Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Ngày cử hành lễ Giáng sinh phân rẽ Chính thống giáo tại Ucraina
Ngày cử hành lễ Giáng sinh trở thành một dấu hiệu chia rẽ trong Chính thống giáo tại Cộng hòa Ucraina.
Cho đến nay, tất cả các tín hữu Chính thống tại nước này cử hành lễ Giáng sinh vào ngày 07 tháng Giêng, theo lịch Giuliano giống như tại Nga, Belarus, Bulgari, Serbia và Macedonia. Nhưng nay, Đức Tổng giám mục Epifanyj, Giáo chủ Chính thống Ucraina độc lập, quyết định cử hành lễ Giáng sinh vào ngày 25 tháng Mười Hai, theo lịch Gregoriano, giống như Công giáo Latinh và một số Giáo hội Công giáo nghi lễ Đông Phương.
Lịch cũ do Hoàng đế Giuliano của đế quốc Roma thiết định năm 46 trước Chúa Cứu Thế sinh ra. Nhưng tính đến năm 1582 lịch này bị chậm mất 10 ngày nên năm 1582, Đức Giáo hoàng Gregorio XIII quyết định thay đổi lịch: ngày sau ngày 04 tháng Mười năm 1582 trở thành ngày 14 tháng Mười cùng năm 1582. Lịch đó được toàn thế giới sử dụng. Người Nga đã thiết lập Tòa Thượng phụ Chính thống Mascơva bảy năm trước khi đổi lịch vừa nói và nhấn mạnh rằng luật cũ Giulianio là một trong những phương thức để phân biệt với các Kitô hữu Tây phương mà họ cho là “rối đạo”.
Theo Đức Tổng giám mục Epifanyj, sự duy trì lịch Giuliano là một sai lầm cần sửa chữa. Trong cuộc phỏng vấn dành cho Radio Svoboda, Đức Tổng giám mục giải thích rằng: “Tôi nghĩ rằng khoảng 10 năm nữa người ta sẽ thành công trong việc đưa những ngày tháng trở lại bình thường, chúng ta hãy xem làm thế nào chúng ta có thể thực hiện sự chuyển tiếp này, để được vậy cần có hoạt động thông tin sâu rộng”.
Vấn đề thay đổi ngày cử hành lễ Giáng sinh có nguy cơ càng kích thích thêm những xung đột giữa các tín hữu Chính thống Ucraina với Chính thống Nga, vì nhất là những ngày lễ phụng vụ theo truyền thống là nguồn mạch sinh ra những hiểu lầm và thiếu cảm thông giữa các tín hữu Kitô ngay từ thời thượng cổ.
Cộng đoàn Chính thống giáo tại Ucraina vốn hiệp nhất với Chính thống Mascơva. Nhưng từ sau khi Ucraina độc lập khỏi Nga, nhiều tín hữu Chính thống tại đây cũng đòi thành lập Giáo hội Chính thống Ucraina độc lập. Và ngày 15 tháng Mười Hai năm 2018, Đức Thượng phụ Chính thống Constantinople, cũng là Giáo chủ danh dự chung của Chính thống giáo thế giới, công nhận quyền tự quản và độc lập của Chính thống Ucraina, bất chấp sự phản đối mạnh mẽ và sự tuyệt thông của tòa Thượng phụ Chính thống Mascơva. Từ đó, Chính thống giáo tại đây chia thành hai khối đối nghịch nhau.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI mừng Giáng sinh
Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI mừng Giáng sinh với đĩa nhạc CD, do ca đoàn thiếu nhi Nhà thờ chính tòa giáo phận Regensburg hát.
Đức Tổng giám mục Georg Gänswein, bí thư riêng của Đức Biển Đức XVI, tiết lộ như trên với báo “Miền Trung Bavaria” (Mittelbayerischen Zeitung), số ra thứ Hai, ngày 20 tháng Mười Hai vừa qua.
Đức Tổng giám mục nói: “Nếu không có CD Giáng sinh này, đối với Đức nguyên Giáo hoàng, sẽ không có Giáng sinh thực sự”. Đức ông Georg Ratzinger (1924-2020), bào huynh của Đức nguyên Giáo hoàng, là nhạc sĩ, trưởng ca đoàn thiếu nhi nổi tiếng của Nhà thờ Chính tòa Regensburg trong 30 năm, từ 1964 đến 1994. Đức ông qua đời hồi năm ngoái, hưởng thọ 96 tuổi.
Đức nguyên Giáo hoàng mừng Giáng sinh với cộng đoàn của ngài gồm sáu người, trong đó có bốn chị thuộc tu hội “Memores Domini”, Những người nhớ Chúa. Sau khi về hưu, ngài cư ngụ tại Đan viện Mẹ Giáo hội (Mater Ecclesiae) ở Nội thành Vatican, từ ngày 02 tháng Năm năm 2013.
Đức Tổng giám mục Gänswein cũng cho biết trong Đan viện có một cây thông Giáng sinh và mỗi phòng đều có một hang đá khác nhau, trong đó có một hang đá theo truyền thống miền Bavaria, do Đức cha Rudolf Voderholzer, Giám mục giáo phận Regensburg mang đến tặng, trong cuộc viếng thăm mới đây tại Vatican. Đức Biển Đức rất thích những hang đá này.
Khi Đức ông Georg Ratzinger còn sống, ngài vẫn đến Vatican để mừng lễ Giáng sinh với người em của ngài. Đức Tổng giám mục Gänswein nói: “Hiển nhiên là nay thiếu sự hiện diện của Đức ông, đó là điều rõ ràng. Nhưng trong đức tin, Đức ông vẫn còn sống giữa chúng tôi”. Về tình trạng của Đức nguyên Giáo hoàng 94 tuổi, Đức Tổng giám mục cho biết sức khỏe của Đức Biển Đức XVI vẫn ổn định trong sự yếu đuối, nhưng cám ơn Chúa ngài vẫn sáng suốt. Đó là điều quan trọng. Nhất là ngài không đánh mất tinh thần khôi hài”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô cho Ngày Thế giới Hoà bình năm 2022
Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân dịp cử hành Ngày Thế giới Hoà bình
(01/01/2022)
Đối thoại liên thế hệ, Giáo dục và Việc làm: Những Công cụ để Xây dựng Hoà bình bền vững
1. "Đẹp thay, trên đồi núi, bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an" (Is 52,7).
Những lời của ngôn sứ Isaia nói về sự an ủi, nói lên tiếng thở dài nhẹ nhõm của một dân tộc đang bị lưu đày, mệt mỏi vì bạo lực và áp bức, phải sống trong điều kiện không xứng với phẩm giá và chịu đựng sự chết chóc. Ngôn sứ Barúc đã thắc mắc: “Vì đâu, Israel hỡi, vì đâu ngươi phải nương thân trên đất thù địch, phải mòn hao nơi xứ lạ quê người? Vì đâu ngươi bị nhiễm uế giữa đám thây ma, phải nằm chung với những người ở trong âm phủ?" (3,10-11). Đối với dân Israel, sự xuất hiện của sứ giả hòa bình có nghĩa là hy vọng về sự tái sinh từ đống đổ nát của lịch sử, khởi đầu cho một tương lai tươi sáng.
