Nào chúng ta cùng đến Bethlehem!
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Bethlehem- hebräisch בית לחם, Beth Lechem; arabischبيت لحمBait Lahm.
Một thành ở phía Tây ngạn sông Jordan với gần 40.000 dân số thuộc vùng tự trị của người Palestina, nằm cách không xa ở phía Bắc Gierusalem. Phần đại đa số dân chúng cư ngụ ở đây bây giờ là người Ả Rập theo Hồi giáo.
Thành phố này nhỏ, nhưng lại trở nên quan trọng đối với người Công giáo hoàn cầu. Vì nơi đây Chúa Giêsu giáng sinh làm người, mà chúng ta mừng kỷ niệm ngày sinh nhật của Ngài ngày 25.12. hằng năm.
Căn cứ vào thời điểm Chúa Giêsu giáng sinh ở Bethlehem, người ta tính niên lịch cách phân chia kỷ nguyên thời gian, Chúa Giêsu giáng sinh là mốc điểm thiên kỷ trước và sau Công nguyên: năm Chúa Giêsu giáng sinh làm năm thứ nhất sau Chúa giáng sinh, hay trung lập hơn còn gọi là năm thứ nhất sau công nguyên.
Cách ̣đây hơn hai ngàn năm, khi Thánh Giuse và đức mẹ Maria về Bethlehem khai tên vào sổ bộ hộ tịch, rồi sinh Chúa Giêsu ở đây, lúc đó Bethlehem chỉ có vào khoảng hơn ba trăm người cư ngụ sinh sống. Đời sống của họ thời đó đơn giản phần nhiều làm nghể chăn nuôi xúc vật chiên bò ngoài cánh đồng cỏ,và nhà ờ là những túp lều nằm sâu trong hang gò núi đất, hay làm bằng vật liệu nhẹ thô sơ nhào nặn từ bùn đất. Vì thế Bethlehem không hay rất ít được nhắc tới.
Trong Kinh Thánh cựu ước có nhắc tên Bethlem: „Bà Ra-khen qua đời và được chôn trên con đường đi Ép-ra-tha, tức là Bethlehem“. ´(St 35,19)
Sau khi các chi tộc Israel chiếm được vùng đất hứa Kanaan, thành phố nhỏ Bethlehem được phân chia cho chi tộc Juda : “Vào thời các thủ lãnh cai trị, một nạn đói xảy ra trong xứ. Có một người cùng với vợ và hai con trai bỏ Bethlehem miền Giu-đa mà đến ở trong cánh đồng Mô-áp.“ (Ruth 1,1)
Bethlehem tuy là một thành phố nhỏ miền thôn quê không quan trọng gì về phương diện chính trị và kinh tế thời xa xưa, nhưng theo Kinh Thánh lại là quê hương sinh thành của Vua David ( 1 Samuel 16,1), người lập nước Do Thái. Và Bethlehem cũng là nơi Đấng Cứu Thế theo dòng tộc vua David đã sinh ra ( Micha 5,1).
Thánh sử Matheo ( 2,1) và Thánh sửLuca ( 2,4-1) viết thuật lại trong phúc âm, Chúa Giêsu sinh ra ở Bethlehem miền Judea nước Do Thái. Và từ thế kỷ thứ hai những tín hữu Kitô giáo thuở ban đầu đã tôn kính nơi Chúa Giáng sinh ở vùng Bethlehem trong một hang động.
Năm 135 hoàng đế Roma Hadrian đã cho quân chiếm đóng Do Thái và bắt dân chúng vùng Bethlehem di dân sang sống nơi khác, đồng thời Ông lập đền thờ kính thờ các Thần ngoại giáo Roma nơi đây.
Năm 333 Thánh nữ Helena , mẹ của Hoàng đế Constantino đệ nhất cho xây ngôi đền thờ kính Chúa giáng sinh được xây dựng trên chính nơi hang động này. Đền thờ này được làm phép khánh thành năm 335 dài 27 mét, phần cung thánh rộng 17 mét.
Năm 386 Thánh gíao phụ Hieronymo đến cư ngụ ở Bethlehem, nơi đây Ông sống hơn 35 năm trong một hang động ngay sát bên cạnh đền thờ Chúa giáng sinh dịch bộ Kinh Thánh bản Vulgata - Bản 70 - từt iếng Hylạp sang tiếng Latinh.
Trong thư số 46. chương 11,3 Thánh giáo phụ Hieronymo đã viết về lịch sử nơi Chúa Giêsu giáng sinh: „Ecce in hoc parvo terras foramine caelorum conditor natus est - Nơi đây trong một phần nhỏ bé mặt địa cầu Đấng Tạo dựng trời đất đã sinh ra.“
Vào thế kỷ 5 đền thờ được trùng tu sửa chữa lại sau cơn hỏa hoạn và động đất bị hư hại xuống cấp.
Vào năm 614 đền thờ trải qua thời chiến tranh không bị phá hủy do quân đội Ba tư xâm chiếm Bethlehem chống lại đế quốc Byzantin. Theo tương truyền nơi cổng vào đền thờ có hình vẽ chạm khắc Ba Vua đến thờ lạy Chúa Giêsu lúc Ngài sinh ra. Nhìn thấy hình Ba vua người Phương đông, quân Ba tư cho là cha ông của họ đã đến cư ngụ nơi đây, nên họ không phá hủy hay làm hư hại ngôi đền thờ.
Thời kỳ Đạo binh thánh gía sang giải phóng đất Thánh ( 1161- 1169) đã tân trang tu sửa lại đền thờ. Vì đền thờ năm 637 bị Kalifat Omar của Hồi giáo chiếm tàn phá hư hại nặng.
Vào thế kỷ 12. đế quốc Thổ nhĩ kỳ thời Osmar đến chiếm Palestina trong đó có Bethlehem, đền thờ bị tàn phá nhiều.
Năm 1670 Chính Thống Giáo Hylạp tu sửa lại đền thờ.
Giáo Hội Công Giáo năm 1717, sau những nghiên cứu tìm tòi đã tin rằng nơi giữa chính đền thờ là địa điểm ngày xưa Chúa Giêsu đã sinh ra nằm nơi đó trong máng đựng thức ăn cho xúc vật. Nơi đây được khắc ghi đánh dấu bằng một ngôi sao đá cẩm thạch có14 cánh với dòng chữ: „ Hic de virgine Maria Jesus Christus Natus est - Nơi đây đức Mẹ Maria đồng trinh đã hạsinh Chúa Giêsu Kitô.“.
Ngôi sao 14 cánh là hình ảnh dấu hiệu nhắc nhớ đến 14 thế hệ như viết trong gia phả của Chúa Giêsu.
Ngôi đền thờ Chúa giáng sinh ngày nay thuộc vào danh sách Di sản văn hóa của Liên hiệp quốc.
Những chặng đường lịch sửcủa thành phố Bethlehem
- 2000 trước Chúa giáng sinh: thánh phố thuộc miền Canaan
- 1200 trước Chúa giáng sinh: chi tộc Juda di dân đến cư ngụ
- 1150 trước Chúa giáng sinh : nạn đói kém. Lịch sửBà Ruth
- 1008 tr. Ch. giáng sinh Ngôn sứ Samuel phong vương cho David
- 586 tr. Ch. giáng sinh : Vua Nabukadnezar phá hủy Gierusalem.
- 333. tr. Ch. giáng sinh : Bethlehem dưới sựthống trịcủa hoàng đếAlexander cả.
- 198. Tr. Ch giáng sinh : Anh em nhà Makkabeo và Seleukiden chống lại sựthống trịcủa Roma.
- 63. tr. Ch. giáng sinh : Pompejus xâm chiếm vùng Bethlehem
- 4. tr.Ch. giáng sinh : Chúa Giesu sinh ra ở Bethlehem
- 70. sau Chúa giáng sinh: đền thờ Gierusalen thứhai bịphá hủy.
- 135 Hoàng đếHadrian bắt dân chúng Bethlehem đi ra khỏi xứ.
- 326 Nữ Hòang Helena thăm viếng Bethlehem
- 386 Thánh Hieronymus tới sind sống ở Bethlehem
- 614 Người Ba tư xâm chiếm Bethlehem
- 637 Kalifat Omar chiếm Bethlehem
- 1100 Đạo binh thánh gía Thập tiến về Bethlehem
- 1516 Quân đội Thổ nhĩ kỳ của đế quốc Osma chiếm Palestina
- 1928 Thời kỳ quân đội Anh quốc cai trị.
- 1948 Bethlehem thuộc Jordan
- 1967 quân đội Israel chiếm Bethlehem.
- 1987 bùng nổ chiến tranh Infanta, quân Giái phóng Palestina chiến đấu chống quân đội Israel gây tàn phá ở Bethlehem
- 1995 bắt đầu thời kỳ tự trị cho người Palestina.
Ngày nay đến thăm viếng hàng hương Bethlehem, nơi Chúa sinh ra, khách hàng hương vào viếng đền thờ Chúa giáng sinh do Chính Thống giáo Hy lạp cai quản phần trên đền thờ, dưới hầm nơi có ngôi sao 14 cánh chỗ Chúa Giêsu sinh ra do Chính Thống giáo Armenien cai quản, và góc nhỏ chỗ thấp bên cạnh chỗ ngôi sao 14 cánh là bàn thờ dành cho Công giáo.
Liền sát ngay bên cạnh là thánh đường Thánh nữ Catharina rộng lớn do Dòng Phanxico Công giáo trông coi quản trị. Nơi cửa ra vào thánh đường có dòng chữ bằng tiếng Anh:
„We are hoping that:
If you enter here as a tourist, you would exit as a pilgrim.
If you enter here as a pilgrim, you would exit as a holier one.“
Chúng tôi hy vọng rằng:
Nếu Bạn đi vào nơi đây như một khách du lịch, ước gì khi ra Bạn là một người hành hương.
