Tin Việt Nam
- Viết bởi Trần Việt (DĐVN21)
Nguyễn Phú Trọng được xếp ngang hàng với Gurbanguly Berdimuhamedow, Kim Jong-un, Isayas Afewerki và Bashar al-Assad
03/05/2015 Trần Việt (DĐVN21) - Nhân "Ngày Quốc Tế Tự Do Báo Chí" hôm nay, tờ báo Đức BILD hôm qua đã đăng một bài của ký giả Antje Schippmann với tựa đề "Ngày tự do báo chí thế giới - Những kẻ thù tệ hại nhất của Tự Do" (Welttag für freie Presse - Das sind die schlimmsten Feinde der Freiheit).
Bài báo viết: "Quyền tự do ngôn luận, tự do phát biểu ý kiến và tự do báo chí từ năm 1948 đã được khẳng định là những nhân quyền cơ bản. Nhưng hiện nay tình trạng trên toàn thế giới rất xấu.
"Ngày Quốc Tế Tự Do Báo Chí" (Chủ nhật 03/05/2015) là ngày toàn thế giới tưởng nhớ đến các nhà báo và blogger phải chấp nhận nguy hiểm đến tính mạng, bị đàn áp, cầm tù chỉ vì họ tranh đấu cho những điều mà họ coi là đương nhiên phải có. Theo tổ chức "Phóng Viên Không Biên Giới" tình trạng tại 20 quốc gia thật trầm trọng. 10 nước tệ hại nhất là Lào, Somalia, Iran, Sudan, Việt Nam, Trung Quốc, Syria, Turkmenistan, Bắc Triều Tiên và Eritrea.
Tác giả bài báo liệt kê lãnh tụ của 5 nước, bị gọi là "kẻ thù tệ hại nhất của Tự do", trong đó có Nguyễn Phú Trọng (Việt Nam), Gurbanguly Berdimuhamedow (Turkmenistan), Kim Jong-un (Bắc Triều Tiên), Isayas Afewerki (Eritrea), Bashar al-Assad (Syria) và viết về tình trạng ở các nước này.
Tình trạng tại Việt Nam được trình bày cùng với ảnh của Nguyễn Phú Trọng như sau: "Nguyễn Phú Trọng (Việt Nam): Ở nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, mặc dù theo hiến pháp có tự do ngôn luận, nhưng bất kỳ lời chỉ trích chính phủ nào cũng bị ngược đãi, các vấn đề về dân chủ và cải cách là điều cấm kỵ. Hiện nay hơn 30 blogger và hai nhà báo đã bị cầm tù, họ bị quy tội "lật đổ nhà nước". Dưới đây là ảnh cắt từ trang báo Bild (screenshot). - [deutsch]
- Viết bởi Dân Chúa
Cuối năm 1979, Cựu Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, người ít khi lên tiếng từ khi sống lưu vong sau tháng Tư 1975, đã dành cho tạp chí Spiegel của Đức một cuộc phỏng vấn dài về kết cục của Chiến tranh Việt Nam.
Cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trả lời phỏng vấn của Spiegel 1979
Phạm Thị Hoài (dịch)
Spiegel: Thưa ông Thiệu, từ 1968 đến 1973 Hoa Kỳ đã nỗ lực thương lượng hòa bình cho Việt Nam. Trong cuốn hồi ký của mình, ông Henry Kissinger, trưởng phái đoàn đàm phán Hoa Kỳ đã dùng nhiều trang để miêu tả việc ông, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, đã chống lại những nỗ lực nhằm đem lại hòa bình cho một cuộc chiến đã kéo dài nhiều năm, với hàng triệu nạn nhân và dường như là một cuộc chiến để "bóp nát trái tim Hoa Kỳ". Vì sao ông lại cản trở như vậy?
Nguyễn Văn Thiệu: Nói thế là tuyệt đối vô nghĩa. Nếu tôi cản trở thì đã không có Hiệp định Hòa bình năm 1973 – mặc dù, như ai cũng biết, đó không phải là một nền hòa bình tốt đẹp; hậu quả của nó ở Việt Nam là chứng chỉ rõ ràng nhất. Kissinger đại diện cho chính sách và lợi ích của chính phủ Mỹ. Là Tổng thống Nam Việt Nam, bổn phận của tôi là bảo vệ những lợi ích sống còn của đất nước tôi.
Tôi đã nhiều lần chỉ ra cho Tổng thống Nixon và TS Kissinger rằng, đối với một cường quốc như Hoa Kỳ thì việc từ bỏ một số vị trí không mấy quan trọng ở một quốc gia bé nhỏ như Nam Việt Nam không có gì đáng kể. Nhưng với chúng tôi, đó là vấn đề sinh tử của cả một dân tộc.
Spiegel: Kissinger không phủ nhận rằng cuối cùng ông cũng đồng ý. Nhưng ông ấy cũng nói rằng phải đàm phán lâu như vậy vì ông cản trở nhiều, rằng ông đồng ý với các đề xuất của Mỹ chỉ vì ông chắc mẩm rằng đằng nào thì Hà Nội cũng sẽ bác bỏ.
Nguyễn Văn Thiệu: Không đúng như vậy. Để chấm dứt một cuộc chiến tranh đã kéo dài gần 30 năm, người ta cần nhiều thời gian hơn là hai, ba ngày hay hai, ba tháng. Tôi hiểu rõ rằng đối với người Mỹ đã đến giúp chúng tôi, đây là cuộc chiến dài nhất trong lịch sử của họ. Có lẽ vì thế mà họ vội vã như vậy. Nhưng điều chúng tôi cần là một nền hòa bình lâu dài.
Spiegel: Kissinger có ý cho rằng ông không thực sự muốn ký kết một thỏa thuận về hòa bình, đúng ra ông ngầm mong phía miền Bắc cũng sẽ cứng đầu như ông. Kissinger viết rằng ông đồng ý với nhiều đề xuất từ phía Mỹ - trong tinh thần sẵn sàng không tuân thủ, chỉ vì trong thâm tâm ông không tin rằng hòa bình sẽ được ký kết. Có phải là trong khi đàm phán, ông đã bịp, với hy vọng là sẽ không bao giờ phải ngửa bài lên?
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Sao lại có thể nói là một dân tộc đã chịu đựng bao nhiêu đau khổ suốt 30 năm lại muốn kéo dài cuộc chiến? Kissinger muốn xúc tiến thật nhanh mọi việc để Mỹ có thể rút quân và tù binh Mỹ được thả. Mà có lẽ mục đích của chính phủ Mỹ cũng là cao chạy xa bay. Họ thì có thể bỏ chạy. Nhưng chúng tôi thì phải ở lại Nam Việt Nam.
Chúng tôi có quyền chính đáng để đòi hỏi một hiệp định hòa bình toàn diện. Không phải là vài ba năm hòa bình, rồi sau đó lại 30 năm chiến tranh.
piegel: Vậy tại sao ông lại đi trước cả người Mỹ và tự đề nghị Hoa Kỳ rút quân trong cuộc họp tại đảo Midway ở Thái Bình Dương tháng Sáu 1969, theo tường thuật của Kissinger?
Nguyễn Văn Thiệu: Trước khi họp ở Midway, việc chính phủ Mỹ dự định rút quân đã không còn là điều bí mật. Cho phép tôi nhắc để các ông nhớ lại, tin tức về việc Mỹ sẽ rút một số quân đã loan khắp thế giới, trước cuộc họp ở Midway. Vì sao? Theo tôi, chính phủ Mỹ muốn thả bóng thăm dò, tiết lộ thông tin trước cho báo chí và đẩy chúng tôi vào sự đã rồi.
Spiegel: Tức là ông đã nắm được tình hình?
Nguyễn Văn Thiệu: Đúng thế. Cuộc họp ở Midway nhằm hai mục đích. Thứ nhất, cho hai vị tân tổng thống cơ hội làm quen và bàn về đề tài Việt Nam. Điểm thứ hai đã vạch rất rõ là bàn về việc rút những toán quân Mỹ đầu tiên. Tôi đã không hình dung sai điều gì và đã làm chủ tình thế. Không có gì phải lo lắng, và tôi đã rất vững tâm.
Spiegel: Khi đề xuất Mỹ rút quân, ông có thật sự tin rằng Nam Việt Nam có thể chiến đấu một mình và cuối cùng sẽ chiến thắng trong một cuộc chiến mà hơn 540.000 lính Mỹ cùng toàn bộ guồng máy quân sự khổng lồ của Hoa Kỳ không thắng nổi không? Chuyện đó khó tin lắm.
Nguyễn Văn Thiệu: Không, đề xuất đó không phải của tôi. Tôi chỉ chấp thuận. Tôi chấp thuận đợt rút quân đầu tiên của Mỹ, vì Tổng thống Nixon bảo tôi là ông ấy gặp khó khăn trong đối nội và việc rút quân chỉ mang tính tượng trưng. Ông ấy cần sự ủng hộ của dư luận và của Quốc hội. Nhưng tôi cũng bảo ông ấy rằng: Ông phải chắc chắn rằng Hà Nội không coi việc bắt đầu rút quân đó là dấu hiệu suy yếu của Hoa Kỳ.
Spiegel: Và ông không nghĩ đó là khởi đầu của việc rút quân toàn bộ?
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi đã hình dung được rằng, đó là bước đầu tiên để cắt giảm quân số. Nhưng không bao giờ tôi có thể nghĩ Mỹ sẽ rút hẳn và bỏ rơi Nam Việt Nam. Tôi đã trình bày với Tổng thống Nixon rằng việc cắt giảm quân số sẽ phải tiến hành từng bước, như khả năng chiến đấu và việc tiếp tục củng cố Quân lực Việt Nam Cộng hòa cho phép – tương ứng với những viện trợ quân sự và kinh tế có thể giúp Nam Việt Nam tự đứng trên đôi chân của mình.
Quan trọng hơn, tôi đã bảo ông ấy phải yêu cầu Hà Nội có một hành động tương ứng đáp lại. Phía Mỹ đồng ý với tôi ở mọi điểm; về một sự rút quân từng bước và của cả hai phía...
Spiegel: ... và mang tính tượng trưng?
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi hiểu rõ rằng cuộc chiến ở Việt Nam cũng là một vấn đề đối nội của Hoa Kỳ. Và Tổng thống Nixon giải thích rằng ông ấy cần một cử chỉ tượng trưng để giải quyết vấn đề đó. Trước đó một tuần tôi đến Seoul và Đài Loan, tôi đã nói với Tổng thống Park Chung Hee và Tổng thống Tưởng Giới Thạch rằng tôi hy vọng việc rút quân sắp bàn với Tổng thống Nixon ở Midway chỉ là một sự cắt giảm quân số mang tính tượng trưng. Song tôi cũng lưu ý rằng nếu Hoa Kỳ muốn rút hẳn thì chúng tôi cũng không thể ngăn cản. Vậy thì đề nghị họ rút quân từng bước, đồng thời viện trợ để củng cố một quân đội Nam Việt Nam hùng mạnh và hiện đại, có thể thay thế người Mỹ, sẽ là hợp lý hơn. Không bao giờ tôi đặt giả thiết là lính Mỹ sẽ ở lại Việt Nam vĩnh viễn.
Spiegel: Mỹ vẫn đóng quân ở Hàn Quốc và Tây Đức mà.
Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng chúng tôi là một dân tộc rất kiêu hãnh. Chúng tôi bảo họ rằng, chúng tôi cần vũ khí và viện trợ, nhưng nhiệt huyết và tính mạng thì chúng tôi không thiếu.
Spiegel: Ông đánh giá thế nào về tình thế của ông khi ấy? Vài tháng trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin Laird vừa đưa ra một khái niệm mới: "Việt Nam hóa chiến tranh". Trước đây người Mỹ chỉ nói đến việc "phi Mỹ hóa" cuộc chiến. Cái khái niệm mới ấy đã thể hiện rõ dự định rút khá nhanh của người Mỹ rồi, đúng không?
Nguyễn Văn Thiệu: Khi đến Sài Gòn vào tháng Bảy 1969, ông Nixon đã nhắc lại rằng ông ấy cần được sự hậu thuẫn của dư luận trong nước Mỹ. Tôi hiểu ông ấy. Nhưng ông ấy không hề tuyên bố rằng việc rút quân là một lịch trình mang tính hệ thống do sáng kiến của Mỹ. Ông ấy chỉ nói với tôi về những khó khăn trong nước, ở Mỹ, và đề nghị tôi giúp. Ông ấy bảo: "Hãy giúp chúng tôi giúp ông." Tôi đáp: "Tôi giúp ông giúp chúng tôi." Trong lần họp mặt đó, chúng tôi lại tiếp tục bàn về việc rút quân từng bước.
Spiegel: Nhưng không đưa ra một lịch trình cụ thể?
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Và ông Nixon lại hứa rằng việc rút quân của Mỹ sẽ phải đi đôi với những hành động tương ứng của Bắc Việt và phải phù hợp với khả năng phòng thủ của Nam Việt Nam cũng như phải phù hợp với việc Mỹ tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho Nam Việt Nam.
Spiegel: Ở thời điểm đó ông có nhận ra rằng nếu thấy cần thì Mỹ cũng sẽ sẵn sàng đơn phương rút quân không?
Nguyễn Văn Thiệu: Có, tôi đã ngờ. Nhưng lúc đó tôi vẫn rất vững tâm và tin tưởng vào đồng minh lớn của chúng tôi.
Spiegel: Có lẽ ông tin thế là phải. Cuốn hồi ký của Kissinger cho thấy khá rõ rằng chính phủ Nixon không thể dễ dàng "đình chỉ một dự án liên quan đến hai chính phủ, năm quốc gia đồng minh và đã khiến 31,000 người Mỹ phải bỏ mạng, như thể ta đơn giản chuyển sang một kênh TV khác."
Rõ ràng là người Mỹ muốn thoát khỏi Việt Nam bằng con đường đàm phán. Chỉ trong trường hợp cần thiết họ mới muốn đơn phương rút quân. Ông có đưa ra yêu sách nào liên quan đến những cuộc thương lượng giữa Washington và Hà Nội không?
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đã chán ngấy chiến tranh và quyết tâm chấm dứt nó qua đàm phán. Chúng tôi yêu cầu những kẻ xâm lăng đã tràn vào đất nước của chúng tôi phải rút đi. Tất cả chỉ có vậy.
Spiegel: Ông đã oán trách rằng sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam năm 1975 chủ yếu là do sau Hiệp định Paris, miền Bắc vẫn được phép đóng quân tại miền Nam. Ông khẳng định rằng mình chỉ chấp nhận sự hiện diện đó của miền Bắc trong quá trình đàm phán, còn sau khi ký kết thì Hà Nội phải rút quân.
Nhưng Kissinger lại khẳng định trong hồi ký rằng ông thừa biết việc Hà Nội sẽ tiếp tục trụ lại ở miền Nam, và cho đến tận tháng Mười 1972 ông cũng không hề phản đối những đề xuất của phía Mỹ liên quan đến điểm này.
Nguyễn Văn Thiệu: Đó là một lời nói dối hết sức vô giáo dục của Kissinger, rằng tôi chấp thuận cho quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam. Nếu ngay từ đầu tôi đã chấp thuận như Kissinger nói thì lúc ông ấy cho tôi xem bản dự thảo, trong đó không có điều khoản nào về việc rút quân của Bắc Việt, tôi đã chẳng phản đối quyết liệt như thế.
Điểm then chốt nhất mà tôi dốc sức bảo vệ, từ đầu cho đến khi kết thúc đàm phán, chính là yêu cầu Hà Nội phải rút quân. Tôi đã tuyên bố rõ với Kissinger là nếu không đạt được điều đó thì không có ký kết.
Sau nhiều ngày tranh luận gay gắt, cuối cùng ông ta bảo: "Thưa Tổng thống, điều đó là không thể được. Nếu được thì tôi đã làm rồi. Vấn đề này đã đặt ra ba năm trước, nhưng phía Liên Xô không chấp nhận." Tôi hiểu ra rằng chính phủ Mỹ đã nhượng bộ trước yêu sách của Liên Xô, và đó là nỗi thất vọng lớn nhất của tôi.
Spiegel: Có lẽ Liên Xô không thể làm khác, vì Hà Nội không chấp nhận coi Nam Việt Nam là một quốc gia khác, và một thời gian dài họ còn phủ nhận việc họ đã đưa quân đội chính quy vào miền Nam.
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đã chiến đấu hơn 20 năm và học được rằng, đừng bao giờ tin lời Nga Xô và Hà Nội. Bắc Việt đóng quân ở cả Lào, Campuchia và Nam Việt Nam, tôi tin rằng một người mù cũng nhìn ra điều đó. Muốn chấm dứt chiến tranh thì chúng ta phải nhìn vào hiện thực chứ không thể chỉ nghe lời kẻ địch.
Spiegel: Ông có lập luận như thế với Kissinger không?
Nguyễn Văn Thiệu: Tất nhiên, và với cả Tướng Haig nữa. Tôi bảo ông ấy thế này: "Ông Haig, ông là tướng, tôi là tướng. Ông có biết một hiệp định hòa bình nào trong lịch sử lại cho phép kẻ xâm lăng tiếp tục đóng quân tại lãnh thổ mà nó xâm lược không? Ông có cho phép Liên Xô vào Hoa Kỳ đóng quân rồi tuyên bố rằng ông đã ký kết thành công một hiệp định hòa bình với Liên Xô không?"
Spiegel: Ông ấy trả lời sao?
Nguyễn Văn Thiệu: Ông ấy không trả lời được. Mà trả lời thế nào cơ chứ, chuyện đó hoàn toàn vô lý. Còn gì mà nói nữa.
Spiegel: Nhưng Kissinger thì có câu trả lời trong hồi ký. Ông ấy viết rằng khó mà bắt Hà Nội rút quân, vì họ hoàn toàn không sẵn sàng từ bỏ trên bàn đàm phán những thứ mà họ không mất trên chiến trường. Nhưng ông ấy cũng nói rằng trong Hiệp định Paris có một điều khoản không cho phép xâm lấn. Ông ấy đi đến kết luận rằng "lực lượng miền Bắc sẽ tự nhiên tiêu hao sinh lực và dần dần biến mất."
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi thấy chính phủ Mỹ và đặc biệt là TS Kissinger không hề rút ra được bài học nào khi phải đàm phán với cộng sản, sau những kinh nghiệm đau thương năm 1954 giữa Pháp và cộng sản Việt Nam và từ Chiến tranh Triều Tiên. Họ cũng không học được gì từ những cuộc đàm phán về Lào và Campuchia và cũng không nắm bắt được là nên xử sự thế nào với cộng sản và cần phải hiểu chiến lược và chiến thuật của cộng sản ra sao.
Tức là ta lại phải trở về với vấn đề rằng, vì sao TS Kissinger, người đại diện cho một quốc gia lớn và tự cho mình là nhà thương thuyết giỏi giang nhất, lại có thể tin rằng quân Bắc Việt đóng tại miền Nam sẽ không xâm lấn. Sao ông ấy có thể tin như vậy cơ chứ?
Ông ấy đủ sức kiểm soát từng tấc đất trên biên giới của Campuchia, và của Lào, và của Nam Việt Nam à? Dù có cả triệu nhân viên quốc tế giám sát, chúng tôi cũng không bao giờ có thể khẳng định là đã có đủ bằng chứng rằng không có xâm lấn. Sao ông ấy lại có thể tin những gì Bắc Việt nói. Ông ấy có thể tin lời cộng sản, nhưng chúng tôi thì không. Vì thế mà tôi đã cương quyết đòi Bắc Việt phải rút quân. Nếu họ thực sự muốn hòa bình thì họ ở lại miền Nam làm gì?
Spiegel: Vậy Kissinger nói sao?
Nguyễn Văn Thiệu: Còn nói gì được nữa? Ông ấy và chính phủ Mỹ chỉ muốn chính xác có một điều: rút khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt và đảm bảo việc trao trả tù binh Mỹ. Họ bảo chúng tôi là họ mong muốn một giải pháp trong danh dự, nhưng sự thực thì họ chỉ muốn bỏ của chạy lấy người. Nhưng họ lại không muốn bị người Việt và cả thế giới kết tội là đã bỏ rơi chúng tôi. Đó là thế kẹt của họ.
Spiegel: Kissinger viết rằng, ngay sau Chiến dịch Xuân-Hè 1972 của Hà Nội, các bên dường như đã đổi vai. Hà Nội đột nhiên muốn đàm phán trở lại, còn Sài Gòn thì muốn đánh cho đến khi giành toàn thắng.
Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn vô nghĩa! Ông TS Kissinger hiểu thế nào là chiến thắng? Bắc Việt đã đem chiến tranh vào miền Nam. Chúng tôi yêu cầu họ phải rút quân. Thế là chiến thắng hay sao? Tôi chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt tự coi mình là tù binh của miền Nam. Tôi chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt bồi thường cho tổn thất chiến tranh. Tôi chưa bao giờ đòi hỏi Bắc Việt giao nộp lãnh thổ. Tôi chưa bao giờ đòi có chân trong chính phủ ở Hà Nội. Vậy ông Kissinger hiểu thế nào về chiến thắng và toàn thắng?
Spiegel: Về vấn đề rút quân của miền Bắc, 31 tháng Năm 1971 là một ngày quan trọng. Kissinger cho biết là khi đó, trong các cuộc họp kín, Mỹ đã đưa ra yêu cầu hai bên cùng rút quân. Trong hồi ký, ít nhất ba lần TS Kissinger viết rằng không những ông được thông báo trước, mà ông còn chấp thuận.
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không bao giờ chấp thuận việc rút quân đơn phương. Từ cuộc họp ở Midway, tôi luôn luôn yêu cầu rút quân từng bước và cả hai bên cùng rút. Hoa Kỳ đã thay đổi lập trường và tìm cách ép chúng tôi, với những chiến thuật mà họ thường sử dụng, bằng cách huơ thanh gươm Damocles trên đầu tôi, chẳng hạn họ đem công luận Mỹ ra đe tôi, họ bảo: "Hình ảnh của ông tại Hoa Kỳ hiện nay rất tồi tệ!" Hoặc: "Quốc hội muốn cắt giảm viện trợ." Vân vân. Họ áp dụng đúng những chiến thuật đã biết, tiết lộ thông tin cho báo giới và đặt tôi trước sự đã rồi.
Nếu tôi từ chối, công luận sẽ quay ra chống tôi: "Ông ta đòi quá nhiều, ông ta sẽ không bao giờ cho Mỹ được rút, ông ta sẽ không bao giờ cho tù binh Mỹ được trở về." Thế là tôi luôn phải chấp thuận. Không phải tự nguyện, mà miễn cưỡng. Tôi phản đối làm sao được, khi lần nào họ cũng bảo rằng: "Ông mà chống thì sẽ bị cắt viện trợ."
Spiegel: Kissinger viết rằng trước bất kỳ một quyết định dù dưới hình thức nào, phía Mỹ cũng hỏi ý kiến ông trước.
Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, họ hỏi ý kiến tôi, nhưng chắc chắn không phải là để nghe tôi nói "Không", nếu đó là những quyết định phục vụ cho lợi ích của Hoa Kỳ. Họ ưa gây sức ép hơn, và đạt được gần như mọi thứ bằng cách đó.
Spiegel: Bây giờ Kissinger cay đắng chỉ trích về Chiến dịch Hạ Lào năm 1971. Ông ấy viết rằng, ông đã đồng ý rằng chiến dịch này nhất định phải thực hiện trong mùa khô. Vậy ý tưởng đó ban đầu là của ai?
Nguyễn Văn Thiệu: Của người Mỹ. Trước đó khá lâu, chúng tôi từng có ý định thực hiện, nhưng không đủ khả năng tiến hành một mình. Đến khi phía Mỹ đề xuất thì chúng tôi sẵn sàng đồng ý, để sớm chấm dứt chiến tranh. Chiến dịch đó do liên quân Việt-Mỹ thực hiện và được vạch ra rất rõ ràng: Chúng tôi tác chiến tại Lào, còn phía Mỹ thì hỗ trợ tiếp vận từ Việt Nam và từ biên giới.
Spiegel: Vì sao? Vì Quốc hội Mỹ có luật cấm quân đội Mỹ xâm nhập lãnh thổ Lào?
Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, tôi tin là vậy. Nhưng cũng vì chúng tôi không có đủ phương tiện để tiếp tế cho binh lính, và nhất là để cứu thương binh ra ngoài. Việc đó chỉ có thề thực hiện bằng trực thăng, và chỉ phía Mỹ mới có đủ trực thăng. Không có họ thì không đời nào chúng tôi đồng ý thực hiện chiến dịch tại Lào.
Spiegel: Kissinger viết rằng quân của ông gặp khó khăn khi yêu cầu không quân hỗ trợ, vì gần như không có báo vụ viên nói được tiếng Anh.
Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn không có vấn đề gì với việc hỗ trợ của không quân. Đôi khi không có thì chúng tôi cũng không lo lắng; chúng tôi có thể dùng pháo binh. Vấn đề là: trong ba ngày mở đầu chiến dịch, phía Mỹ đã mất rất nhiều phi công trực thăng. Vì thế mà họ chần chừ, không bay đúng thời điểm và ở quy mô cần thiết. Điều đó thành ra một vấn đề lớn với quân lực Nam Việt Nam.
Spiegel: Tinh thần binh lính bị suy sụp?
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi không đem được binh lính tử trận và thương binh ra ngoài. Không phải chỉ tinh thần binh lính, mà cả tiến độ của chiến dịch cũng bị ảnh hưởng.
Spiegel: Kissinger nêu ra một lý do khác. Rằng ông đã lệnh cho các sĩ quan chỉ huy phải thận trọng khi tiến về hướng Tây và ngừng chiến dịch nếu quân số tổn thất lên tới 3000. Kissinger viết rằng nếu phía Mỹ biết trước điều đó thì không đời nào họ đồng ý tham gia chiến dịch này.
Nguyễn Văn Thiệu: Đối với một quân nhân, định trước một tổn thất về quân số là điều phi lý. Nếu TS Kissinger nói thế thì ông ấy thật giàu trí tưởng tượng. Chúng tôi chỉ có thể tiến về phía Tây trong giới hạn mà trực thăng cứu viện có thể bay đến. Kissinger bảo là chúng tôi đã rút quân mà không báo cho phía Mỹ. Làm sao chúng tôi có thể triệt thoái trên 10,000 quân mà họ không hay biết gì?
Spiegel: Tức là ông đã thông báo cho họ?
Nguyễn Văn Thiệu: Ồ, tất nhiên. Để tôi kể cho ông nghe một câu chuyện. Hồi đó tờ Time hay tờ Newsweek có đăng bức hình một người lính Nam Việt Nam đang bám vào càng một chiếc trực thăng cứu viện. Bên dưới đề: "Nhát như cáy". Tôi chỉ cười. Tôi thấy nó tệ. Không thể ngăn một người lính lẻ loi hành động như vậy được. Nhưng báo chí lại kết tội lính Nam Việt Nam là hèn nhát và đồng thời giấu biến sự thật về tinh thần chiến đấu sút kém của phi công trực thăng Mỹ trong chiến dịch này.
Spiegel: Một điểm gây rất nhiều tranh cãi giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam là vấn đề ngưng bắn. Theo cuốn hồi ký của Kissinger thì ngay từ mùa Hè 1970 chính phủ Mỹ đã thống nhất về việc sẽ đề xuất một thỏa thuận ngưng bắn tại các chiến tuyến hiện có. Kissinger khẳng định rằng ông không chỉ chấp thuận mà còn ủng hộ đề xuất này.
Nguyễn Văn Thiệu: Đúng như vậy, tôi cũng cho rằng ngưng bắn phải là bước đầu tiên để đáp ứng một hiệp định hòa bình. Nhưng ngưng bắn ngay lập tức – và tôi xin nhắc lại: ngay lập tức – thì tôi không bao giờ đồng ý với Kissinger. Tôi bảo, chúng ta phải cân nhắc hết sức kỹ lưỡng việc này. Không thể thực hiện ngưng bắn trước khi tính kỹ việc ai sẽ giám sát việc ngưng bắn, nếu ai vi phạm thì hậu quả sẽ thế nào, hai bên sẽ đóng quân ở đâu, vân vân.
Spiegel: Kissinger viết: "Khi đó chúng tôi vẫn tưởng rằng chúng tôi và Thiệu cùng đồng hành hợp tác." Phía Mỹ đã không hiểu rằng ông đem những "chiến thuật né tránh" mà "người Việt thường áp dụng với người ngoại quốc" ra dùng.
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi là một nước nhỏ, gần như mọi thứ đều nhờ ở một đồng minh lớn và vẫn tiếp tục phải xin viện trợ dài hạn của đồng minh đó, không bao giờ chúng tôi lại cho phép mình dùng những thủ đoạn nào đó.
Spiegel: Khi Mỹ đã rút, còn Hà Nội thì được phép tiếp tục đóng quân ở miền Nam, chắc ông phải thấy là ông đã thua trong cuộc chiến này?
Nguyễn Văn Thiệu: Không hẳn, nếu chúng tôi tiếp tục được sự trợ giúp cần thiết từ phía Mỹ, như chính phủ Mỹ đã hứa khi chúng tôi đặt bút ký hiệp định. Ngay cả khi ký, tôi đã coi đó là một nền hòa bình tráo trở.
Nhưng chúng tôi vẫn tin rằng có thể chống lại bất kỳ sự xâm lăng nào của Bắc Việt. Vì hai lý do: Chúng tôi có lời hứa chắc chắn bằng văn bản của Tổng thống Nixon rằng Hoa Kỳ sẽ phản ứng quyết liệt, nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định.
Spiegel: Mặc dù ông ấy không hề cho biết sẽ phản ứng bằng cách nào.
Nguyễn Văn Thiệu: Thứ hai, chúng tôi được đảm bảo là sẽ có đủ viện trợ quân sự và kinh tế cần thiết để chống Bắc Việt xâm lược. Nếu chính phủ Mỹ thực lòng giữ lời hứa thì chiến tranh có thể kéo dài, nhưng miền Nam sẽ không bị Bắc Việt thôn tính.
Spiegel: Về điều này thì ông và Kissinger ít nhiều đồng quan điểm. Ông ấy viết rằng chiến lược toàn cục có thể sẽ thành công, nếu Mỹ đủ khả năng hành động trước bất kỳ một vi phạm nào của Hà Nội và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho miền Nam. Nhưng chuyện gì đã xảy ra? Kissinger quy lỗi cho vụ Watergate, vì sau đó Tổng thống Mỹ không còn đủ uy tín. Ông có nghĩ rằng vụ Watergate thực sự chịu trách nhiệm, khiến tất cả sụp đổ không?
Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không phải là người Mỹ. Tôi không muốn quét rác trước cửa nhà người Mỹ. Nhưng nếu người Mỹ giữ lời hứa thì đó là sự cảnh báo tốt nhất, khiến Bắc Việt không tiếp tục xâm lăng, và chiến tranh có thể sẽ dần chấm dứt.
Spiegel: Nếu Hoa Kỳ giữ lời thì theo ông, hiệp định hoàn toàn có thể thành công?
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi cho là như vậy.
Spiegel: Như vậy về tổng thể, Hiệp định Paris không đến nỗi tồi?
Nguyễn Văn Thiệu: Đó chắc chắn không phải là một hiệp định có lợi cho chúng tôi. Nó tráo trở. Nhưng đó là lối thoát cuối cùng. Ông phải hiểu rằng chúng tôi đã ký kết, vì chúng tôi không chỉ có lời hứa của chính phủ Mỹ như tôi đã nói, mà hiệp định đó còn được mười hai quốc gia và Liên Hiệp Quốc đảm bảo.
Spiegel: Trong cuốn hồi ký, TS Kissinger có những bình luận rát mặt về khá nhiều chính khách đầu đàn. Nhưng riêng ông thì bị ông ấy dành cho những lời hạ nhục nhất. Tuy đánh giá cao "trí tuệ", "sự can đảm", "nền tảng văn hóa" của ông, nhưng ông ấy vẫn chú tâm vào "thái độ vô liêm sỉ", "xấc xược", "tính vị kỷ chà đạp" và "chiến thuật khủng khiếp, gần như bị ám ảnh điên cuồng" trong cách ứng xử với người Mỹ của ông. Vì thế, cuối cùng Kissinger nhận ra "sự phẫn nộ bất lực mà người Việt thường dùng để hành hạ những đối thủ mạnh hơn về thể lực". Ý kiến của ông về những khắc họa đó thế nào?
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không muốn đáp lại ông ấy. Tôi không muốn nhận xét gì về ông ấy. Ông ấy có thể đánh giá tôi, tốt hay xấu, thế nào cũng được. Tôi muốn nói về những điều đã xảy ra giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam hơn.
Spiegel: Hay ông đã làm gì khiến ông ấy có cái cớ để viết về ông với giọng coi thường như thế?
Nguyễn Văn Thiệu: Có thể ông ấy đã ngạc nhiên vì gặp những người quá thông minh và mẫn cán. Có thể cũng do cái phức cảm tự tôn của một người đàn ông hết sức huênh hoang. Có thể ông ấy không tin nổi là người Việt đối thoại với ông ta lại địch được một người tự coi mình là vô cùng quan trọng.
Để tôi kể thêm một câu chuyện nữa: Ở đảo Midway tôi thấy buồn cười, vì thật chẳng bao giờ tôi có thể hình dung là những người như vậy lại tệ đến thế. Chúng tôi, gồm ông Nixon, ông Kissinger, phụ tá của tôi và tôi, gặp nhau ở nhà một sĩ quan chỉ huy hải quân ở Midway. Ở đó có ba chiếc ghế thấp và một chiếc ghế cao. Ông Nixon ngồi trên chiếc ghế cao.
Spiegel: Như trong phim Nhà độc tài vĩ đại của Chaplin? Hitler cũng ngồi trên một chiếc ghế cao để có thể nhìn xuống Mussolini, ngồi trên một chiếc ghế thấp hơn.
Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng tôi vào góc phòng lấy một chiếc ghế cao khác, nên tôi ngồi ngang tầm với Nixon. Sau buổi gặp đó ở Midway, tôi nghe bạn bè người Mỹ kể lại rằng Kissinger đã rất bất ngờ vì Tổng thống Thiệu là một người như vốn dĩ vẫn vậy.
Spiegel: Trong hồi ký, Kissinger phàn nàn là đã bị cá nhân ông đối xử rất tệ; ông bỏ hẹn để đi chơi trượt nước. Nixon còn quá lời hơn. Theo Kissinger thì Nixon đã gọi ông là "đồ chó đẻ" (son of a bitch) mà Nixon sẽ dạy cho biết "thế nào là tàn bạo".
Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không thể cho phép mình đáp lại những lời khiếm nhã, thô tục đó của Nixon, vì tôi xuất thân từ một gia đình có nề nếp.
Nếu tôi không tiếp TS Kissinger và Đại sứ Bunker thì đơn giản chỉ vì chúng tôi chưa chuẩn bị xong để tiếp tục đàm thoại. Họ đã cần đến 4 năm, vậy vì sao lại bắt tôi trả lời ngay lập tức trong vòng một tiếng đồng hồ? Có lẽ họ sẽ hài lòng, nếu chúng tôi chỉ biết vâng dạ. Nhưng tôi không phải là một người chỉ biết vâng dạ, và nhân dân Nam Việt Nam không phải là một dân tộc chỉ biết vâng dạ, và Quốc hội của chúng tôi không phải là một Quốc hội chỉ biết vâng dạ. Mà tôi phải hỏi ý kiến Quốc hội.
Spiegel: TS Kissinger viết rằng thái độ của ông với ông ấy chủ yếu xuất phát từ "lòng oán hận độc địa".
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi chỉ bảo vệ lợi ích của đất nước tôi. Dĩ nhiên là đã có những cuộc tranh luận nảy lửa, nhưng thái độ của tôi xuất phát từ tinh thần yêu nước của tôi.
Spiegel: Kissinger viết rằng ông ấy hoàn toàn "thông cảm với hoàn cảnh bất khả kháng" của ông. Ông có thấy dấu hiệu nào của sự thông cảm đó không?
Nguyễn Văn Thiệu: Không, tôi không thấy. Tôi chỉ thấy duy nhất một điều, đó là áp lực từ phía chính phủ Mỹ.
Spiegel: Kissinger viết rằng ông không bao giờ tham gia vào các buổi thảo luận về chủ trương chung. Ông ấy bảo rằng ông chiến đấu "theo kiểu Việt Nam: gián tiếp, đi đường vòng và dùng những phương pháp khiến người ta mệt mỏi hơn là làm sáng tỏ vấn đề", rằng ông "chê bai mọi thứ, nhưng không bao giờ nói đúng vào trọng tâm câu chuyện".
Nguyễn Văn Thiệu: Hãy thử đặt mình vào tình thế của tôi: Ngay từ đầu tôi đã chấp nhận để chính phủ Mỹ họp kín với Hà Nội. Kissinger bảo là đã thường xuyên thông báo cho tôi. Vâng, tôi được thông báo thật – nhưng chỉ về những gì mà ông ấy muốn thông báo. Nhưng tôi đã tin tưởng rằng đồng minh của mình sẽ không bao giờ lừa mình, không bao giờ qua mặt tôi để đàm phán và bí mật bán đứng đất nước tôi.
Các ông có hình dung được không: vỏn vẹn bốn ngày trước khi lên đường đến Hà Nội vào tháng Mười 1972, ông ấy mới trao cho tôi bản dự thảo mà sau này sẽ được chuyển thành văn bản hiệp định ở Paris, bằng tiếng Anh? Chúng tôi phải làm việc với bản dự thảo tiếng Anh này, từng điểm một.
Và bản dự thảo đó không phải do Nam Việt Nam cùng Hoa Kỳ soạn ra, mà do Hà Nội cùng Hoa Kỳ soạn ra. Các ông có thể tưởng tượng được điều đó không? Lẽ ra, trước hết phía Mỹ nên cùng chúng tôi thống nhất quan điểm về những điều kiện đặt ra cho hiệp định, và sau đó, nếu Bắc Việt có đề nghị gì khác thì Kissinger phải trở lại hội ý với chúng tôi. Nhưng ông ấy không hề làm như vậy.
Thay vào đó, ông ấy cùng Bắc Việt soạn ra các thỏa thuận rồi trình ra cho tôi bằng tiếng Anh. Các ông có thể hiểu cảm giác của tôi khi cầm văn bản của hiệp định hòa bình sẽ quyết định số phận của dân tộc tôi mà thậm chí không buồn được viết bằng ngôn ngữ của chúng tôi không?
Spiegel: Nhưng cuối cùng ông cũng có bản tiếng Việt?
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi cương quyết đòi bản tiếng Việt, đòi bằng được. Mãi đến phút cuối cùng ông ấy mới miễn cưỡng chấp nhận. Sau đó chúng tôi phát hiện ra rất nhiều cái bẫy. Tôi hỏi Đại sứ Bunker và Kissinger, ai đã soạn bản tiếng Việt. Họ bảo: một người Mỹ rất có năng lực thuộc International Linguistics College tại Hoa Kỳ cùng với phía Hà Nội. Nhưng làm sao một người Mỹ có thể hiểu và viết tiếng Việt thành thạo hơn người Việt. Và làm sao một người Mỹ có thể ứng đối bằng tiếng Việt với cộng sản Bắc Việt giỏi hơn chính chúng tôi? Đồng minh mà như thế thì có chân thành và trung thực không?
Spiegel: Một số quan chức cao cấp ở Hoa Kỳ từng nhận định rằng thực ra Kissinger chỉ cố gắng đạt được một khoảng thời gian khả dĩ giữa việc Mỹ rút quân và sự sụp đổ tất yếu của Nam Việt Nam. Trong cuốn sách của mình, Kissinger bác bỏ quan niệm đó. Ý kiến của ông thì thế nào?
Nguyễn Văn Thiệu: Bất kể người Mỹ nói gì, tôi tin rằng mục đích cuối cùng của chính phủ Mỹ là một chính phủ liên hiệp tại Nam Việt Nam.
Spiegel: Nhưng Kissinger đưa ra cả một loạt điểm để chứng minh rằng không phải như vậy.
Nguyễn Văn Thiệu: Chính phủ Mỹ tìm cách ép chúng tôi phải đồng ý. Để họ có thể hãnh diện là đã thoát ra được bằng một "thỏa thuận danh dự". Để họ có thề tuyên bố ở Hoa Kỳ rằng: "Chúng ta rút quân về nước, chúng ta đảm bảo việc phóng thích tù binh Mỹ." Và ở ngoài nước Mỹ thì họ nói rằng: "Chúng tôi đã đạt được hòa bình cho Nam Việt Nam. Bây giờ mọi chuyện do người dân Nam Việt Nam định đoạt. Nếu chính phủ liên hiệp biến thành một chính phủ do cộng sản chi phối thì đó là vấn đề của họ. Chúng tôi đã đạt được một giải pháp danh dự."
Spiegel: Kissinger viết như sau: "Nguyên tắc mà chúng tôi tuân thủ trong các cuộc đàm phán là: Hoa Kỳ không phản bội đồng minh."
Nguyễn Văn Thiệu: Ông cứ nhìn miền Nam Việt Nam, Campuchia và toàn bộ Đông Dương hiện nay thì biết. Khi tranh luận với các đại diện chính phủ Mỹ về hiệp định hòa bình, chúng tôi thường có ấn tượng rằng họ không chỉ đóng vai, mà thực tế là đã biện hộ cho ác quỷ.
Spiegel: Có bao giờ ông thấy một chút gì như là biết ơn đối với những điều mà người Mỹ đã làm để giúp nước ông không? Trong cuốn sách của mình, Kissinger viết rằng: "Biết công nhận những cống hiến của người khác không phải là đặc tính của người Việt."
Nguyễn Văn Thiệu (cười): Về những điều mà Kissinger viết trong cuốn sách của ông ấy thì tôi cho rằng chỉ một người có đầu óc lộn bậy, chỉ một người có tính khí tởm lợm mới nghĩ ra được những thứ như vậy. Trong cuốn sách đó ông ấy còn tỏ ý sợ người Việt sẽ đem những người Mỹ còn sót lại ra trả thù, sau khi Washington bỏ rơi chúng tôi. Không bao giờ chúng tôi làm những điều như thế, không bây giờ và không bao giờ.
Spiegel: Cá nhân ông có cảm thấy một chút hàm ơn nào với họ không?
Nguyễn Văn Thiệu: Hết sức thực lòng: Nếu chính phủ Mỹ không phản bội, không đâm dao sau lưng chúng tôi thì nhân dân Việt Nam mãi mãi biết ơn họ. Có lần, sau khi chúng tôi tranh luận rất kịch liệt về một văn bản trong hiệp định, một số thành viên trong chính phủ của tôi bảo rằng, nếu Kissinger lập công với miền Nam như ông ta đã lập công với miền Bắc thì may mắn biết bao. Tôi bảo họ: nếu ông ấy thương lượng được một nền hòa bình thực sự với Hà Nội thì miền Nam sẽ dựng tượng ông ấy, như MacAthur ở Nam Hàn. Nhưng đáng tiếc là đã không như vậy. Nhìn vào những hậu quả của nền hòa bình ấy: trại tập trung cải tạo, nạn đói, nhục hình tra tấn, hàng ngàn thuyền nhân bỏ mạng trên biển, và một cuộc diệt chủng tàn bạo hơn, hệ thống hơn và hoạch định hơn cả ở Campuchia, tôi nghĩ tốt nhất là người Mỹ nên tự đánh giá những điều mà ông Nixon và ông Kissinger đã gây ra cho miền Nam Việt Nam. Kissinger không có gì để tự hào về nền hòa bình mà ông ấy đã đạt được. Đó là hòa bình của nấm mồ.
Spiegel: Xin cảm ơn ông Thiệu đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
(Nguồn: "Die Amerikaner haben uns verraten", tạp chí Spiegel số 50/1979. Những người thực hiện: Engel, Johannes K., Lohfeldt, Heinz P.)
- Viết bởi Dân Chúa
Mới đây, ngày 18-04-2015, trong một bức thư dài gởi Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương đảng CS, 42 nhân sĩ trí thức có đưa ra một số nhận định về mối quan hệ Việt-Trung, thúc giục giới lãnh đạo cảnh giác với chủ trương bá quyền bành trướng của Tàu cộng, một chủ trương núp dưới vỏ bọc “cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa” nhằm “thâm nhập, lũng đoạn, uy hiếp” Việt Nam. Bức thư nhắc nhở hàng ngũ chóp bu đảng về các hành động Tàu cộng dựa thế bá quyền nước lớn, không tôn trọng chủ quyền lãnh thổ nước Việt trên Đông Hải. Bức thư cũng mạnh mẽ tố cáo: “Trung Quốc ngày càng phơi bày bộ mặt của một siêu cường ham hố và hiếu chiến đang bị công luận trong khu vực Đông Nam Á, Đông Á và cả thế giới lên án” đồng thời kêu mời hãy “tạo ra một bước đột phá, bứt khỏi sự kìm kẹp, áp lực nặng nề trong “quỹ đạo” của TQ, hay khiếp nhược đầu hàng trước những dụ dỗ, mua chuộc hoặc uy hiếp, đe doạ của giới cầm quyền hiếu chiến Bắc Kinh để tiếp tục chìm sâu vào khủng hoảng, sụp đổ niềm tin, khiến đất nước lạc hậu”.
Nhắc đến chuyến đi sắp tới của Tổng bí thư đảng sang Hoa Kỳ, 42 nhân sĩ trí thức kỳ vọng: “Chúng ta rất cần liên minh với ai có thể giúp chúng ta thêm sức mạnh chống lại kẻ cướp đang xông vào nhà mình...Lúc này đây thực lực của Mỹ đang là một sức mạnh giúp chúng ta giữ vững chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc ta trên đất liền cũng như trên biển”.
Thế nhưng, chỉ mới hôm qua thôi, trong diễn văn kỷ niệm 40 năm ngày Hà Nộixâm lược Việt Nam Cộng Hòa để áp đặt lên toàn thể đất nước một chế độ toàn trị độc tài, độc ác và độc hại, thủ tướng CS Nguyễn Tấn Dũng đã “chân thành cảm ơn các nước XHCN, nhất là Liên Xô, Trung Quốc”, hai tên đầu sỏ từng xúi dại thằng em VN ngu xuẩn giết dân và phá nước mình bằng súng đạn của chúng để phục vụ ý đồ của chúng là mở rộng đế quốc đỏ. Tiếp đó, với giọng điệu xuyên tạc lịch sử như xưa rày, Nguyễn Tấn Dũng mạnh miệng chửi bới kẻ thù không đội trời chung của đảng: “Đế quốc Mỹ đã ngang nhiên áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự của Mỹ, đàn áp tàn bạo Cách mạng miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại khốc liệt ở miền Bắc. Chúng đã gây ra biết bao tội ác dã man, biết bao đau thương, mất mát đối với đồng bào ta, đất nước ta”. Hỡi 42 trí thức nhân sĩ, các vị nghĩ sao về vấn đề này?
Khi viết bức thư tâm huyết trên, các vị hẳn biết chính trong cùng ngày (18-04), ông Dũng cũng ra Quyết định 501/QĐ-TTg, thí điểm tổ chức Diễn đàn khoa học chuyên nghiệp của trí thức nhằm tạo cho họ cơ hội tham gia hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội các chủ trương, chính sách, dự án phát triển kinh tế xã hội của chính phủ. Oái oăm thay, theo RFA 26-04-2015, “nhà báo Huy Đức đã bình luận rằng việc Thủ tướng Chính phủ vừa quyết định thí điểm tổ chức Diễn đàn khoa học chuyên nghiệp của trí thức, nếu so với cung cách “đóng cửa làm chính sách” của nhà nước VN lâu nay thì đã có vẻ như cởi mở hơn. Tuy vậy, theo Điều 25 Hiến pháp VN năm 2013 quy định công dân có quyền “tiếp cận thông tin và phát biểu công khai ý kiến của mình về các chủ trương, chính sách, dự án phát triển kinh tế–xã hội” thì thấy quyết định của Thủ tướng quy định“chỉ những trí thức được chọn mới có quyền phản biện” lại là vấn đề vi hiến”.