Ngày nay, con đường hòa bình mà thánh Phaolô VI đã gọi bằng tên mới là phát triển toàn diện[1], không may là vẫn còn xa cách với cuộc sống thực của nhiều người và do đó, xa cách với gia đình nhân loại của chúng ta, hiện đang hoàn toàn liên kết với nhau. Bất chấp nhiều nỗ lực nhắm đến việc đối thoại mang tính xây dựng giữa các quốc gia, tiếng ồn ào chói tai của chiến tranh và xung đột đang ngày càng gia tăng. Trong khi các căn bệnh ở tầm mức đại dịch đang lan rộng, tác động của biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường ngày càng trầm trọng, thảm cảnh đói khát ngày càng gia tăng, và mô hình kinh tế dựa trên chủ nghĩa cá nhân thay vì chia sẻ liên đới tiếp tục thống trị. Như trong thời của các vị ngôn xứ xa xưa, ngày nay cũng thế, tiếng kêu của người nghèo và tiếng kêu của trái đất[2] không ngừng vang lên cầu xin công lý và hòa bình.
Ở mọi thời đại, hòa bình vừa là món quà từ ơn trên vừa là kết quả của sự dấn thân chung. Thật vậy, chúng ta có thể nói về một “khoa kiến trúc” của hòa bình, mà các thể chế khác nhau của xã hội đóng góp vào đó, và một “nghệ thuật” của hòa bình bao gồm mỗi người chúng ta cách trực tiếp[3]. Tất cả có thể cùng nhau hợp tác để xây dựng một thế giới hòa bình hơn, bắt đầu từ trái tim của mỗi người và từ các mối quan hệ trong gia đình, trong xã hội và với môi trường, cho đến các mối quan hệ giữa các dân tộc và quốc gia.
Ở đây, tôi muốn đề xuất ba con đường để xây dựng một nền hòa bình lâu dài. Thứ nhất, đối thoại giữa các thế hệ như là nền tảng cho việc hiện thực hóa các dự án chung. Thứ hai, giáo dục, như một yếu tố của tự do, trách nhiệm và phát triển. Cuối cùng, việc làm, như một phương tiện để nhận thức đầy đủ phẩm giá của con người. Đây là ba yếu tố không thể thiếu để “có thể tạo ra một khế ước xã hội”[4], mà nếu thiếu nó mọi dự án hòa bình đều không bền vững.
2. Đối thoại giữa các thế hệ để xây dựng hoà bình
Trong một thế giới vẫn còn bị bao trùm bởi trận đại dịch đã tạo ra quá nhiều vấn đề, “một số người cố gắng trốn chạy khỏi thực tế, trú ẩn trong thế giới nhỏ bé của riêng họ; những người khác phản ứng với nó bằng bạo lực hủy diệt. Tuy nhiên, giữa sự thờ ơ ích kỷ và sự phản kháng bạo lực luôn có một lựa chọn khả thi khác: đó là đối thoại. Đối thoại giữa các thế hệ”[5].
Tất cả các cuộc đối thoại trung thực, bên cạnh việc trao đổi quan điểm đúng đắn và tích cực, luôn đòi hỏi có sự tin tưởng cơ bản giữa những người tham gia. Chúng ta cần học cách lấy lại sự tin tưởng lẫn nhau này. Cuộc khủng hoảng sức khỏe hiện nay đã làm tăng cảm giác bị cô lập và xu hướng co cụm lại trong chính mình của chúng ta. Sự cô đơn của người cao tuổi tương ứng với cảm giác bơ vơ và thiếu tầm nhìn chung về tương lai nơi người trẻ. Cuộc khủng hoảng thực sự rất đau đớn, nhưng nó cũng giúp mang lại những điều tốt đẹp nhất cho con người. Thật vậy, trong đại dịch, chúng ta đã gặp thấy những tấm gương quảng đại của lòng thương xót, chia sẻ và liên đới ở mọi nơi trên thế giới.
Đối thoại có nghĩa là lắng nghe nhau, chia sẻ những quan điểm khác nhau, đi đến thống nhất và bước đi cùng nhau. Cổ võ sự đối thoại như vậy giữa các thế hệ có nghĩa là phá vỡ mảnh đất khô cứng và cằn cỗi của xung đột và sự dửng dưng để gieo hạt giống của một nền hòa bình chung và lâu dài.
Mặc dù sự phát triển công nghệ và kinh tế có xu hướng tạo ra sự chia rẽ giữa các thế hệ, nhưng các cuộc khủng hoảng hiện nay của chúng ta cho thấy nhu cầu cấp thiết của mối quan hệ đối tác giữa các thế hệ. Một đàng, người trẻ cần sự khôn ngoan và kinh nghiệm của người lớn tuổi; đàng khác, những người cao tuổi hơn cần sự hỗ trợ, tình cảm, sự sáng tạo và năng động của lớp trẻ.
Những thách thức lớn lao của xã hội và các tiến trình hòa bình nhất thiết đòi hỏi sự đối thoại giữa những người lưu giữ ký ức - những người già - và những người đưa lịch sử tiến bước - những người trẻ. Mỗi người phải sẵn sàng dành chỗ cho người khác và không khăng khăng muốn độc chiếm toàn cảnh bằng cách theo đuổi lợi ích trước mắt của riêng mình, như thể không có quá khứ và tương lai. Cuộc khủng hoảng toàn cầu mà chúng ta đang trải qua cho thấy rõ ràng rằng cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa các thế hệ phải là động lực thúc đẩy của một nền chính trị lành mạnh, vốn không hài lòng với việc quản trị những gì đã có “bằng các sửa chữa hoặc các giải pháp nhanh chóng”[6], nhưng xem bản thân nó như một hình thức nổi bật của tình yêu dành cho người khác[7], trong việc tìm kiếm các dự án chung và bền vững cho tương lai.
Nếu, giữa những khó khăn, chúng ta có thể thực hành kiểu đối thoại giữa các thế hệ này, “chúng ta có thể bám rễ vững chắc vào hiện tại, và từ đây, nhìn lại quá khứ và hướng đến tương lai. Nhìn lại quá khứ để rút kinh nghiệm và chữa lành những vết thương cũ mà đôi khi chúng ta vẫn còn trăn trở. Hướng đến tương lai để nuôi dưỡng lòng nhiệt thành của chúng ta, khiến ước mơ xuất hiện, đánh thức những lời ngôn sứ và giúp hy vọng nở rộ. Bằng cách này, khi đoàn kết, chúng ta có thể học hỏi lẫn nhau”[8]. Vì nếu không có rễ, làm sao cây cối sinh trưởng và kết trái?