Nếu bạn đi vào nơi đây là một người hành hương, ước gì khi ra Bạn là một người thánh thiện hơn.“
Khách hành hương còn đến viếng cánh đồng Thiên Thần cách xa đền thờ vào khoảng hơn ba cây số. Nơi đây ngày xưa khi Chúa Giesu sinh ra, Thiên Thần Chúa đã hiện ra với các người chăn chiên báo tin cho họ“ Hôm nay, đấng cứu Thế đã sinh ra trong thành Vua David“. ( Lc 2, 11).
Cũng trong khu đền thờ, khách hành hương còn đến thăm viếng đền thờ Sữa đức mẹ nuôi Chúa Giêsu sau khi sinh ra. Tương truyền, nơi đây gia đình Chúa Giêsu đã trải qua sống một thời gian. Và từ nơi đây gia đình Thánh gia đã theo lời Thiên Thần báo tin đi tỵ nạn di cư sang sống bên Ai Cập lánh nạn .Vì Vua Herode truy lùng tìm bắt giết hài nhi Giêsu.
Lời rủ nhau của các người chăn chiên năm xưa vẫn còn vang vọng trong tâm trí :„ Nào chúng ta cùng đến Bethlehem !“ không chỉ trong đêm mừng Chúa giáng sinh, nhưng luôn trong đời sống.
Mừng lễ Chúa Giáng sinh 2015
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nguồn gốc Chúa Giêsu Kitô
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngài từ đâu đến?
Xưa nay trong các nền văn hóa nhân loại hầu như đều có sách ghi chép lại gia phả, hay còn gọi là hình ảnh cây nhánh ngành của một dòng họ huyết tộc, triều đại vương quốc…
Và để tìm hiểu về nguồn gốc một người nào, căn cứ theo cuốn gia phả cây dòng họ đó mà lần tìm ra xuất xứ gốc gác của người đó.
Chúa Giêsu sinh ra làm người trên trần gian ở nước Do Thái. Nên cũng thuộc về một dòng tộc.
Thánh sử Matheo đã ghi chép lại gia phả của Chúa Giêsu tuy theo thứ tự huyết thống máu mủ từ tổ tiên, nhưng nhấn mạnh đến khía cạnh đạo đức thần học lời đoan hứa của Thiên Chúa mang đến ơn cứu độ cho con người.
Cây gia phả dòng tộc Chúa Giêsu như Thánh Matheo (Mt 1, 1-17 ) thuật lại theo ba giai đoạn, mỗi giai đoạn bao gồm 14 thế hệ: từ Tổ phụ Abraham đến Vua Davit, từ Vua Salomon đến thời kỳ bị lưu đầy sang Babylon, và từ sau thời lưu đầy ở Babylon trở về đến Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu Kito là cao điểm và trung tâm lời đoan hứa ơn cứu độ của Thiên Chúa cho trần gian.
Cuốn sách khởi thủy
Khi đọc gia phả Chúa Giêsu theo Thánh sử Matheo nơi câu đầu viết: „ Liber generationis Jesu Christi… Sách gia phả dòng tộc thế hệ của Chúa Giêsu Kito “ ( Mt 1,1) nhắc nhớ liên tưởng đến sách Sáng Thế ký viết về gia phả công trình sáng tạo trời đất: „Istae generatines caeli et terrae … gốc tích dòng dõi thế hệ của trời đất..„ (St 2,4).
Và nơi sách Sáng Thế Ký còn viết tiếp về gia phả dòng tộc con người nữa: „ Hic est liber generationis Adam in die qua creavit Deus hominem ad similitudinem Dei fecit illum - Đây là gia phả ông A-đam: Ngày Thiên Chúa sáng tạo con người, Chúa làm ra con người giống như Thiên Chúa.2 „ (St 5,1).
Từ khởi đầu gia phả, Chúa Giêsu được sai đến trần gian trong công trình vũ trụ là con người ( Mt 1,1). Và Thánh sử Matheo kết thúc gia phả Chúa Giêsu trong phúc âm với lời sai các Tông đồ, Giáo hội Chúa ở trần gian, đến với mọi dân tộc: „ Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,20 dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.“ ( Mt 28, 19 ̣20), như trong sách Sáng thế Ký đã viết về gốc tích trời đất và con người (St 2,4 và 5,1).
Phúc âm Thánh Mattheo trình bày Chúa Giêsu được Thiên Chúa sai đến trần gian làm người trong công trình lịch sử sáng tạo vũ trụ. Và Giáo hội nối tiếp công việc sứ mạng của Chúa Giêsu cũng trong bối cảnh lịch sử toàn thể vũ trụ.
Chúa Giêsu, đức Kitô
Tên Chúa Giêsu với người Công giáo là tên cực trọng, cực thánh. Nên khi hát hay đọc đến tên Chúa Giesu trong kinh Vinh danh và kinh Tin kính mọi người cúi đầu thờ lạy tôn kính.
Jesus viết bằng tiếng Hylạp trong Thánh kinh Cựu ước là „ Jeschua“, mang ý nghĩa như „ JHW là ơn cứu độ“. Ngay chương khởi đầu phúc âm Thánh sử Matheo đã nói đến viếc đặt tên như trọng trách của Thiên Thần nói với cho Ông Giuse : “ Bà (Maria) sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.(Mt 1,21).
Ơn cứu độ là trung tâm cho sứ mạng của Chúa Giêsu. Vì thế nói đến tên Giêsu sứ mạng cứu độ luôn đi liền với“„Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là „Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." (Mt 1,23. Isaia 7,14).
Mở đầu gia phả, Chúa Giêsu đã được xưng tụng là Jesus Christus (Mt 1,1,16, 18, và 2,4) - theo nguyên ngữ Do Thái là Messias và có ý nghĩa Đấng được xức dầu.
Như thế Thánh sử Matheo không chỉ viết thuật lại lý lịch gia phả Chúa Giêsu có nguồn gốc là một nhân vật lịch sử thành Nazareth, dù việc này giữ vai trò quan trọng. Nhưng còn nhấn mạnh đến sứ mạng Chúa Giêsu là Messias từ xưa nay được trông đợi trong dân Do Thái, như lời đoan hứa về Giêsu đã được loan báo. Tước hiệu Christus- Đấng được xức dầu- của Chúa Giêsu là một điều đặc biệt trong phúc âm theo Thánh Matheo.
Ngoài ra hai vị Tổ phụ Abraham và Vua David được nêu ra trong gia phả Chúa Giêsu như mấu chốt dòng tộc của ngài. Theo Đức giáo hoàng Benedickt XVI. việc nhắc đến hai vị tổ phụ dòng dõi này nói lên điều căn bản “ nguồn gốc Chúa Giêsu phát sinh từ đâu“.
Với Thánh sử Matheo, Chúa Giêsu là con dòng tộc Vua David vừa về phương diện pháp lý và vừa về khía cạnh thần học: Chúa Giêsu Kitô là Messia của dòng tộc vua David được trông đợi mong chờ trong dân Do Thái đến mang ơn cứu độ cho toàn dân.
Chúa Giêsu là con vua David, nên có nguồn gốc từ gốc cây gia phả của nhà vua (Mt 2,2- 27,11.29.37.42.). Vì thế Thánh sử Matheo đã viết cây gia phả Chúa Giêsu trong mối tương quan nối liền từ Vua David - người lập nước Do Thái - với Đấng Messia là Chúa Giêsu. Và như thế, Chúa Giêsu trước hết được sai đến cho người Do Thái đang trông đợi Đấng Cứu Thế đến( 4,23).
Gia phả nói đến Chúa Giêsu là con thuộc dòng tộc David và là vị Messias thuộc dòng tộc David. Nên Chúa không có gì lạ bất thường, việc Chúa Giêsu sinh ra ở quê hương của Vua David thành Bethlehem (1 Samuel 17,12.58, 20,6 ,Mt 2,1).
Thiên Chúa qua lời Thiên Thần hiện đến nói Giuse trong giấc ngủ, cũng thuộc dòng tộc Vua David, làm cha nuôi Chúa Giêsu trên trần gian, nói lên Chúa Giêu là người con thuộc dòng tộc Vua David về phương diện pháp lý (Mt.1,20).
Theo Thánh Matheo, Chúa Giêsu không chỉ là con thuộc dòng tộc Vua David, nhưng Ngài còn là người con thuộc dòng tộc Tổ phụ Abraham.
Tổ phụ Abraham là người được Thiên Chúa Giave JHWH chúc phúc lành cho mọi dân tộc như trong sách Sáng thế ký 12,3.
Với Thánh sử Matheo, Tổ phụ Abraham được kể đến ngay khởi đầu gia phả Chúa Giesu Kito nói lên sự khai mở ơn cứu độ cho toàn thể công trình sáng tạo hoàn vũ của Thiên Chúa, như lệnh truyền sai đi truyền giáo của Chúa Giêsu trong phần kết của Phúc âm Matheo (Mt 28,18-20.).
Nguồn gốc Chúa Giêsu, theo như gia phả Thánh Matheo viết lại, vừa là con dòng tộc via David nói lên Chúa Giêsu là Messias mang niềm hy vọng cho dân Israel, đang khi Chúa Giêsu cũng là người con thuộc dòng dõi tổ phụ Abraham trải rộng theo chiều ngang đường chân trời cho công trình tạo dựng khắp trời đất nơi mọi dân tộc.
Và như vậy, Chúa Giêsu Kitô sinh ra trên trần thế mở ra lịch sử chúc lành của dân Do Thái cho mọi dân tộc.
Con Thiên Chúa từ trời cao
Chúa Giêsu Kito theo gia phả ( Mt 1,1-17) về phương diện là một con người có nguồn gốc thuộc dòng tộc Abraham và dòng tộc Vua David. Nhưng Thánh sử Matheo không dừng lại nơi đó, Ông còn viết về nguồn gốc từ trời cao của Chúa Giêsu nữa:
„Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với Ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.“ ( Mt 1,18).