Bình luận chuyện này, Tiến sĩ Nguyễn Quang A [không ký tên trong thư ngỏ và là người đã cay đắng vì Quyết định 97 cũng của Nguyễn Tấn Dũng năm 2009 đã khiến cho Viện Nghiên cứu Phát triển IDS của ông và thân hữu phải tự đóng cửa] nói với đài RFA hôm 26-04: “Tôi cũng không quan tâm lắm khi ông Thủ tướng vẽ ra cái phản biện hay là cái nghiên cứu. Ông ấy có giỏi hay cởi mở thì hãy hủy cái quyết định 97 của ông ấy 5-7 năm trước đi, lúc ấy tôi mới có thể tin được. Chứ còn cái quy định về phản biện hay về thế nọ thế kia cho các nhà khoa học thì cũng chả ra đâu vào đâu cả. Một mặt thì ông ấy vẫn muốn nghe, nhưng một mặt thì ông ấy vẫn muốn bịt mồm những người khác và ông ấy chỉ muốn nghe để cho ông ấy nghe thôi thì tôi nghĩ rằng một môi trường như thế chẳng phải là một môi trường phản biện và cũng chẳng phải là một môi trường khuyến khích”.
Quý trí thức nhân sĩ hẳn cũng còn nhớ ngày 04-02-2013, 72 vị [nay rớt đi 30] đã trao cho cái gọi là Quốc hội VN một kiến nghị nhằm góp ý sửa đổi Hiến pháp. Khi ấy, trong thời gian chờ Quốc hội nghiên cứu các đề xuất, thì “Nhóm Kiến nghị 72” (tên gọi xuất phát từ sự kiện ấy) đã bị truyền thông nhà nước –dưới sự chỉ đạo của đảng và chính phủ– đánh cho tơi bời. Đám báo chí công cụ này chẳng những bác bỏ chỉ trích mọi ý kiến tâm huyết, xây dựng, đầy tính dân chủ mà còn vu khống, thóa mạ những nhà trí thức viết ra nó. Và cuối năm ấy, cái Đảng pháp (tên gọi đúng nhất của Hiến pháp 2013) cho thấy đảng đã hoàn toàn vất vào sọt rác mọi ý kiến của nhóm 72 cũng như của bao cá nhân và tổ chức tôn giáo, tổ chức đấu tranh hay tổ chức xã hội dân sự.
Tiếp đó, Thư ngỏ gửi Ban chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên đảng CSVNngày 28-07-2014 của 61 đảng viên trí thức có khiến đảng bỏ đi chăng “đường lối sai cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh”, có khiến đảng tỉnh ngộ chăng trước “mưu đồ và hành động của thế lực bành trướng Trung Quốc đối với nước ta, [để] từ bỏ những nhận thức mơ hồ, ảo tưởng; và có đối sách trước mắt và lâu dài bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc” ???
Tới giờ phút này, sau 40 năm cai trị toàn thể đất nước của cái đảng luôn tự xưng là tinh hoa nhân kiệt đất nước, đỉnh cao trí tuệ loài người nhưng chỉ đẻ ra sai lầm, tội ác và thất bại mọi mặt, quý vị trí thức có tinh thần dân chủ và thiện chí xây dựng không thấy rằng cái đảng đó chỉ nghe những “nhà trí thức” kiểu Vũ Khiêu, Trần Đăng Thanh, Hoàng Chí Bảo, Vũ Quang Hiển… thôi sao? (Đúng ra những kẻ này –hiểu biết nhiều và học vị cao đấy– chỉ nghe theo đảng để một lòng xưng tụng đảng, dù phải xuyên tạc chân lý, lý luận quàng xiên và phán đoán lệch lạc).
Thiết nghĩ đã đến lúc các nhà trí thức (dân sự lẫn tôn giáo) nên hướng về một sức mạnh khác, một quyền lực khác: sức mạnh của quần chúng, quyền lực của nhân dân để xoay chuyển tình thế, chấn hung đất nước, canh tân xã hội (như bên Đông Âu thế kỷ trước và Trung Đông thế kỷ này). Sức mạnh đó đang dần dần biểu lộ qua những cuộc xuống đường biểu tình, đình công của hàng ngàn, hàng chục ngàn, thậm chí cả trăm ngàn công nhân, nông dân, thường dân vì những vấn đề nhân sinh, nhu cầu cuộc sống. Xin nhắc lại vài vụ việc tiêu biểu gần đây:
Kể từ ngày 26-3-2015, hàng chục ngàn công nhân thuộc công ty Pou Yuen của Đài Loan tại Sài Gòn đã đình công liên tục để phản đối điều 60 Luật Bảo hiểm Xã hội sắp có hiệu lực đầu năm tới. Luật này không cho phép người lao động lãnh tiền bảo hiểm xã hội một lần khi kết thúc hợp đồng với công ty nơi mình làm việc, mà phải chờ đến tuổi nghỉ hưu (60 đối với nam và 55 đối với nữ). Cuộc đình công sau đó lan tới các công ty ở Bình Dương, Long An, Tây Ninh và Tiền Giang, lôi kéo tới cả 100 ngàn công nhân biểu tình trong ôn hòa bất bạo động.
Mặc dù hàng ngàn công an và dân phòng đã được huy động đến các công ty này để đàn áp họ, đánh đập hoặc bắt bớ nhiều công nhân tiên phong và tích cực, thế nhưng công nhân đã chẳng còn sợ hãi, họ đuổi đám dân phòng chạy dài, còn phá hàng rào xông vào giải cứu những đồng nghiệp đang bị giam giữ. Rồi mặc dầu Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là Đặng Ngọc Tùng, một tay sai của đảng, ngày 31-03-2015, ra lời kêu gọi công nhân quay trở lại làm việc và “chớ để kẻ xấu lợi dụng, kích động, xúi giục”, theo giọng điệu thông thường của cộng sản, các công nhân vẫn bỏ ngoài tai. Khiến cho ngày 01-04-2015, trước ảnh hưởng lớn mạnh của phong trào đòi quyền lợi chính đáng của người lao động, thủ tướng CS buộc phải tuyên bố sẽ đề nghị Quốc hội sửa lại luật BHXH. Nay dù các cuộc biểu tình đã lặng xuống, nhưng chắc chắn sẽ lại bùng phát nếu Nguyễn Tấn Dũng và Quốc hội nuốt lời.
Tiếp đến là vụ tại miền Trung. Liên tục trong hai ngày 14 và 15-04-2015, hàng ngàn người dân Bình Thuận đã tràn xuống quốc lộ 1A để biểu tình phản đối nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 (do Trung Cộng xây dựng và làm chủ) đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng bằng cách thả xỉ than, khói độc vào không khí. Cuộc biểu tình đã khiến giao thông trên quốc lộ 1A tê liệt, xe cộ kẹt cứng hàng chục cây số. Với quyết tâm bảo vệ đám chủ nhân nhà máy (mà cũng là chủ nhân của mình) bằng mọi giá, nhà cầm quyền CS đã huy động lực lượng cảnh sát cơ động hùng hậu kéo đến nổ súng, ném lựu đạn cay nhằm giải tán đám đông nhân dân phẫn nộ. Hành động này như đổ thêm dầu vào lửa, người dân phản ứng lại bằng cách dùng gạch đá, bom xăng đánh trả lại lực lượng CA. Xung đột giữa nhân dân và chính quyền nhanh chóng bùng phát thành bạo lực dữ dội, khiến cả đoạn đường rực lửa như bị thiêu cháy.
Trước áp lực của người dân, chiều ngày 15-4-2015, phó thủ tướng CS Hoàng Trung Hải đã phải chỉ đạo nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 khắc phục tình hình. Rồi gần 10 ngày sau khi xảy ra vụ bạo động, Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) đã phải lên tiếng xin lỗi, đồng thời cam kết sẽ không để người dân phải gánh chịu tình trạng ô nhiễm nữa.
Rõ ràng là không cần kiến nghị xin xỏ, chẳng phải lý luận loanh quanh, nhân dân chỉ việc kéo nhau xuống đường, dùng chính sự đông đảo của mình để áp lực lên đám thống trị CS xưa nay vẫn coi thường quần chúng, coi như đám thảo dân nô lệ. Tuy nhiên, lực lượng đông đảo này cần được thúc giục, hướng dẫn, tổ chức bởi thành phần có trí tuệ để hành vi không rơi vào hỗn loạn, hoạt động đạt được kết quả và kết quả lâu dài. Vậy xin các trí thức nhân sĩ, chức sắc tôn giáo –và cả các tổ chức xã hội dân sự độc lập– hãy bớt đi những tuyên bố, kháng thư, kiến nghị gởi lên cho tai điếc độc tài mà đến với quần chúng, đi vào quần chúng, tổ chức quần chúng. Tài năng và tâm huyết của quý vị nên thể hiện nơi giới nông dân, công nhân, sinh viên học sinh, tín đồ giáo hữu, giúp họ đứng lên, đoàn kết để trở thành cuồng phong quét sạch chế độ! Bài học của các cuộc cách mạng tự cổ chí kim, kể cả cách mạng cộng sản, vẫn còn đó!
- Viết bởi Phạm Trần
Trong 40 năm cai trị cả nước Việt Nam từ sau ngày 30/04/1975, lần đầu tiên đã có những tiếng nói từ trong lòng chế độ lên án đảng phản bội dân tộc và buôn xương máu các chiến sỹ để được yên thân với Trung Quốc bá quyền.
Những người can đảm lên tiếng không ai khác hơn đã một thời chiến đấu dưới ngọn cờ đảng, từng là đảng viên, lão thành cách mạng và văn nghệ sỹ đã nằm gai nếm mật tại các chiến trường, có người từ thời chống Pháp.
Nhưng tại sao họ đã dứt khóat như thế mà không sợ bị trù dập, bắt tù ? Nhất là lại lên tiếng đúng vào dịp đảng ra sức tuyên truyền và tiêu phí tiền dân để che giấu tội hại nước, phản dân vào dịp kỷ niệm 40 năm ngày được thêu dệt là “Đại thắng mùa Xuân 1975-Giải phóng miền Nam-Thống nhất đất nước” ?
Lý do vì, không riêng số người nổi tiếng này mà hàng triệu người dân trong và ngoài nước đều thấy rằng, sau 40 năm thử nghiệm mớ lý thuyết viển vông “Mác-Lênin và Tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh” và làm “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” giở giăng giở đèn mà Việt Nam vẫn chưa làm nổi con ốc vít thì chế độ này phải bị thay thế, nhất là ngày càng để mất đất, mất biển vào tay láng giềng xấu bụng Trung Quốc.
GIẢI PHÓNG CÁI GÌ ?
Người đầu tiên phải kể là Nhạc sỹ nổi tiếng Tô Hải (tên thật là Tô Đình Hải, sinh ngày 24 tháng 9 năm 1927 tại Hà Nội, quê ở Tiền Hải - Thái Bình.
Ông gia nhập đảng Cộng sản từ năm 1949, tham gia kháng chiến chống Pháp và làm công tác văn nghệ ở Quân khu 4 và nhiều hoạt động văn nghệ và sáng tác theo hướng nhạc dân tộc và lọai nhạc gọi là “cách mạng”.
Tuy nhiên, sau năm 1975 một thời gian, Nhạc sỹ Tô Hải sống ở Sài Gòn đã phủ nhận gia tài sản âm nhạc đồ sộ của mình. Ông gọi chúng là “nhạc nô” rồi ông quyết định bỏ đảng để trở thành một Tín đồ đạo Cộng giáo ngày 25/5/2014.
Ông từng được suy tôn là “ nhà cách mạng lão thành” và nhận rất nhiều huân chương của Nhà Nước Cộng sản, trong đó có các Huân chương Chiến công hạng Nhì, Ba; Huân chương Chiến thắng hạng Ba, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất.
Sau khi bỏ đảng, ông trao tập “Hồi ký của một thằng hèn” cho Nhà văn Uyên Thao, Giám đốc Nhà Xuất bản Tủ sách Tiếng Quê Hương ở Falls Church, Virginia (USA), xuất bản. Rất nhiều người đã tìm đọc cuốn hồi ký nổi tiếng của Nhạc sỹ Tô Hải.
Bình luận về tuyên truyền “Giải phóng miền Nam” nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày 30/04/1975, Nhạc sỹ Tô Hải chất vấn trong bài viết ngáy 23/04/2015:
-“ Giải phóng gì, hòa hợp gì mà cả triệu con người, đa số là trí thức của đối phương mà ông tướng Trà, trong lúc bốc nhằng lỡ nói với tướng Dương văn Minh rằng thì là: “Người Việt chúng ta không ai thắng thua, chỉ có đế quốc Mỹ là thất bại mà thôi” còn in nóng sốt trên khắp các báo… thì lập tức, ngay sau đó, có lệnh của “kẻ to hơn ông Trà” cho gom tất cả cán binh cao cấp bên thua trận, vào các trại cải tạo nơi thâm sơn cùng cốc để chết dần chết mòn vì… “học tập” hoặc có sống sót mà về thì cũng chỉ còn là những tấm thân tàn, ma dại nằm chờ chết? (ngay gia đình mình, “gia đình cách mệnh” như lời ông Trần văn Trà tuyên bố hẳn hoi mà cũng có người phải đi học tập đến cả 11 năm vì trót làm…trung tá – luật sư Tòa án Binh).
- Giải phóng gì hòa hợp gì mà nhà cửa, ruộng vườn, xưởng máy, xí nghiệp của bên “được giải phóng” đều rơi vào tay các ông cán bộ sử dụng cho đến tận ngày nay…
- Giải phóng gì, hòa hợp gì mà dân miền Bắc quanh năm xếp hàng kiếm mớ rau, miếng đậu phụ theo tem phiếu, bỗng… “giầu lên” nhờ “nhận họ nhận hàng” từ miền Nam bị Đế Quốc Mỹ kìm kẹp (!) chia xẻ cho cái xe máy, cái tủ lạnh, thậm chí ít “cây vàng” để cơi nới ngôi nhà đã quá sức chứa đến 3,4 thế hệ! Thế mà, chỉ một đêm, có lệnh của bác ĐM (chiến dịch Z 200 hay 500 gì đấy), đều bị “kiểm tra hành chính”, tịch thu tài sản không lý do, lý trấu gì xất!
(Chú thích của người viết bài này: ĐM là Đỗ Mười. Năm 1977 ông là Phó Thủ tướng kiêm nhiệm Trưởng ban Cải tạo Công thương nghiệp Xã hội chủ nghĩa, phụ trách vấn đề cải tạo Công thương nghiệp XHCN tại miền Nam)
- Giải phóng gì, hòa hợp gì mà cả nước bỗng trở thành… súc vật ăn bo bo tranh phần của ngựa, lừa nhưng vẫn phải hô to đảng ta vô cùng sáng suốt!
- Và đặc biệt vô nhị là giải phóng gì mà ba, bốn triệu người đều sợ hãi chạy suốt từ Bắc vô Nam rồi từ Việt Nam đi bất cứ nơi nào trên thế giới dù thân xác có làm mồi cho cá mập đại dương còn hơn là làm công dân của một chế độ, mà rồi đây con sẽ đấu cha, vợ đấu chồng, đồng chí đấu nhau, thậm chí bắn giết, chôn sống nhau để “đấu tranh này là trận cuối cùng”, để “bao lợi quyền ắt qua tay mình?!
Sau khi tự đặt các câu hỏi như thế, người Nhạc sỹ 88 tuổi có thời gian dài sống chết cho đảng đã gay gắt viết bằng chữ hoa như xiết từng chữ cho mọi người biết rõ thái độ của mình.
Ông viết: “ KHÔNG BAO GIỜ CÓ ĐƯỢC SỰ HÒA HỢP TRONG 90 TRIỆU CON HỒNG CHÁU LẠC NẾU NHỮNG KẺ CỘNG SẢN GÂY TỘI ÁC KHÔNG BỊ VẠCH TRẦN VÀ BỊ XÓA SỔ VĨNH VIỄN !”
LỪA DỐI VĨ ĐẠI
Người thứ hai, đồng đội của Nhạc sỹ Tô Hải là Nhà văn cựu Đại tá Quân đội Nhân dân Phạm Đình Trọng phát biểu ngày 22/4/2015, ông viết:”Suốt 40 năm qua, hệ thống tuyên truyền khổng lồ của đảng CSVN (Cộng sản Việt Nam) cầm quyền đã ngốn quá nhiều tiền thuế của dân, tiền bán tài nguyên đất nước vào việc tự huyễn hoặc mình và lừa dối người dân về ngày 30 tháng tư năm 1975, ngày huy hoàng đại thắng, ngày vẻ vang thống nhất đất nước.
Cuộc chiến tranh mà hệ thống tuyên truyền của nhà nước Việt Nam cộng sản vẫn thần thánh hóa là cuộc chiến tranh “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, “Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước” thực chất chỉ là cuộc nội chiến tội lỗi, người Việt bắn giết người Việt.”
Nhà văn vào đảng ngày 19/05/1970, đi lính thành sỹ quan để xâm nhập vào chiến trường Tây Nguyên miền Nam. Nhưng ông đã tự ý ra khỏi đảng ngày 20/1/2009, vì theo thư gửi Chi bộ quận Tân Bình (TpHCM), ông nói: “ Tôi tự thấy đảng Cộng sản không còn phù hợp với lí tưởng thẩm mĩ và giá trị nhân văn mà tôi theo đuổi nên tôi tự rút ra khỏi đảng.”
Ông Trọng nói thẳng với cái đảng một thời đã mê hoặc ông rằng: “ Ngay từ khi phát động cuộc nội chiến phi nghĩa núp bóng cuộc chiến tranh chính nghĩa “giải phóng miền Nam”, những người cộng sản đã vẽ ra con ngáo ộp “đế quốc Mĩ” hiếu chiến, tham tàn, man rợ hù dọa người dân, đã lôi “đế quốc Mĩ” vào tham chiến để biến cuộc nội chiến thành cuộc thánh chiến….”
Từ nhận thức mới này, Nhà văn vạch trần sự thật : “Nếu cuộc chiến tranh kết thúc ngày 30. 4. 1975 là “Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước” thì cuộc chiến tranh đó trước hết phải giải phóng người dân miền Nam khỏi sự nô dịch của đế quốc Mĩ như hệ thống tuyên giáo cộng sản vẫn ra rả tuyên truyền, để người dân miền Nam trở về với dân tộc Việt Nam yêu thương. Đất nước thống nhất trước hết phải thống nhất trong tình cảm, ý chí người dân. 40 năm đã qua, sự thống nhất đó vẫn chưa hề có. Cuộc chiến tranh kết thúc ngày 30. 4. 1975 chỉ giải phóng đất đai miền Nam để người thắng cuộc thâu tóm, thống trị cả nước, còn người dân miền Nam vẫn bị người thắng cuộc coi là thù địch. Chỉ là cuộc nội chiến, người Việt Cộng sản làm chiến tranh để tiêu diệt người Việt Cộng hòa. Người Việt Cộng hòa có may mắn thoát chết trong cuộc nội chiến khốc liệt, tàn bạo đó cũng bị loại bỏ khỏi sinh hoạt xã hội, trở thành những người tù không án, bị giam cầm mút mùa không thời hạn trong những nhà tù hà khắc.”
THẤT VỌNG TUYỆT CÙNG
Nhân chứng thứ ba đã bất mãn với đảng vì bị lừa dối từ khi còn tấm bé theo Cha, một Luật sư liệt sỹ kháng chiến chống Pháp vào bưng là Bà Nghệ sỹ Kim Chi.
Tên đầy đủ của Bà là Nguyễn Thị Kim Chi sinh ngày 15 tháng 6 năm 1943, tại Rạch Giá ( Kiên Giang). Bà theo gia đình tập kết ra Bắc năm 1954 và được học trở thành diễn viên điện ảnh, đạo diễn và biên kịch.
Nghệ sỹ Kim Chi đã lặn lội ở chiến trường miền Nam trong 10 cùng đội Văn công Giải phóng và đã đóng nhiều bộ phim chiến tranh và tình cảm nổi tiếng.
Bà cũng là người được báo chí quốc tế chú ý sau khi bà công khai vào năm 2013 từ chối nạp hồ sơ khen thưởng nghệ sỹ của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng. Bà cho biết lý do từ chối vì, ông Nguyễn Tấn Dũng “đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân.”
Bà Kim Chi cũng đã tham gia nhiều cuộc xuống đường đòi dân chủ, tự do và ủng hộ dân oan chống cưỡng chế đất đai, đòi bồi thường công bằng. Bà luôn luôn sát cánh trong hàng ngũ trí thức và thanh niên tranh đấu cho quyền tự do báo chí, tự do tư tưởng và chống Trung Quốc xâm lược biển đảo Việt Nam.
Như vậy, khi Bà lên tiếng chỉ trích và tố cáo đảng đã lừa dối nhân dân, phản bội xướng máu của những người Việt đã hy sinh bảo vệ Tổ quốc chống quân Trung Cộng xâm lược thì hẳn nhiên không phải là chuyện bình thường.
Bà giãi bầy tâm trạng thất vọng của mình trong bài viết ngày 23/04/2015 vào dịp 40 năm ngày 30/04/1975 : “Mấy năm qua, mỗi lần 30/4 tôi mất hẳn trạng thái cảm giác hạnh phúc, tự hào như những năm trước đây. Tôi buồn vì niềm tin trong tôi hoàn toàn đổ vỡ. Nghĩ lại, nhận rõ và xác thực hơn: Những năm bom đạn ‘đi theo lý tưởng’ thì quả là “lớn rồi mà như ngây thơ”. Tôi cũng như biết bao đồng đội đã ‘ngây thơ’….”
“…Đúng thế, dần dần tôi nhận ra lời tuyên bố hùng hồn của đảng CS ngày ấy nay như không hồn! Những điều nói và làm khác biệt, làm ngược với nói như thế, dân Nam bộ chúng tôi đã đúc rút: “Nói dzậy mà hổng phải dzậy”. Thực tế đời sống chính trị-xã hội đã khác hoàn toàn những điều tôi hằng tâm niệm, một sự giả dối mà họ không dễ tự nhận biết, không dễ sám hối!...”
Rồi Bà kể ra tội lỗi của đảng: “Trong cương lĩnh đảng CSVN tuyên bố “người cày có ruộng”. Vì lẽ đó nên con em nông dân đi lính đông nhất khi đất nước có chiến tranh. Ở nông thôn miền Bắc VN đóng góp quá nhiều máu xương cho những cuộc chiến. Vậy mà cho đến hôm nay có rất nhiều gia đình vẫn đói nghèo vì bị cướp đất cho những dự án. Có còn xứ sở nào nhiều dân oan như ở VN không ? Hiến pháp VN không công nhận quyền tư hữu ruộng đất là cố tình để những nhóm lợi ích tước đoạt ruộng đất của nông dân….”
Đối với hành động lấn đất, chiếm biển Việt Nam của Trung Quốc, Bà gay gắt lên án: “Lãnh đạo VN sợ Trung Quốc đến nỗi cho đục bỏ cả tên tuổi của các chiến sĩ khắc trên bia đá ở biên giới. Tàn nhẫn hơn là mỗi lần anh em chúng tôi tố chức những cuộc tưởng niệm các chiến sĩ đã hi sinh ở Gạc Ma, ở Hoàng Sa, ở biên giới đều bị đám côn đồ và dư luận viên quấy phá, chửi bới tục tỉu. Mọi người đều thừa biết nếu không có đảng và công an đứng phía sau thì bố bảo bọn giặc ấy cũng không dám láo xược như thế.”
Vì vậy, đối với Nghệ sỹ người miền Nam như Kim Chi thì : “Đã 40 năm “ giải phóng miền Nam” nhưng với người miền Nam thì từ “ giải phóng” đầy mỉa mai. Miền Nam trước đây được biệt danh là “ hòn ngọc viễn đông”. Nhưng “ giải phóng” vô thì họ mất nhà cửa , tiền bạc. Rồi chồng con bị tù đầy…Mất tất cả nên hàng triệu người miền Nam buộc phải trở thành thuyền nhân. Đã hàng ngàn người chết trôi, làm mồi cho cá mập. Những kẻ chiến thắng đã cư xử với người thua cuộc tàn bạo một cách tiểu nhân. Khi nhân ra được sự tồi tệ này tôi thấy vô cùng đau đớn.”