Chúng ta chỉ cần nghĩ đến việc chăm sóc cho ngôi nhà chung của mình. Trên thực tế, môi trường “được cho từng thế hệ vay mượn, và thế hệ này phải chuyển giao nó cho thế hệ sau”[9]. Chúng ta phải đánh giá cao và khuyến khích tất cả những người trẻ tuổi làm việc cho một thế giới công bằng hơn, một thế giới cẩn thận bảo vệ công trình sáng tạo đã được giao phó cho chúng ta quản lý. Họ làm việc này với sự khắc khoải, nhiệt tình và hơn hết là với tinh thần trách nhiệm trước sự thay đổi khẩn cấp về phương hướng[10] mà những khó khăn nảy sinh từ cuộc khủng hoảng đạo đức và môi trường xã hội ngày nay đang đặt ra cho chúng ta.[11]
Mặt khác, cơ hội để cùng nhau xây dựng những con đường hòa bình không thể bỏ qua giáo dục và công việc, vốn là những nơi chốn và bối cảnh đặc quyền cho đối thoại giữa các thế hệ. Giáo dục cung cấp ngữ pháp để đối thoại giữa các thế hệ, và trong kinh nghiệm lao động, những người nam nữ thuộc các thế hệ khác nhau thấy mình có thể hợp tác và chia sẻ chuyên môn, kinh nghiệm và kỹ năng vì lợi ích chung.
3. Dạy dỗ và giáo dục như các động cơ của hoà bình
Trong những năm gần đây, nguồn tài trợ cho giáo dục và đào tạo đã giảm đáng kể trên toàn thế giới; chúng bị xem là tiêu tốn hơn là đầu tư. Tuy nhiên, chúng là phương tiện chính để thúc đẩy sự phát triển toàn diện của con người; chúng khiến cho các cá nhân trở nên tự do và có trách nhiệm hơn, và chúng rất cần thiết cho việc bảo vệ và thúc đẩy hòa bình. Nói cách khác, giảng dạy và giáo dục là nền tảng của một xã hội dân sự gắn kết có khả năng tạo ra hy vọng, thịnh vượng và tiến bộ.
Ngược lại, các chi tiêu quân sự đã tăng vượt quá mức vào cuối Chiến tranh Lạnh và chúng dường như chắc chắn sẽ tăng vượt mức.[12]
Do đó, đã đến lúc các chính phủ cần cấp thiết phát triển các chính sách kinh tế nhằm đảo ngược tỷ lệ công quỹ dành cho giáo dục và vũ khí. Việc theo đuổi một quá trình giải trừ quân bị quốc tế thực sự chỉ có thể mang lại lợi ích to lớn cho sự phát triển của các dân tộc và quốc gia, giải phóng các nguồn lực tài chính để sử dụng một cách thích hợp hơn cho y tế, trường học, cơ sở hạ tầng, chăm sóc lãnh thổ và v.v..
Tôi hy vọng rằng đầu tư vào giáo dục cũng sẽ đi kèm với những nỗ lực lớn hơn để thúc đẩy văn hóa chăm sóc.[13] Đối mặt với sự rạn nứt của xã hội và sự ù lì của các thể chế, giáo dục có thể trở thành ngôn ngữ chung phá vỡ các rào cản và xây dựng cầu nối. “Một quốc gia phát triển mạnh mẽ khi đối thoại mang tính xây dựng diễn ra giữa nhiều thành phần văn hóa phong phú của nó: văn hóa đại chúng, văn hóa đại học, văn hóa giới trẻ, văn hóa nghệ thuật, văn hóa công nghệ, văn hóa kinh tế, văn hóa gia đình và văn hóa truyền thông”.[14] Do đó, điều cần thiết là phải hình thành một mô hình văn hóa mới thông qua “một hiệp ước toàn cầu về giáo dục cho và với các thế hệ tương lai, một hiệp ước trong đó các gia đình, cộng đồng, trường học, trường đại học, tổ chức, tôn giáo, chính phủ và toàn bộ gia đình nhân loại dấn thân đào tạo những người nam nữ trưởng thành”.[15] Một hiệp ước có thể thúc đẩy giáo dục trong hệ sinh thái toàn vẹn, theo một mô hình văn hóa hòa bình, phát triển và bền vững, tập trung vào tình huynh đệ và giao ước giữa con người và môi trường.[16]
Đầu tư vào dạy dỗ và giáo dục thế hệ trẻ là con đường chính dẫn họ, thông qua đào tạo cụ thể, có được vị trí xứng đáng trên thị trường lao động.[17]
4. Tạo ra và đảm bảo việc làm xây dựng hòa bình
Việc làm là nhân tố không thể thiếu trong việc xây dựng và giữ gìn hòa bình. Nó là sự thể hiện bản thân và những tài năng của chúng ta, nhưng cũng là sự dấn thân, vất vả và sự hợp tác của chúng ta với những người khác, bởi vì chúng ta luôn làm việc với hoặc vì ai đó. Nhìn theo quan điểm xã hội rõ ràng này, việc làm là nơi giúp chúng ta học cách đóng góp phần của mình cho một thế giới tươi đẹp và đáng sống hơn.
Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng tiêu cực đến thế giới lao động, vốn đã phải đối mặt với nhiều thách thức. Hàng triệu hoạt động kinh tế và sản xuất đã thất bại; các công nhân lao động ngắn hạn ngày càng dễ bị tổn thương; nhiều người trong số những người cung cấp các dịch vụ thiết yếu càng không được công chúng và thế giới chính trị biết đến; và trong nhiều trường hợp, giáo dục từ xa đã tạo ra một sự thụt lùi trong học tập và và chậm hoàn thành chương trình học. Hơn nữa, những người trẻ tuổi tham gia thị trường việc làm và những người trưởng thành thất nghiệp hiện đang đối mặt với triển vọng ảm đạm.
Đặc biệt, tác động của cuộc khủng hoảng đối với nền kinh tế phi chính thức, vốn thường liên quan đến lao động nhập cư, đang rất nặng nề. Nhiều người trong số họ thậm chí không được luật pháp quốc gia công nhận; như thể họ không tồn tại. Họ và gia đình sống trong những điều kiện vô cùng bấp bênh, là con mồi của nhiều hình thức nô lệ khác nhau và không có hệ thống phúc lợi nào bảo vệ họ. Hiện chỉ có một phần ba dân số thế giới trong độ tuổi lao động được hưởng hệ thống bảo trợ xã hội hoặc chỉ được hưởng lợi từ hệ thống này theo những cách hạn chế. Bạo lực và tội phạm có tổ chức đang gia tăng ở nhiều quốc gia, ảnh hưởng đến tự do và phẩm giá của con người, đầu độc nền kinh tế và cản trở sự phát triển của công ích. Câu trả lời duy nhất cho tình trạng này chỉ có thể thông qua việc mở rộng các cơ hội việc làm xứng với nhân phẩm.
thực tế, việc làm là nền tảng để xây dựng công bằng và tình liên đới trong mọi cộng đồng. Vì lý do này, "chúng ta không nên tìm cách ngày càng thay thế công việc của con người bằng các tiến bộ công nghệ, vì điều này sẽ gây tổn hại cho nhân loại. Việc làm là nhu cầu thiết yếu, là một phần ý nghĩa của cuộc sống trên trái đất này, là con đường để trưởng thành, phát triển con người và hoàn thiện bản thân”.[18] Chúng ta cần kết hợp các ý tưởng và nỗ lực của mình để tạo ra các giải pháp và điều kiện có thể cung cấp cho mọi người trong độ tuổi lao động cơ hội, thông qua công việc của họ, đóng góp cho cuộc sống của gia đình họ và của toàn xã hội.
