ... là mốt thời thượng. Họ thường làm những việc này để ngăn cản nhập cư ...
Điều đầu tiên tôi muốn nói là: Hãy nhớ lại khoảng thời gian khi bạn là một người di cư và họ không cho bạn vào. Chính bạn là người muốn thoát khỏi vùng đất của mình và bây giờ chính bạn là người muốn xây tường. Điều này là tốt. Bởi vì những người xây tường mất cảm giác về lịch sử, về lịch sử của chính họ, về thời họ còn là nô lệ của một quốc gia khác. Những người xây tường có trải nghiệm này, ít nhất là một phần lớn trong số họ: trải nghiệm từng là nô lệ. Bạn có thể nói với tôi, “Nhưng các chính phủ có nhiệm vụ quản lý. Và nếu một làn sóng người di cư đến, họ không thể quản lý." Tôi muốn nói điều này: Mọi chính phủ phải nói rõ ràng “Tôi có thể nhận rất nhiều ...” Bởi vì những người lãnh đạo biết họ có thể nhận bao nhiêu người di cư. Đây là quyền của họ. Đây là sự thật.
Nhưng người di cư phải được chào đón, đồng hành, thúc đẩy và hòa nhập. Nếu một chính phủ không thể tiếp nhận nhiều hơn một số lượng nhất định, thì chính phủ đó phải tham gia đối thoại với các quốc gia khác, những nước có thể quan tâm đến những người khác, mỗi nước. Đó là lý do tại sao Liên minh châu Âu là quan trọng. Bởi vì nó có thể tạo ra sự hài hòa giữa tất cả các chính phủ đối với việc phân bổ người di cư. Hãy nghĩ về Sýp, Hy Lạp, hoặc thậm chí là Lampedusa, Sicilia. Những người di cư đến và không có sự thoả thuận giữa tất cả các quốc gia để gửi họ đến nơi này hay nơi khác. Thiếu sự hài hòa chung này. Tôi lặp lại từ cuối cùng tôi đã nói: hoà nhập. Hoà nhập. Bởi vì nếu bạn không hòa nhập người di cư, người di cư này sẽ có quyền công dân của khu ổ chuột. Tôi không nhớ nếu tôi đã có nói điều đó một lần trên máy bay hay chưa.
Ví dụ khiến tôi ấn tượng nhất là thảm kịch ở Zaventem. Những người trẻ đã gây ra thảm họa đó tại sân bay là người Bỉ, nhưng là con của những người ở các trại tị nạn, những người di cư không được hòa nhập. Nếu bạn không hòa nhập người di cư với giáo dục, với công việc, với sự chăm sóc, bạn có nguy cơ gặp phải một chiến binh, một người sau đó làm những việc này. Không dễ để chào đón người di cư, để giải quyết vấn đề người di cư, nhưng nếu chúng ta không giải quyết vấn đề người di cư, chúng ta có nguy cơ tạo ra một con tàu đắm của nền văn minh, ngày nay, ở châu Âu, bởi vì như mọi thứ đang diễn ra, nền văn minh của chúng ta. Không chỉ đắm tàu ở Địa Trung Hải. Không, nền văn minh của chúng ta. Hãy để đại diện của các chính phủ châu Âu đi đến một thỏa thuận.
Đối với tôi, một mô hình hội nhập, tiếp nhận, là Thụy Điển, nơi tiếp nhận những người di cư Mỹ Latinh chạy trốn khỏi các chế độ độc tài (người Chile, Argentina, Brazil, Uruguay) và hòa nhập họ. Hôm nay ở Athens, tôi đã đến một trường nội trú. Tôi đã quan sát. Và tôi nói với người phiên dịch, “Nhưng ở đây có món macedonia, (theo nghĩa đen là món salad trái cây) của các nền văn hóa”. Tất cả được hoà lẫn với nhau. Tôi đã sử dụng một cách diễn đạt bình dân. Người này trả lời: "Đây là tương lai của Hy Lạp." Hội nhập. Ngày càng phát triển trong hội nhập. Nó quan trọng. Nhưng có một bi kịch khác mà tôi muốn nhấn mạnh. Đó là khi những người di cư, trước khi đến, rơi vào tay những kẻ buôn người, những kẻ lấy hết tiền họ có và vận chuyển họ trên những chiếc ghe. Khi họ bị gửi trở về, những kẻ buôn người này sẽ giữ họ lại. Và có những bộ phim tại Phân bộ Di dân cho thấy những gì xảy ra ở những nơi họ đến khi họ bị trả về lại.