Bà nói thẳng vào mặt lãnh đạo: “ Với tôi bây giờ 30/4 không phải là giải phóng miền Nam. Miền Nam trước đây là mơ ước của Thái Lan, của Singapore. Vậy mà bây giờ VN ta tụt sau họ hằng thế kỉ. Miền Nam là vựa lúa xuất khẩu đi các nước.Vậy mà sau 30/4 một thời gian thì các nhà lãnh đạo đã khiến cho cả nước phải ăn độn khoai, sắn, ngô. Cảnh cấm chợ ngăn sông ngày ấy đã dẫn tới cảnh thiếu từng con khô, chai nước mắm…
Bây giờ mỗi lần 30/4, tâm trạng tôi rất đau đớn, vì niềm tin vào đảng CSVN và chế độ XHCN hoàn toàn đổ vỡ. Nỗi đau buồn không diễn tả được bằng lời.”
Nghệ sỹ nổi tiếng Kim Chi không ngại nhìn nhận Bà và những đồng đội người miền Nam của Bà đã “ngây thơ” nên bây giờ Bà mới đau buồn như thế.
Nhưng đâu phải chỉ có một mình Bà buồn mà nỗi buồn, nỗi oan khiên do người Cộng sản gây ra đã đổ lên đầu đại đa số trên 90 triệu dân, ngọai trừ những kẻ có chức có quyền và các nhóm lợi ích đang không ngừng tự mãn hưởng thụ trên xương máu của cả dân tộc.
Hãy nghe Đạo diễn điện ảnh Song Chi, người đã rời Việt Nam sống tị nạn chính trị ở Đan Mạch lên án: “Mỗi lần 30 tháng Tư về là một dịp để nhà cầm quyền tìm mọi cách nhắc nhở với người dân những “chiến công” lẫy lừng đánh cho Mỹ cút ngụy nhào, thống nhất đất nước của đảng cộng sản. Khi thực tế VN hôm nay về mọi mặt từ kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, chất lượng sống của người dân… đều tụt hậu quá xa ngay cả so với các nước trong khu vực, chứng tỏ sự thất bại không thể bào chữa, đổ thừa bằng bất cứ lý do nào của đảng cộng sản trong 40 năm cầm quyền sau chiến tranh, thì họ càng phải bám vào “những “chiến thắng, chiến công” trong quá khứ để tiếp tục lừa dối người dân về tính chính danh, vai trỏ không thể thay thế của đảng cộng sản.”
Bà giãi bầy tâm tư tr6en trang báo điện tử của Đài Á Châu Tự Do (Radio Free ASIA, RFA) ngày 21/04/2015: “Ngày càng nhiều những thành phần khác trong xã hội, từ thái độ bàng quan về chính trị, không nghĩ ngợi nhiều về cái ngày 30 tháng Tư hàng năm, thậm chí vui mừng, kiêu hãnh ban đầu do được tuyên truyền, đã dần dần mất vui, cay đắng, chua xót, thậm chí ân hận.
Họ là những người đã từng tham gia vào cuộc chiến tranh đánh lại Mỹ và miền Nam ruột thịt, đã góp phần tạo dựng nên cái chế độ này. Và khi thông tin đa chiều cũng như thực tế xã hội giúp họ thức tỉnh, để nhận ra mình bi lừa, dân tộc này bị lừa, con đường đi của đất nước dưới sự cầm quyền của đảng cộng sản đã hoàn toàn sai lầm ngay từ đầu cho đến tận bây giờ, không chỉ đã gây ra những hậu quả khủng khiếp cho đất nước, dân tộc mà còn đẩy VN bị lệ thuộc nặng nề về mọi mặt vào Trung Cộng.”
TRIỆT HẠ DÂN MÌNH
Trong khi đó, Nhà văn Võ Thị Hảo, 59 tuổi (Bà sinh năm 1956 tại Diễn Châu - Nghệ An), một người trực tính, không ưa nói thẳng vào mặt chẳng sợ hãi gì, đã viết trên BBC (Tiếng Việt) ngày 28/04/2015 : “ Sau bốn mươi năm, lòng người vẫn ly tán. Việt Nam vẫn ngửa tay hân hoan đón dòng tiền kiều hối bất kể nó chảy về từ nguồn nào, nhưng vẫn kỳ thị và sẵn sàng trừng trị những kiều bào và công dân bất đồng chính kiến, gán cho họ hai tội "diễn biến hòa bình" và "phản động".
Cùng tiến theo mức độ tham nhũng, mức độ vi phạm tự do và nhân quyền, với nạn công an giết dân ngay tại trụ sở công quyền ngày càng tăng, là những cuộc đại lễ kỷ niệm 30/4 thêm khoa trương tốn kém.”
Rồi Bà hỏi mọi người : “ Là người Việt Nam có lương tâm, lẽ nào không biết đến nước mắt và máu của đồng bào mình trên một nửa trái tim Việt đã đổ, đã chảy thành sông, đã pha đỏ ngầu nước biển trên con đường đi tị nạn của họ sau ngày 30/4/1975 để tìm tới tự do.
Làm sao có thể không xót xa, không tưởng nhớ, không thắp một nén nhang, một lời nói công tâm cho khoảng 250 ngàn đồng bào mình đã chết oan khốc trên biển? Có ai đặt mình vào hoàn cảnh của họ để thấu hiều dù chỉ một phần ngàn những khốn khổ của họ?”
Ngày 30/4/1975 đối với người đứng đầu đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng là ngày đánh dấu của điều thêu dệt là "Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của đường lối và nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng", nhưng Nhà văn Võ Thị Hảo đã có cái nhìn khác.
Bà nói: “ “Tháng tư đen", "Ngày quốc hận", "Ngày Sài Gòn thất thủ", và mới nhất: "Ngày Hành trình tới Tự do" là tên gọi đối chọi nước lửa với cái tên "Ngày giải phóng miền Nam" của nhà cầm quyền Việt Nam luôn tự hào vỗ ngực.”
Tên gọi “Ngày Hành trình tới Tự do" được Quốc hội Canada chấp thuận lúc 19 giờ 15 ngày 22/04/2015 (giờ Ottawa) ghi trong Luật S-129, xác nhận “trong khắp đất nước Canada, trong mỗi năm, ngày thứ ba mươi của tháng tư được gọi là "Ngày hành trình đến Tự do" (Journey to Freedom Day).
Luật này thành công nhờ công lao của Nghị sỹ gốc Việt Ngô Thanh Hải có mục đích xác nhận hàng trăm ngàn người Việt Nam đã bỏ nước ra đi sau ngày quân Cộng sản vào Sài Gòn ngày 30/04/1975.
Luật S-129 cũng ghi nhận việc Chính phủ Canada đã cứu 600.000 thuyền nhân, trong số 300.000 người đang sống ở Canada. Đồng thời cũng nhằm để tưởng nhớ đến 250 ngàn người Việt Nam đã bỏ mình trên biển Đông hoặc là bị cướp, bị bão trên đường tìm tự do.
Vì vậy, Nhà văn Võ Thị Hảo mới hỏi mọi người Việt Nam : “ Chúng ta đã làm gì khi hai triệu đồng bào mình, chỉ vì khác chính kiến, là cánh bèo trôi dạt của những thể chế chính trị, mà không còn đường sống, phải tất tưởi đứt ngàn khúc ruột, bỏ lại đằng sau tất cả những gì đời người chắt chiu và hang ổ ẩn náu cuối cùng phó thác mình cho sóng dữ ?”
Rồi để trả lời cho luận điệu chối tội “không làm gì có tằm máu” sau ngày 30/04/1975, Bà viết : “Có thực sự không có tắm máu không? Máu của khoảng 250 ngàn người bỏ mạng trên biển, dù bị nước biển pha loãng nhưng cũng đủ nhuộm màu.
Sóng biển vỗ qua xương thịt của những thuyền nhân Việt Nam, từ đó biển ấy không bao giờ như cũ. Nước ấy pha máu xương người Việt trên con đường chạy trốn khỏi sự bạo tàn của chính quyền cộng sản Việt Nam. Chính quyền này nhân danh đấu tranh giai cấp và hệ tư tưởng để triệt hạ người dân của chính nước Việt.
Có đủ để phủ nhận không tắm máu sau 30/4/1975? Nếu tính những dòng máu của đồng bào Việt Nam đang rỉ rả chảy, kể cả những người bị chính quyền cộng sản Việt Nam bắt đi tù và bị chết trong tù bởi chế độ nhà tù tàn bạo và thiếu thốn?”
Cuối cùng Nhà văn nói dõng dạc: “ Người Việt Nam sẽ tự động hòa hợp ngay sau khi Việt Nam giải thể chính quyền độc tài cộng sản và thay vào đó bằng một chính thể dân chủ đa nguyên, tôn trọng tự do và nhân quyền.”
NỖI ĐAU NÀO LỚN ?
Người thứ 6, bất chấp hiểm nguy bị bắt lại đã cất cao tiếng nói lên án đảng CSVN đến từ nguyên Nhà báo Nguyễn Vũ Bình, 47 tuôi (ông sinh ngày 02/11/1968). Ông từng làm việc gần 10 năm cho Tạp chí Cộng sản, cơ quan lý luận chính trị của đảng CSVN.
Theo Bách khoa Toàn thư (mở) thì : “Ngày 02/9/2000, Ông làm đơn xin thành lập đảng Tự do - Dân chủ, đồng thời cũng làm đơn xin nghỉ việc tại Tạp chí Công Sản. Tháng 01/2001 Ông bị Tạp chí Cộng Sản buộc thôi việc. Sau đó, Ông cùng với 16 người khác đã viết một thư mở đến chính quyền kêu gọi cải cách chính trị và trả tự do cho các tù nhân chính trị. Ông cũng ủng hộ việc thành lập "Hội nhân dân giúp Đảng và Nhà nước chống tham nhũng" và trở thành thành viên sáng lập của Câu lạc bộ dân chủ cho Việt Nam.”
Ông bị bắt và bị “Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội vào ngày 31 tháng12 năm 2003, tuyên án 7 năm tù giam và 3 năm quản thúc tại gia vì tội làm gián điệp.”
Ông kháng án nhưng “ ngày 5 tháng 5 năm 2004, tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao tại Hà Nội vẫn quyết định giữ nguyên bản án. Tại cuối phiên kháng án thất bại của mình, Nguyễn Vũ Bình tuyên bố: "Đối với tôi, tự do hay là chết",
“Các tổ chức quốc tế như Ký giả Không Biên giới , Quan sát Nhân quyền , Uỷ ban Bảo vệ Các nhà báo, World Association of Newspapers , và Diễn đàn Biên tập viên Thế giới, đại diện 18.000 tờ báo trên 100 quốc gia và Chính phủ Hoa Kỳ đã đồng loạt lên án phiên xử.
Vào ngày 9 tháng 6 năm 2007, ông được nhà cầm quyền thả tự do từ nhà tù Ba Sao ở tỉnh Nam Hà.”
Với thất bại của chính bản thân không được nói tự do và hoạt động dân chủ như đảng tuyên truyền, ông Nguyễn Vũ Bình đã nhìn ra sự thật của điều được gọi là “giải phóng miến Nam, thống nhất đất nước” của ngày 30/04/1975 như thế này:
“Người ta đã nói nhiều tới nỗi đau của người dân miền Nam sau biến cố 30/4/1975 này, và đó là những sự thật hiển nhiên. Một quốc gia (Việt Nam Cộng Hòa), với chính nghĩa sáng ngời, tinh thần nhân bản đã bị cưỡng chiếm một cách đau đớn, tức tưởi. Từ sự kiện này, hàng triệu quân, dân, cán, chính của Việt Nam Cộng Hòa đã phải vào các trại cải tạo, lao tù. Hàng chục vạn người đã phải bỏ nước ra đi, vượt biên vì không thể sống nổi trên quê hương. Hàng chục ngàn người đã nằm trong bụng cá và dưới đáy biển sâu…đó là số phận, là nỗi đau của bên thua cuộc.”
Ông Bình nói tiếp không ngại ngùng : “Tuy nhiên, ngoại trừ sự thất bại của cuộc chiến tranh (có nguyên nhân quan trọng từ việc đồng minh Mỹ bỏ rơi) mà người dân miền Nam ít nhiều có trách nhiệm, thì những nỗi đau khác, sự thống khổ, bi ai của người dân miền Nam là kết quả của những chính sách thâm độc, hiểm ác và tàn bạo của chế độ cộng sản.”
Như vậy, thực tế ngày nay Việt Nam sau 40 năm đảng thống trị cả nước, có tốt đẹp hơn ngàn lần hơn như giấc mơ của ông Hồ Chí Minh ?
Nhà báo Nguyễn Vũ Bình trả lời : “ Sau 30/4/75, đất nước sạch bóng quân thù, cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội….một sự vỡ mộng, bẽ bàng khủng khiếp từ từ xâm lấn tâm hồn bên thắng cuộc. Với độ lùi 40 năm sau ngày 30/4 đó, tất cả đã hiển hiện, bức tranh toàn cảnh của Việt Nam dưới sự lãnh đạo tài tình của đảng cộng sản: Sự toàn vẹn lãnh thổ không còn, đất đai, hải đảo, lãnh hải bị mất và xâm phạm nghiêm trọng; nợ gấp đôi GDP (Gross Domestic Product, tổng sản lượng quốc gia)và không có khả năng thanh toán; đạo đức, nền tảng xã hội bị băng hoại và phá hủy hoàn toàn; sự dồn nén cùng cực của tất cả mọi tầng lớp nhân dân…đây phải chăng là kết quả của niềm vui chiến thắng?”
Trước sự thật phũ phàng như thế, ông Bình đặt nghi vấn : “Còn nỗi đau nào lớn hơn khi ngay từ những năm 14-15 tuổi làm liên lạc viên cho Việt Minh, cả cuộc đời cống hiến, lên tới chức vụ trưởng, thứ trưởng, bộ trưởng…khi đã về hưu, khi sự thật được phơi bày mới biết rằng mình đã bị lừa, những điều mình làm không hề đem lại điều tốt đẹp cho nhân dân, đất nước mà còn góp phần gây ra thảm họa cho dân tộc, cho nhân dân, cho đất nước.
Vậy thì, nỗi đau nào lớn hơn?”
Tất nhiên không có sự hành hạ thể xác nào, dù có trăm cay nghìn đắng, cũng không bằng một chiếc kim xuyên thấu tâm gan gỉa dối của chính bản thân người cán bộ vì đã nhân danh “giải phóng” để lường gạt Tổ quốc và đồng bào mình trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn.
Hàng chục ngàn dân đã bỏ vùng Việt Minh kiểm soát ở miền Bắc hồi cư về thành phố trước năm 1954. Trên 1 triệu người miền Bắc đã bỏ mồ mả cha ông để di cư vào miền Nam (Việt Nam Cộng hòa sau này) sau Hiệp định Geneve chia đôi Việt Nam ngày 20/07/1954.
Và đến khi quân Cộng sản vào Sài Gòn ngày 30/04/1975 cho đến thập niên 1980, trên 2 triệu người miền Nam đã phải chạy trốn Cộng sản ra nước ngoài, dù phải đổi mạng sống để được tự do.
Trong đợt bỏ nước ra đi lần này, ít nhất cũng đã có khỏang 250.000 người Việt Nam được gọi là “thuyền nhân” bỏ mình trên biển cả, trong số họ có cả những xác Phụ nữ bị hải tặc hãm hiếp.
Vậy ai đã gây ra thảm cảnh này cho dân tộc, nếu không phải là người Cộng sản đã gây ra cuộc nội chiến và xâm lăng Việt Nam Cộng hòa dưới chiêu bài “giải phóng” ?
Nhưng người Việt Nam đâu đã hết bỏ nước ra đi, tại sao ?
Hãy nghe Nhà Trí thức dân chủ Vũ Cao Đàm báo động trên mạng báo Bauxite Việt Nam ngày 22/04/2015 : “Trên thực tế, có lẽ các nhà lãnh đạo cũng phải suy nghĩ, vì sao dân lại cứ thích bỏ đi mãi thế. Mà dân bỏ chỉ theo một dòng muốn thoát khỏi thể chế cộng sản. Không thấy có dòng ngược lại?
Trong số những người dân bỏ nước ra đi không chỉ có quân cán chính và công dân Việt Nam Cộng hòa, mà cả những người là công dân của chế độ xã hội chủ nghĩa, không chỉ có các doanh gia, mà có cả dân thường, có cả con em các tướng tá và quan chức cao cấp của chế độ.
Chẳng lẽ dân “thoái hóa” hết rồi sao?
Chẳng lẽ các tướng tá và quan chức cao cấp của chế độ cùng con cái của họ cũng “thoái hóa” hết rồi sao?
Chẳng lẽ, trừ mấy ông bà giáo sư tiến sĩ trong Hội đồng Lý luận Trung ương, còn lại, dân Việt Nam ngu đến mức không thấy được chủ nghĩa cộng sản là “đỉnh cao trí tuệ” và “thiên đường của nhân loại” hay sao?
Câu hỏi mỉa mai của ông Vũ Cao Đàm không phải là chuyện nhỏ mà là tiếng chuông báo động số phận đảng sắp đến hồi cáo chung.
Vì vậy, muốn con dân nước Việt ở nước ngoài trở về xây dựng quê hương; muốn người dân trong nước đòan kết cùng nhau xóa bỏ hận thù không do mình gây ra; và để bảo vệ giống nòi, giữ vững giang sơn gấm vóc khỏi hiểm họa Trung Quốc xâm lược, chỉ có giải pháp duy nhất là : Đảng phải rút cho dân hồi cư. -/-
Phạm Trần
(30/04/2015)
- Viết bởi Dân Chúa
(Các tổ chức xã hội dân sự độc lập tại Việt Nam)
Kính thưa toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.
Kính thưa các chính phủ dân chủ và các cơ quan nhân quyền quốc tế.
Cách đây đúng 40 năm, ngày 30-04-1975, kết thúc cuộc chiến huynh đệ tương tàn giữa hai miền Nam Bắc với bao tang thương đổ vỡ, chôn vùi một chính thể dù còn bất toàn nhưng vẫn có tự do no ấm, và mở đầu cho việc áp đặt chế độ cộng sản lên toàn thể đất Việt.
Nhìn lại những gì mà đảng và nhà cầm quyền Cộng sản đã làm trên đất nước VN từ sau ngày bi thảm và tang thương đó đến hiện tại, chúng tôi, các tổ chức xã hội dân sự độc lập trong nước, nhận định rằng đây là 40 năm áp đặt chế độ toàn trị và 40 năm tiêu diệt ý thức con người.
1- 40 năm áp đặt chế độ toàn trị.
Khác hẳn mọi chế độ độc tài trong lịch sử nhân loại (phát xít, quân phiệt, tài phiệt, giáo phiệt…) vốn chỉ chú trọng tới một hai khía cạnh của quốc gia xã hội, chế độ CSVN –như mọi chế độ CS khác– đều mang tính toàn trị, nghĩa là muốn quản lý hết mọi phương diện của đời sống xã hội lẫn cá nhân, từ vật chất đến tinh thần..
a- Toàn trị chính trị: Đảng CSVN luôn muốn chỉ duy mình cai trị đất nước, không chấp nhận đảng đối lập. Nên sau khi chiến thắng, họ lập tức giam nhốt nhiều năm mọi quân, cán, chính của chế độ cũ và đảng viên các đảng phi Cộng sản; tiếp đến tiêu diệt gọn các nhóm phục quốc bắt đầu xuất hiện rồi còn tạo ra những tổ chức kháng chiến giả hòng gài bẫy người yêu nước. Để chính danh hóa và hợp pháp hóa quyền cai trị độc hữu của mình, Hiến pháp 1980, qua điều 4 (và các HP sau đó cũng vậy), khẳng định đảng CS là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội. Từ 1975 đến nay, các cá nhân hay tổ chức đòi đa nguyên đa đảng đều bị trấn áp tàn bạo. Tam quyền phân lập biến thành tam quyền phân công dưới sự chỉ đạo của đảng. Nhưng để tránh mang tiếng đàn áp chính trị, CS gọi các “tội chính trị” là tội hình sự, và dùng các điều 79, 88 và 258 Bộ luật Hình sự để trừng phạt “tội” này.
Hậu quả: toàn dân (trừ đảng viên) mất hết mọi quyền chính trị và dân sự, không thể tự chọn người lãnh đạo đất nước, cũng không thể tham gia quốc sự qua việc ứng cử vào quốc hội hay các hội đồng nhân dân. Bầu khí chính trị ngột ngạt, tù nhân chính trị đông đảo (theo thống kê mới nhất, hiện còn105 tù nhân lương tâm), mọi đảng chính trị bị cấm tiệt. Và sự toàn trị chính trị này cũng là nguyên nhân gây ra các hậu quả kế tiếp.
b- Toàn trị kinh tế:
Năm1976, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 254 xoá bỏ giai cấp tư sản mại bản, tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh miền Nam, phá tan một nền kinh tế trù phú. Song song, đảng đuổi hàng vạn thị dân vùng chế độ cũ đi kinh tế mới để cướp đất cướp nhà. Hậu quả là đất nước đứng bên bờ vực thẳm phá sản, khiến năm 1986 đảng phải đề ra chính sách “Đổi mới”, cải cách kinh tế theo phương thức thị trường. Đời sống vật chất của dân phần nào nên dễ thở, nhưng đảng lại nhân cơ hội hóa thân thành tư bản đỏ. Nên HP 1992 (đ. 17-18) và Luật đất đai 1993 đưa ra khái niệm quái đản: “Mọi tài nguyên đất nước đều thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý”. Quyền tư hữu đất đai bị bãi bỏ; người dân trở thành kẻ đi thuê của nhà nước, đang khi nhiều đảng viên sở hữu hàng trăm héc-ta ruộng vườn. CSVN đưa thêm khái niệm quái đản thứ 2: “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (mà cho tới nay chẳng ai có thể hình dung ra sao) với kinh tế nhà nước làm chủ đạo (HP 1992, đ. 15 và HP 2013, điều 51). Nhiều tổng công ty và đại tập đoàn được thành lập do đảng viên và thân thuộc nắm giữ nhưng rốt cuộc chỉ tham nhũng và thua lỗ, làm thiệt hại ngân sách quốc gia hàng vạn thậm chí hàng triệu tỷ đồng.
Hậu quả: sau 4 thập niên hòa bình, lợi tức đầu người VN năm 2014 chỉ là 1.028 USD (so với Singapore cùng khởi điểm thoát ách thuộc địa: 36.897 USD). Năng lực cạnh tranh của VN hiện đứng chót ASEAN. Mấy trăm ngàn doanh nghiệp tư phá sản. Nhà nước đi vay để trả lãi nợ công 3 tháng 1 tỷ đô; bình quân đầu người từ già đến trẻ phải gánh 1.000 đô nợ… Dân oan lên tới hàng triệu người, dở sống dở chết. Công nhân cũng hàng triệu người bị bóc lột tận xương tủy!
c- Toàn trị văn hóa:
Ngay sau khi toàn thắng, CS tịch thu phá hủy mọi sách văn học, nghệ thuật, lịch sử của VNCH, bỏ tù vô số văn nhân nghệ sĩ. Nhiều nhà văn phản kháng từng phục vụ chế độ cũng bị đọa đày. Mọi ngành văn học nghệ thuật đều phải đề cao chủ nghĩa, chế độ và đảng CS.
Toàn trị văn hóa đặc biệt thực thi trên lãnh vực giáo dục đại chúng và giáo dục học đường. CS cấm hẳn báo chí tư nhân, nắm hết báo chí các loại, dùng chúng không như phương tiện thông tin đơn thuần mà như công cụ tuyên truyền nhồi sọ công chúng, hướng dẫn lèo lái công luận, bắt nhân dân chỉ biết nói, nghĩ và làm theo mệnh lệnh của đảng. CS cũng tạo ra một đám “trí nô ký sinh” có học vị cao nhưng chỉ biết gian trá và ngụy biện để luôn bênh vực đảng. Tất cả chỉ nhằm cho nhân dân thấy đảng là thần công lý và nguồn sự thật. Giáo dục học đường bị chính trị hóa. Mọi hiệu trưởng đều là đảng viên, triết lý giáo dục là học thuyết Mác Lê và tư tưởng Hồ, không đào tạo giới trẻ thành công dân tự do và trách nhiệm cho đất nước nhưng thành thần dân tùng phục đảng và công cụ phục vụ đảng.Toàn trị văn hóa còn thực hiện qua việc đàn áp tôn giáo bằng bạo lực vũ khí và bạo lực hành chánh (sách nhiễu, cấm cản, bỏ tù, cướp bóc, phá hoại) nhằm ngăn chận các giáo hội đưa vào quần chúng giáo lý đầy tính giải thoát và văn hóa đậm chất nhân bản của mình, ngõ hầu thuyết duy vật vô thần độc tôn thống trị.