Thánh sử Matheo viết phúc âm Chúa Giêsu, nhất là nơi phần gia phả nguồn gốc Chúa Giêsu trung thành dựa trên nền tảng Kinh Thánh Do Thái: tất cả những gì xảy ra đều có nguồn gốc do từ Thiên Chúa. Chỉ từ nơi Thiên Chúa, sự sống con người được tạo thành. Ngài tạo dựng hình hài thần thể con người, và thổi hơi sự sống vào cho có sự sống:
„ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.“ ( St 2,7).
Trong Thánh Vịnh nói đến sự sống của sinh vật tham dự vào hơi thở sự sống của Thiên Chúa:
„Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi;
lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi.
30 Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới,
là chúng được dựng nên,
và Ngài đổi mới mặt đất này. „ ( Tv 104,29-30)
Sự thụ thai và sinh ra của các nhân vật trong Kinh thánh có một sứ mạng đặc biệt của trời cao có nguồn gốc từ sự tạo dựng trực tiếp của Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh trường hợp Chúa Giêsu Kitô ( Mt 1,18-25), Thánh Gioan tiền hô và Chúa Giêsu ( Lc 1,5-38), Tổ phụ Isaak ( thư Galata 4,23.27) và Thầy cả thượng phẩm Melchisedek ( Thư Do Thái 7,3).
Thánh sử Matheo nối liền đức tin vào quyền năng Thánh Thần
Thiên Chúa với công thức sự sinh ra bởi một trinh nữ: Maria hạ sinh người con trai không do tự mình, nhưng bởi quyền năng đức Chúa Thánh Thần.
——————————————————————
Hằng năm người Công Giáo mừng kỷ niệm lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người trên trần gian, Đấng là ánh sáng của Trời cao soi chiếu vào đêm tối tội lỗi, và chỉ đường cho con người về cùng Thiên Chúa tình yêu thương, mà vì tội nguyên tổ Adong Evà đã mất hướng đi chỉ đường.
Chúa Giêsu Kitô không là một „Mythos“, nhưng là một người có nguồn gốc thuộc dòng dõi tổ phụ Abraham, thuộc dòng tộc Vua David trên trần gian, và đồng thời là Con Thiên Chúa. Ngài là niềm hy vọng, và ơn cứu độ cho linh hồn con người trên trần gian.
Và trong thánh lễ mừng Chúa giáng sinh khi tuyên xưng đến phần kinh tin kính : Bởi phép đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng trinh nữ Maria, và đã làm người“ mọi người qùy gối tưởng nhớ kính thờ mầu nhiệm Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống thế làm người mang niềm vui ơn cứu độ cho trần gian.
Mừng lễ Chúa giáng sinh 2015
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Misericordes sicut pater - Thương xót như Chúa Cha
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Ngày 11.10.1962 Đức Thánh cha Gioan XXIII. khai mạc Công đồng Vaticano II. trong bài giảng đã nói: „ Hôm nay Giáo hội, bạn trăm năm của Chúa Kitô muốn tốt hơn hết dùng phương cách lòng thương xót là phương cách chữa trị mang đến sự chữa lành. Nó tựa như vũ khí chống lại những khắt khe do những sai lạc về thực hành đức tin.“
Ngày 08.12.2015 kỷ niệm 50 năm bế mạc Công đồng Vaticano II., ( 08.12.1965) Đức Thánh Cha Phanxicô đã mở cửa Năm Thánh khai mạc Năm Thánh Lòng thương xót ngay tại đền thờ Thánh Phero , nơi 50 năm trước đã diễn ra Công đồng Vaticano II.
Misericordia - Lòng thương xót
Tiếng Latinh Misericordia trong đó có chữ cor: trái tim - Tiếng Việt Nam viết khác : Lòng thương xót trong đó có chữ lòng cũng là hình ảnh biểu hiệu về trái tim.
Trái tim ở đây chỉ về trái tim Chúa Giêsu. Thánh sử Gioan đã ghi thuật lại hai cử chỉ nói lên rõ nết về trái tim Chea Giêsu: Trong bữa tiệc ly, người môn đệ yêu dấu tựa vào ngực Chúa Giêsu, nơi trái tim nguồn phát xuất thông truyền sự sống đi khắp toàn thân thể . Và cũng trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu rửa chân cho các Môn đệ mình. Đây là cử chỉ Chúa Giêsu muốn nói, như Cha Haering suy tư: con người chúng ta lànhững người tội lỗi.
Và theo Cha Haering đó là hình ảnh nói về lòng thương xót của Kitô giáo: Phục vụ và yêu mến. Nên hình ảnh này là dấu chỉ lòng thương xót của Giáo hội Chúa Giêsu Kitô.
Lòng thương xót biểu hiệu điều tốt đẹp. Con người chúng ta cảm thấy vui mừng hạnh phúc, khi ai đó , dù mìnt có lỗi lầm, nhưng không khiển trách, mà cùng cảm thông nói lời an ủi làm hòa. Hay trong hoàn cảnh gặp tai nạn đau buồn, bệnh nạn được nâng đỡ nhận được lời phấn chấn cho thêm can đảm.
Lòng thương xót khi lan tỏa ra mang tạo nên mối dây tình liên đới. Nó mang đến sức sống niềm qui và đời sống cộng đoàn chung hợp giữa con người với nhau. Và qua đó bắc cây cầu giao hảo hòa bình trong đời sống.
Năm thánh lòng thương xót được Đức Thánh Cha Phanxico kêu gọi lập ra không chỉ là kỷ niệm 50 năm bế mạc Công đồng Vaticano II. ( 1965 - 2015), nhưng còn muốn sâu xa hơn nữa là phá đổ bẻ gẫy bóng tối sự dữ tội lỗi, thiết lập sự lại giao hòa con người với Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, giữa con người với nhau, và với công trình vũ trụ thiên nhiên do Thiên Chúa tạo dựng ban cho con người.
Sicut Pater - Như Chúa Cha
Chủ đề năm Thánh lòng thương xót dựa trän câu Kinh Thánh „ Estote ergo misericordes sicut et Pater vester misericors est - Anh em hãy có lòng thương xót, như Cha anh em là Đấng giầu lòng thương xót“ (Lc 6,36).
Năm Phụng vụ từ Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng 2015 đến Chúa nhật 34. thường niên 2016, phúc âm Chúa Kito theo Thánh Luca được đọc trong suốt cả năm. Và đó cũng rất phù hợp với chủ đề lòng thương xót. Vì phúc âm theo Thánh Luca có nhiều dụ ngôn nói về lòng thương xót như dụ ngôn người Samaritano nhân lành 10,30-37, dụ ngôn người chăn chiên đi tìm con chiên lạc 15,4-7, dụ ngôn người đàn bà mất đồng tiền 15,8-10, dụ ngôn người cha nhân lành 15,11-32 …
Sứ điệp những biểu tượng
Trên Logo năm Thánh lòng thương xót có hình Chúa Giêsu trên vai vác một người. Đầu của Chúa Giêsu và người đó chạm vào nhau và cả đôi mắt nhìn vào nhau nữa: Chúa Giêsu nhìn sâu vào nỗi thống khổ của người nằm trên vai, mà Ngài cảm nhận được qua chính bản thân mình. Còn người trên vai nhìn thấu hiểu được tình yêu lòng thương xót của Chúa Giêsu. Qua đó Chúa Giêsu muến nói lên: „ Hãy có lòng thương xót như Chúa Cha!“
Đức Thánh Cha Phanxico đã mở Santa porta - Cửa năm thánh - ở đền thờ Thánh Phero và Santa Porta ở đền thờ Đức Bà cả, Thánh Phaolo ngoại thành và Laterano cũng được mở ra, để trong suốt Năm Thánh mọi tín hữu Chúa Kitô đến hàng hương bước qua Cửa năm Thánh lãnh nhận ơn toàn xá.
Nơi các Giáo phận địa phương Cửa Năm Thánh ở nhà thờ chính tòa và những nhà thờ khác trong gíao phận tùy theo đức giám mục giáo phận ấn định cũng được mở ra cho mọi giáo hữu Chúa Kitô đến hành hương bước qua, như ở Roma trong suốt Năm Thánh.
Chúa Giêsu tự nhận mình là cửa chuồng chiên (Ga 10,7) bảo vệ đàn chiên, che chở con người. Ngài bước qua những bức tường lề luật, những ranh giới phân biệt và mở cửa cho nhiều người. Vì Thiên Chúa muốn cứu độ con người, như khi Ngài chữa lành các người bị bệnh tật vào ngày lễ nghỉ Sabat, người nói chuyện với những người bị cho là tội lỗi, bị nguyền rủa bỏ rơi, với trẻ con, với phụ nữa.
Từ khi Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa sinh ra làm người trên trần gian, cửa thông thương đã mở ra giữa trời và đất, Thiên Chúa và con người.
Khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, cửa ơn cứu độ trong nước Thiên Chúa mở ra cho mọi người trên trần gian sau khi qua đời.
Nên khi cửa năm thánh được mở ra, và chúng ta người tín hữu Chúa Kitô cùng với Hội Thánh đi bước qua cửa này là chúng ta tin nhận , Chúa Giêsu là Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Chúng ta muốn theo người, dõi theo tin mừng cửa lòng thương xót Chúa, như được viết thuật lại trong phúc âm.
Đức Thánh Cha Phanxico luôn luôn nhắc bảo: Thiên Chúa không mệt mỏi ngừng nghỉ mở rộng cánh cửa trái tim của Ngài. Ngài yêu mến con người chúng ta, và cùng chia sẻ đời sống với chúng ta. Vì thế, Giáo hội của Ngài phải luôn luôn loan truyền lòng thương xót của Chúa.