Cũng như chúng ta không thể chỉ chào đón họ rồi rời bỏ họ, mà phải đồng hành, thăng tiến họ một cách toàn diện; vì vậy nếu tôi gửi một người di cư trở về, tôi phải đồng hành với họ và thăng tiến và hòa nhập họ vào đất nước của họ; không để họ trên bờ biển Libya. Đây là sự tàn nhẫn. Nếu bạn muốn biết thêm, hãy hỏi Phân bộ di dân, nơi có bộ phim này. Cũng có một bộ phim của tổ chức “Vòng tay rộng mở” cho thấy thực tế này. Thật đau đớn. Nhưng chúng ta gây nguy hiểm cho nền văn minh. Chúng ta gây nguy hiểm cho nền văn minh.
Cecile Chambraud (Le Monde): Hôm thứ Năm, khi chúng ta đến nơi, chúng tôi được biết rằng ngài đã chấp nhận đơn từ chức của Tổng Giám mục Aupetit của Paris. Tại sao lại có sự vội vàng như vậy? Và liên quan đến báo cáo của Sauvé về sự lạm dụng: Giáo hội có trách nhiệm thể chế và hiện tượng này có tính cách hệ thống. Ngài nghĩ gì về tuyên bố này, và nó có ý nghĩa gì đối với Giáo hội hoàn vũ?
ĐTC Phanxicô: Tôi sẽ bắt đầu với câu hỏi thứ hai. Khi những nghiên cứu này được thực hiện, chúng ta phải cẩn thận trong các diễn giải mà chúng ta đưa ra cho từng khoảng thời gian. Khi bạn thực hiện một nghiên cứu trong một thời gian dài như vậy, sẽ có nguy cơ nhầm lẫn cách vấn đề được cảm nhận trong khoảng thời gian 70 năm trước một thời kỳ khác. Tôi chỉ muốn nói điều này như một nguyên tắc: một hoàn cảnh lịch sử nên được giải thích bằng cách diễn giải của thời đó, chứ không phải của riêng chúng ta. Ví dụ, chế độ nô lệ. Chúng tôi nói: "đó là một sự tàn bạo". Những vụ lạm dụng của 70 hay 100 năm trước là một sự tàn bạo, nhưng cách họ sống không giống như ngày nay. Ví dụ, trong trường hợp lạm dụng trong Giáo hội, thái độ là che đậy nó. Đó là một thái độ không may cũng được sử dụng trong nhiều gia đình, trong các khu phố. Chúng ta nói, "Không!" sự che đậy này là không đúng.
Nhưng chúng ta phải luôn giải thích theo cách diễn giải của thời đại, không phải bằng cách hiểu của chúng ta. Ví dụ, nghiên cứu Indianapolis nổi tiếng đã thất bại vì thiếu cách giải thích chính xác: một số điều đúng, một số điều khác thì không. Chúng đã được trộn lẫn với nhau. Việc phân thành thời gian sẽ giúp ích. Về phần báo cáo, tôi chưa đọc, tôi đã lắng nghe ý kiến của các giám mục Pháp. Các giám mục sẽ đến gặp tôi trong tháng này, và tôi sẽ yêu cầu họ giải thích điều đó cho tôi.
Về vụ Aupetit, tôi tự hỏi ngài đã làm gì quá nghiêm trọng đến mức phải từ chức. Ai đó trả lời cho tôi, ngài đã làm gì?
Cecile Chambraud: Chúng tôi không biết, đó là vấn đề điều hành hay điều gì khác.
ĐTC Phanxicô: Và nếu chúng ta không biết tội danh chúng ta không thể kết tội... Trước khi trả lời tôi sẽ nói: Các bạn hãy tiến hành một cuộc điều tra, được không? Bởi vì nguy hiểm khi nói rằng: ngài đã bị kết án. Ai đã lên án ngài? Dư luận, những lời đàm tiếu… chúng tôi không biết… nếu các bạn biết thì tại sao không nói? Nếu không, tôi không thể trả lời. Và bạn sẽ không biết, bởi vì đó là sự thiếu xót về phần ngài, sự thiếu xót đối với điều răn thứ sáu, nhưng không hoàn toàn, những cử chỉ âu yếm nhẹ nhàng của ngài với người thư ký; đây là lời buộc tội. Đây là tội lỗi nhưng nó không phải là tội trọng nhất, bởi vì tội lỗi của xác thịt không phải là tội trọng nhất.