Hậu quả: VN nay không có những tác phẩm văn chương, nghệ thuật giá trị; thành tựu khoa học (phát minh sáng kiến) hiếm hoi; trình độ học sinh, sinh viên, chuyên gia thấp kém. Cơ sở giáo dục thiếu thốn và bệ rạc; đạo đức học đường sa sút từ thầy đến trò, đầy bạo hành và gian dối; đạo đức xã hội xuống cấp trầm trọng: dửng dưng, bóc lột, giành giật, lừa đảo nhau; hối lộ tham nhũng, mua quan bán chức là chuyện bình thường; mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh, lễ hội nhếch nhác xuất hiện khắp nơi; người ta tự ru ngủ với những kỷ lục lớn, thành tích ảo.
d- Toàn trị xã hội:
Quyết không để lọt thành phần nào, giai tầng nào trong xã hội, CS tạo ra Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để quy tụ trong đó mọi tổ chức chính trị, kinh tế, dân sự. Mặt trận này hiện có 44 đoàn thể thành viên. Tất cả dưới sự chỉ đạo của đảng, thành phần lãnh đạo là người của đảng, nhắm mục đích tối cao: bảo vệ sự cai trị độc đoán và lâu dài của đảng. Và để việc toàn trị xã hội được bảo đảm, CS biến các lực lượng trong đất nước thành công cụ: quốc hội, tòa án, chính quyền, công an, tôn giáo quốc doanh. Quốc hội biến ý đảng thành lòng dân, xây dựng luật để bắt dân theo ý đảng. Chính quyền dùng nền hành chánh buộc dân tuân hành chính sách đường lối của đảng. Tòa án cấu kết với công tố và điều tra để khiến công lý luôn đứng về phía đảng. Công an làm thanh gươm bảo vệ đảng, không để thằng dân nào động tới quyền lực đảng. Tôn giáo quốc doanh dạy tín đồ luôn vâng lời đảng.
Hậu quả: toàn thể xã hội sống co ro dưới sự dòm ngó, theo dõi, kiểm soát của tai mắt đảng (MTTQ), chẳng còn ai dám bày tỏ ý kiến và tình cảm cách chân thật. Dân kiện người của đảng thì nắm chắc phần thua. Lấy cớ bảo vệ đảng, công an dân phòng đối xử với dân cáchvô luật: sách nhiễu, hành hung, đàn áp. Ba năm nay, hơn 260 người chết đang khi bị tạm giam. Hành xử bạo lực của công an gieo giữa xã hội thói quen bạo lực.Người dân hiện chẳng được luật pháp che chở!
2- 40 năm tiêu diệt ý thức con người
Hồ Chí Minh từng nói: “Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có những con người XHCN”. Thực tế, câu đó có nghĩa: “Đảng muốn xây dựng thể chế độc tài toàn trị, phải có những con người bị tiêu diệt ý thức, lương tâmnhưng lại có vai trò trong xã hội trước đã”. Và đó là điều CSVN miệt mài thực hiện 40 năm qua.
a- Tiêu diệt ý thức đại diện quốc dân nơi thành viên Quốc hội: Không do dân bầu nhưng do đảng cử, họ hầu như luôn «nhất trí cao» trước ý muốn của đảng. Từ công hàm Phạm Văn Đồng (1958), qua hai hiệp định lãnh thổ và lãnh hải (1999 và 2000), đến chuyện khai thác bauxite (2007), cuộc xây dựng Hiến pháp mới (2013)... Quốc hội chẳng hề đứng về phía nhân dân mà tìm hiểu, chất vấn, phản biện hoặc kiểm soát, theo dõi, nhất nhất để cho Bộ chính trị và Trung ương đảng mặc sức tung hoành, dù bất lợi cho dân và hiểm nguy cho nước.
b- Tiêu diệt ý thức phục vụ công chúng nơi nhân viên công quyền: Được đảng bộ trung ương hay địa phương đặt để chứ không do dân trao quyền, họ luôn cư xử như trời con lãnh chúa, hống hách khinh người, lo tích trữ của hơn phục vụ dân. Bằng chứng: xây cơ ngơi đồ sộ, ăn chặn tiền kẻ nghèo, mặc kệ dân khiếu kiện, đánh phá cướp bóc các tôn giáo, cho Tàu cộng thuê những vùng đất chiến lược làm cảng thương mại, khu du lịch, phố thị thôn làng.
c- Tiêu diệt ý thức tôn trọng và bảo vệ dân nơi lực lượng công an: Tựcoi như lực lượng bảo vệ đảng, thề tuyệt đối trung thành với đảng, công an trở thành công cụ đàn áp dân oan và giáo oan đòi công lý nhân quyền, «lực lượng đối thọi» với các nhà dân chủ cất tiếng đòi tự do; kẻ hỗ trợ cho công tố và thẩm phán trong các phiên tòa chính trị; nỗi kinh hoàng cho ai bị bắt về đồn do «vi phạm» lớn nhỏ: bị đánh đập dã man, tra tấn đến chết rồi bị vu cáo là “tự tử”!
d- Tiêu diệt ý thức bảo vệ Tổ quốc nơi hàng ngũ quân đội: “Trung với đảng” thay vì “Trung với nước hiếu với dân”, được tự do kinh tài, quân đội trở thành công cụ của đảng, chỉ lo làm giàu (hàng tướng lãnh đạo nắm vô số công ty lớn nhỏ), lơ là bổn phận bảo vệ Tổ quốc đồng bào, bỏ mặc ngư dân cho Tàu cộng sách nhiễu, cướp bóc, tàn sát, có khi còn tham gia đàn áp dân lành. Dẫu từng oai hùng chiến đấu năm 1979 hay anh dũng tử trận năm 1988, quân đội xét chung nay hoàn toàn bị khống chế bởi những tay sai Bắc triều trong Bộ chính trị hay Bộ quốc phòng.
e- Tiêu diệt ý thức bảo vệ công lý nơi giới luật sư, công tố, quan tòa: Công an điều tra có khi dùng lường gạt hoặc tra tấn để thẩm vấn, công tố (kiểm sát) với điều tra một lòng một dạ, luật sư nhiều lúc chỉ đứng ra xin khoan hồng, thẩm phán thường có những «bản án bỏ túi» do trên định sẵn. Điều tra, công tố và quan tòa ăn hối lộ là chuyện bình thường, nhiều án oan thậm chí án oan tử hình đã được tuyên nhanh nhưng chậm xét lại. Nói chung, bộ máy tòa án hoạt động vì tiền hoặc vì đảng.
f- Tiêu diệt ý thức thương xót bệnh nhân nơi giới y sĩ: Bỏ mặc những ca cấp cứu chưa nộp tiền, khám bệnh một cách chớp nhoáng qua loa, đòi bệnh nhân hối lộ mới săn sóc tốt, cung cấp thuốc quá hạn hay dổm giả, dùng một kết quả xét nghiệm cho cả trăm bệnh nhân, ăn hoa hồng quá độ khiến giá y dược lên tận trời, ưu tiên săn sóc cho đảng viên cán bộ, coi rẻ những ai dùng thẻ bảo hiểm y tế. Nhiều trường hợp bị người nhà bệnh nhân hành hung do thói vô trách nhiệm.
g- Tiêu diệt ý thức làm chứng cho sự thật và lẽ phải nơi giới tu hành: Lý luận mình không muốn dính vào chính trị, vô số chức sắc chỉ lo xây dựng điện thờ nguy nga, tổ chức lễ hội rầm rộ, ra ngoại quốc quyên thật nhiều tiền, mà hoàn toàn dửng dưng trước cảnh đồng bào bị đàn áp, xã hội bị băng hoại, tổ quốc bị lâm nguy… Đôi lúc họ chỉ lên tiếng về các nguyên tắc luân lý chung chung (an toàn hơn) chứ không can thiệp vào những trường hợp bất công cụ thể (dễ gặp nguy hiểm).
h- Tiêu diệt ý thức lương sư hưng quốc nơi giới thầy giáo: Vô số giáo viên thiếu tư cách, thiếu khả năng (“đứng nhầm lớp”), vô số vụ việc thầy bạo hành trò, đổi tình lấy điểm, bắt nữ sinh làm điếm, bỏ mặc trò cho công an hành hạ; có khi cấm học trò mình biểu tình yêu nước chống Trung Quốc xâm lược. Rồi còn nạn dạy thêm để làm giàu và cho điểm giả để lấy thành tích.Từ đó, sinh ra hậu quả khủng khiếp là sự ngây thơ, chân thật, hiền lành nơi học sinh cũng bị tiêu tùng mất hẳn.
Kết luận: Nhìn lại 40 năm qua, ai cũng thấy chưa thời nào trong lịch sử Đất nước, lại có một “chính quyền”, “chính đảng” hành xử như một lực lượng ngoại nhập đến thế, chỉ biết kiểm soát, khống chế mọi lãnh vực của đời sống xã hội và con người cách tinh vi và chặt chẽ, với gian dối và bạo hành, để củng cố quyền lực và thâu tóm quyền lợi. Quyền lực và quyền lợi cho mình, cho thân thuộc, cho phe cánh, đang lúc dân chúng trở thành kẻ bị bóc lột, đời sống nheo nhóc, mạng sống bị coi rẻ như súc vật. “Chính quyền” và “chính đảng” này -do điều hành thất bại mọi mặt và bị Tàu cộng khống chế mọi bề- đang rắp tâm bán nước, sáp nhập VN vào Trung Hoa như một tỉnh lẻ. Chưa thời nào trong lịch sử Đất nước, lại có một dân tộc, một xã hội bị lãnh đạo chính trị coi như con cái để dạy dỗ, con ở để bóc lột, con tin để đem trao đổi đến thế; bị lực lượng cầm quyền không những gây khốn đốn cho cuộc sống về mặt kinh tế, an ninh, môi trường, mà còn gây băng hoại cho nhân cách về mặt ý thức, ý chí và lương tâm.
Nhưng không, hồn thiêng sông núi, tinh thần dân tộc, ý chí bất khuất của giống nòi đang dâng lên trong lòng hàng triệu con dân Việt khao khát tự do, sáng ngời ý thức trách nhiệm với vận mệnh Tổ quốc, nung nấu ý chí và quyết tâm hành động muôn người như một để bằng mọi cách –với sự trợ lực của Đồng bào hải ngoại- tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản đầu độc tâm trí, giải thể chế độ cộng sản tàn hại xã hội và hất cẳng chính đảng cộng sản đã dồn Dân tộc đến bước đường cùng, hầu xây dựng lại một đất nước tràn ngập chân lý, công bình, tình thương và tự do. 40 năm dưới ách độc tài toàn trị này đã quá đủ !!!
Làm tại Việt Nam ngày 25-04-2015
Các tổ chức xã hội dân sự đồng ký tên
1- Giáo hội Liên hữu Lutheran VN-HK. Đại diện: Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa.
2- Giáo hội PGHH Thuần túy. Đại diện: Cụ Lê Quang Liêm.
3- Giáo hội PGHH Thành phố Cần Thơ. Đại diện: Bà Nguyễn Thị Ngọc Lan.
4- Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam. Đại diện: Ông Nguyễn Bắc Truyển.
5- Hội Anh em Dân chủ. Đại diện: Mục sư Nguyễn Trung Tôn.
6- Hội Bảo vệ Quyền Tự do tôn giáo. Đại diện: Cô Hà Thị Vân
7- Hội Bầu bí Tương thân. Đại diện: Ông Nguyễn Lê Hùng.
8- Hội Cựu Tù nhân Lương tâm. Đại diện: Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Linh mục Phan Văn Lợi.
9- Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam: Đại diện: Các bà Trần Thị Hài, Trần Thị Nga, Huỳnh Thục Vy
10- Hội thánh Tin lành Chuồng Bò. Đại diện: Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng.
11- Khối Nhơn Sanh Đạo Cao Đài. Đại diện: Các Chánh trị sự Hứa Phi, Nguyễn Kim Lân, Nguyễn Bạch Phụng.
12- Khối Tự do Dân chủ 8406. Đại diện: Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa
13- Nhóm Bảo vệ Tôn giáo và Sắc tộc. Đại diện: Ông Huỳnh Trọng Hiếu.
14- Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền. Đại diện: Linh mục Nguyễn Hữu Giải
15- Phòng Công lý Hòa bình DCCT Sài Gòn. Đại diện: Linh mục Đinh Hữu Thoại.
16- Phong trào Liên đới Dân oan Tranh đấu. Đại diện: Bà Trần Ngọc Anh.
17- Tăng đoàn Giáo hội PGVN Thống nhất. Đại diện: Hòa thượng Thích Không Tánh
- Viết bởi Phạm Trần
Trong suốt 40 năm qua, mỗi lần ngày 30-4 trở về là dịp cho người Cộng sản Việt Nam xuyên tạc và bôi nhọ lịch sử nhưng năm nay, 2015, họ đã tự lột mặt nạ mình mà đâu có hay ?
Về phương diện lịch sử, chưa thấy ai dám cả gan nói qùang xiên như ông Phó Giáo sư, Tiến sỹ Vũ Quang Hiển, chuyên ngành Lịch sử đảng CSVN tại Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Ông nói với Chương trình tiếng Việt của đài BBC ngày 18/04/2015 : “Tôi nghĩ rằng sau chiến tranh, Việt Nam không có ngược đãi đối với mọi người. Bởi vì chính sách lúc ấy của nhà nước Việt Nam là chính sách hòa hợp dân tộc.
"Chính sách này đã công bố công khai ngay từ thời chiến tranh, chứ không phải sau hậu chiến mới có chính sách đó.
"Thế còn việc tập trung học tập hay cải tạo, tôi nghĩ đấy là để học cho nó rõ chính sách của nhà nước Việt Nam thời bấy giờ.
"Chứ không có nghĩa là một chế độ tù đầy."
"Nếu nói là tù đầy, thì tôi nghĩ đó là một sự xuyên tạc.
"Hơn nữa cũng cần lưu ý là có thể là ở những lớp học như vậy, đời sống không được tốt, tức về mặt đời sống kinh tế không được tốt.
"Và có thể có một số anh em nào đó hiểu nhầm là mình bị khổ sở này khác.”
Ông Giáo sư 63 tuổi Vũ Quang Hiển (sinh ngày 21/12/1951 tại Khánh Thiện, Yên Khánh, Ninh Bình) phải nói như vậy vì ông là người ”ăn cây nào rào cây ấy” . Hơn nữa ông lại là cán bộ lâu năm của đảng chuyên dậy về các môn:
- Đường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam
-Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam
-Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam
-Tư tưởng Hồ Chí Minh
-Phương pháp dạy học lịch sử
Trong tất cả các môn này, không tiết học nào cho phép ông được nói ra ngoài những gì đảng và Ban Tuyên giáo Trung ương đã hợp sọan với Ban Lịch sử đảng và Lịch sử Quân đội.
Do đó chuyện ông nói “đúng sách vở” mà ông đã học là chuyện đương nhiên vì ông chỉ là người mở lại cuộn băng cũ y như đảng đã thêu dệt không cần bằng chứng và xuyên tạc về cuộc chiến xâm lược miền Nam (Việt Nam Cộng hoà) từ 1960 đến ngày 30/04/1975.
Vì vậy mà ông Hiển đã nói tiếp: “Nhưng tôi xin nói là tất cả những điều mà ở Sài Gòn tuyên truyền trước ngày 30/4/1975 là cộng sản Việt Nam vào Sài Gòn sẽ diễn ra một cuộc tắm máu. Điều đó rõ ràng đã không xảy ra.
"Hai là đã không có nhà tù nào để giam cầm tất cả anh em sỹ quan binh sỹ quân đội Sài Gòn, cũng như (nhân viên) chính quyền Sài Gòn trước đây, trong nhà tù để mà đánh đập, để mà tra tấn, thì hoàn toàn không có.
"Tức là những tuyên truyền vu cáo về miền Bắc xâm lược miền Nam và dẫn đến những sự tàn sát đẫm máu, thì rõ ràng điều đó không có ở Việt Nam."
Không có “tắm máu” trước mắt mọi người là đúng. Nhưng đảng CSVN đã trả thù nhân dân Việt Nam Cộng hòa đà điều không thể phủ nhận. Đã có hàng trăm ngàn người lính, viên chức chính phủ, chính trị gia, tu sỹ, trí thức và văn nghệ sỹ miền Nam đã bị bắt đi tù được ngụy trang “học tập cải tạo” tại các trại tập trung lao động từ Nam ra Bắc.
Những nạn nhân của chế độ mới, gồm mọi thành phần trong xã hội từ giới trung lưu, thương gia đến dân thường và từ thành phố về nông thôn đã bị đảng và nhà nước CSVN ngược đãi, bóc lột như thế nào thì vẫn còn hàng triệu dân miền Nam là nhân chứng từ thế hệ này qua thế hệ khác không cần phải tranh biện mất thời giờ.
CÓ TÙ ĐẦY KHÔNG ?
Chỉ riêng chuyện tù đầy, hãy đọc Bách khoa tòan thư (mở) đã chứng minh cho cả thế giới thấy không đúng như lời nói vẹt của ông Vũ Quang Hiển : “Công việc triệu tập các đối tượng để đưa đi học tập cải tạo bắt đầu từ Tháng Năm, 1975. Đối với hạ sĩ quan, sau trình diện thì phải theo học một khóa chính trị ngắn rồi được cấp giấy chứng nhận để cho về. Đối với các cấp chỉ huy thì có lệnh trình diện bắt đầu từ ngày 13 đến 16 Tháng Sáu, 1975. Chiếu theo đó thì sĩ quan sẽ đi học tập 15 ngày trong khi các viên chức dân sự cùng những đảng viên các tổ chức chính trị của miền Nam thì thời gian học tập là một tháng. Người trình diện phải mang theo 21 kilôgam gạo làm lương thực trong đó có mọi ngành từ quận trưởng trở lên hoặc đối với các viên chức hành chánh là trưởng phòng trở lên. Các văn nghệ sĩ cũng phải ra trình diện.
Tổng cộng có đến hơn 80 trại cải tạo phân bố trên toàn đất nước, nhất là những vùng biên thùy….Tùy theo cấp bậc hoặc thời gian phục vụ cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa mà những người này bị bắt học tập cải tạo theo thời gian thông thường từ vài ngày đến 10 năm.”
Có trường hợp bị giam trên 30 năm, kể từ 1975. Đó là cựu Sỹ quan VNCH Trương Văn Sương, người bị chết trong nhà giam tháng 9 năm 2011 khi đang bị tù lần thứ 3.
Bách khoa tòan thư mở viết tiếp : “Vì chính sách dùng lao động để cải tạo tư tưởng nên lao động sản xuất là trọng điểm. …Những người trong trại học tập cải tạo phải lao động làm việc ở các công trường, trong các trại cải tạo, mà nhiều người mô tả lại là cực nhọc, một phần trong số đó đã bị chết do không chịu được cuộc sống khắc nghiệt trong trại cải tạo, ăn uống thiếu thốn. Công việc thông thường là chặt cây, trồng cây lương thực, đào giếng, và cả gỡ mìn gây ra thương vong….”
“Sau năm 1975 ở miền Nam có hơn 1.000.000 người thuộc diện phải ra trình diện. Theo Phạm Văn Đồng, con số người phải trải qua giam giữ sau này 30/4/1975 là hơn 200.000 trong tổng số 1 triệu người ra trình diện.”
Con số 200.000 người được ông Phạm Văn Đồng đưa ra ngày từ đầu chiến dịch năm 1975 để trả lời cho các nước phương Tây, nhưng không ai tin là con số chính xác bởi vì, Bách khoa tòan thư mở đã viết : “Ước tính của Hoa Kỳ cho rằng khoảng 165.000 người đã chết trong khi bị giam.”
Làm bằng chứng cho lời nói của ông Giáo sư Vũ Quang Hiển là dối trá, Nhà văn Đại tá (nghỉ hưu) Quân đội Nhân dân Phạm Đình Trọng viết : “Đất nước thống nhất trước hết phải thống nhất trong tình cảm, ý chí người dân. 40 năm đã qua, sự thống nhất đó vẫn chưa hề có. Cuộc chiến tranh kết thúc ngày 30. 4. 1975 chỉ giải phóng đất đai miền Nam để người thắng cuộc thâu tóm, thống trị cả nước, còn người dân miền Nam vẫn bị người thắng cuộc coi là thù địch. Chỉ là cuộc nội chiến, người Việt Cộng sản làm chiến tranh để tiêu diệt người Việt Cộng hòa. Người Việt Cộng hòa có may mắn thoát chết trong cuộc nội chiến khốc liệt, tàn bạo đó cũng bị loại bỏ khỏi sinh hoạt xã hội, trở thành những người tù không án, bị giam cầm mút mùa không thời hạn trong những nhà tù hà khắc.”
Ông Trọng nêu trường hợp của Đề đốc (có người gọi là Đô đốc) Hải quân VNCH Trần Văn Chơn: “Trước 30. 4. 1975 một ngày, Đô đốc Elmo Zum Walt Jr., Tư lệnh hải quân Mĩ ở Việt Nam điều một máy bay vận tải C130 từ Philippines đến Tân Sơn Nhất đón cả gia đình Đô đốc Trần Văn Chơn của Hải quân Việt Nam Cộng hòa sang Mĩ tị nạn. Đô đốc Trần Văn Chơn đã từ chối ra đi để được ở lại làm người dân Việt Nam sống cuộc đời bình yên với đất nước yêu thương đã hết chiến tranh. Nhưng những người Cộng sản thắng cuộc trong cuộc nội chiến vẫn coi những người như Đô đốc Trần Văn Chơn là đối tượng phải loại bỏ của cuộc nội chiến, họ nào có để cho ông được yên. Đô đốc Trần Văn Chơn ở tuổi ngoài sáu mươi bị tống vào nhà tù với tên gọi trại tập trung mỏi mòn mười ba năm trời.
Những ngày ngục tù tăm tối, cực khổ, Đô đốc Trần Văn Chơn mới nhận ra rằng nhà nước Việt Nam Cộng sản chỉ là nhà nước của một giai cấp hão huyền nào đó chứ không phải nhà nước của dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam chân chính dù yêu nước nhưng không Cộng sản cũng không thể sống bình yên trên đất nước thương yêu của mình. Ra tù dù đã gần tám mươi tuổi, chân đã yếu, mắt đã mờ, đã gần đất xa trời, dù muốn được gửi nắm xương tàn vào đất Mẹ Việt Nam bên ông bà, tổ tiên, Đô đốc Trần Văn Chơn cũng phải ngậm ngùi gạt nước mắt ra đi, tìm đến đất nước xa lạ nhưng mở lòng bao dung đón nhận ông. Vài triệu người Việt Nam đã phải bỏ nước ra đi trong nước mắt như Đô đốc Trần Văn Chơn là nỗi đau, nỗi uất hận khó nguôi ngoai của dân tộc Việt Nam. Suốt bốn ngàn năm lịch sử có khi nào dân tộc Việt Nam bị thua đau đến như vậy.” (Trích “Cần gọi đúng tên gọi cuộc chiến này”, phổ biến ngày 22/04/2015)
Đấy là sự thật phũ phàng của điều được tô vẽ là “Giải phóng miền Nam” hay “hòa hợp dân tộc” của những người Cộng sản.
Đề đốc Trần Văn Chơn là người may mắn sống sót, nhưng hai tù nhân chính trị nổi tiếng là Thủ tướng Phan Huy Qúat và Phó Thủ tướng Trần Văn Tuyên đã phải bỏ xác trong tù ở rừng sâu.
Riêng trường hợp Phó Thủ tướng Trần Văn Tuyên, khi được Chính phủ Pháp vặn hỏi Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói dối ông Tuyên vẫn mạnh khỏe và đang học tập để tiến bộ !
GIẢI PHÓNG HAY NỘI CHIẾN ?