Thiên Chúa như là người cha, người mẹ của con người.
Năm Thánh Lòng thương xót 2015-2016
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Suy niệm về Lễ Đức Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội.
- Viết bởi Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
Đức Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, người độc nhất vô nhị khi bước vào cuộc đời trần thế nầy, không phải như tất cả chúng ta, là nạn nhân của tội nặng tổ tông truyền; không phải như chúng ta, là nạn nhân mang án lệnh phải chết trên vừng trán công khai; không phải như chúng ta, là nạn nhân bị dìm mình trong vũng bùn nhơ của các tình tư dục; không phải như chúng ta, là nạn nhân bị vây hãm bởi mọi mùi xú uế của bảy mối tội đầu. Nhưng..., nhưng khi bắt đầu vào đời, trong ngay tích tắc đầu tiên được thụ thai trong lòng mẹ, Người Nữ Do Thái thành Nadarét nầy đã được trang hoàng rực rỡ bằng muôn vạn ân sủng vô cùng quý giá, để xứng đáng làm Mẹ của Con Thiên Chúa cao sang vinh hiển, để xứng đáng làm Nữ Vương mọi loài trên trời dưới đất, ngay cả các quỹ dữ trong hỏa ngục, Đức Trinh Nữ Maria cũng đạp dập đầu dưới chân mình.
Tất cả những ai sinh ra bởi Ađam, đều mắc tội tổ tông truyền. Chỉ trừ một mình Đức Mẹ Maria không mắc tội nầy. Vì thế, Giáo Hội tôn kính Đức Mẹ Maria là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội chỉ dành riêng cho một mình Đức Mẹ Maria để Ngài xứng đáng làm Mẹ Đức Chúa Trời, xứng đáng làm Mẹ của Con Thiên Chúa.
Khi dựng nên tổ tông loài người là ông Ađam và bà Eva, Thiên Chúa yêu thương đã ban cho hai ông bà những ơn đặc biệt tốt đẹp: một thân xác mạnh khỏe, xinh đẹp, với một linh hồn trong sáng, kèm theo những ơn đặc biệt: không đau, không khổ, không chết; thông minh, hiểu biết, hướng thượng. Nhất là ơn siêu nhiên thánh sủng là được thông phần vào chính bản tính của Thiên Chúa, sống đầy tràn hạnh phúc trên đời nầy, và sau khi từ giả trần gian, được về với Thiên Chúa trên Nước Trời. Những ơn đặc biệt nầy, hai tổ tông Adam và Eva sẽ truyền lại cho con cháu được hưởng.
Nhưng than ôi, vì mắc mưu xảo quyệt của ma quỷ cám dỗ, hai tổ tông Ađam và Eva đã phạm tội chống lại Thiên Chúa là Đấng dựng nên họ. Và hai ông bà đã làm mất tất cả những ơn đặc biệt nầy, không nhữmg làm cho mình mất đã đành, mà còn làm cho con cháu mình mất nữa.
Tội đầu tiên, ông Ađam và bà Eva phạm, gọi là Tội Tổ Tông, đã truyền lại cho tất cả con cháu loài người theo con đường sinh sản tự nhiên. Thánh Phaolô nhấn mạnh điểm tín lý nầy trong thư gởi cho giáo đoàn Rôma: "một người đã đem tội vào thế gian, và theo sau sự tội, là sự chết, vì thế, mọi người phải chết vì mọi người đã phạm tội."..."vì tội một người mà sự chết do người ấy gây nên, đã thống trị loài người "....."vì một người không vâng lời, nên đã làm cho mọi người mắc tội." (x. Rôma 5,12-19 ).
Tội Tổ Tông là tội chung cho tất cả loài người do hai nguyên tổ Ađam Eva truyền lại cho con cháu mình, vì thế, ai cũng là nạn nhân của tội tổ tông truyền nầy. Đáng lý Đức Trinh Nữ Maria, vì là con cháu của Adam Eva, nên cũng mắc tội tổ tông truyền như mỗi người chúng ta, nghĩa là sinh ra mà không có ơn thánh sủng, không có những đặc ân tự nhiên và siêu nhiên khác, bị dìm sâu trong vũng bùn nhơ của các tình tư dục và các mối tội đầu, phải chịu nằm dưới quyền thống trị của ma quỷ, phải đau, phải khổ và phải chết. Nhưng, vì Đức Trinh Nữ Maria được Thiên Chúa thương chọn làm Mẹ Con Thiên Chúa, làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa ban cho đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, nhờ hưởng trước, và hưởng đầy tràn những công nghiệp vô cùng của Đấng Cứu Thế, là Con của mình sau nầy.
Đó là tín điều về Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội mà hôm nay chúng ta tuyên xưng và dâng thánh lễ mừng Đức Mẹ Maria. Tín điều nầy đã được Đức Giáo Hoàng Piô IX long trọng tuyên bố năm 1854, cho toàn thể Giáo Hội Công Giáo phải tin để cho được rỗi linh hồn: “Được đầy Ơn Cứu Chuộc của Đấng Cứu Thế là Con mình một cách đặc biệt, Đức Trinh Nữ Maria, ngay từ giây phút đầu tiên trong lòng mẹ mình, không mắc tội tổ tông truyền”.
Ôi! sung sướng biết bao cho chúng ta, vì Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của chúng ta, là Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ đẹp tuyệt vời, Mẹ không chút bợn nhơ. Thiên Chúa đã trang điểm cho Mẹ đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội để Mẹ xứng đáng làm Mẹ của Con Thiên, xứng đáng làm Nữ Vương các thánh thiên thần và các thánh nam nữ ở trên trời, xứng đáng làm Nữ Vương mọi loài ở dưới đất.
Trong Kinh Thánh, có hai đoạn liên quan đến đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Trinh Nữ Maria.
Đoạn thứ nhất, trong Cựu-Ước : sách Sáng-Thế (3,15). Sau khi hai ông bà tổ tông loài người phạm tội, Thiên Chúa liền hứa ban Đấng Cứu Thế để cứu chuộc loài người khỏi tay ma quỷ. Thiên Chúa nói cho ma quỷ biết về một Người Nữ Đặc Biệt : “Ta sẽ đặt oán thù giữa ngươi và Người Nữ, giữa dòng dõii ngươi và Dòng Dõi Người Nữ. Người Nữ sẽ đạp dập đầu ngươi, còn ngươi thì rình cắn gót chân Người.” Người Nữ đặc biệt mà Thiên Chúa nói đây, chính là Đức Trinh Nữ Maria sau nầy.
Qua lời tuyên bố trên đây của Thiên Chúa, chúng ta thấy có hai điều. Một là, có một sự đối nghịch hoàn toàn giữa ma quỷ và Người Nữ nầy (vì thế, nếu Người Nữ nầy mắc tội tổ tông truyền như mọi người khác, dẫu mắc trong một giây phút mà thôi, thì Người Nữ nầy cũng không thể nào đối địch lại hoàn toàn với ma quỷ được). Hai là, Dòng Dõi Người Nữ nầy cũng phải đối địch lại hoàn toàn với ma quỷ (vì thế, Chúa Giêsu Kitô, Dòng Dõi của Đức Trinh Nữ Maria, sẽ không chiến thắng ma quỷ hoàn toàn được, nếu Mẹ của mình là Đức Trinh Nữ Maria không được đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội).
Đoạn thứ hai, trong Tân Ước: bài tường thuật Truyền Tin của thánh sử Luca mà chúng ta nhắc đi nhắc lại mỗi ngày ba lần qua kinh Nhựt Một. Theo lời thiên sứ Gabirie khi truyền tin Đấng Cứu Thế, chúng ta thấy có ba điều nói lên đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Trinh Nữ Maria. Một là, Đức Mẹ được đầy ơn Chúa ban (Kính Mừng Maria đầy ơn phước!) : nếu Đức Mẹ mắc tội tổ tông truyền, thì Đức Mẹ không thể nào được đầy ơn phước được. Hai là, Đức Mẹ luôn được Chúa ở cùng (Đức Chúa Trời ở cùng Bà!): Đức Chúa Trời là Đấng vô cùng thánh thiện, hằng ở với Đức Mẹ, thì Đức Mẹ làm sao mắc tội tổ tông truyền được. Ba là, Đức Mẹ là Người Nữ diễm phúc hơn hết trong loài người (Bà có phước lạ hơn mọi người nữ!) : phước lạ hơn tất cả mọi người, ở đây, là phước lạ đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội. Như vậy, khi thiên sứ Gabrie được Thiên Chúa sai từ trời xuống thành Nadarét, miền Galilêa, thuộc nước Do Thái, đến với Người Thanh Nữ Do Thái thành Nadarét, và cung kính chào: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phước lạ hơn mọi người nữ”, thì cũng giống như thiên sứ chào Đức Mẹ rằng: “Kính chào Bà là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.”
Năm 1854, Đức Trinh Nữ Maria đã hiện ra tại Lộ Đức, nước Pháp, cho trẻ gái nhỏ Bênêđétta và xưng rằng: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội!”
Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng con đầy tràn tin tưởng vào Mẹ: chúng con tin rằng, dù quyền phép vô cùng, Thiên Chúa cũng không thể nào dựng nên một ai cao trọng hơn Mẹ được; dù cao sang vô biên, Thiên Chúa cũng không thể lấy gì để ban thêm cho Mẹ, hơn là Ơn ban cho Mẹ được Vô Nhiễm Nguyên Tội. Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng con là những kẻ tội lỗi đang chạy đến cùng Mẹ. Chính vì Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót, thương loài người tội lỗi chúng con, nên mới ban cho Mẹ đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội để Mẹ trở nên Mẹ Đức Chúa Trời, và cũng là Mẹ của chúng con. Chúng con tin rằng trên đời nầy, không ai có lòng trông cậy chạy đến cùng Mẹ, mà Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời.
Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, xin cho chúng con biết sống xa lánh tội lỗi, Xin cho lòng tin của chúng con vào Chúa được luôn luôn mạnh mẽ. Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ, luôn trung thành theo Chúa cho đến cùng.
Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, xin cầu cho chúng con.
Amen.
Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
http://lavangtravel.com
Nicolaus, vị Thánh lòng bác ái
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm vào đầu mùa Vọng, ngày 06.12., là ngày lễ kính Thánh Nicolaus. Nói đến Thánh Nicolaus, người ta nghĩ ngay đến vị Thánh đi phát qùa cho trẻ em vào mùa lễ mừng Chúa giáng sinh.
Nhưng Thánh Nicolaus đâu có phải như vậy theo như tập tục dân gian nghĩ gắn tặng cho Ông.
Thánh Nicolaus là ai, và vì sao lại là vị Thánh trong Giáo hội Công giáo?
Nicolaus sinh ra khoảng từ năm 280 đến 286 miền Patara và qua đời khoảng từ năm 345 đến 351 ở Myra thuộc nước Thổ nhĩ Kỳ.
Vào nửa đầu thế kỷ 4 là Giám mục giáo phận Myra. Thánh Nikcolaus được sùng kính ở Giáo hội Đông phương cũng như Giáo Hội Latinh.
Theo tương truyền, khi cha mẹ Nicolaus qua đời, Ông được thừa hường gia tài để lại. Nicolaus đã đem của cải đó phân phát cho người nghèo. Truyện kể còn để lại, nhờ vào số tiền Nicolaus phân phát, mà có nhiều phụ nữ ở làng bên cạnh Patara có tiền thế chuộc, nên không bị bắt làm nghề mãi dâm.
Sau khi người chú của Nicolaus qua đời, Nicolaus hàng hương sang đất thánh Giêrusalem. Khi trở về xứ đạo đã bầu chọn Ông làm Giám mục Myra.
Tương truyền Nicolaus là người có tính tình vui vẻ hòa thuận, đồng thời là người có khả năng khéo léo tế nhị trong cung cách xử sự. Nên chiếm được cảm tình của rất nhiều người.
Nhờ vào uy tín không chỉ nơi dân chúng mà còn nơi cả binh lính hàng cao cấp. Nên Nicolaus đã xin phá đổ được đền thờ ngoại giáo thờ thần Diana vùng bờ biển Lykien. Vị nữ thần Diana được tôn kính là nữ quan thầy của thủy thủ tầu biển. Nữ thần Diana được kính vào ngày ngày nhật 06.12. Vì thế sau này Nicolaus được mừng kính ngày 06.12. để thay thế cho ngày mừng sinh nhật của nữ thần biển Diana, mà Ông đã phá đổ được đền thờ cùng tục lệ thờ thần Diana.
Năm 325 Giám mục Nicolaus đã tham dự Công đồng Nicaea I. Nơi đây vị Giám mục này đã cương quyết chống lại chủ thuyết của bè rối Arianismus. Cũng theo tương truyền, Nicolaus vì nhiệt thành bênh vực Giáo hội đã tát tai Giám mục Arius, người đưa ra lạc thuyết chống Giáo hội.
Xưa nay có nhiều truyền thuyết về cuộc đời Thánh Nicolaus được kể hoặc ghi chép lan rộng khắp nơi trong đạo cũng như trong đời sống xã hội. Nhiều truyện thuật lại, Nicolaus đã lẻn vào qua cửa sổ và lò sưởi bỏ tiền vào những chiếc bí tất treo ở đó, để ngăn cản người cha bắt con gái mình làm nghề mãi dâm kiếm tiền.
Rồi có bai người bị tuyên án xử tử oan cũng nhờ Nicoluas giải cứu kịp thời. Số là Nicolaus trong giấc mơ đã hiện đến với nhà Vua và xin nhà Vua tha cho họ. Có tương truyền khác kể thuật lại chính Nicolaus đã cứu họ bằng cách đã can thiệp không cho gươm của lý hình chém họ.
Một tàu vượt biển gặp tai nạn có ba người đi hành hương từ Ephesus muốn đưa Dầu Thánh đến một nhà nguyện Công giáo, đã được Nicolaus cứu giúp, khi Nicolaus đến boong tầu, Ông truyền cho sóng gío yên lặng và dẫn đưa tầu vào bến cảng bình an.
Ba người thanh niên đi tìm việc làm, bị người thợ bán thịt bắt đem nhốt họ lại và muốn giết họ để làm dồi thịt nguội. Ba người này đã bị phanh thây, khi Giám mục Niolaus hay tin, Ông chạy đến và đã cầu nguyện cho họ được sống lại.
Khi làm Giám mục ở Myra, gặp lúc nạn đói thiếu thóc gạo cho dân chúng, Nicolaus đã ra bến cảng xin các Thủy Thủ lấy thóc gạo ở tầu cho dân chúng ăn đang gặp cảnh đói thiếu thóc gạo. Nhưng các Thủy Thủ từ chối. Vì số thóc gạo trên tầu là để cho hoàng đế Byzantino. Giám mục Nicolaus cam đoan với các Thủy Thủ, nếu các anh bớt ra cho dân chúng nơi đây, số lượng thóc gạo sẽ không vơi ít đi cho nhà Vua, không gây thiệt hại gì cho các anh. Nghe thuyết phục họ đồng ý làm như Nicolaus nói.
Khi tầu chở thóc gạo về đến thủ đô, họ ngạc nhiên thấy số lượng thóc gạo còn nguyên vẹn không vơi ít đi. Và với số lượng thóc gạo được chia sẻ cũng đủ để nuôi sống dân vùng Myra hai năm liền.
Việc tôn kính Thánh Nicolaus được lan truyền sau khi Thánh nhân qua đời được hai thế kỷ. Dưới thời hoàng đế Justinian một thánh đường ở Constantinopel vào thế kỷ thứ 6. được khánh thành để tôn kính Thánh Nicolaus. Việc sùng kính Thánh Nicolaus lan truyền rộng rãi nơi những quốc gia bên vùng Balkan và Hylạp, bên Nga theo truyền thống Chính Thống giáo. Thánh Nicolaus là một trong những vị Thánh được người dân ngưỡng mộ kính mến cùng có nhiều truyền thuyết nói về Ngài, nhất là về khía cạnh gần gũi con người và jcung cách sẵn sàng giúp đỡ mọi người.
Việc sùng kính Thánh Nicolaus bên phụng vụ Giáo hội Roma có sau này từ thế kỷ thứ 8., và được lan truyền ở khắp vùng Nam cũng như Trung Âu Châu.
Buổi chiều trước ngày lễ kính Thánh Nicolaus, theo phong tục các trẻ con đem những chiếc bí tất, hay chiếc giầy ủng đặt trước cửa nhà hay ban lò sưởi. Ban đêm Thánh Nicolaus đến thăm viếng bỏ những món qùa bánh vào đó.
Đến ngày lễ mừng Chúa gíang sinh Ông già Noel, hiện thân Thánh Nicolaus, mặc áo đội mũ đỏ, có chùm râu trắng trao tặng qùa cho các trẻ em.
Thánh Nicolaus thành Myra là Thánh bổn mạng của nước Nga, của các trẻ em, của những người đi du lịch, đi hành hương, của những thương gia buôn bán thóc gạo, nhà làm rượu nho, của những thủy thủ, của những hoàn cảnh gặp tai nạn trên biển cả.
Chúng ta là những lữ khách dọc đường đời sống về mặt tinh thần đạo gíáo cũng như về mặt học hỏi làm việc. Và trên suốt dọc con đường đời sống đó cũng đã, đang và sẽ còn gặp nhiều hoàn cảnh khó khăn tới mức độ nguy hiểm.
Vì thế Thánh Nicolaus không chỉ là vị Thánh mang qùa tặng niềm vui cho trẻ em ngày lễ kính ngài và mùa mừng lễ Giáng sinh. Nhưng ngài luôn là vị thánh quan thầy phù hộ cho mọi người trong đời sống từ lúc sinh ra chào đời cho tới ngày tận cùng đời sống, từ sáng sớm cho đến nửa đêm bước sang ngày mới.
Lễ Thánh Nicolaus
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Sứ điệp 4 cây nến mùa vọng.
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Bên Âu Châu – ít là bên Đức - có tập tục từ xa xưa mỗi khi đến mùa vọng, mùa chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh xuống trần thế làm người, trong các nhà thờ, ở tư gia hay các nơi công cộng, người ta treo trên cao hay đặt nằm trên bàn, một vòng tròn bện bằng cành lá cây thông, lá cây tùng tươi xanh.
Tập tục vòng mùa vọng không thấy có bên Việtnam quê nhà. Trên vòng lá cây này nơi bốn góc có bốn cây nến to hoặc mầu trắng, hoặc mầu tím hoặc mầu đỏ. Đó là vòng mùa vọng với bốn Cây Nến.
Đâu là ý nghĩa vòng mùa vọng với bốn cây nến ?
Vòng mùa vọng được bện theo hình tròn không có khởi đầu và cũng không có tận cùng như hình mặt trời. Vòng tròn là biểu hiệu cho Thiên Chúa, Đấng không có khởi đầu và cùng tận.
Vòng được bện bằng các cành lá cây thông xanh tươi. Mầu xanh tươi tốt là biểu hiệu của niềm hy vọng, của tương lai cho đời sống luôn luôn đổi mới. Chúa Giêsu giáng sinh làm người là niềm hy vọng tương lai cho đời sống.
Bốn cây nến này được lần lượt đốt lên từ Chúa nhật thứ nhất mùa vọng trước lễ Giáng sinh. Chúa nhật thứ nhất mùa vọng một cây nến được thắp sáng lên, chúa nhật thứ hai hai cây nến , chúa nhật thứ ba ba cây nến và chúa nhật thứ tư cả bốn cây nến.