Điều cấp bách hơn bao giờ hết là thăng tiến, trên khắp thế giới của chúng ta, các điều kiện làm việc đàng hoàng và xứng đáng, hướng đến lợi ích chung và bảo vệ công trình sáng tạo. Cần đảm bảo và hỗ trợ tự do của các sáng kiến kinh doanh; đồng thời phải nỗ lực để khuyến khích ý một sự đổi mới về trách nhiệm xã hội, để lợi nhuận không phải là tiêu chí chỉ đạo duy nhất.
Vì vậy, cần phải thúc đẩy, hoan nghênh và hỗ trợ các sáng kiến, ở tất cả các cấp, thúc giục các công ty tôn trọng các nhân quyền cơ bản của người lao động, nâng cao nhận thức không chỉ của các tổ chức, mà còn của người tiêu dùng, xã hội dân sự và các thực thể doanh nhân. Khi các thực thể doanh nhân ngày càng ý thức hơn về vai trò của mình trong xã hội, họ sẽ càng trở thành những nơi mà phẩm giá con người được tôn trọng. Bằng cách này, họ sẽ góp phần xây dựng hòa bình. Ở đây, chính trị được kêu gọi đóng một vai trò tích cực bằng cách thúc đẩy sự cân bằng công bằng giữa tự do kinh tế và công bằng xã hội. Tất cả những ai làm việc trong lĩnh vực này, bắt đầu từ các công nhân và doanh nhân Công giáo, đều có thể tìm thấy các hướng dẫn chắc chắn trong học thuyết xã hội của Giáo hội.
Anh chị em thân mến, khi chúng ta tìm cách kết hợp những nỗ lực của mình để thoát khỏi đại dịch, tôi xin lặp lại lời cảm ơn của tôi với tất cả những người tiếp tục làm việc với lòng quảng đại và trách nhiệm trong các lĩnh vực giáo dục, an toàn và bảo vệ quyền, trong việc cung cấp chăm sóc y tế, tạo điều kiện cho các cuộc gặp gỡ giữa các thành viên trong gia đình và người bệnh, và hỗ trợ kinh tế cho những người khó khăn và những người bị mất việc làm. Tôi bảo đảm nhớ đến các nạn nhân và gia đình của họ trong lời cầu nguyện của tôi.
Tôi đưa ra lời kêu gọi các nhà lãnh đạo chính phủ và tất cả những người chịu trách nhiệm chính trị và xã hội, các linh mục và nhân viên mục vụ, cũng như tất cả những người nam nữ có thiện chí để chúng ta cùng nhau bước đi với lòng dũng cảm và sự sáng tạo trên các con đường đối thoại giữa các thế hệ, giáo dục và việc làm . Chớ gì ngày càng nhiều người nam nữ phấn đấu hàng ngày, với sự khiêm tốn thầm lặng và lòng dũng cảm, trở thành những nghệ nhân của hòa bình. Và cầu xin cho họ luôn được soi dẫn và đồng hành bởi phúc lành của Thiên Chúa bình an!
Vatican, 8/12/2021
[1] Xem Thông điệp Populorum Progressio (26/3/1967), 76tt.
[2] Xem Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 49.
[3] Xem Thông điệp Fratelli Tutti (3/10/2020), 231.
[4] Sđd., 218.
[5] Sđd., 179.
[6] Sđd., 179.
[7] Xem sđd., 180.
[8] Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Christus Vivit (25/03/2019), 199.
[9] Thông điệp Laudato Si', 159.
[10] Xem sđd., 163; 202.
[11] Xem sđd., 139.
[12] Xem Sứ điệp gửi các Tham dự viên Diễn đàn hoà bình Paris lần thứ 4, 11-13/11/2021.
[13] Xem Thông điệp Laudato Si' (24/05/2015), 231; Sứ điệp cho Ngày Hoà bình Thế giới năm 2021: Một Văn hoá quan tâm như Con đường đến Hoà bình (08/12/2021).
[14].Thông điệp Fratelli Tutti (03/10/2020), 199.
[15] Xem Sứ điệp Video cho Hiệp ước Toàn cầu về Giáo dục: Cùng nhau nhìn vượt xa hơn (15/10/2020)
[16] Xem Sứ điệp Video cho Hội nghị Thượng đỉnh Cấp cao trực tuyến về Tham vọng Khí hậu (13/12/2020).
[17] Xem Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem Exercens (14/09/1981), 18.
[18] Thông điệp Laudato Si' (24/05/2015), 128.
Sách mới của ĐTC Phanxicô về Giáng sinh “Một niềm vui vĩ đại”
Sách “Một niềm vui vĩ đại” tập hợp những bài giảng lễ Giáng sinh của Đức Thánh Cha Phanxicô. Mở đầu lời tựa, Đức Hồng y Ravasi trích một đoạn bài giảng của Đức Thánh Cha: “Thiên Chúa không xuất hiện như một người trưởng thành, nhưng là một em bé; Người không tự mình đến thế giới, nhưng từ một người phụ nữ, sau chín tháng trong dạ Mẹ, nơi Thiên Chúa trở thành người. Trái tim của Thiên Chúa bắt đầu đập trong Mẹ Maria, Chúa của sự sống đã lấy ôxy từ Mẹ”. Đức Hồng y giải thích: “Đoạn bài giảng này của Đức Thánh Cha gần như là chủ đề biểu tượng của các trang tiếp theo. Chúng tương tự như một cầu vồng theo chủ đề được ghi dấu bởi một loạt các màu sắc khác nhau tạo nên một Giáng sinh với đầy màu sắc rực rỡ”.
Mọi sự được bắt đầu từ một ngôi nhà khiêm tốn ở Nazareth. Sự khởi đầu mới của lịch sử con người được thực hiện trong một gia đình. Chúa Giêsu sinh ra trong một gia đình. Nói đến điều này, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu vượt ra ngoài quỹ đạo truyền thống của ánh sáng, quà tặng, tình cảm tốt đẹp, mặc dù nó là thực tế nhưng là thứ yếu. Ngài mời gọi giải phóng lễ Giáng sinh khỏi chủ nghĩa tiêu thụ.