Vì vậy Nhà văn, cựu Sỹ quan cao cấp trong Quân đội miền Bắc, Phạm Đình Trọng đã nói thẳng : “Cuộc chiến tranh mà hệ thống tuyên truyền của nhà nước Việt Nam cộng sản vẫn thần thánh hóa là cuộc chiến tranh “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, “Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước” thực chất chỉ là cuộc nội chiến tội lỗi, người Việt bắn giết người Việt, hệ quả tất yếu của hiệp định Genève cắt đôi đất nước Việt Nam thành hai tiền đồn, hai trận tuyến của hai ý thức hệ quyết liệt đối kháng, tiêu diệt nhau, chia đôi dân tộc Việt Nam thành hai thế lực thù địch không đội trời chung, hai tên lính xung kích của hai lực lượng đối kháng đó. Việc chia cắt độc đoán, phũ phàng, oan nghiệt đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam hoàn toàn do những người cộng sản thực hiện, cộng sản Tàu mưu toan và áp đặt, cộng sản Việt cam tâm cúi đầu chấp nhận.”
Không phải tự nhiên mà Nhà văn Phạm Đình Trọng đã “lột xác”. Lý do đơn giản vì sau 40 năm, ai là người Việt Nam biết tự trọng, có đạo lý của truyền thống dân tộc, dù ở hai đầu chiến tuyến, phải nhìn ra điều phi lý và vô duyên của nhóm chữ “giải phóng miền Nam” và tính gỉa dối của điều được gọi là “hòa giải, hòa hợp dân tộc” như đã ghi trong Hiệp định Paris 1973.
Ai cũng thấy, ngọai trừ những người Cộng sản đã cạn máu Việt trong người, cuộc chiến trong Nam là do đảng CSVN chủ động để thỏa mãn cuồng vọng thống nhất đất nước bằng máu người Việt.
Nhưng đâu phải “thống nhất đất nước” để mưu cầu hạnh phúc, hòa bình cho dân tộc, ngược lại, chỉ đem lợi nhuận cho một thiểu số lãnh đạo đã có rất ít đóng góp cho đất nước nhưng lại sẵn sàng thuần phục kẻ đỡ đầu Trung Quốc như đã chứng minh trong suốt 29 năm qua từ thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh khóa đảng VI cho đến thời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khoá đảng XI.
Hai chữ “giải phóng” cũng vô nghĩa vì 20 triệu người Việt Nam Cộng hòa trước tháng 4/1975 không hề bị Chính phủ của họ kìm kẹp như nhân dân miền Bắc trước năm 1975 nên dân trong Nam đâu cần ai giải phóng.
Người Mỹ đến miền Nam không hề chiếm đất, dành dân với ai và họ cũng không có chính sách “thuộc địa kiểu mới” như người Cộng sản tuyên truyền và xuyên tạc.
Thứ đến, cuộc chiến Việt Nam thực tế là chiến tranh ý thức hệ giữa hai phe Tự do và Cộng sản. Nhân dân Việt Nam hai miền Nam-Bắc đã bị lôi cuốn vào cuộc chiến anh em cùng mẹ giết nhau do miền Bắc có tham vọng chiếm đóng cả nước để chu tòan nghĩa vụ Quốc tế Cộng sản với hai nước đàn anh Nga-Tầu.
Nhân dân VNCH buộc phải tự vệ trước làn sóng đỏ với sự hậu thuẫn của Thế giới tự do do Hoa Kỳ cầm đầu. Rất tiếc, cuộc chiến kết thúc bất lợi cho 20 triệu người dân miền Nam ngày 30/04/1975 đã chứng minh do đồng minh Hoa Kỳ, dưới thời Tổng thống Cộng hoà Richard Nixon, đã cam tâm không giữ lời hứa bảo vệ miền Nam khi bị quân Bắc Việt xâm lăng, vi phạm Hiệp định Paris 1973.
BỐI RỐI VÌ MẤT CHÍNH NGHĨA
Ngày nay, trước hiểm họa “chính nghĩa giải phóng thống nhất đất nước” bị lu mờ, đảng đã tổ chức cuộc Hội thảo khoa học cấp Nhà nước được gọi là “Đại thắng mùa Xuân 1975 - Sức mạnh của ý chí thống nhất Tổ quốc và khát vọng hòa bình” diễn ra tại TP Hồ Chí Minh ngày 3-4 vừa qua.
Một số đông cán bộ lý luận cấp cao cũ và mới của đảng đã gay gắt chỉ trích những ý kiến mới, phát ra từ trí thức và cựu quan chức trong đảng và quân đội muốn đánh giá lại cuộc chiến trong Nam sau 40 năm.
Quan điểm tại cuộc Hội thảo của những “nhà tư tưởng ăn cơm chúa múa tối ngày” này đã được biểu hiện trong bài “Lại một trò “chọc gậy bánh xe lịch sử” trên báo Quân đội Nhân dân ngày 14/04/2015.
Bài viết bắt đầu: “Mưu gian của người nêu luận điểm “Chiến thắng 30-4-1975 thực chất là chiến thắng của ý thức hệ cộng sản…”, là để từ đó dẫn dắt người đọc đến lập luận cho rằng, chính vì Đảng Cộng sản Việt Nam du nhập Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam đã đưa dân tộc vào trọng điểm của cuộc chiến ý thức hệ, gây ra cảnh “nồi da xáo thịt”.
Sự thật có như vậy không? PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, khẳng định: Lập luận trên thực chất là trò “chọc gậy bánh xe” theo kiểu “bình mới, rượu cũ”; việc “đổ tội” cho Đảng Cộng sản Việt Nam đã gây ra chiến tranh là chiêu bài mà các thế lực thù địch đã làm suốt 40 năm qua nhưng không thuyết phục được ai.”
Bái viết tiếp : “ Những hành động xâm phạm độc lập, thống nhất và chủ quyền dân tộc… là điều trái đạo lý và pháp lý quốc tế. Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh. Là một dân tộc có lịch sử hào hùng hơn 4000 năm, nhân dân ta ở cả hai miền Nam-Bắc thấu suốt chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Có kẻ xâm lược thì người Việt Nam chống kẻ thù xâm lược chứ không có chuyện “miền Bắc xâm lược miền Nam”, không có chuyện “nồi da xáo thịt” như một số kẻ phản động vẫn thường kêu gào.”
Nhưng ai xâm lược ai ? Mỹ đâu có đổ quân ra xâm lăng miền Bắc, quân lực VNCH cũng không vuợt qua sông Bến Hải, vượt Trường Sơn xâm lược Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng cả thế giới biết hàng trăm ngàn Bộ đội miền Bắc đã xâm nhập vào miền Nam qua Vỹ tuyến 17, Lào và Cao Miên. Đường mòn Hồ Chí Minh, phát xuất từ Vĩnh Linh (Qủang Bình) đã đi vào lịch sử xâm lăng VNCH của miền Bắc.
Lập luận của các diễn giả đã lúng túng khi nói đến “chiến tranh giải phóng” . Bài báo phản ảnh: “ Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta mang dấu ấn thời đại sâu sắc nhưng bản chất luôn là một cuộc chiến tranh giải phóng.
Cần phải thêm một lần khẳng định, mục tiêu “độc lập dân tộc và CNXH” do Đảng ta xác định là một lựa chọn tất yếu của lịch sử dân tộc.”
Nhưng nhân dân Việt Nam nói chung và riêng miến Bắc trước 1975 đã bao giờ được đảng hỏi ý kiến muốn hay không muốn Chủ nghĩa xã hội Cộng sản đâu. Chủ nghĩa Mác-Lênin đâu phải là “lựa chọn tất yếu” của nhân dân. Ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã tự tròng vào cổ người dân đấy chứ ?
Vậy cuộc chiến dùng người Việt miền Bắc giết người Việt miền Nam của đảng CSVN có phi nghĩa không ?
Ông Giáo sư, Tiến sỹ Hoàng Chí Bảo (Hội đồng Lý luận Trung ương) đã khá gay gắt:” Cố tình quy trách nhiệm Đảng Cộng sản Việt Nam đã gây ra chiến tranh thực chất là một nhận thức phi lịch sử, muốn phủ nhận chiến thắng của nhân dân ta, hòng phủ nhận cả lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH. Cách nhìn ấy muốn đánh đồng người chiến thắng và kẻ thất bại, xóa nhòa mục đích, tính chất, bản chất sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Thất bại của Mỹ và chính phủ “Việt Nam Cộng hòa” là sự phá sản, thất bại của các thế lực xâm lược bên ngoài, hòng áp đặt ách thống trị, nô dịch, áp bức và bóc lột nhân dân ta ở miền Nam.”
Có lẽ nhà lý luận hàng đầu của đảng đã nóng vội khi kết luận như thế. Chả có thế lực nào đã xâm lược miền Nam, ngọai trừ đội quân miền Bắc. Cũng không có dấu tích gì để hậu thuẫn cho suy diễn Hoa Kỳ đã “áp đặt ách thống trị, nô dịch” nhân dân VNCH.
Và thật rõ ràng trước ngày 30/04/1975, nhân dân miền Nam chưa bao giờ bị “áp bức và bóc lột” như Tiến sỹ Bảo ngộ nhận.
Nhưng sau 40 năm, thì không riêng gì nhân dân VNCH mà rất nhiều người miền Bắc, bên thắng trận, phải thừa nhận chính đảng đã phạm tội hủy họai dân chủ, tự do, kinh tế, văn hoá và xã hội phong phú trong Nam. Bằng chứng là bây giờ, đảng đang phải rất vất vả để phục hồi nền kinh tế tự do và thị trường như của miền Nam trước đây mà đảng đã điên rồ phá nát.
Phải chăng đó là cái nhìn rất thấm thiá của Nhà văn Phạm Đình Trọng khi ông kết luận : “ Ngày 30. 4. 1975 là ngày chiến thắng vĩ đại của những người cộng sản chỉ biết có giai cấp, không biết đến dân tộc nhưng là ngày thua đau của cả dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam đã bị thua đau, bị chết mòn trong cuộc nội chiến núi xương sông máu nay lại bị đòn thù giai cấp đánh vào trái tim con người, đánh vào đạo lí xã hội, đánh vào lẽ sống còn của dân tộc làm cho dân tộc li tán tan tác và ngày 30. 4. 1975 là ngày khởi đầu của cuộc đại li tán dân tộc.
Ngày 30. 4. 1975 sau thoáng vui nông nổi mau qua đi, người dân liền phải nhận ra một sự thật cay đắng. Sự thật của lịch sử trớ trêu: Cái hung tàn thắng cái văn minh. Sự thật trắng tay của người dân. Bao thế hệ người dân Việt Nam đổ máu trong cuộc chiến đấu cho đất nước độc lập, cho người dân được tự do. Cuộc chiến kết thúc, trở về xã hội dân sự mới lồ lộ ra một thực tế: Tự do của người dân không có mà độc lập của đất nước cũng không! Quyền yêu nước của người dân cũng bị tươc đoạt. Đất nước ngày càng phụ thuộc và mất dần vào tay kẻ thù truyền kiếp của lịch sử Việt Nam nhưng là đồng chí cùng lí tưởng, cùng ý thức hệ, là bạn vàng bốn tốt của đảng CSVN!”
Đó là bức tranh bi thảm và rất tủi nhục cho chiến thắng của cuộc chiến huynh đệ tương tàn, nhưng mặt nạ của lịch sử đã hiện ra rõ như ban ngày. Không ai che khuất được nó trong ngày 30/04/2015.-/-
Phạm Trần
(04/015)
- Viết bởi Trần Đoan Hùng
1. Nhân sự kiện 40 năm khép lại cuộc chiến (30/4/1975 – 30/4/2015) :
Trong những ngày nầy, những ngày kỷ niệm 40 năm biến cố khép lại cuộc huynh đệ tương tàn khốc liệt và đau thương nhất trong lịch sử Việt Nam : biến cố 30.4.1975, rất nhiều ký ức về cuộc chiến có dịp được phơi bày, tường thuật.
“Bên thắng cuộc” thì khắp nơi tưng bừng mừng kỷ niệm chiến thắng bằng tuyên truyền rầm rộ và hoành tráng với tầng suất và đầu tư cao nhất. Trong khi “bên thua cuộc” thì đó đây vẫn tổ chức hồi niệm ngày “quốc hận” trong bầu khí của trầm mặc mang dấu ấn tiếc nhớ và ngậm ngùi.
Và cũng trong những ngày nầy, trên các phương tiện truyền thông gần như ngập tràn các tư liệu liên quan đến cuộc chiến tranh, cho dù đã 40 năm trôi vào dĩ vãng, nhưng những vết thương của cuộc tương tàn nồi da xáo thịt (mà các tài liệu nầy gợi nhớ) vẫn nhức nhối trong tâm hồn của hàng triệu con dân Việt Nam.
Bằng chủ trương và đường lối tuyên truyền cố hữu của hệ thống chính trị độc tài, độc đảng, chính quyền cọng sản Việt nam cố sức trình bày những chiến tích lừng danh của quân đội nhân dân miền Bắc qua toàn bộ hệ thống báo đài lề phải đang nắm trong tay. Và dĩ nhiên, đó chỉ là “sự thật cọng sản”, một sự thật mà chính một lãnh tụ tầm cở của đế quốc cọng sản Liên Sô - Tổng Bí Thư Mikhail Gorbachev : đã phải thốt lên : “Tôi đã bỏ nửa đời người phục vụ lý tưởng CS, nay tôi đau buồn nói rằng CS chỉ tuyên truyên Dối Trá và Bịp Bợm.”
Nói như thế, không phải hoàn toàn phủ nhận những chiến thắng mà quân đội cụ Hồ đã đạt được trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn mà họ “treo cái đầu dê” bằng những mỹ từ “giải phóng miền Nam khỏi ách xâm lược Mỹ”. Thôi thì cứ để cho “bên thắng cuộc” thoải mái tụng kinh bài ca chiến thắng vĩ đại vì họ đã trả giá quá đắt : hơn 3 triệu người chấp nhận “sinh Bắc tử Nam” kia mà !
Ở đây, trong bài nhận định giản đơn và khiêm tốn nầy, chỉ xin được góp một chút hương thơm để kính nhớ hương hồn các anh linh tử sĩ của quân đội Việt Nam Cọng Hòa đã hy sinh chiến đấu miệt mài suốt 20 năm để giữ gìn Đất Mẹ từ bờ sống Bến Hải cho đến mũi Cà Mau, cùng những vùng biến đảo xa xôi Hoàng Sa, Trường Sa, Côn Sơn, Phú Quốc.
2. Quân đội Việt Nam Cọng Hòa và giá trị chiến đấu
Trong đoạn kết của bài viết “CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA” tác giả Sơn Tùng đã phần nào cay đắng thốt lên :
“Cuộc chơi rõ rệt không công bằng, nhưng nguời lính VNCH vẫn miệt mài chiến đấu và hy sinh. Cho đến khi hoàn toàn bị trói taỵ Cuộc chơi tàn. Nhưng người lành lặn bị lùa vào các trại cải tạọ. Đui, què, mẻ sứt...không còn được ai nhắc tới, biết tớị những người chết không yên, mồ mả bị đào xới lăng nhục.
Bốn mươi cái 30/4 đã trôi qua, hào quang của những kẻ đã chiến thắng nhờ sức mạnh súng đạn ngoại bang đã tắt lịm trong cái xã hội cực kỳ thối nát. Bao giờ lương tâm mới thức tỉnh trong những con người vẫn còn muốn ném bùn vào nét chân dung của người lính VNCH ?”
Nhưng lịch sử vẫn luôn công bằng. Những giá trị đích thực cho dù có bị vùi dập, loại trừ, chà đạp…thì rồi vẫn đến lúc được khám phá, trưng bày, đón nhận.
Chính tác giả Sơn Tùng trong bài viết trên, đã trích dẫn những tường thuật và nhận định của những nhà báo, phóng viên mang lập trường thiên cọng, bênh vực cho cuộc chiến tranh của Hà Nội, nhưng khi chứng kiến những trận đánh cuối cùng của Quân Đội Việt nam Cọng Hòa đã phải thay đổi cái nhìn :
“Sự hèn nhát và vô đạo ấy đã làm thức tỉnh lương tâm một số người từng góp phần cổ võ cho CSBV xâm chiếm miền Nam, khi họ chứng kiến những trận đánh cuối cùng của một số đơn vị QLVNCH. Trong số nầy có 3 nhà báo Pháp Jean Larteguy, Jean Lacouture và Pierre Darcourt. Ba nhà báo nầy đã có mặt tại miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối của Saigon, có lẽ chờ đợi đón mừng "bộ đội giải phóng" để chứng kiến cái chết ô nhục của quân đội miền Nam mà họ đã phỉ báng trong suốt bao nhiêu năm. Nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, họ trở về Pháp, và đã làm cho cả thế giới ngạc nhiên với những gì họ viết ra về Người Lính Việt Nam Cộng Hòa.
Jean Larteguy ghi lại như sau khi tới thăm một đơn vị Dù cố thủ tại Sài Gòn:
"Thứ Hai 28/4/75.
Saigon sáng nay yên tĩnh.
Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong các khu vườn. Họ không buồn rầu, và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một cuộc thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau, và liệng cho nhau những chai Coca-Colạ Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu nầỵ Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon.
Và những binh sĩ tuyệt vơì nầy vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra saọ
Ông trả lời:
- Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người chót chiến đấụ Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.
Sau khi Dương văn Minh đã tuyên bố đã đầu hàng. Lartéguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị QDVNCH tại Saigon, và ghi lại như sau:
"Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ Dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan nầy khuyên họ nên ngưng chiến đấụ. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe
Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết"
Lartéguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên Trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địạ
"Và trong những bộ đồng phục mới, giày chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Chỉ còn thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng".
Một đồng nghiệp của Lartéguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan:
- Các anh có biết là sắp bị giết chết không?
Một thiếu úy trả lời:
- Chúng tôi biết chứ.
- Vì sao?
- Tại vì chúng tôi không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản…..
"...Các xe tăng đầu tiên của cộng sản vào Saigon từ phía Đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòạ.. Bộ binh thì tiến từ phía Bến cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn nầy chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiềụ .Từ ngày hôm trước, các đơn vị cộng quân nầy dã bị chặn tại gần Hốc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của sư đoàn Dù trấn giữ, dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị cộng quân bị thiệt hại nhiềụ. Sau đó, chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon : một lần trước trụ sở Cảnh Sát Công Lộ; nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng cộng sản đè bẹp;lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê van Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính dù võ trang đại liên và bazooka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát.
Đến chiều tốị 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Dến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đêm để rút về đồng bằng."
Darcourt cho biết đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.
Và có lẽ nhận định sớm nhất và công bằng nhất về giá trị đích thực của Quân Đội Việt nam Cọng Hòa và cuộc chiến đấu anh dũng của họ đó là nhận định của một nhà báo Mỹ mà Sơn Tùng đã ghi lại như sau :
Hai ngày sau khi Saigon sụp đổ, Peter Kanh, nhà báo Mỹ đoạt giải Pulitzer, đã viết một bài bình luận dài trên tờ Wall Street Journal (2/5/75) tựa đề "Truy điệu Nam Việt Nam", trong đó có đoạn viết về Quân Lực VNCH như sau :
"...Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậỵ..Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ...
Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương...Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta. Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn".
3. Trận chiến oai hùng và đẹp nhất
Sau khi điểm qua những ghi nhận đó, cùng với những tư liệu chiến tranh đã và đang hiện diện trên khắp các diễn đàn quốc tế cũng như quốc nội, người viết xin được phép chọn lựa một trận chiến tiêu biểu cuối cùng như là dấu ấn oai hùng nhất, đẹp nhất trong những trận chiến lừng danh của quân đội Việt nam Cọng Hòa. Đó là trận chiến bảo vệ ngôi trường thân yêu của các chiến sĩ THIẾU SINH QUÂN, thuộc trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu vào đêm 29 và trọn ngày 30/4/1975.
Và đây là những lý do để người viết chọn lựa trận đánh nầy như là biểu tượng đẹp nhất của những trang chiến sữ nội chiến Việt nam, xứng đáng là tấm gương soi chiếu cho mọi đạo quân trên thế giới.
Sau đây là những trích dịch từ các bài viết mà một trong số đó là chính chứng từ của những thiếu sinh quân đã từng tham dự trận đánh oai hùng nầy.
Một đạo quân trong lứa tuổi học trò
“Đó là cuộc chống trả của các THIẾU SINH QUÂN ở Vũng Tàu trong đêm 29 và gần trọn ngày 30-4-75, khi cộng quân xâm nhập và chiếm đóng các vị trí trọng yếu trong Thị Xã. Vũng Tàu coi như bỏ ngỏ và rơi vào tay cộng quân. Ngoại trừ một cứ điểm duy nhất còn chống cự do những thiếu niên tuổi 12, 13 .... đến 17 tự lập phòng tuyến quyết tâm tử thủ. Cứ điểm đó là trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu và những chiến sỹ gan dạ anh hùng đó là những thiếu sinh măng trẻ của trường.” [1]
Một đạo quân thắm tình đồng đội
“Trong lúc mọi người đang chìm đắm trong những suy tư riêng, tôi bỗng nghe tiếng loa phóng thanh từ trong trường vọng lại:
- Các anh Thiếu Sinh Quân lớp lớn xin trở về trường! Chúng em cần các anh lắm.
Tiếng gọi của em nhỏ Thiếu Sinh Quân vang vọng trong màn đêm, thúc bách não nuột như tiếng kêu chim chíp của gà con mất mẹ, làm cho tôi vô cùng xốn xang, bức xúc. Các em chẳng có nơi nào dung thân, chỉ còn biết trông cậy vào các anh lớn đùm bọc. Là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn lớp lớn nhất, tôi nhận ra trách nhiệm của mình. Tôi không thể ngồi yên khi nghĩ đến bạn bè và đàn em đang ở trong trường. Có thể lúc này Bắc quân đã có mặt đâu đó gần Vũng Tàu hay quanh trường, nhưng tiếng gọi loa đã khiến tôi phải đứng lên và cương quyết trở lại trường với các em. Bố Mẹ Vần lo lắng khuyên chúng tôi đổi ý. Tôi cám ơn Bố Mẹ Vần và nói trước khi cùng Thịnh phóng vào đêm tối:
- Tụi con không thể bỏ các em được!
Về đến trường, các bạn cùng liên lớp với tôi như Lâm A Sáng, Phạm Ngọc Trình, Nguyễn Văn Minh cũng đã có mặt. Tôi nhận thấy các bạn đã phá cửa kho vũ khí của trường và đang hì hục khuân vác súng đạn ra các ổ canh gác. Một toán các Thiếu Sinh Quan khác thì đang xả thịt một con bò, lui cui nấu cơm và luộc thịt. Thế là tôi vớ lấy một cái nón sắt, chụp một khẩu carbine cùng với Thịnh, cũng trang bị y hệt, lúc nào cũng kè kè bên cạnh. Hai đứa chúng tôi tự xem trách nhiệm tổ chức canh gác như nhiệm vụ được anh em giao phó.
Nhìn lên bầu trời đen thẳm với nỗi cô đơn chợt đến, chợt đi, tôi suy nghĩ lan man với một bài toán không đáp số. Vì trách nhiệm của anh lớn bảo bọc đàn em, chúng tôi sẵn sàng cho một cuộc chiến. Cuộc chiến này sẽ đi về đâu ? Chúng tôi không biết. Tương quan lực lượng nghiêng lệch ra sao? Chúng tôi chẳng cần bàn. Không ai trong chúng tôi tin là mình sẽ chiến thắng, nhưng chúng tôi vẫn sẽ chiến đấu, ít nhất chúng tôi cũng phải đánh trả đích đáng những ai muốn chiếm lấy ngôi trường này, nơi dung thân cuối cùng của chúng tôi.” [2]
Một đạo quân kỷ luật, quả cảm và vững vàng kỷ năng tác chiến
“Mặc VC kêu gọi và đe doạ, Thiếu Sinh Quân vẫn kiên trì tử thủ, khiêng chướng ngại vật làm lũy phòng ngự, tổ chức giao liên, tiếp tế đạn dược, nước uống và lương khô, cứu thương và cứu hoả .... Anh lớn chỉ huy các em nhỏ, áp dụng tuyệt vời những bài học quân sự và kỹ thuật tác chiến đã được giảng dậy ở quân trường.
Đúng 9:30 sáng ngày 30-4. Cộng quân ra lệnh gọi đầu hàng lần chót nhưng các chiến sỹ tí hon vẫn kiên quyết kháng cự, trả lời chúng bằng những loạt đạn dữ dội hơn.