Bốn cây nến được lần lượt thắp sáng trong bốn tuần muốn nói lên ý nghĩa: Nứơc Thiên Chúa cũng triển nở lần lượt như bốn cây nến được thắp lên cho tới ngày lễ Chúa Giêsu giáng sinh, đấng là ánh sáng trần gian. Ánh sáng bốn cây nến toả ra bốn phương trời đất trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Bốn cây nến là mốc cho bốn chặng đường, bốn tuần lễ chuẩn bị đón mừng lề Thiên Chúa xuống thế làm người. Trong thời gian này Hội thánh công giáo kêu mời mọi người dành thời giờ dọn tâm hồn đón mừng lễ Chúa xuống làm người, lễ ánh sáng mặt trời công chính.
Cây nến là hình ảnh Chúa Giêsu, đấng là ánh sáng trần gian ( Gioan 8,12 ). Ánh sáng toả ra từ cây nến không làm chói mắt khi nhìn thẳng vào nó, nhưng cảm thấy thi vị đầm ấm. Khi nhìn thẳng vào Chúa Giêsu trong nhà tạm, khi tiếp nhận người qua tấm Bánh Thánh Thể, khi nghe lời người trong phúc âm, ta không có cảm giác khó chịu, nhưng trái lại tìm được bình an ơn tha thứ làm hoà cho tâm hồn. Một điều rất cần thiết cho cuộc sống thể xác lẫn tâm hồn.
Khi cây nến được đốt lên cũng cắt nghĩa về hình ảnh Chúa Giêsu. Chất sáp làm nên cây nến là hình ảnh thân xác con người của Chúa Giêsu. Thân xác con người được Thiên Chúa dựng nên có khởi đầu, có phát triển, có những yếu đuối bệnh tật giới hạn và sau cùng có cùng tận. Chúa Giêsu xuống trần gian làm người, sống cuộc sống hy sinh của con người như chất sáp bị cháy hao mòn thiêu huỷ.
Còn ngọn lửa đốt sáng cây nến là hình ảnh bản tính Thiên Chúa của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Thiên Chúa và cũng là người, nên ngài có hai bản tính: Thiên Chúa và con người.
Ngọn lửa đốt cháy chất sáp và tỏa ra ánh sáng hơi ấm tình yêu cho mọi người.
Bốn cây nến chung quanh “vòng mùa vọng“ mang bốn sứ điệp đến cho con người:
Cây nến thứ nhất chiếu ánh sáng Hoà bình cho những tâm hồn có lòng khoan dung nhân ái.
Cây nến thứ hai mang ánh sáng Niềm Tin cho những tâm hồn khao khát tìm về với Chúa là cội nguồn của đời sống.
Cây nến thứ ba chiếu toả hơi ấm Tình Yêu cho những tâm hồn tìm sống tình liên đới với người khác.
Cây nến thứ tư mang niềm Hy vọng cho những tâm hồn cần niềm vui phấn khởi.
Bốn Cây Nến Mùa Vọng loan báo sứ mạng của Chúa Giêsu xuống trần gian làm người với và cho con người.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
„Ông có phải là Vua dân Do Thái không?“
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Trong các quốc gia, khi một ai được các vị đại diện dân cử bầu chọn làm Thủ Tướng, vị đứng đầu Quốc Hội theo luật lệ Hiến pháp hỏi người đó : Ngài có chấp nhận kết qủa được bầu chọn không?
Nơi nhiều sinh hoạt của các đoàn thể đời và tôn giáo, vị được chọn bầu là Chủ tịch hay Hội trưởng, cũng được hỏi xem có nhận kết qủa được bầu chọn không.
Cả Đức Giáo Hoàng, vị đại diện Chúa Giêsu ở trần gian, khi được các cử tri Hồng Y bầu chọn, cũng được hỏi xem ngài có bằng lòng nhận kết qủa được bầu chọn không.
Nơi các quốc gia theo chế độ vua chúa quân chủ không có thể thức hỏi vị Vua theo thói tục cha truyền con nối có chấp nhận làm vua không. Và cũng chẳng ai hỏi ngài có phải là vua không.
Nhưng nơi Chúa Giêsu Kitô lại khác. Quan tổng trấn Philato đặt câu hỏi hoài nghi Chúa Giêsu: „ Ông có phải là Vua dân Do Thái không?“ (Ga 18, 33-37)
Chúa Giêsu đã trả lời: Tôi là Vua, nhưng nước tôi không thuộc thế gian này!
Ngài là vua như thế nào mà sao lại bị người ta hỏi như thế?
Lịch sử lễ Chúa Kitô Vua
Giáo hội Chúa Giêsu ở trần gian kính thờ Chúa là Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ linh hồn con người khỏi hình phạt do tội nguyên tổ gây ra.
Gíao hội luôn hằng tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là tình yêu, là ánh sáng cho đời sống tinh thần con người.
Chúa Giêsu Kitô là đức tin và niềm hy vọng cho con người sau cuộc sống trên trần gian được cùng sống lại với Ngài trên thiên đàng ở đời sau.
Nhưng trong dòng thời gian lịch sử của Giáo hội, từ khi Chúa Giêsu thành lập Giáo hội năm thứ 1. sau Chúa giáng sinh, mãi đến thời Đức Giáo hoàng Pio XI. ngày 11.12.1925 mới thiết lập ngày lễ chúc tụng mừng kính Chúa Giêsu Vua, dịp kết thúc Năm Thánh kỷ niệm 1600 năm Công đồng Nizea. Từ ngày đó lễ này được mừng kính hằng năm trong đời sống Giáo hội Công giáo.
Đến năm 1970 Phụng vụ Giáo hội được cải tổ lại. Vì thế lễ mừng kính Chúa Giêsu Vua được mừng vào Chúa nhật cuối cùng tháng 10. hằng năm, và cũng là chúa nhật kết thúc năm phụng vụ trong nếp sống của Giáo hội Công giáo.
Tuyên nhận Chúa Giêsu là Vua, nhưng là vua của đức tin, trong nghi lễ phụng vụ tôn giáo.
Nền tảng đạo đức thần học
Lễ mừng kính Chúa Giêsu Kitô là Vua không đặt trọng tâm nơi uy quyền sức mạnh như của một vị vua cai trị một quốc gia đất nước. Nhưng đặt căn bản trên nền tảng của chính lời Chúa Giêsu đã nói với quan Philato: Tôi là vua, nhưng Nước tôi không thuộc về thế gian này!
Như thế, Chúa Giêsu muốn nói: Ngài là vua toàn thể vũ trụ, bao trùm tất cả công trình sáng tạo của Thiên Chúa trên trời cũng như dưới mặt đất. Và sau khi từ cõi chết sống lại Chúa Giêsu đã khẳng định: Thầy được ban toàn quyền hành trên trời dưới đất . (Mt 28,18).
Vậy quyền hành sức mạnh của Chúa Giêsu vua vũ trụ đặt nền tảng trên sự gì?
Đó không phải là quyền hành sức mạnh của vũ khí quyền lực thống trị như trên trần gian. Nhưng là sức mạnh thiêng liêng thần thánh, là đem đến sự sống vĩnh cửu, là giải thoát tâm hồn con người khỏi tội lỗi sự dữ, là thống trị chiến thắng sự chết do tội lỗi gây ra.
Sức mạnh của Chúa Kitô vua là tình yêu, là bình an cùng niềm hy vọng cho tâm hồn con người.
Xưa nay nói đến vua chúa,
chúng ta nghĩ ngay đến uy quyền sức mạnh tối thượng cai trị, đến những người phục dịch, những đạo quân canh gác bảo vệ ngày đêm suốt đời.
chúng ta tưởng tượng đến cung điện lộng lẫy nguy nga giầu có sang trọng.
chúng ta liên tưởng đến đến lễ nghi huy hoàng tráng lệ, đến những đặc quyền miễn trừ của cung điện gia đình vua chúa.
Nhưng vua Giêsu Kitô không có những cái đó.
Ngài sinh ra trong trần thế nghèo hèn giữa cánh đồng trong chuồng thú vật, sống như Ngài nhận “ Không có gối dựa đầu“, và sau cùng chết bị kết án đóng đinh vào thập gía. Tất cả vì tình yêu Thiên Chúa và cho con người.
Vì thế người ta hoài nghi mới hỏi: Ông có phải là vua không?
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chúc mừng khấn Dòng
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Hân hoan chúc mừng
Sơ Maria Imelda Ai Nhu và Maria Magareta Ngọc Lan
Khấn trọn đời trong Kloster der Dominikanerinen St. Maria a.d. Isar, Niederviehbach, ngày 22.11.2015.
Ngày Khấn trọn đời trong Dòng Tu đánh dấu bước quyết định dấn thân của người Tu Sỹ trọn vẹn cho tình yêu Thiên Chúa, cho nếp sống ơn kêu gọi trong Hội Dòng.
Trên tấm thiệp báo tin ngày Khấn trọn đời, hai Sơ chọn câu Kinh Thánh „ Hier bin ich, Du hast mich gerufen" (1 Samuel 3,8) làm khẩu hiệu tâm linh hướng dẫn cho đời tận hiến của mình.
Lời Kinh Thánh này không chỉ nhắc nhớ đến lời vị Ngôn sứ nhỏ tuổi Samuel ngày xưa trong đền thánh giữa đêm khuya đã nói với Thiên Chúa. Nhưng cũng là câu trả lời của hai Sơ nói với Chúa trong tâm hồn, khi hai Sơ nghe tiếng Chúa vang lên trong tâm hồn gọi: „ Hãy theo Ta!".