Những tội trọng hơn là những tội có tính 'thiên thần' hơn: kiêu hãnh, hận thù. Vì vậy, Aupetit là một tội nhân, cũng như tôi… Có lẽ, cũng như thánh Phêrô, vị giám mục mà trên đó Chúa Giêsu Kitô đã thành lập Giáo Hội. Tại sao cộng đồng thời đó lại chấp nhận một giám mục tội lỗi, một giám mục đã phạm tội với nhiều 'tính chất thiên thần', như đã chối bỏ Chúa Kitô! Bởi vì đó là một Giáo hội bình thường, đã quen cảm thấy mình tội lỗi, mọi người. Đó là một Giáo hội khiêm tốn. Chúng ta có thể thấy rằng Giáo hội của chúng ta không quen có một giám mục tội lỗi. Chúng ta giả vờ nói: "Giám mục của tôi là một vị thánh". Không! cái mũ nhỏ màu đỏ này ... tất cả chúng ta đều là tội nhân. Nhưng khi những lời bàn tán gia tăng, phát triển, lớn lên và lấy đi danh tiếng của một người; không, người đó sẽ không thể cai quản vì đã mất danh tiếng của mình. Không phải vì tội lỗi của ngài, đó là tội lỗi - như của thánh Phêrô, như của tôi, như của bạn - mà là vì sự bàn tán của mọi người. Đó là lý do tại sao tôi chấp nhận sự từ chức, không phải trên bàn thờ của sự thật mà là trên bàn thờ của thói đạo đức giả.
Vera Scherbakova (Itar-Tass): Ngài đã gặp những người đứng đầu Giáo hội Chính thống và đã nói những lời tuyệt vời về sự hiệp thông và tái hiệp nhất: kế hoạch chung của ngài khi gặp Đức Thượng phụ Kirill là gì, và ngài gặp khó khăn gì trên con đường này?
ĐTC Phanxicô: Một cuộc gặp gỡ với ĐứcThượng phụ Kirill đang ở một chân trời không xa; tôi tin rằng tuần tới tổng giám mục Hilarion sẽ đến thăm tôi để thống nhất về một cuộc gặp có thể xảy ra. Đức Thượng Phụ phải đi, có thể đến Phần Lan, và tôi luôn sẵn lòng đến Mátxcơva, để đối thoại với một người anh em. Để đối thoại với một người anh em, không có những giao thức, một người anh em Chính Thống giáo tên là Kirill, Chrysostomos, Ieronymos, và khi gặp nhau, chúng tôi không nhảy điệu minuet; chúng tôi nói thẳng vào mặt nhau, nhưng với tư cách là anh em. Và thật đáng mừng khi thấy anh em cãi nhau bởi vì họ cùng thuộc một mẹ, Giáo hội Mẹ, nhưng họ có chút chia rẽ, một số vì di sản, một số vì lịch sử đã chia rẽ họ.
Nhưng chúng ta phải cố gắng đi cùng nhau, làm việc và bước đi trong sự hiệp nhất và vì sự hiệp nhất. Tôi biết ơn Đức Ieronymos, Đức Chrysostomos, và tất cả những Thượng phụ có mong muốn bước đi cùng nhau. Nhà thần học Chính Thống giáo vĩ đại Zizioulas, người nghiên cứu về thuyết cánh chung, từng nói đùa rằng: sự hiệp nhất sẽ được tìm thấy trong Eschaton! Ở đó sẽ có sự hiệp nhất. Nhưng đó là một cách nói: chúng ta không được đứng yên chờ các nhà thần học đồng ý. Điều người ta nói là Đức Athenagoras đã nói với Đức Phaolô VI: chúng ta hãy đặt tất cả các nhà thần học trên một hòn đảo để họ thảo luận và chúng ta sẽ cùng nhau đi đến một nơi khác. Nhưng đây là một câu chuyện đùa.
Hãy để các nhà thần học tiếp tục nghiên cứu vì điều này tốt cho chúng ta và hướng dẫn chúng ta hiểu cách tìm kiếm sự hiệp nhất tốt hơn. Nhưng trong lúc này, chúng ta cùng nhau tiến về phía trước, cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau làm việc bác ái. Ví dụ, tôi biết rằng ở Thụy Điển, các tín hữu Luther và Caritas Công giáo cùng với nhau. Chúng ta có thể làm việc và cầu nguyện cùng nhau, chúng ta để phần còn lại mà chúng ta không hiểu phải làm thế nào cho các nhà thần học.