VC nổi cơn khát máu. Chúng khai hoả, mở cuộc tấn công ào ạt mong giải quyết chiến trường nhanh chóng. Nhưng chúng phải lập tức dội ngược lại, không ngờ sức chống cự quá mãnh liệt và hoả lực từ bên trong bắn ra vô cùng chính xác vào những bia sống, những cái bia người "SINH BẮC TỬ NAM". Các em chưa bao giờ được bắn, nay đã bắn với tất cả căm thù, mong dành lại những gì sắp bị cướp mất.
Thiếu Sinh Quân có đầy đủ vũ khí cá nhân và vũ khí cộng đồng. Ngoài ra còn có lợi điểm là các công sự trong trường, vừa đánh vừa di chuyển, ẩn núp, trong khi bộ đội VC lớ ngớ như bầy chuột chù ra ngoài ánh sáng. Lại có những thanh thiếu niên và Quân Nhân vỡ ngũ bên ngoài hào hứng và kích động, tìm cách lẻn vào tăng cường tay súng, nhập cuộc cùng các Thiếu Sinh Quân chiến đấu ngay trong sân trường, đột kích, đánh bọc hậu bọn bộ đội khiến chúng nao núng và hốt hoảng.
VC đã bắn sập một khoảng tường nhưng không thể nào vượt qua được lưới đạn của các chiến sỹ nhỏ tuổi nhưng can trường. Các em đã chiến đấu thật gan dạ, nhanh nhẹn, khôn ngoan, phối hợp nhịp nhàng và KỶ LUẬT như những đơn vị tinh nhuệ, thiện chiến nhà nghề.
Đây là trận đánh thực sự đầu tiên và cũng là trận đánh cuối cùng của các em còn đang giở khoá học. Trận đánh QUYẾT TỬ đã đi vào lịch sử.
Các Thiếu Sinh Quân đã chiến đấu không nao núng dù có nhiều em ngã gục. Những đứa con bé bỏng của quê hương đã chết trong giờ phút cuối cùng của miền Nam, khi tóc còn xanh, mộng đời chưa trọn. Đồng bào chứng kiến cảnh bi thương này đã oà lên khóc. Có những bà mẹ kêu gào, lăn xả vào cản ngăn họng súng bọn bộ đội để che chở cho những thiếu niên ở bên trong.
Tiếng nổ, tiếng hò hét, tiếng kêu khóc, tiếng loa uy hiếp của VC đã tạo nên một không khí chiến trường lạ lùng chưa từng thấy .... Các Thiếu Sinh Quân chiến đấu với tất cả nhiệt tình và sinh lực của tuổi trẻ hăng say hào hứng như đang tham dự một trò chơi lớn.[3]
Một đạo quân giữ vẹn châm ngôn của Quân Đội Việt Nam Cọng Hòa :
TỔ QUỐC – DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM.
“Cuộc chống cự kéo dài đến 3:00 chiều. Cho đến khi kho đạn dược đã cạn và kho lương thực bị bốc cháy, các Thiếu Sinh Quân mới bằng lòng cho VC thương thảo. Họ đòi hỏi VC chấp nhận một giờ ngưng bắn, sau đó sẽ buông súng và mở cổng ...
Và các em đã dùng một giờ ngưng bắn để thu dọn chiến trường, săn sóc đồng đội bị thương, gói liệm thi hài những vị tiểu anh hùng đã gục ngã, và chuẩn bị làm lễ hạ kỳ. Họ KHÔNG ĐỂ CHO BỌN CS làm nhục lá cờ VÀNG BA SỌC ĐỎ, lá cờ biểu tượng thiêng liêng gói ủ hồn dân tộc mà họ đã thề nguyền PHẢI THƯƠNG YÊU và BẢO VỆ.
Có chừng hơn một Trung Đội TSQ đã tập họp trước sân cờ, đứng trang nghiêm và thành kính nhìn lên lá Quốc Kỳ còn nguyên vẹn màu tươi thắm bay phất phới trên nền mây ngọc bích. Hai TSQ lớp 12 là Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Văn Chung bước tới, đứng nghiêm trước kỳ đài theo lễ nghi quân cách, dơ tay chào.
Họ từ từ nắm từng nấc giây, cho lá cờ hạ xuống thật chậm và từ tốn như cố kéo dài giây phút thiêng liêng cảm động này, nước mắt đầm đìa.
Tất cả TSQ từ trong các tầng lầu, từ các hố cá nhân, các giao thông hào, sau những gốc cây, bờ tường, sau những mái nhà...., không ai bảo ai, đồng loạt đứng bật dậy đồng thanh cất tiếng hát bài quốc ca.
Gần 700 giọng hát hùng tráng cát lên, vang khắp sân trường. Bọn bộ đội nghe, ngơ ngác không phản ứng. Tiếng hát phủ tràn trên tuyến địch vang đến tận bến Dâu, bến Đình............ Mọi người dân Vũng Tàu đã đều nghe và rung động. Tiếng hát bay ra biển khơi, bay lên trời cao, âm thanh lồng lộng theo gió chiều, đất trời cùng ngẩn ngơ rớm lệ theo tiếng hát.
Các Thiếu Sinh Quân đã làm lễ mai táng đất nước, đã TRANG NGHIÊM RỬA SẠCH tấm bia DANH DỰ của Quân Đội VNCH, đã vuốt mắt cho Mẹ Việt Nam yên nghỉ qua lễ hạ kỳ lần cuối chỉ một không hai này. Họ hát bằng tiếng nấc thê lương và phẫn uất từ sâu thẳm trái tim, với những nghẹn ngào cùng dàn dụa của nước mắt. Đồng bào cùng thổn thức thương tủi và thổn thức hát theo.” [4]
Trong hồi ức của những người đã từng kinh qua cuộc chiến, đặc biệt trong những ngày tháng cuối cùng của chế độ Việt nam Cọng Hòa, nhất là hồi ức của những người lính bảo vệ tự do, thì cho dù thời điểm 30.04.75 có là ngày chiến bại, có là thời điểm tan hàng, mất nước…thì với trận chiến đấu anh dũng và bi hùng của đoàn quân Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, mãi mãi sẽ là trận chiến oai hùng nhất, đẹp nhất, xứng đáng được xếp đầu tiên trên mọi trang quân sử.
Trần Đoan Hùng
[1] CUỘC CHIẾN ĐẤU BI HÙNG của Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu ( tác gỉa Đào Vũ Anh Hùng)
[2] Trận Chiến Ðấu Bi Hùng của Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu Tháng 4 1975 (Tác giả : CTSQ Nguyễn Anh Dũng và CTSQ Lâm A Sáng. Colorado, ngày 24 tháng 10 năm 2002 (Edited by Bắc Phong Sài Gòn/ K23 Thủ đức)
[3] CUỘC CHIẾN ĐẤU BI HÙNG của Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu ( tác gỉa Đào Vũ Anh Hùng)
[4] SĐD
- Viết bởi Phạm Trần
Đảng Cộng sản Việt Nam có thật lòng muốn hòa giải và hòa hợp dân tộc không hay chỉ nói một đàng làm một nẻo, nên chia rẽ và hận thù đã chống chất sau 40 năm kết thúc chiến tranh ?
Câu hỏi này không mới mà đã được lập đi lập lại vào mỗi dịp 30 tháng 4 về. Tại sao ?
Trước hết, hãy nghe Nhà nghiên cứu 95 tuổi Nguyễn Đình Đầu, nguyên Phụ tá Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền trong chính phủ 2 ngày của Tổng thống sau cùng Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh chia sẻ: “Tôi thấy về vấn đề đoàn kết dân tộc bằng văn hóa chúng ta mới có những chỉ thị. Còn nền văn hóa của Việt Nam mang bản sắc như thế nào thì chưa làm sáng rõ ra được. Vì thế, chúng ta cần phải giáo dục, xây dựng không chỉ con người khoa học, con người kinh tế mà cả con người văn hóa nữa. Dù mỗi người có một đường hướng, khuynh hướng chính trị khác nhau, nhưng mẫu số chung là, đều vì tương lai của đất nước Việt Nam.
Có như thế, người Việt Nam mới luôn giữ được bản sắc riêng của mình trong thời đại mới. Bản sắc ấy chính là tình yêu quê hương và lòng tự tôn dân tộc. Tình yêu quê hương, lòng tự tôn dân tộc luôn giúp cho người Việt Nam hành động thuận theo lẽ phải, theo đại nghĩa và vượt qua những thử thách hiểm nghèo nhất. Vậy nên, mỗi người Việt Nam hôm nay cần phải coi trọng việc hòa hợp dân tộc là một trách nhiệm lịch sử tự nguyện.” (phỏng vấn của báo Thể Thao-Văn hóa, 13/04/2015)
Chuyện “mới có những chỉ thị” trong hành động “đoàn kết dân tộc” của đảng CSVN đã nói nói lên điều gì từ một nhân chứng lịch sử của ngày 30/4/1975 ?
Cụ Nguyễn Đình Đầu đã chứng minh nội dung trong khỏan 1 của Điều 60 Hiến pháp 2013 chỉ nói mà không hành. Điều này viết : “ Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.”
Nếu có “văn hoá tiên tiến” và “đậm đà bản sắc dân tộc” thì tại sao vẫn còn nuôi dưỡng hận thù đồi với 74 chiến sỹ Việt Nam Cộng hòa, những con dân nước Việt đã hy sinh trong trận chiến chống quân Trung Cộng xâm lược quần đào Hòang Sa năm 1974 ?
Dòng máu đỏ của những người da vàng Việt Nam Cộng hòa có khác với những dòng máu của 64 Bộ đội CSVN hy sinh trong trận chiến Trường Sa chống quần Tầu xâm lược năm 1988 không ?
Nếu không khác thì tại sao chỉ dựng Tượng đài kỷ niệm 64 người của quân đội CSVN tại thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa ngày 14/03/2015, đúng vào ngày này 27 năm trước họ bị quân Tầu hạ sát dã man tại trận chiến đá Gạc Ma, mà không được nổ súng theo lệnh của Bộ trưởng Quốc phòng lúc đó là Lê Đức Anh.
Đại tướng Lê Đức đã bị nhiều Sỹ quan quân đội Nhân dân, kể cả Thiếu tướng nguyên Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh, Nguyễn Trọng Vĩnh, cáo buộc là người thân Trung Cộng. Tướng Anh cũng đã lén lút qua mặt Ngọai trưởng Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngọai giao để sắp đặt với các Đặc sứ của Bắc Kinh tổ chức chuyến đi bí mật đến Thành Đô (Tỉnh Tứ Xuyên) năm 1990 của phái đòan Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng.
Mục đích chuyến đi là để tái lập quan hệ ngọai giao với Trung Quốc, nhưng phải thỏa mãn điều kiện của Trung Quốc đòi Việt Nam rút quân đội Việt Nam khỏi chiến trường Kampuchia và không được nhắc đến cuộc chiến xâm lược biên giới phía bắc Việt Nam năm 1979 của 600,000 quân Trung Cộng.
Đến nay, 25 năm sau, những thỏa hiệp bí mật Thành Đô giữa Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân vẫn bị phong tỏa.
TRƯỜNG SA VÀ HOÀNG SA
Do đó, mỗi khi nhắc đến cuộc chiến Gạc Ma là mọi người đều nhớ đến trách nhiệm lịch sử không thể chối cãi của ông Lê Đức Anh, người sau này làm đến chức Chủ tịch Nước (1992-1997) đối với 64 người lính đã bỏ mình ở đó.
Vì vậy không có gì sai trái khi đền ơn những người đã hy sinh cho Tổ Quốc, nhưng đã làm thì phải làm cho tất cả mọi người đã đổ máu cho một lý tưởng chống ngọai bang Trung Cộng xâm lược để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, kể cả trên 40,000 quân và dân 6 tỉnh biên giới phiá bắc đã hy sinh trong cuộc chiến chống quân Tầu từ 1979 đến 1987.
Nhưng đảng và nhà nước CSVN đã không dám làn như thế để giữ trọn tình nghĩa láng giềng “vừa là đồng chí vừa là anh em” với đảng Cộng sản Trung Quốc.
Cũng thật không công chính khi Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (TLĐLĐVN) Đặng Ngọc Tùng phát biểu tại lễ dựng tượng đài ngày 14/04/2015: "Theo nguyện vọng của thân nhân của những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh ở Gạc Ma năm 1988 cũng như của cả nước là có một khu tưởng niệm các anh hùng Gạc Ma để thân nhân các liệt sĩ hàng năm về đây viếng người thân của mình, đồng thời giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ sau này. Do đó việc xây dựng tượng đài tại đây trong chương trình "Nghĩa tình Hoàng Sa- Trường Sa" với hy vọng đáp ứng được phần nào nguyện vọng của thân nhân chiến sĩ Gạc Ma cũng như của công đoàn cả nước cùng toàn thể nhân dân hướng về các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh.”
Tại sao lại có cả “Hòang Sa” trong cuộc vận động quyên góp tiền bạc chỉ dành cho Gạc Ma ? Hương hồn của 74 chiến sỹ VNCH hy sinh ở Hòang Sa có “xơ múi” gì trong cuộc quyên góp tiền bạc do Tổng liên đòan Lao động Việt Nam tổ chức ?
Chắp và Hoàng Sa vào làm gì ngoài mục đích tuyên truyền đoàn kết ngoài mặt ? Không ai ở Việt Nam trả lời câu hỏi này của thân nhân 74 người lính VNCH và của người dân VNCH cũ.
Nhưng rất rõ là hành động thiên vị một phía của tổ chức TLĐLĐVN được sự đồng tình, tiếp tay của Nhà nước đã cho thấy chủ trương “hòa giải-hòa hợp dân tộc”, vẫn thường được nghe phát ra từ cửa miệng lãnh đạo bấy lâu nay chỉ là “nước lã ao bèo”.
Cũng thật ảo tưởng khi Khoản 3 trong Điều 60 Hiến pháp còn viết : “Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân.”
Bởi lẽ trong thực tế Nhà nước đã không làm như Hiến pháp quy định với dân trong đời sống hàng ngày ở Việt Nam mà đi hàng hai như ghi trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá đảng VIII thời Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu về “xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Nghị quyết này có đoạn viết : “Phương hướng chung của sự nghiệp vǎn hóa nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc , ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa…”
Như vậy phải chăng những ai không đóng góp vào việc “xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” như 74 người lính VNCH chết ở Hoàng Sa thì phải bị gạt ra khỏi hàng ngũ yêu nước ?
Hãy đọc lời phê bình của Nhà văn, Đại tá Quân đội Nhân dân nghỉ hưu Phạm Đình Trọng trong bài viết ngày 11/04/2015: “Dựng tượng đài khắc ghi vào thời gian, khắc ghi vào tâm linh Việt Nam những dòng máu thiêng Việt Nam đã đổ ra để giữ biển Đông, mảnh thềm không thể tách rời của ngôi nhà hương hỏa Việt Nam là đòi hỏi khẩn thiết của mọi trái tim Việt Nam hôm nay và mãi mãi mai sau. Nhưng nếu chỉ dựng tượng đài Chiến sĩ Gạc Ma 1988 thì vừa bất công, vừa hẹp hòi, nhỏ nhen, chật chội quá! Một hành xử chính trị nhưng dường như phản chính trị! Chỉ là thứ chính trị thô thiển, bè phái, cục bộ! Một việc làm khoét sâu thêm nỗi đau li tán dân tộc cũng là làm suy yếu dân tộc.”
Ông nói thêm: “Những người lính của chính quyền Sài Gòn chết ở Hoàng Sa năm 1974 trong cuộc chiến chống quân Tàu Cộng xâm lược. Những người lính của chính quyền Hà Nội cũng chết trong cuộc chiến chống quân Tàu Cộng xâm lược Gạc Ma, Trường Sa năm 1988. Họ đều chết cho Tổ quốc Việt Nam, chết trên những đồi cát ngay thềm ngôi nhà Việt Nam, mang hồn thiêng cha ông. Nay chỉ dựng tượng đài ghi công Chiến sĩ Gạc Ma 1988 thì tượng đài chật chội, nhỏ nhen, hẹp hòi đó không thể mang tấm lòng bao dung của Mẹ Việt Nam, không thể bền vững cùng non nước Việt Nam mà chỉ là tượng đài của một thế lực phe nhóm và chỉ tồn tại cùng thế lực phe nhóm đó mà thôi.”
Cũng với tư duy hẹp hòi, phe nhóm và cực đoan Cộng sản, những người cầm quyền cũng đã làm ngơ với khuyến nghị tri ân chiến sỹ VNCH ở Hòang Sa của Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình, trong đó có Nhà nghiên cứu nổi tiếng Nguyễn Đình Đầu và những nhân sỹ, trí thức khác ở Việt Nam là một bằng chứng hòa giải của người Cộng sản chỉ có trên đấu môi chót lưỡi.
Nên biết Cụ Nguyễn Đình Đầu, người thuộc thành phần Thứ Ba trong giải pháp chính trị ở miền Nam sau cuộc chiến theo Hiệp định Paris 1973, từng nỗ lực giàn xếp một giải pháp đòan kết dân tộc vào giờ cuối cùng của cuộc chiến nhưng phe Cộng sản đã bác bỏ thẳng tay.
Cụ kể : “ Ngày ấy, chính xác là sáng ngày 29/4 luật sư Huyền (Nguyễn Văn Huyền, Phó tổng thống Việt Nam Cộng hòa ) yêu cầu tôi phải thành lập một phái đoàn để đi gặp đại diện Chính phủ Cách mạng Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở Tân Sân Nhất. Được sự chấp thuận của Tổng thống Dương Văn Minh và nội các, tôi đã lên danh sách phái đoàn gồm ông Nguyễn Văn Diệp, ông Nguyễn Văn Hạnh là người có liên lạc với kháng chiến và một người nữa có chân trong tình báo là ông Tô Văn Cang. Nói là điều đình nhưng thực ra phía Việt Nam Cộng hòa biết mình sẽ thua, việc chính quyền mới thành lập được một ngày, không có ý sẽ tiếp tục kháng chiến mà là để thi hành Hiệp định Paris là chính.
Chúng tôi từ Tân Sơn Nhất trở về, gặp Tổng thống Dương Văn Minh đang đứng ở ngoài sân. Chúng tôi báo cáo với ông ấy việc điều đình về dân sự không đạt được kết quả. Ông Minh tỏ ra bất lực. Ngay sau đó, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền giao cho tôi soạn thảo bản tuyên bố “Chấp nhận điều kiện ngừng bắn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam”. Dự thảo viết xong lúc 16 giờ và ngay sau đó được Phó tổng thống Huyền trình lên tổng thống. Tướng Dương Văn Minh chấp thuận cho ông Huyền công bố bản dự thảo này trên Đài Phát thanh Sài Gòn lúc 17 giờ ngày 29/4/1975.
Sáng ngày 30/4 tôi cùng ông Huyền lên gặp Tổng thống Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu (Thủ tướng) tại số 6 đường Thống Nhất (đường Lê Duẩn ngày nay) để bàn về vấn đề ngưng chiến. Đến 9 giờ, Tổng thống Minh ra một tuyên bố phía Việt Nam Cộng hòa sẽ ngưng tiếng súng, chờ cách mạng tới để giao lại quyền hành.
Đến 11h30 quân giải phóng tiến vào Dinh Độc lập thì lúc bấy giờ nhiệm vụ của tôi cũng chấm dứt nên tôi rời khỏi dinh...” (báo Thể Thao-Văn hóa, 13/04/2015)
Cụ Nguyễn Đình Đầu là một Nhân sỹ Công Giáo nổi tiếng với nhiều công trình nghiên cứu Sử-Địa, đặc biệt về chủ quyền của Việt Nam trên hai Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy cụ đã rời khỏi Dinh Độc lập khi tướng Dương Văn Minh “đầu hàng”, nhưng sau đó Cụ lại tích cực tham gia vào Câu lạc bộ Phaolo Nguyễn Văn Bình, Tổng Giám mục Địa phận Sài Gòn đã qúa vãng, để tiếp tục đối thọai với chính quyền Cộng sản trong tinh thần “sống Phúc Âm giữa lòng Dân tộc”.
Rất tiếc, nỗ lực của Cụ và của các Tu sỹ và Trí thức Công Giáo, dưới quyền Chủ tịch Ủy ban Công lý và Hòa bình của Giáo Hội Cộng giáo Việt Nam, Đức Cha Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh, không được chính quyền Cộng sản đáp ứng. Ngược lại nhà cầm quyền Cộng sản ở Sài Gòn đã ngăn chận một số cuộc Hội thảo về tình hình Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ của Việt Nam ở Biển Đông và những bức xúc xã hội khác do Câu lạc bộ đề xướng.
Công an còn xách nhiễu, dọa nạt những người đến tham dự Các cuộc thảo luận tại Câu lạc bộ, trong đó có Giáo sư Tương Lai, cố Luật sư Lê Hiếu Đằng, Bác sỹ Huỳnh Tấn Mẫm từng là nạn nhân.
Điều này cho thấy trong suốt 40 năm qua, chưa bao giờ Lãnh đạo Cộng sản chịu lắng nghe những lời nói chân thật, thẳng thắn và chí tình của người dân, đặc biệt của các thành phần trí thức và cựu đảng viên cách mạng lão thành trong nước về “hòa giải-hòa hợp” dân tộc để đòan kết trong ngoài xây dựng đất nước.
Vì vậy, khi nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu nói về “con người văn hóa” thì muôn vàn bằng chứng cho thấy sau 40 năm chấm dứt cuộc chiến huynh đệ tương tàn do người Cộng sản chủ mưu gây ra, đảng CSVN vẫn chưa hề có “văn hóa hòa giải”
TỪ NGHỊ QUYẾT 36
Người Cộng sản chỉ muốn người khác phải tự nguyện “hòa hợp” vào guồng máy cai trị độc tài tòan trị của mình. Ai đứng ngoài, ai chống lại đều bị chụp lên đầu chiếc nói cối phản động, phản cách mạng, thế lực thù địch chống đảng, chống nhà nước và nhân dân !
Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị “về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” đã 11 năm tuổi, nhưng những gì đảng nói vẫn “trăm voi không được bát nước xáo”.
Nghị quyết này chủ trương “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc”, nhưng mọi chuyện vẫn anh là anh, tôi là tôi.
Tình trạng phân biệt địa phương Nam-Bắc, kẻ thắng người thua vẫn phủ đầy trong xã hội và trên mọi lĩnh vực từ nơi làm việc đến học đường.
Bằng chứng như hàng ngàn Thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa bị tàn tật vẫn phải lê lết trên đường phố kiếm ăn không được nhà nước mệnh danh “của dân, do dân và vì dân” giúp đỡ khi đau ốm chứ chưa nói đến miếng cơm manh áo.
Chẳng những thế, họ còn bị hất hủi, ngăn chặn không cho nhận giúp đỡ của các Tổ chức Tôn giáo và Dân sự xã hội như đã liên tục xẩy ra ở miền Trung và tại Sài Gòn.
Cách hành sử này không những chỉ thiếu văn hóa và truyền thống dân tộc mà còn chà đạp lên nhân phẩm và quyền con người và vi phạm những Điều quan trọng của Hiến pháp 2013 do chính người Cộng sản viết ra chỉ nhằm tuyên truyền:
Điều 16 :
1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Điều 38 :
1. Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh.
2. Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng.”
Tại sao như thế ? Vì đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục coi những nạn nhân của chiến tranh sống trên lãnh thổ VNCH cũ là những kè thù của chế độ.
Đó là lý do tại sao đảng chưa thể đòan kết được dân trong nước thì làm sao có thể đòan kết với người Việt đã trốn Cộng sản ra nước ngoài ?
Vì vậy, Việt kiều muốn biết những điều sau đây:
-Tại sao Đảng vẫn tiếp tục đàn áp người dân tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lấn biển đảo của Việt Nam ?
-Tại sao người dân bị đàn áp, bị pha phách khi xuống đường đòi được tưởng niệm các chiến sỹ và đồng bào đã hy sinh bảo vệ Tổ quốc ỡ Hòang Sa năm 1974, biên giới Trung-Việt và ở Trường Sa năm 1988 ?
-Tại sao lại đàn áp những người dân đòi đền bù công bằng vì bị cưỡng chế đất đai và tịch thu tài sản cho các công trình xây dựng chỉ có lợi cho phe nhóm là chính ?
-Tại sao các quyền tự do căn bản của dân được Hiến pháp bảo đảm như tự do tôn giáo, tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội và hội họp vẫn còn bị kìm kẹp, hạn chế và kiểm soát ?