Hai Sơ đã nghe tiếng Chúa gọi và đáp trả lại, đồng thời chấp nhận cuộc sống tu trì trong nhà Dòng Daminh St. Maria a.d. Isar Niederviehbach: „ Lạy Chúa, này con đây. Con nghe tiếng Chúa gọi con, con đi theo. Nhưng con không biết sẽ ra sao. Xin Chúa cứ nói điều Chúa muốn con phải sống, phải làm gì. Con lắng nghe Chúa nói. Con luôn cần có Chúa cùng đồng hành chỉ dẫn trên con đường đời sống."
Mẹ Á Thánh Terexa Calcutta đã nói về ơn Kêu Gọi của mình:
"Theo huyết thống tôi là người Albani.
Theo quốc tịch, tôi là người Ấn Độ.
Theo đức tin, tôi là một Nữ tu Công giáo.
Theo ơn gọi, tôi thuộc về thế gian.
Theo con tim, tôi hoàn toàn thuộc về Trái Tim Chúa Giêsu"
Hai Sơ chọn nếp sống đời tu trì tận hiến trong Dòng tu chắc cũng có tâm tình tương tự như Mẹ Thánh Terexa:
„- Theo máu mủ mầu da chủng tộc cùng nơi chôn nhau cắt rốn,
tôi là người Việtnam,
- Trên giấy tờ căn cước thông hành tôi có quốc tịch Việtnam-
- Theo đức tin đạo giáo tôi là người Công giáo tín hữu Chúa Kitô.
- Tôi sống dấn thân làm việc theo tiếng Gọi của Thiên Chúa trong khu vườn của Chúa nơi Hội Thánh Công giáo trên trần gian với phận vụ là người Nữ Tu Dòng Daminh Niederviehbach giữa dòng sông xã hội trần thế nước Đức.
- Là con người, tôi hằng ghi nhớ công ơn cha mẹ tôi đã sinh thành nuôi nấng dưỡng dục, uốn nắn đức tin và tình yêu đời tôi.
- Thiên Chúa là niềm vui, niềm hy vọng cùng sức mạnh đời tôi. Ngài là khởi đầu và cùng đích đời tôi.".
Xin chúc mừng hai Sơ ngày vui mừng thánh đức Khấn trọn đời, mà hai Sơ từ những năm tháng qua hằng trông mong chờ đợi.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh hiến vương cung thánh đường Thánh Phero và Thánh Phaolo thành Roma
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm ngày 18.11. Giáo hội Công giáo Roma mừng nhớ ngày thánh hiến hai đại Vương cung thánh đường Thánh Phero và Thánh Phaolo bên Roma.
Vương cung thánh đường Thánh Phero
Hoàng đế Roma Constantino năm 323 , sau khi cộng nhận đạo Công giáo, mở ra kỷ nguyên chấm dứt thời kỳ Giáo hội Công giáo bị bắt bớ bách hại trong toàn đế quốc Roma, đã cho xây dựng Vương cung thánh đường trên ngôi mộ Thánh Phero ở chân đồi Vatican. Phần phía Nam của thánh đường nằm ở bên phần sân diễn trò xiếc giải trí của vua chúa Roma, nơi đây Thánh Phero dưới thời Hoàng đế Nero đã bị hành quyết đóng đinh ngược tử vì đạo năm 67. sau Chúa giáng sinh.
Ngôi mộ của Thánh Phero nằm ngay dưới bàn thờ chính của đền thờ. Dưới thời Đức giáo hoàng Pio XII. vào thế kỷ 20. đã có cuộc khai quật khảo cổ, và tìm thấy ngôi mộ cùng dấu tích sùng kính Thánh Phero của giáo hữu thời xa xưa hồi thế kỷ thứ nhất và thứ hai.
Theo truyền thuyết kể lại, ngôi đền thờ thời Constantino được Đức giáo hoàng Silvester I. thánh hiến ngày 18.11.326, và ngôi đền thờ được xây dựng hoàn thành vào giữa thế kỷ thứ 4. sau khi hoàng đế Constantino qua đời.
Trong thời kỳ các Đức giáo hoàng sống lưu vong ở Avignon bên Pháp từ 1309 - 1377, đền thờ bị xuống cấp hư hại. Nhưng sau đó từ năm 1450 đền thờ được sửa chữa lại. Sau cùng dười thời Đức Giáo Hoàng Julius II. năm 1506 ngôi đền thờ cũ cótuổi thọ 1200 năm bị phá hủy hoàn toàn. Và ngài đặt viên đá đầu tiên xây dựng ngôi đền thờ mới như đang thấy ngày nay.
Công trình xây dựng đền thờ mới do Kỹ sư Bramente vẽ họa đồ và Kỹ sư Michelangelo thực hiện. Công việc xây dựng kéo dài trên 100 năm. Ngôi đền thờ mới cũng được xây ngay trên ngôi mộ của Thánh tông đồ Phero, và là thánh đường lớn nhất của Giáo hội Công giáo. Đức giáo hoàng Urbano VIII. đã làm phép thánh hiến khánh thành ngôi đền thờ mới cũng vào ngày 18.11.1626, mà trước đó 1300 năm ngôi đền thờ cũ thời vua Constantino ngày 18.11. 326 cũng đã được làm phép thánh hiến.
Đền thờ Thánh Phero là công trình xây dựng trổi vượt về hình thức nghệ thuật, và mang ý nghĩa trung tâm điểm của Giáo hội Công Giáo hoàn cầu.
Công trình này được các vị kỹ sư cùng điêu khắc danh họa góp công sức thực hiện từ Bramante đến Raffael, Peruzzi, Michaelangelo, Giacomo della Porta, phần trang trí nghệ thuật do những kiệt tác của danh họa thiên tài Michaelangelo, Bernini và nhiều người khác nữa.
Vương cung thánh đường Thánh Phaolô
Thánh Phaolo là vị Tông đồ dân ngoại đã loan truyền tin mừng Chúa Giêsu Kitô từ bên vùng Trung Đông nước Do Thái sang tận Âu châu. Đi tới đâu Ông thành lập Giáo đoàn Kitô giáo, và viết 14 thư mục vụ, như nền tảng giáo lý, gửi các Giáo đoàn Kitô giáo. Và sau cùng vào khoảng năm 64. chết chịu tử vì đạo dưới thời hoàng đế Nero ở Roma.
Ngay từ năm 200 đã có bảng ghi nhớ tưởng niệm ngôi mộ Thánh Phaolô ở Via Ostia . Hoàng đế Constantino theo dấu chứng đó đã cho xây ngôi đền thờ ở ngoài thành Roma năm 324 để kính Thánh Phaolo, và được Đức giáo hoàng Sylvester thánh hiến.
50 năm sau, năm 374 Hoàng đế Theodosius I. cho xây mở rộng ngôi đền thờ to lớn thêm ra. Đến thời Đức giáo hoàng Leo I. ( trị vì từ 440-461) ngôi đền thờ được xây dựng hoàn thành.
Tháng Bảy 1823 ngôi đền thờ thời Constantino bị trận hỏa hoạn thiêu hủy hư hại nặng, chỉ phần hậu cung thánh với những bức tranh Mosaic từ thế kỷ thứ 5. và 13. còn nguyên vẹn không bị cháy.
Ngôi đền thờ mới kính thánh Phaolo ngoại thành được xây dựng lại ngày 10.12. 1855 dưới thời Đức giáo hoàng Pio IX. được làm phép thánh hiến.
Trong vương cung thánh đường Thánh Phaolo ở trên phần đầu tường chung quanh có hình vẽ khắc kiểu Mosaic các Đức giáo hoàng của Hội Thánh Công giáo từ Thánh Phero, vị giáo hoàng tiên khởi cho tới vị Giáo hoàng đương kim.
Ngày 25.01.1959, vào ngày lễ kính Thánh Phaolo tông đồ trở lại, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. trong đền thờ này đã tuyên bố mở Công đồng chung Vaticano II. 1960-1965
Đền thờ gọi là ngoại thành, vì nằm ở ngoài tường thành Roma do hoàng đế Aureliano xây bức tường bao quanh Roma năm 271 để ngăn chống các tấn công của các sắc dân từ bên ngoài vào trong thành Roma.
Biểu tượng ý nghĩa thần học
Hai ngôi đền thờ vĩ đại Thánh Phero và Thánh Phaolo ở Roma không chỉ to lớn bề thế về công trình lối kiến trúc đồ sộ vững chắc, và những trang hoàng ấn tượng mang dấu ấn rất nghệ thuật thời trung cổ có một không hai từ xưa nay. Nhưng hai ngôi đền thờ còn là hình ảnh nói lên dấu chỉ về Thiên Chúa vô hình, đang hiện diện giữa con người, với những hàng cột cao trong ngoài thánh đường, những vòm chỏm tháp vươn cao lên không trung giữa thiên nhiên, những mầu sắc hài hoà của những tảng đá cẩm thạch cùng đường vân thiên nhiên hòa hợp với ánh sáng chiếu tỏa sự trong sáng nét đẹp của thiên nhiên.
Có thể nói được những ý tưởng mà các vị Kỹ sư và các vị danh Họa điêu khắc đã khắc ghi vào công trình gỗ đá xây dựng hai ngôi đền thờ này, bắt nguồn như thức ăn gợi hứng cho họ là con người, là người có lòng tin vào Chúa, là kỹ sư kiến trúc, là nhà danh hoạ chuyên môn, từ ba cuốn sách về thiên nhiên, cuốn sách Kinh Thánh và cuốn sách về Phụng vụ.
Vì thế, hai ngôi đền thờ kết hợp được cả ba mặt kiến trúc trong thời đại trần gian, về lịch sử ơn cứu độ của Chúa phần thiêng liêng, như Kinh thánh thuật lại, và về phụng vụ, nơi con người trần thế cử hành lễ nghi thờ phượng Thiên Chúa.