Thánh Matthêu và Luca tường thuật về thời thơ ấu của Chúa Giêsu, chúng ta thấy giai đoạn này, đầy những đau khổ và máu. Đau khổ do phải chạy trốn, nghèo khó, máu do bàn tay của vua Hêrôđê. Tuy nhiên, theo Đức Thánh Cha, “đau khổ và sự dữ không phải là lời cuối cùng”. Chúa Giêsu sinh ra trong lịch sử nhân loại để trở thành “một ngọn lửa nhỏ thắp sáng đêm tối lạnh lẽo”. Cầu vồng không chỉ có băng giá với những màu tối buồn, nhưng cũng có những màu rực rỡ, sống động, tươi sáng và ấm áp. Bởi vì, “trong Hài nhi này, Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy tiếp nhận niềm hy vọng. Trong Hài Nhi này, Thiên Chúa làm cho chúng ta trở thành những nhân vật chính cho lòng hiếu khách của Người”.
Vì vậy, trong sách này, Đức Thánh Cha đã đưa ra nhiều ngôi sao biểu tượng tỏa sáng mang lại hy vọng, hòa bình, công lý và niềm vui. Ba ngôi sao tỏa sáng vào lễ Giáng sinh có tên là ân sủng, sự dịu dàng và tình huynh đệ.
Ngọc Yến - Vatican News
Giáo hội Công giáo tại Philippines ấn định ngày cầu nguyện cho các nạn nhân cuồng phong Rai
Hội đồng Giám mục Philippines kêu gọi các giám mục giáo phận toàn quốc dành ngày 25 và 26 tháng Mười Hai tới đây, làm ngày toàn quốc cầu nguyện cho các nạn nhân cuồng phong Odette (tên quốc tế là Rai) mới đây, làm cho khoảng 400 người bị thiệt mạng. Ngoài ra, trong các thánh lễ của hai ngày đó sẽ tổ chức cuộc lạc quyên thứ hai để giúp các nạn nhân.
Đức cha Pablo Virgilio David, Giám mục giáo phận Kalookan, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Philippines nói rằng Quỹ liên đới Alay Kapwa của Giáo hội sẽ được sử dụng để đáp ứng tình trạng khẩn trương của cộng đồng. “Chúng tôi khuyến khích mỗi người hãy chuyển ngân khoản lạc quyên được cho Caritas Philippines, để cơ quan này đề ra và thi hành kế hoạch trợ giúp chung”.
Trước đó, Caritas Philippines đã thông báo có ít nhất mười giáo phận ở miền Visayas và Mindanao bị thiệt hại nặng nề vì cuồng phong Rai thổi qua Philippines, từ ngày 16 tháng Mười Hai vừa qua.
Hội chữ thập đỏ Philippines cho biết cảnh tượng thật thê thảm tại những vùng duyên hải sau khi cuồng phong Rai thổi qua: nhà cửa, bệnh viện và trường học bị tàn phá.... Ít nhất khoảng 400 người chết và hơn 50 người mất tích và hàng trăm người bị thương, đồng hơn hơn 300.000 người phải rời bỏ gia cư. Tình trạng thật thê thảm.
Một trong những đảo bị thiệt hại nặng nhất là Bohol, với 80 người chết. Tàn phá ở các hải đảo Siargao, Dinagat và Mindanao cũng rất nặng nề, khi cơn bão với tốc độ 195 km/giờ thổi qua.
Philippines được xếp vào các quốc gia dễ bị tổn thương nhất vì sự thay đổi khí hậu, mỗi năm trung bình có 20 cơn bão nặng nhẹ khác nhau, phá hoại mùa màng, gia cư, hạ tầng cơ cấu tại những vùng vốn đã nghèo.
Hồi năm 2013, siêu cuồng phong Haiyen, cũng gọi là Yolanda đã làm cho 7.300 người chết hoặc mất tích và được coi là cuồng phong nặng nhất tại Philippines.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Công bố Sứ điệp hòa bình năm 2022 của Đức Thánh cha
Hôm 21 tháng Mười Hai năm 2021, Đức Hồng y Peter Turkson, Bộ trưởng Bộ Phát triển nhân bản toàn diện, đã mở cuộc họp báo để giới thiệu Sứ điệp của Đức Thánh cha Phanxicô, nhân ngày Hòa bình thế giới lần thứ 55, sẽ cử hành vào ngày 01 tháng Giêng tới đây, 2022, về đề tài: “Đối thoại giữa các thế hệ, giáo dục và lao động: những dụng cụ để xây dựng một nền hòa bình lâu dài”; đó cũng là ba con đường Đức Thánh cha đề nghị để xây dựng một nền hòa bình bền vững.
Hiện diện trên bàn chủ tọa cuộc họp báo, lúc 11 giờ 30, cũng có nữ tu Alessandra Smerilli, dòng Con Đức Bà Phù Hộ, Tổng thư ký lâm thời của Bộ và cha Fabio Baggio, dòng Scalabrini, Phó Tổng thư ký, đặc trách phân bộ di dân và tị nạn.
Trong lời dẫn nhập, Đức Thánh cha nhắc đến những thách đố to lớn thế giới ngày nay đang phải đương đầu. Ngài viết:
Thảm trạng thế giới
“Mặc dù có nhiều cố gắng nhắm đối thoại xây dựng giữa các quốc gia, những tiếng ồn chói tai của các cuộc chiến tranh và xung đột được khuếch đại, trong khi đó có những hậu quả ngày càng tệ hơn của sự thay đổi khí hậu và suy thoái môi trường, thảm trạng đói khát trở nên trầm trọng hơn, và kiểu mẫu kinh tế dựa trên chủ nghĩa cá nhân, tiếp tục thống trị thay vì sự chia sẻ liên đới. Giống như thời các ngôn sứ xưa kia, ngày nay tiếng kêu của những người nghèo và của trái đất không ngừng vang lên để khẩn xin công lý và hòa bình”.
Trong bối cảnh trên đây, Đức Thánh cha đề nghị “ba con đường để kiến tạo hòa bình lâu dài, trước tiên là đối thoại giữa các thế hệ, như nền tảng để thực thi những dự án chung. Tiếp đến là giáo dục, như một nhân tố tự do, trách nhiệm và phát triển. Sau cùng là công ăn việc làm, để hoàn toàn thực thi phẩm giá con người”.
Đối thoại giữa các thế hệ
Về con đường thứ nhất, Đức Thánh cha nhận xét rằng đứng trước quá nhiều vấn đề do đại dịch gây nên, có những người chạy trốn thực tại, rút lui vào thế giới riêng tư, trong thái độ dửng dưng, ích kỷ; nhưng cũng có những người khác phản đối bằng bạo lực. Nhưng giữa hai thái độ, đó có một chọn lựa khác luôn luôn có thể, đó là sự đối thoại giữa các thế hệ.
“Mỗi cuộc đối thoại chân thành, tuy không thiếu những tranh biện chính đáng và tích cực, luôn đòi phải có sự tín nhiệm cơ bản giữa những người đối thoại, đòi sự tín nhiệm nhau. Cuộc khủng hoảng y tế hiện nay đã gia tăng cảm thức cô đơn và co cụm vào mình” ... “Nơi người già có những nỗi cô đơn, còn nơi những người trẻ cảm thức bất lực và thiếu ý tưởng chung về tương lai. Nhưng cũng chính trong đại dịch, chúng ta thấy tại mỗi nơi trên thế giới đều có những chứng tá quảng đại, chia sẻ và liên đới”.