-Và do Luật pháp nào cho phép mà Nhà nước được quyền sử dụng côn đồ và công an để hù họa, đàn áp, bắt cóc những người họat động bảo vệ nhân quyền, dân chủ ?
-Căn cứ vào đâu mà Nhà nước được lạm quyền lấy đi công ăn việc làm, cuớp quyền hành nghề và chận đứng mọi cách kiếm sống của những đối tượng đã hết hạn tù chính trị hay đấu tranh đòi các quyền tự do ?
-Lý do nào cho phép nhà nước căn cứ vào lý lịch thuộc gia đình cách mạng, cán bộ và đảng viên để bao che cho những phần tử xấu và không có khả năng được có công ăn việc làm trong khi người có tài nhưng không có tiền “mua việc” thì bị lọai ?
-Ai cho phép nhà nước tiếp tục cướp đất, tài sản và phá bỏ những nơi thờ phượng của các Tôn giáo, đặc biệt của người dân tộc ở những vùng cao và vùng sâu cách xa các Thánh đường, Nhà Chùa ?
- Người dân nào cũng muốn biết tại sao nhà nước lại để cho Trung Quốc tự do biến 7 đá chiếm của Việt Nam ở Trường Sa thành các đảo nhân tạo với sân bay, bến cảng, đồn bót được thiết lập ở đó ?
- Tại sao Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng, chưa hỏi ý kiến Quốc hội mà đã bằng lòng để cho Trung Quốc thiết lập các Đặc khu kinh tế dọc biên giới, khai thác chung dầu khí ở vùng biển “trong” và “ngoài” vịnh Bắc Bộ trong thỏa hiệp ký tại Bắc Kinh ngày 7/4/2015 ?
-Sau cùng ai cho ông Trọng quyền đồng ý nghiên cứu để cho Trung Quốc dùng cảng Hải Phòng phục vụ kế họach vận chuyển hàng hoá có lợi cho Trung Quốc. Kế họach kinh tế của Bắc Kinh được gọi là “Con dường Tơ lụa trên biển”, được Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình công bố năm 2014, nhằm bành trướng cánh tay phát triển và tham vọng kinh tế của Trung Hoa tới Đông Nam Á, Nam Á, Phi Châu,Trung Đông và Châu Âu.
Nếu nhà nước không trả lời được những thắc mắc trên thì hãy ngưng ngay lập tức luận điệu quy chụp Kiều bào như của ông Thứ trưởng Ngọai giao, Chủ nhiệm Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài Vũ Hồng Nam. Ông Nam nói rằng : “Điều đáng buồn là có một bộ phận nhỏ kiều bào ở nước ngoài vẫn còn giữ định kiến, làm những việc đi ngược lại lợi ích của đất nước, dân tộc.” (Tạp chí Qu6e hương, 31/01/2015)
Nhưng ông Nam có hiểu tại sao cái bộ phận lớn chứ không phải nhỏ như ông méo mó cho đẹp lòng đảng vẫn đi biểu tình chống Nhà nước của ông không ?
Đơn giản vì đồng bào của họ ở Việt Nam vẫn phải đối diện với nhựng thắc mắc của Việt kiều nêu trên, nhất là khi quyền làm người của họ đã bị những luật lệ ngoài luồng pháp lý như hai Luật Dân sự và Luật Hình Sự cho phép Công an bắt bớ tùy tiện dựa vào các Điều phản dân chủ 79, 88 và 258.
Ngoài ra cũng nên nhớ người tiền nhiệm của ông là Nguyễn Thanh Sơn, bây giờ là Đại sứ ở Nga, đã nhiều lần vu khống Việt kiều chống đảng, trong đó có chuyện bịa ra việc người đi biểu tình đã được trả tiền để chống Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hồi tháng 7 năm 2013 khi ông Sang đến Tòa Bạch ốc gặp Tổng thống Barack Obama.
Ông Sơn còn kêu gọi phải:” Cần nhanh chóng thu hẹp và đi đến xóa bỏ mọi khoảng cách, sự khác biệt giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước, đấu tranh phân hóa, đập tan mọi luận điệu chia rẽ, xuyên tạc để hơn 90 triệu đồng bào ở trong nước và 4,5 triệu kiều bào ta ở nước ngoài trở thành một khối đại đoàn kết thống nhất, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn thử thách đưa đất nước vững bước đi lên…” (phát biểu tại Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, từ 20-21/5/2014 tại Hà Nội.)
Nhưng đấu tranh với ai và ai đã xuyên tạc những việc làm sai trái, phản dân chủ của đảng CSVN trong mấy năm qua ?
VĂN HOÁ-VĂN NGHỆ NAM-BẮC
Bước sang lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, cán bộ lãnh đạo Tuyên giáo cũng đã xuyên tạc đổi trắng thay đen nền Văn hoá thời VNCH nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày 30-4.
Dưới tiêu đề “Hòa hợp dân tộc bằng con đường văn hóa”, ông Tiến sỹ-Phó giáo sư Nguyễn Thế Kỷ, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương đã nhận xèt hàm hồ về văn hoá-văn nghệ thời VNCH như thế này : “Thực tế cho thấy, hơn 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đất nước ta không chỉ bị chia cắt về địa lý mà đây đó còn bị chia rẽ lòng người. Đặc biệt là trong 20 năm miền Nam dưới chính quyền cũ. Bằng hệ thống tâm lý chiến khổng lồ với nhiều thủ đoạn thâm hiểm, các hoạt động tuyên truyền phục vụ chiến tranh xâm lược và chủ nghĩa thực dân kiểu mới đã được đẩy mạnh, tạo ra một thứ văn hóa nô dịch, đồi truỵ, lôi kéo một bộ phận khá đông thanh niên trong các thành thị chạy theo lối sống gấp, vị kỷ, sa đọa, hòng hủy hoại những giá trị văn hóa dân tộc. Nguy hiểm hơn, họ còn bị đẩy đến niềm tin rằng Việt Nam Cộng hòa là quốc gia riêng biệt, tách rời khỏi nước Việt Nam thống nhất; rằng “giải phóng miền Nam” thực chất là cuộc xâm lược của những người cộng sản miền Bắc.” (báo Thể thao-Văn hoá, 20/02/2015)
Thật trớ trêu, sau ngày 30/4/1975, không biết đã có bao nhiêu trí thức và văn nghệ sỹ miền Bắc đã chạy xô vào Sài Gòn tìm mua sách báo mà Nguyễn Thế Kỷ đã bôi đen để nghiên cứu và tìm hiểu nếp sống văn hoá-văn nghệ phong phú của dân trong Nam.
Vậy nếu muốn so sánh hai nền Văn hoá miền Nam tự do với miền Bắc lai Tầu, lai Nga và sặc mùi đảng từ sau bản án Nhân văn Giai phẩm (1958) ra sao thì hãy hỏi những người còn sống rất giầu vốn liếng văn học-nghệ thuật như các Nhà văn Nguyên Ngọc, Trần Mạnh Hảo, Tiêu Dao Bảo Cự, Nhà biên sử Nguyễn Nhã và Nhà nghiên cứu cụ Nguyễn Đình Đầu v.v… để so sánh, chả cần phải đi đâu xa.
Hoặc muốn cẩn thận hơn thì hãy đến thắp hương trước mộ hai Nhà Thơ Mầu Tím Hoa Sim Hữu Loan và Thi sỹ Hòang Cầm để hỏi thêm cho đủ.
Hơn nữa, ông tuyên giáo Nguyễn Thế Kỷ cũng nên đọc lại phê bình gay gắt của Nghị quyết Trung ương 5 khóa đảng VIII thời Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu để thấy nền văn nghệ đảng kiểm soát đã “siêu việt” ra sao.
Nghị quyết phê phán: “Đời sống vǎn học, nghệ thuật còn những mặt bất cập. Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao tương xứng với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc và thành quả của đổi mới. Trong sáng tác và lý luận, phê bình, có lúc đã nảy sinh khuynh hướng phủ nhận thành tựu vǎn học cách mạng và kháng chiến, đối lập vǎn nghệ với chính trị, nhìn xã hội với thái độ bi quan. Một vài tác phẩm viết về kháng chiến đã không phân biệt chiến tranh chính nghĩa với chiến tranh phi nghĩa. Xu hướng "thương mại hóa", chiều theo những thị hiếu thấp kém, làm cho chức nǎng giáo dục tư tưởng và thẩm mỹ của vǎn học, nghệ thuật bị suy giảm.
Nghị quyết 04 của Trung ương (khóa VII) về vǎn hóa - vǎn nghệ được đại bộ phận vǎn nghệ sĩ đồng tình. Một số có nhận thức lệch lạc đã trở lại với cái đúng; các khuynh hướng xấu từng bước bị đẩy lùi. Tuy vậy, một số quan điểm sai trái vẫn xuất hiện. Các loại vǎn hóa phẩm độc hại vẫn còn xâm nhập vào xã hội và các gia đình. Nhiều cơ sở in, quảng cáo, quán ǎn, khách sạn, sàn nhảy mở tràn lan, chạy theo đồng tiền, hoạt động tùy tiện, không tuân thủ những quy định của pháp luật; các cơ quan quản lý nhà nước không có biện pháp hữu hiệu để xử lý.”
Tiềm lực đội ngũ sáng tác, nghiên cứu, lý luận, phê bình về vǎn học nghệ thuật còn yếu….Một số ngành nghệ thuật như điện ảnh, sân khấu, đặc biệt là sân khấu truyền thống gặp rất nhiều khó khǎn. Việc giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu nghệ thuật cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng, học sinh chưa được coi trọng….Về thông tin đại chúng, còn nhiều sản phẩm chất lượng thấp, chưa kịp thời phát hiện và lý giải những vấn đề lớn do cuộc sống đặt ra. Báo chí chưa biểu dương đúng mức những điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực, cũng như thiếu sự phê phán kịp thời những việc làm trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đạo đức xã hội….Khuynh hướng "thương mại hóa", lạm dụng quảng cáo để thu lợi còn khá phổ biến. Một số ít nhà báo đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông tin thiếu trung thực, gây tác động xấu đến dư luận xã hội, nhưng chưa được xử lý kịp thời theo pháp luật….”
Những điểm bất cập của giới Văn nghệ sỹ và báo chí từ thời đảng VIII đến nay (Khóa đảng XI) đã ngót 20 năm có khá hơn không thì các ông Lãnh đạo trong các Tổ chức Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền Thông, Hội Nhà văn và Hội Nhà báo phải có câu trả lời cho ông Nguyễn Thế Kỷ.
Tiếc rằng việc “uốn lưỡi 7 lần trước khi nói” ít khi được các viên chức đảng thực tập nên chuyện đảng hoà giải với ai và hòa hợp cái gì sau 40 năm ngày 30 tháng 04 năm 1975 không còn hấp dẫn được ai nữa. -/-
Phạm Trần
- Viết bởi Pv.VRNs Ảnh: Phạm Đức Hiệp
VRNs (16.04.2015) – Chúng tôi vượt đường dài và vượt cả những con phà nhỏ để tìm đến nhà ông TPB Võ Văn Ưu, SN 1949, 66 tuổi, Sư Đoàn 9 Bộ Binh. Ông đạp phải mìn bị cụt mất hai chân vào tháng 4/1974, lúc đó có hai người con. Sau này thêm được 5 người con nữa. Hiện nay, ông bà đang sống với người con út, những người con khác đi thành phố làm ăn.
Mái nhà ông bà làm bằng ngói đã bị mục nát, vào mùa mưa nước dột đầy trong nhà. Chúng tôi đề nghị thay mái nhà mới cho ông. Ông cũng muốn có một chiếc xe lắc để đi bán vé số vì chiếc xe cũ của ông đã hỏng không thể đi được nữa. Chúng tôi vui mừng vì đã có thể thay mái nhà mới cho ông như hình ảnh kèm theo đây. Và người con trai đã lên Sài Gòn nhận chiếc xe lắc.
Cũng trong tỉnh An Giang, chúng tôi đến thăm ông TPB Phạm Thiện Hửng, SN 1936, 79 tuổi. Ông bị thương vào năm 1969 và mang nhiều thương tật trên cơ thể. Gia đình ông sống trong một ngôi nhà được che bằng những tấm tôn dột nát. Gia đình ông những người con đã trưởng thành đóng góp nâng đỡ hai ông bà sống tuổi già. Ông Hửng chia sẻ: “Thay mặt gia đình tôi xin cám ơn quý ân nhân, không biết lấy chi đền đáp. Cũng mong mọi người sống lâu để lo cho anh em chúng tôi.”
Sau khi chúng tôi trở về thành phố và qua một người bạn TPB khác, chúng tôi được tin ông TPB Phạm Thiện Hửng bị an ninh huyện Phú Tân mời ra trụ sở công an ấp Thượng 1 làm việc và cấm ông không được lên Sài Gòn tham gia ngày họp mặt TPB VNCH do Phòng Công lý-Hòa bình DCCT Sài Gòn tổ chức. Chúng tôi đã xác minh lại thông tin trên và được ông Hửng xác nhận có việc an ninh huyện triệu tập ông và ra lệnh miệng một cách vô lý cho ông.
Về tỉnh Đồng Tháp, chúng tôi đến thăm một người TPB trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt. Ông bị thương vào năm 1974, bị trúng đạn khiến ông bị mù hai mắt, một chân bị gẫy 3 khúc, một chân bị gẫy 4 khúc, bể xương hàm, đứt dây chằng, ruột bị đứt 13 khúc và bị thương nhiều nơi khác. Hiện nay, vết thương ở ruột do không được chăm sóc nên bụng ông bị xẻ ra làm đôi. Sau ngày bị thương không liên lạc được với ai, chỉ được gia đình nuôi dưỡng. Sống chung với em trai và bố già 92 tuổi, ông già bị mù hai mắt, ngày trước đi lính Pháp. Ông bị địa phương hù dọa gắt gao, nên mặc dầu vui khi chúng tôi đến thăm nhưng rất sợ và xin không công khai danh tánh. Ngôi nhà ông sống cùng với cha già 92 tuổi, mái tôn rất nóng nẩy, chúng tôi đề nghị đóng trần nhà cho ông. Rất vui mừng chỉ sau một tuần lễ, chúng tôi đã hoàn thành công việc này.
Ông mong muốn có một cái radio để nghe thông tin từ đài Chân Lý Á Châu. Khi hỏi tại sao lại là đài Chân lý Á châu (Đài Phát thanh của các Hội đồng Giám mục Châu á, có kênh tiếng Việt). Ông chia sẻ, khi bị thương trong 22 ngày hôn mê, tôi kêu nhiều người hỗ trợ tinh thần cho tôi nhưng không ai giúp, tôi đã kêu cầu đến Chúa và Chúa đã giúp tôi. Từ đó, tôi theo Đạo, tôi được thanh tẩy tại Tổng y viện Cộng Hòa. Tên thánh ông là Phêrô. Cha Vinhsơn Phạm Trung Thành xúc động, tháo cởi cây Thánh Giá đang đeo rồi trao tặng cho ông.
Rời căn nhà nóng hầm của người TPB có hoàn cảnh bi đát, chúng tôi đến thăm người TPB cuối cùng trong chuyến đi về miền Tây lần này.
Ông TPB Đỗ Văn Quận, SN 1942, 73 tuổi, Địa Phương Quân. Ông bị thương vào năm 1973, bị cụt hai chân. Hai vợ chồng ông ly dị từ lâu. Có ba người con nhưng đều đi làm ở xa, ba hoặc bốn năm mới về thăm ông một lần. Hằng ngày ông đi bán vé số ở trên huyện, cách nhà khoảng mười mấy cây số. Cơm nước tự lo liệu một mình. Do bị cụt hai chân, đi lại khó khăn nên không đi xa được. Khi nghe tin chúng tôi đến thăm, ông đã vội vàng thu xếp công việc, nghỉ bán sớm để về tiếp chúng tôi. Khi quay trở ra nhớ lại những gì ông nói về việc bán vé số, những cung đường ông đi mỗi ngày, nhìn những cung đường ấy chúng tôi mới mường tượng ra những khó khăn mà ông phải vượt qua mỗi ngày để mưu sinh. Đồng tiền nhỏ nhoi ông kiếm được sao mà khó khăn thế, nhưng sao lại vẫn có những đồng tiền ném qua cửa sổ một cách bất nhân.
Con đường đi đến nhà ông rất là khó khăn, may mắn ông sống lọt thỏm giữa một khu xóm lao động và bà con lại rất chân tình với nhau, đặc biệt với ông. Đón chúng tôi mãi ngoài đầu ruộng, họ dẫn chúng tôi đi qua những bờ ruộng chênh vênh, ngoằn ngoèo qua những khu xóm nghèo và bước vào một căn nhà của ông, một căn nhà mà tất cả những mái giao nhau khiến ánh sáng lọt vào nhà trên giữa ban trưa chỉ là những ánh sáng yếu ớt. May mà phía sau nhà là một con kênh những tấm ván ọp ẹp hở trước hở sau đã mang một bầu khí mát nhẹ nhàng vào trong nhà.
Chúng tôi nhìn thấy chiếc xe lắc của ông đã cũ nhưng ông từ chối không nhận chiếc xe lắc mới bởi vì ông nói rằng xe tuy cũ nhưng chạy vẫn tốt lắm. Cái nhà của ông làm từ 1997, gần hai mươi năm nên cái mái đã bị hư hỏng vào mùa mưa bị dột nhiều lắm. Mỗi lần ốm đau thì có các cháu ở bên cạnh chạy qua giúp đỡ. Sức khỏe bây giờ cũng yếu rồi, không biết còn lăn nổi cái xe đi bán vé số hay không nữa, sống ngày nào biết ngày đấy.
Vì khá mệt mỏi nên chúng tôi gọi cà phê từ một quán cóc của xóm nghèo gần đấy. Cà phê miệt vườn so với các loại cà phê có thương hiệu cách nhau một trời một vực, tuy nhiên khi chia tay chúng tôi đã phải giằng co với ông về việc trả tiền cà phê, ông nhất định không cho ‘bọn nhỏ’ nhận tiền chúng tôi, cuối cùng chúng tôi phải áp lực họ mới nhận tiền.
Khi nói chuyện với nhau, ông Quận cho biết, gần nhà ông có một người bị khuyết tật nữa do chiến tranh nhưng ông không dám giúp người ấy làm hồ sơ gửi cho chúng tôi, vì người ấy là cán bộ thuộc lực lượng Xây dựng Nông thôn trước 1975. Chúng tôi nghĩ, người ấy tuy không thuộc Quân lực VNCH nhưng cũng là một người đã tham gia vào việc bảo vệ và xây dựng Miền Nam Việt Nam đã cống hiến, đã hy sinh và cũng đã cùng chịu mất mát suốt hơn 40 năm qua. Chúng tôi ngỏ ý muốn gặp, ông còn bảo con cháu trong xóm đi chở ‘Năm Đen đến đây’.
Ông ‘Năm Đen’ tên thật là Nguyễn Hữu An, SN 1947, 68 tuổi. Ông bị thương vào năm 1970, tại Ba Càng, bị mù một con mắt và có nhiều vết thương trên cơ thể. Sau này, con mắt còn lại bị viêm nặng nên cũng mờ luôn, không còn nhìn thấy đường để đi nữa. Hiện nay, vợ chồng ông vẫn thuê nhà ở, con cái đi làm ăn ở xa. Chúng tôi tiếp nhận tên và hồ sơ của ông để bổ sung vào danh sách của chương trình, cũng như ông Quận chúng tôi gửi lại cho ông ‘Năm Đen’ một món quà chia sẻ những khó khăn mà ông đã gánh chịu.
Hành trình đi thăm những người TPB VNCH có hoàn cảnh khó khăn vào Mùa Chay 2015, nhưng chương trình dành cho những người này sẽ vẫn còn được tiếp tục trong thời gian tới, vì vẫn còn những người TPB VNCH sống trong những hoàn cảnh khó khăn mà chúng tôi chưa tìm ra hết. Chúng tôi sẽ tiếp tục chia sẻ thông tin đến quý vị trong những lần thăm viếng sắp tới. Để việc truyền thông được bảo toàn và tăng hiệu lực, cùng với website chuacuuthe.com chúng tôi cũng đăng tải các thông tin chính thức của chương trình ‘Tri Ân Anh – TPB VNCH’ tại Fanpage TRI ÂN TPB VNCH.
Pv.VRNs
- Viết bởi Đức Thiện, VRNs tổng hợp
VRNs (15.4.2015) – Sài Gòn Các gia đình bị cưỡng chế đất ngày hôm qua, 14.4, tại Long An nói, chính quyền địa phương chỉ đền bù 300.000đ/m2 trong khi đất ở khu vực gần kề được rao bán trên 20 triệu/m2.
Theo tờ Thanh Niên, cơ quan chức năng đã tạm giữ 7 người để xử lý ‘hành vi chống người thi hành công vụ’, sau khi 3 hộ dân ở Long An ném axít vào lực lượng cưỡng chế đất hôm 14/4 khiến một người bị bỏng nặng và nhiều người bị thương.
Ông Lê Văn Hoàng – giám đốc Sở NN&PTNT Long An – được tờ Tuổi Trẻ dẫn lời cho biết, những người kể trên thuộc những hộ dân không đồng ý mức giá bồi thường trong dự án bờ kè sông Vàm Cỏ Tây (thuộc huyện Thạnh Hóa, Long An).
Tuy nhiên, bà Mai Thị Kim Hương – một hộ dân ảnh hưởng – cáo buộc chính quyền đã ban hành quyết định cưỡng chế đất với lý do ngụy tạo.
Bà Hương nói: “Quyết định thu hồi đất lấy lý do nhà tôi tiếp giáp với đê bao chống lũ của thị trấn Thạnh Hóa, nhưng thực ra nhà tôi tiếp giáp khu thương mại thị trấn huyện Thạnh Hóa tỉnh Long An.”
Bà Nguyễn Thị Nhâm, một hộ khác cũng cho biết, “Nhà tôi giáp mặt chợ luôn nhưng họ nói tiếp giáp đầu đê bao chống lũ. Nhưng ở đây giáp với chợ chứ không giáp với đê bao gì hết trơn.”
Bà Nhâm còn cho biết, chính quyền bồi thường cho gia đình bà 300.000đ/m2 trong khi đất ở khu vực cách đó khoảng 200 – 300m được rao bán trên 20 triệu/m2.
Bà Nhâm nói tiếp, “trên 20 triệu/m2 mà ở mặt trong, chứ không được mặt tiền như mình. Đó là bán thẳng chứ còn đấu giá thì còn hơn nữa. Họ bán đấu giá [nền đất của chúng tôi] ra 800 triệu hoặc 1 tỷ, trong khi tôi chỉ được bồi thường trên 90 triệu.”
Tờ Tuổi Trẻ dẫn thông tin từ Bệnh viện Thạnh Hóa (Long An) cho biết, có 20 người trong lực lượng cưỡng chế bị tấn công, trong đó có 2 người bị thương tích bởi dao đâm và 18 người bỏng do trúng phải axit. Trung tá Nguyễn Văn Thủy bị bỏng axít nặng phải chuyển lên Bệnh viện Chợ Rẫy (TP.HCM) điều trị.
Lực lượng chức năng sau đó đã tạm giữ những người phản kháng gồm ông Nguyễn Trung Can, Nguyễn Trung Tài, Nguyễn Trung Linh, Nguyễn Văn Tôi bà Mai Thị Thu Hương, Nguyễn Mai Trung Tuấn, Phùng Văn Leo, Phùng Thị Ly và một số người khác.
Bạn đọc Hoang tờ Tuổi Trẻ đặt câu hỏi, liệu chính quyền ‘có làm thoả đáng cho người bị mất đất không?’
Bạn đọc Lee nhận định: “Nếu có thể hãy tìm hiểu nguyên nhân của sự va chạm này. Dân mình hiền lắm. Phải làm sao mới nên nông nổi!”
Bạn đọc Lam thì cho rằng: “Để người dân và công an đối đầu với nhau trong đó có lỗi của nhà quản lý. Người dân có thể đúng hoặc sai, người công an chỉ biết thi hành quyết định, nhưng người quản lý có thể điều khiển được câu chuyện nên xảy ra theo hướng nào.”
Đức Thiện, VRNs tổng hợp