Hai ngôi đền thờ được xây dựng để kính hai Thánh tông đồ Phero và Phaolo, nhưng họ không phải là nền tảng cho hai đền thờ này. Chính Chúa Giesu Kitô mới là đá nền tảng niềm tin cho đền thờ ( 1 cor 3,10-11). Vì nơi hai đền thờ này mỗi khi mọi tín hữu Chúa Kitô tụ họp đọc kinh cầu nguyện, cử hành nghi lễ phụng vụ , là tưởng niệm sự sinh ra, chịu chết và sống lại của Chúa Kitô. Đó là nền tảng đức tin của Kitô giáo.
Chúa Giêsu Kito là đá tảng nâng đỡ cho ngôi đền thờ đức tin của Giáo hội được vững chắc. Nơi Chúa Giêsu chúng ta học và đọc được Lời của Chúa, cũng như từ nơi Ngài Giáo hội nhận được sức sống, giáo lý và sự sai đi đến với con người.
Hai ngôi đền thờ này như hình ảnh biểu tượng cho Giáo hội Công giáo Roma, cũng đã trải qua những lần bị hư hại xuống cấp, bị hỏa hoạn cháy thiêu rụi, và được sửa chữa lại, xây dựng mới lại. Hai ngôi đền thờ kiến trúc công trình nghệ thuật đứng vững từ hàng bao thế kỷ nay là do luôn được quyét dọn, ton trang bảo trì sửa chữa liếp tục.
Đời sống trong Giáo hội cũng vậy, có những giai đoạn thoái hóa lên xuống về mặt tinh thần đạo giáo cũng như tổ chức điều hành quản lý. Những khúc ngoặt hay bóng tối đó gây ra những tiếng tăm không tốt, hậu qủa tiêu cực.
Nhưng đồng thời đó cũng là dịp tốt để Giáo hội nhìn ra biết mình mà điều chỉnh sửa chữa làm mới lại cho tốt lành đúng như ý Chúa muốn, cùng là nhân chứng cho Chúa giữa lòng xã hội con người trần thế. Có thế ngôi nhà đức tin Giáo hội mới đứng vững được.
_______________________
Hai ngôi đền thờ Thánh Phero và Thánh Phaolo ở Roma như cột trụ của Giáo hội Công giáo vừa về mặt tinh thần vừa về mặt kiến trúc cùng bề thế.
Hai vị Thánh tông đồ này cùng được mừng kính chung trong một lễ mừng ngày 29.06. hằng năm.
Và hai ngôi đền thờ kính hai vị Thánh cùng được mừng nhớ đến ngày thánh hiến chung ngày 18.11. hằng năm.
Thánh Phaolo viết nhắn nhủ về Giáo hội Chúa Kitô:
„Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: "Tôi thuộc về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông A-pô-lô, tôi thuộc về ông Kê-pha, tôi thuộc về Đức Ki-tô.“ (1 cor 1,12)….
„Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên.7 Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể.Thật vậy, chúng tôi là cộng sự viên của Thiên Chúa. Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên.“ (1 cor 3,6-9).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh hiến thánh đường Laterano
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm Giáo hội mừng lễ thánh hiến Vương cung thánh đường Laterano bên Roma vào ngày 09.11.
Đâu là ý nghĩa đạo đức thần học ngôi thánh đường dành cho việc phụng tự ?
Lịch sử Vương cung thánh đường Laterano.
Vương cung thánh đường Laterano bên, Roma còn được gọi là đại vương cung thánh đường Giovanni in Laterano, như dòng chữ ở ngoài cửa vào viết: „mater et caput" Thánh đường mẹ và đầu của mọi thánh đường trong thành phố Roma và trên toàn thế giới"
Vương cung thánh đường Laterano được xây dựng dưới thời Hoàng đế Contanstino trên phần đất của dòng tộc gia đình Laterani, và được Đức giáo hoàg Sivester 1. , dâng kính Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc, thánh hiến khánh thành ngày 09.11.324 .
Sau đó vào thế kỷ IX. vương cung thánh đường Laterano được thánh hiến dưới tên Thánh Gioan Tẩy gỉa. Và vào thế kỷ XII. Thánh tông đồ Gioan , người viết Phúc âm Chúa Giêsu, được thêm vào. Nên vương cung thánh đường có chùm tên dài : Đại vương cung thánh đường kính đấng rất thánh Cứu Chuộc và Thánh Gioan tẩy giả cùng Thánh Gioan Thánh sử Laterano.
Vương Cung thánh đường Gioan Laterano là một trong bốn đại vương thánh đường ở thành phố vĩnh cửu Roma: Thánh Phero, Đức Bà cả, Thánh Phaolo ngoại thành và Laterano. Vương cung thánh đường Laterano là nhà thờ chính tòa của Đức giáo hoàng.
Từ năm 313 các vị Giáo Hoàng của Giáo hội Công giáo, đến 1309 bắt đầu thời kỳ các đức Giáo Hoàng Vatican phải sống lưu vong ở Avignon bên Pháp, đều cư ngụ ở Laterano.
Năm 1377 chấm dứt thời sống lưu vong bên Avignon Đức Giáo Hoàng trở về Roma, nhưng Laterano đã xuống cấp hư hại nhiều. Nên vùng Vatican trở thành nơi cư ngụ của Đức giáo Hoàng . Năm 1586 Laterano được xây dựng mới lại và trở thành nơi cư ngụ mùa hè của đức giáo hoàng .
Vương Cung thánh đường Laterano có cửa Năm Thánh: Santa Porta. Cửa nầy được mở ra vào những dịp Năm Thánh, để cho mọi người tín hữu Chúa Kitô bước qua lãnh nhận ơn toàn xá. Như sắp tới đây dịp Năm Thánh lòng từ bi Chúa 2015-2016, Đức giáo hoàng Phanxico sẽ cử hành nghi lễ mở cửa Năm Thánh ở bốn đại vương cung thánh đường bên Roma, trong đó có cửa năm thánh ở đền thờ Laterano.
Laterano là nơi đã diễn ra 05 Công đồng của Gáo hội Công gíao vào thời Trung cổ. Vì thế có tên Công đồng Laterano.
Trong nếp sống đạo đức của Giáo hội, khi một thánh đường, một nhà nguyện được xây, có lễ nghi thánh hiến khánh thành ngôi nhà thờ mới dành cho việc cầu nguyện dâng lễ thờ kính Thiên Chúa, Đức Mẹ và các Thánh. Và ngôi thánh đường mới thường được chọn đặt tên dâng kính Chúa Giêsu, hay Đức mẹ hay một vị Thánh nào.
Ngôi thánh đường được xây dựng bằng vật liệu do con người chế biến làm ra theo nếp sống văn hóa thời đại nơi mỗi quốc gia đất nước địa phương. Nhưng còn có ngôi thánh đường khác hơn nữa
Ngôi thánh đường con người.
Thánh Phaolo trong thư mục vụ gửi Giáo đoàn Côrinthô nói đến ngôi thánh đường khác nữa: đền thờ. Ngôi đền thờ này là con người do Thiên Chúa xây dựng làm nên : „Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên." (1 Cor 3,11).
Con người chúng ta không là viên gạch , viên ngói, khúc gỗ, tảng đá, hạt cát trong một ngôi nhà kiến trúc. Nhưng trong ngôi nhà Giáo hội có nhiều con người khác nhau: gìa, trẻ, lớn, bé, nam, nữ... Dẫu có nhiều khác biệt nhau, nhưng tất cả có một mẫu số chung: Chúng ta thuộc về Chúa Giêsu Kitô.
Cũng vậy, nhìn vào một ngôi thánh đường được xây dựng do nhiều viên gạch, đá, gỗ, cửa... khác biệt nhau. Nhưng tất cả những thành phần đó đều có một chung hợp: Chúng là những thành phần kiến tạo nên ngôi thánh đường.
Nền tảng ngôi thánh đường
Ngôi nhà nào, ngôi biệt thự nào, ngôi thánh đường nào cũng được xây dựng trên một nền móng vừa sâu xuống lòng đất, vừa vững chắc kiên cố không để bị thấm nước. Có thế công trình xây dựng lên cao mới đứng vững kiên cố không bị mục ướt sụp đổ.
Nền móng ngôi đền thờ tâm hồn con người là Chúa Giêsu Kitô. Trên nền tảng Ngài, sự chết, sự sống lại của Chúa Giêsu chúng ta như những viên đá sống động trong công trình ngôi nhà của Giáo hội
„ Lễ thánh hiến vương cung thánh đường Laterano gợi nhắc nhớ đến một mầu nhiệm luôn thời sự: Thiên Chúa hằng muốn xây ngôi đền thờ tinh thần, nơi đó tinh thần và chân lý được thờ kính. ( Ga 4,23-24).
Ngày lễ này cũng nhắc nhớ đến sự qua trọng của những công trình xây dựng bằng vật liệu, nơi đó Cộng đoàn tín hữu Chúa tụ họp đọc kinh cầu nguyện cử hành các nghi lễ phụng vụ ca tụng Chúa. Mỗi Cộng đoàn xứ đạo có bổn phận gìn giữ ngôi thánh đường của chỗ mình.Vì ngôi thánh đường thể hiện giá trị cao đẹp nếp sống tôn giáo và văn hóa. „ ( Đức giáo hoàng Benedicktô XVI. , Kinh Truyền tin ngày (09.11.2008 ).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Các phương thế giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục
- Nay anh mai tôi- tháng 11
- Thiên đàng - Hoả ngục
- Tưởng nhớ người đã ra đi.
- Kính mừng các Thánh
- Đến tận cùng biên giới
- Willkommenskultur Chào mừng người tỵ nạn với nếp sống văn hóa.
- Kính mừng Maria - Ave Maria!
- Lòng hân hoan
- Hình ảnh hôn nhân và gia đình (5)