Đức Thánh cha nhận xét rằng: những người trẻ cần kinh nghiệm về cuộc sống, sự khôn ngoan và tinh thần của người già, còn người già cần sự hỗ trợ, lòng quí mến, tinh thần sáng tạo và năng động của người trẻ. “Những thách đố lớn về xã hội và những tiến trình bình định không thể bỏ qua sự đối thoại giữa những người già, những người bảo tồn ký ức và tiếp tục lịch sử, và những người trẻ. Cuộc khủng hoảng thế giới hiện nay cho thấy, trong cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa các thế hệ, có động lực của một chính sách lành mạnh, không chỉ hài lòng với việc thực hiện chính sách hiện tại, qua những vá víu và giải pháp mau lẹ, nhưng có một hình thức trổi vượt về tình thương đối với tha nhân, trong sự tìm kiếm những dự án chung và bền vững”.
Huấn luyện và giáo dục như động cơ hòa bình
Sang đến con đường thứ hai là giáo dục và huấn luyện, Đức Thánh cha nhận xét rằng: trong những năm gần đây, trên bình diện thế giới, ngân sách dành cho huấn luyện và giáo dục bị giảm bớt, bị coi như những chi phí hơn là tiền đầu tư. Nhưng chính giáo dục và huấn luyện là những động cơ chính yếu của sự phát triển nhân bản toàn diện, chúng làm cho con người tự do và trách nhiệm hơn, và chúng là điều không thể thiếu được để bảo vệ và thăng tiến công lý và hòa bình.
Trong bối cảnh này, Đức Thánh cha kêu gọi thế giới, thay vì gia tăng những chi phí quân sự, đưa chúng vượt quá mức độ thời “chiến tranh lạnh”, thì dùng các ngân khoản đó cho việc giáo dục. Cần lật ngược tương quan hiện nay giữa công quĩ dành cho giáo dục và những ngân khoản dành cho việc võ trang. Đàng khác, sự tiếp tục theo đuổi một tiến trình giải trừ võ trang thực sự chắc chắn sẽ mang lại nhiều lợi ích cho việc phát triển các dân nước, dành những nguồn tài chánh để sử dụng một cách thích hợp hơn cho sức khỏe, trường học, cơ cấu hạ tầng, chăm sóc lãnh thổ. v.v.”
Thăng tiến và bảo đảm việc làm xây dựng hòa bình
Về con đường thứ ba, Đức Thánh cha khẳng định rằng: “công ăn việc làm là một nhân tố không thể thiếu được để xây dựng và bảo tồn hòa bình... Việc làm là nơi mà chúng ta học cách đóng góp vào việc xây dựng một thế giới, trong đó con người có thể sinh sống được, một thế giới đẹp đẽ”.
“Đại dịch Covid-19 đã làm cho tình trạng công ăn việc làm trên thế giới, vốn đã phải đương đầu với nhiều thách đố, nay lại trở nên trầm trọng hơn. Hàng triệu hoạt động kinh tế và sản xuất bị phá sản; các công nhân bấp bênh ngày càng dễ bị tổn thương hơn, việc học hành trực tuyến, trong nhiều trường hợp, đã làm tuy thoái việc học hỏi và các tiến trình giáo dục. Hơn nữa, những người trẻ đối diện với thị trường nghề nghiệp và những người lớn bị thất nghiệp ngày nay, phải đương đầu với những viễn tượng bi thảm.
“Ngoài ra, trong dân số thế giới hiện nay, chỉ có một phần ba được hưởng chế độ bảo vệ xã hội. Tại nhiều nước nhiều bạo lực và các tội phạm có tổ chức gia tăng, bóp nghẹt tự do và phẩm giá con người, làm cho nền kinh tế bị nhiễm độc và ngăn cản việc phát triển công ích. Câu trả lời cho tình trạng này, là gia tăng những cơ hội để đạt được công ăn việc làm xứng đáng”.
Đức Thánh cha đặc biệt nhấn mạnh rằng: “Lao động là nền tảng, trên đó xây dựng công lý và tình liên đới của mỗi cộng đoàn. Vì thế, “không được tìm cách ngày càng thay thế lao công của con người bằng sự tiến bộ kỹ thuật: làm như thế, nhân loại tự gây hại cho ính mình. Lao động là một sự cần thiết, là thành phần của ý nghĩa cuộc sống trên trái đất này, là con đường trưởng thành, phát triển nhân bản và hoàn thiện bản thân”.
Đức Thánh cha cũng cổ võ rằng: “Điều cấp thiết hơn bao giờ hết là thăng tiến trên toàn thế giới những điều kiện làm việc xứng đáng, hướng tới công ích và bảo tồn thiên nhiên. Cần bảo đảm và nâng đỡ tự do của các sáng kiến kinh doanh và đồng thời gia tăng trách nhiệm xã hội được đổi mới, để lợi nhuận không phải là tiêu chuẩn duy nhất hướng dẫn”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Dòng Phanxicô tại Assisi tặng “Ngọn đèn hòa bình” cho ông António Guterres, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc
Cha Enzo Fortunato, Giám đốc phòng báo chí của Tu viện Assisi cho biết, “Tặng Ngọn đèn Hòa bình cho Tổng Thư ký Liên Hiệp quốc vì hoạt động quan trọng của ông vì hòa bình cho nhân loại là một ước mơ của chúng tôi trong nhiều năm.”
Thông cáo báo chí nhận định rằng “Ngọn đèn hòa bình” được trao cho ông Guterres “Vì hoạt động trung gian chính trị không mệt mỏi của ông trong sự phức tạp của thế giới chúng ta đang phải đương đầu với rất nhiều xung đột, chiến tranh, những bất công và sự suy thoái của con người và thụ tạo; một sự dấn thân sâu sắc với một phong cách đối thoại và thân ái, một phong cách của chủ nghĩa nhân văn huynh đệ. Trong quá trình biến đổi càng trở nên cần thiết ngày nay, Liên Hiệp quốc đóng một vai trò quyết định như một phòng thực nghiệm của hòa bình: trên thực tế, cần cấp thiết suy nghĩ lại về tương lai của ngôi nhà chung và dự án chung của chúng ta”.
Ông António Manuel de Oliveira Guterres, sinh năm 1949 tại Lisbon, là cựu Thủ tướng Bồ Đào Nha và Cao ủy về người tị nạn, đảm nhiệm chức vụ Tổng Thư ký thứ 9 của Liên Hiệp quốc vào ngày 1/1/2017 và bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai vào năm 2021.
Những người được trao “Ngọn đèn hòa bình” trong những năm gần đây nhất là Tổng thống Cộng hòa Colombia, Juan Manuel Santos, “vì nỗ lực đạt được trong các quá trình hòa giải với nhóm phiến quân FARC”; cựu Thủ tướng Đức Angela Merkel, người “nổi bật trong công cuộc hòa giải vì sự chung sống hòa bình của các dân tộc”; quốc vương Abdullah II của Jordan, vì “hành động và dấn thân của ông nhằm thúc đẩy nhân quyền, sự hòa hợp giữa các tín ngưỡng khác nhau và chào đón người tị nạn”; Tổng thống Cộng hòa Ý, Sergio Mattarella, vì “dấn thân nhằm ngăn chặn các hình thức hận thù, lạm dụng và ích kỷ đe dọa an ninh và sự chung sống hòa bình cũng như thúc đẩy một xã hội tự do hơn, công bằng hơn và huynh đệ hơn, cho phép sự phát triển nhân bản toàn diện của mỗi người”.
Hồng Thủy - Vatican News
ĐTC trò chuyện với những người mất tất cả nhưng không mất hy vọng
Người đầu tiên là chị Giovanna, nạn nhân của bạo lực gia đình. Trong thời điểm đại dịch, chị bị mất việc và không có nơi trú ẩn. Chị Giovanna hỏi Đức Thánh Cha, làm cách nào để chị lấy lại được nhân phẩm. Sau khi định nghĩa bạo lực “như satan”, Đức Thánh Cha nói: “Thật là nhục nhã khi sử dụng bạo lực, như tát vào má một em bé. Khuôn mặt là nơi biểu hiện nhân phẩm, vậy tát vào mặt người khác là một sự sỉ nhục”. Đức Thánh Cha nói hình ảnh một phụ nữ bị bạo lực làm cho ngài nhớ đến tượng Đức Mẹ Sầu Bi được đặt trong đền thờ thánh Phêrô. Đức Mẹ bị sỉ nhục trước người con bị lột trần, đóng đinh, bị coi như một tội nhân. Mẹ đã nuôi dưỡng Chúa Giêsu, vì vậy Mẹ bị sỉ nhục. Nhưng Mẹ không bị mất nhân phẩm. Và chiêm ngắm hình ảnh này trong những lúc gặp khó khăn, khi bị sỉ nhục hay cảm thấy bị mất nhân phẩm, sẽ cho chúng ta sức mạnh”.
Người thứ hai trò chuyện với Đức Thánh Cha là bà Maria, một người vô gia cư. Trước khi được chào đón tại một trung tâm đón tiếp người vô gia cư ở quảng trường Migliori ở Roma, bà từng sống trên đường phố trong nhiều năm. Trả lời câu hỏi của Maria “Tại sao xã hội lại đối xử tàn nhẫn với người nghèo?”, Đức Thánh Cha nói: “Hiện nay chúng ta đang bước vào một văn hoá dửng dưng. Trong văn hoá này chúng ta cố gắng tránh xa những vấn đề thực tế, như nỗi đau do thiếu nhà ở, thiếu việc làm. Đại dịch đã làm cho tình trạng này càng gia tăng, vì người nghèo phải gõ cửa những người cho vay nặng lãi. Người nghèo rơi vào tay những kẻ lợi dụng và mất tất cả. Đây là sự tàn nhẫn hơn cả. Cho vay nặng lãi không phải là cách để thoát khỏi vấn đề, trái lại nó tạo ra vấn đề mới”.
Sau đó, Đức Thánh Cha hỏi bà rằng liệu bà có giúp một người có hoàn cảnh tồi tệ hơn bà không. Và khi bà Maria khẳng định là có, Đức Thánh Cha nói thêm: “Khi đau khổ, người ta mới hiểu được tận cùng của nỗi đau. Hãy luôn cố gắng nhìn thẳng vào vấn đề vì sẽ có người khác đau khổ hơn bà, cần nhìn để giúp họ tiến lên”.
Người thứ ba trò chuyện với Đức Thánh Cha là Pierdonato, một người đang thụ án tù chung thân, và cho tới nay đã trải qua 25 năm tù. Nhờ học hành và cầu nguyện, Pierdonato đã nhận ra những sai lầm của mình. Anh hỏi Đức Thánh Cha rằng có hy vọng cho người muốn thay đổi không? Dựa vào Kinh Thánh, Đức Thánh Cha nói: “Hy vọng không bao giờ làm chúng ta nản lòng. Có Chúa ở bên cạnh, Người luôn gần gũi, đầy lòng trắc ẩn và dịu dàng. Chúa ở với mỗi tù nhân. Sức mạnh của chúng ta ở trong niềm hy vọng rằng Chúa ở gần bên chúng ta, luôn nhân từ và dịu dàng như một người mẹ”.
Ông Pierdonato hỏi tiếp: “Làm thế nào có thể chữa lành những vết thương cho các tù nhân?”. Đức Thánh Cha trả lời: “Mọi bản án đưa ra phải có một hy vọng, một cửa sổ. Nhà tù không có cửa sổ thì không ổn vì đó là một bức tường. Không nhất thiết phải là cửa sổ vật chất, mà còn là cửa sổ hiện sinh, cửa sổ tâm linh. Làm sao để tù nhân có thể nói: ‘Tôi biết tôi sẽ đi ra ngoài, tôi biết tôi có thể làm điều gì đó’. Đây là lý do tại sao Giáo hội chống án tử hình, bởi vì trong cái chết không có cửa sổ, không có hy vọng, một cuộc sống bị đóng lại. Đây là lý do tại sao nhà tù phải có cửa sổ”.
Người cuối cùng trò chuyện với Đức Thánh Cha là một hướng đạo sinh, 18 tuổi. Maristella, đại diện cho tất cả thanh thiếu niên cảm thấy bị bỏ rơi và mất kết nối với bạn bè trong thời điểm đại dịch. Maristella đề cập đến hậu quả của đại dịch đối với người trẻ, và hỏi Đức Thánh Cha làm cách nào để có thể tạo dựng một tương quan lành mạnh từ sự tiếp xúc và trải nghiệm. Đức Thánh Cha nói, đại dịch đã làm cho chúng ta hiểu rằng đối thoại cụ thể không thể bù đắp bằng những cuộc trò chuyện qua điện thoại, chúng ta cần một điều gì đó hơn thế nữa.
Về thói quen sử dụng điện thoại của giới trẻ, Đức Thánh Cha nói thêm: “Nếu con muốn sử dụng điện thoại, hãy sử dụng nó, nhưng điều này không được phép làm mất đi khả năng tiếp xúc với mọi người, tiếp xúc trực tiếp, cùng nhau đi học, đi dạo, đi uống cà phê, tiếp xúc thật chứ không ảo. Bởi vì nếu chúng ta bỏ qua liên hệ thực tế, chúng ta cũng sẽ kết thúc ở thể lỏng hoặc thể khí, đối với người sống trực tuyến là người thiếu sự dịu dàng”.
Kết thúc buổi trò chuyện, Đức Thánh Cha hướng trực tiếp đến khán giả truyền hình và hỏi: Anh chị em nghĩ gì về Giáng sinh? Tôi phải đi mua cái này cái kia ... Tốt thôi, nhưng Giáng sinh là gì? Giáng sinh có phải là một cây thông? Một tượng trẻ thơ, người mẹ và người cha? Đúng, đó là Chúa Giêsu, đó là sự ra đời của Chúa Giêsu, hãy dừng lại một chút và nghĩ về Giáng sinh như một thông điệp của hòa bình. Chúc anh chị em một Giáng sinh với Chúa Giêsu, một Giáng sinh đúng nghĩa. Nhưng như vậy có nghĩa là chúng ta không thể ăn mừng ư? Không, anh chị em hãy ăn mừng, nhưng hãy làm điều đó với Chúa Giêsu, nghĩa là, với bình an trong tâm hồn. Chúc anh chị em một Giáng sinh vui vẻ. Hãy ăn mừng, tặng quà, nhưng đừng quên Chúa Giêsu. Giáng sinh là Chúa Giêsu đến, Chúa Giêsu đến để chạm vào tâm hồn, Chúa Giêsu đến để chạm vào gia đình anh chị em”.
Ngọc Yến - Vatican News
ĐTC mừng sinh nhật và Giáng Sinh với các trẻ em của phòng khám nhi khoa Santa Marta
Đức Thánh Cha đã thưởng thức các bài hát và tiểu phẩm từ các trẻ em, và mọi người được thưởng thức một miếng bánh từ chiếc bánh sinh nhật lớn.
Vào năm ngoái, do đại dịch, cuộc gặp gỡ thường niên với Đức Thánh Cha đã bị hủy, nhưng lễ hội năm 2021 có một điểm thu hút mới, đó là Ngôi làng Giáng sinh với Ông già Noel và các chú lùn, được thiết lập trong nội thành Vatican. Các trẻ em có thể chụp ảnh với Ông già Noel và mỗi em nhận một hộp quà Giáng sinh gồm bánh pizza, bánh nướng và sô cô la.
Trả lời câu hỏi của một thiếu nhi về tầm quan trọng của “yêu thương nhau”, Đức Thánh Cha nói rằng đây là cách tốt để tóm tắt sứ điệp của Phúc Âm, và nhấn mạnh đến sự cần thiết của gần gũi, vì “nếu không nhìn vào mắt người khác chúng ta không bao giờ hiểu nhu cầu của họ”. Đức Thánh Cha lưu ý: “Một người không lắng nghe người khác thì chỉ lắng nghe mình”. Ngài yêu cầu các trẻ em cùng nhau hô to: “Tốt hơn nên lắng nghe người khác”.
Đức Thánh Cha đã dành thời gian trả lời một số câu hỏi và mời gọi các trẻ em hãy luôn chú ý đến những người đang cần giúp đỡ, mặc dù đôi khi điều đó không hề dễ dàng. Ngài nói: “Chúng ta ở đây hôm nay, những người bạn muốn giúp đỡ lẫn nhau. Hãy can đảm, tiến bước và có một bữa tiệc vui”.
Phòng khám Nhi khoa Santa Marta ra đời trong bối cảnh khó khăn sau khi Thế chiến thứ nhất kết thúc. Nó được thành lập vào ngày 8/5/1922 bởi Đức Giáo hoàng Piô XI, và ngài đã giao phó cho các nữ tu Nữ Tử Bác ái thánh Vinh Sơn phụ trách việc nuôi dưỡng trẻ em nghèo và trẻ em bị ảnh hưởng bởi chiến tranh.
Vào tháng 7/2008, Đức Biển Đức XVI đã nâng phòng khám thành một tổ chức, với các quy chế riêng. Hiện tại, Đức Hồng y Konrad Krajewski, Chánh Sở Từ thiện của Đức Thánh Cha, là chủ tịch của tổ chức.
Ngày nay, các bác sĩ của bệnh viện Bambino Gesù của Roma, Hiệp hội hai thánh Phêrô và Phaolô, các bệnh viện tư nhân và các bệnh viện khác của tổ chức từ thiện thành phố cùng với các tình nguyện viên giáo dân cung cấp dịch vụ miễn phí cho phòng khám gần tròn 100 năm thành lập này. (CNA 19/12/2021)
Hồng Thủy - Vatican News
Bộ Phụng tự trả lời mười một nghi vấn về Tự sắc “Traditionis Custodes”
Hôm 18 tháng Mười Hai vừa qua, Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích đã công bố câu trả lời cho mười một nghi vấn được nêu lên, liên quan đến Tự sắc Traditionis Custodes, những người gìn giữ Truyền thống, xác nhận việc giới hạn việc làm lễ bằng tiếng Latinh theo nghi thức tiền Công đồng Vatican II, do Đức Thánh cha Gioan XXIII ban hành hồi năm 1962.
Bản giải đáp mang chữ ký của Đức Tổng giám mục Arthur Roche, Tổng trưởng Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích, nhưng đã được Đức Thánh cha Phanxicô phê chuẩn trước đó. Nói chung, các giải đáp này siết chặt và giải thích ngặt hơn những qui định Đức Thánh cha đưa ra trong tự sắc.
Trong số các giải đáp có qui định rằng tại nơi nào còn được phép cử hành thánh lễ tiếng Latinh theo nghi thức cũ thì các bài đọc phải dùng tiếng địa phương. Những linh mục mới chịu chức gần đây phải được phép rõ ràng của Đức Thánh cha mới có thể cử hành thánh lễ theo nghi thức cũ; khuyên các giám mục chỉ cho phép cử hành thánh lễ theo nghi thức cũ một cách nhất thời; trong trường hợp vắng mặt linh mục được phép cử hành lễ nghi thức cũ thì linh mục thay thế phải được phép chính thức; cần có phép của Đức giám mục giáo phận để truyền chức phó tế và trao các tác vụ đã được Giáo hội thiết định; phép cử hành thánh lễ theo nghi thức cũ đối với linh mục giáo phận thì chỉ có giá trị trong giáo phận đó. Không được cử hành lễ cũ trong các nhà thờ giáo xứ và thánh lễ này không thuộc đời sống hằng ngày của giáo xứ.
Trong thư gửi các giám mục trên thế giới, kèm theo bản trả lời thắc mắc, Đức Tổng giám mục Roche viết rằng: “thật là buồn khi thấy mối liên hệ sâu xa nhất về sự hiệp nhất và tham gia Bánh Duy Nhất được bẻ ra là Thân Mình của Chúa dâng hiến để tất cả mọi người được trở nên một (Xc Ga 17,21) lại trở thành lý do để chia rẽ: bổn phận của các giám mục - cum Petro et sub Petro - cùng với Phêrô và dưới Phêrô, là giữ gìn tình hiệp thông, là điều kiện thiết yếu để có thể tham dự Bàn tiệc Thánh Thể, như thánh Phaolô tông đồ đã nhắc nhở. (Xc 1 Cr 11,17-34)”
Nhiều báo chí nhận xét rằng những giải đáp trên đây xiết chặt các qui luật đã được Đức Thánh cha ban hành trong Tự sắc “Những người bảo tồn truyền thống”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu