GNsP(19.06.2015) – Washington DC, USA – Đại hội đảng XII chỉ còn 6 tháng để chuẩn bị nhưng Lãnh đạo của 3 ngành Tuyên giáo, Quân đội và Công an đã mất ăn mất ngủ với cơn ác mộng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” của cán bộ, đảng viên đang đe dọa chôn đảng xuống bùn đen.
Nguy cơ này không mới. Đảng đã công khai thừa nhận tại Đại hội XI năm 2011. Hồi ấy đảng viết: “Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có những diễn biến phức tạp” (Trích Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng).
Nhưng nhắc lại khẩn trương hơn sau bốn năm rưỡi và qua 11 kỳ Hội nghị Trung ương lần nào cũng nói đến công tác xây dựng đảng là chuyện không còn bình thường nữa.
Đại tá, PGS, TS Nguyễn Mạnh Hưởng, Viện Khoa học Xã hội Nhân văn Quân sự – Bộ Quốc phòng đã cảnh giác: “Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên hiện nay thực sự là một vấn đề cấp bách liên quan trực tiếp đến sự sống còn của Đảng và chế độ” (Trích báo Công an Nhân dân, 09/02/2015) Nhưng tại sao lại đến độ “cấp bách” và phải làm gì để chận đứng nguy cơ này thì không thấy ông Hưởng đề ra sáng kiến mới hơn những điều ai cũng đã “nghe rồi khổ lắm nói mãi”.
Đó là chuyện đảng chỉ biết đổ hết lên đầu “các thế lực thù địch “ Không từ bỏ âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng”, như ghi trong Nghị quyết số 12-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần 4 năm 2012.
Nhưng “thế lực thù địch” là ai, hay đảng đã nuôi ong tay áo ?
Ai đã có thể làm cho cán bộ đảng vên suy thoái tư tưởng, mất đạo đức cách mạng lan nhanh trong nội bộ sau 30 năm đổi mới là câu hỏi đang khiến lãnh đạo điên đầu nhưng dân thì không.
Người dân, nạn nhân hàng ngày của quan tham, bất công và của cường quyền, biết rất rõ tại sao đã có “một số không nhỏ cán bộ, đảng viên” không còn tin vào đảng và đang bất mãn với chế độ. Dân đã nghe đảng lên án và kêu gọi chống “chủ nghĩa cá nhân” và “lợi ích nhóm” nhiều lần, nhưng những kẻ có chức có quyền và cầm cân nẩy mực vẫn mũ ni che tai để làm giầu trên mồ hôi nước mắt của dân và đảng viên thấp cổ bé miệng thì ai còn tin đảng ? Bằng chứng như khẩu hiệu tuyên truyền “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, trong đó có tiêu chí cán bộ phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, hay “dân là chủ, Đảng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân” đã vô nghĩa trước quốc nạn tham nhũng.
Nhưng ông Nguyễn Mạnh Hưởng vẫn mơ hồ coi công tác chống tham nhũng trong cán bộ, đảng viên là chiếc đũa thần có thể cứu đảng thoát cơn hồng thủy tự diệt.
Ông nói: “Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Có khắc phục hiệu quả tình trạng quan liêu, tham nhũng, suy thoái thì mới làm cho đảng viên và cơ thể Đảng được khoẻ mạnh hơn, có sức đề kháng cao hơn và điều đó đã là ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Ban Chấp hành khoá XI đã thất bại với những cam kết đề ra trong Nghị quyết Trung ương 4.
Bằng chứng đảng bó tay trước tham nhũng và suy thoái tư tưởng trong hàng ngủ đảng viên đang đe dọa sống còn của đảng chỉ còn là thời gian. Vì vậy ông Hưởng đã cảnh báo: “Tình hình đã thúc bách chúng ta phải kiên quyết hơn nữa trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.”
Nhưng liệu có còn kịp không ?
Bởi vì chỉ 2 tháng sau ông Nguyễn Mạnh Hưởng, Ban Nội chính Trung ương –cơ quan giúp đảng chống Tham nhũng– đã phổ biến thêm bài viết của Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ,Nhà giáo ưu tú Nguyễn Bá Dương (Viện trưởng Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự – Bộ Quốc phòng).
Ông Dương mở đầu: “Tham nhũng ở nước ta hiện nay rất phức tạp, biểu hiện của nó muôn hình, muôn vẻ với nhiều sắc thái, loại hình khác nhau; mức độ, phạm vi và hậu quả khôn lường. Biểu hiện của tham nhũng tập trung ở các quan chức, công chức trong bộ máy công quyền của Đảng, Nhà nước; thậm chí tham nhũng có cả trong lĩnh vực tư pháp, trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.”
Như vậy thì ở Việt Nam có chỗ nào không có tham nhũng ? Khi nói đến “quan chức” thì cũng phải hiểu bao gồm cả các Đại biểu Quốc hội vì hầu hết họ là đảng viên có chức có quyền trong hệ thống cai trị từ thành phố về thôn quê. Chưa bao giờ thấy có Đại biểu Quốc hội nào phát giác ra các vụ tham nhũng, hay can đảm đi điều tra tố cáo cán bộ, đảng viên tham nhũng.
THAM NHŨNG SỐNG VỚI ĐẢNG
Vậy tham nhũng tinh vi ra sao mà Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của nước không nhìn thấy ?
Ông Dương vạch ra cho mọi người biết:”Mức độ tham nhũng cũng rất khác nhau, có tham nhũng nhỏ, tham nhũng vặt như sự sách nhiễu, gây phiền hà cho người dân hoặc cố tình dây dưa, loanh quanh, buộc người dân muốn nhanh, được việc thì phải bỏ tiền ra “nhờ giúp đỡ”. Việc làm này thường là chuyện “bé xé ra to”, bắt bẻ người dân “chưa đủ thủ tục hành chính” kiểu hành dân. Vì vậy, người dân muốn xong việc, đỡ mất công, khỏi phải đi lại nhiều lần, tốn công sức, mệt nhọc thì “cách tốt nhất” là bôi trơn bằng cách đưa “phong bì” cho xong chuyện.”
Một người làm việc ở Bộ Quốc phòng mà còn biết rạch ròi các mánh khoé moi tiền của dân như thế mà Ban Chỉ đạo phòng, chống Tham nhũng của Bộ Chính trị do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trường ban không dẹp được thì kể cũng lạ !
Còn nhớ năm 2013, ông Trọng từng nói với cử tri Hà Nội rằng ông cũng:”Sốt ruột, bức xúc lắm.”
Ông bảo: “Không phải bây giờ mà mấy năm trước Đảng đã gọi đây là quốc nạn, giặc nội xâm, quyền lực lớn mà không kiểm soát dễ sinh hư hỏng, tham nhũng…lãng phí cũng ghê gớm, có khi còn hơn tham nhũng, về thời gian, công sức, tiền bạc…Cái gì cũng phải tiền, không tiền không trôi, như ngứa ghẻ phải gãi rất khó chịu.” (theo ViệtnamNet 27/09/2013)
Phó Chủ tịch nước, Bà Nguyễn Thị Doan đã có lần nói các quan tham đã “ăn của dân không từ cái gì”. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng thắc mắc: “ Tiền ăn, chơi, chạy chạy không phải từ tham nhũng thì từ đâu ?”
Như vậy là lãnh đạo đảng cũng biết, nhưng tại sao không hành động mà để cho tham nhũng cứ tự do leo lên đầu đảng thì có Trời mà biết !
Ngay cả chuyện chạy chức, chạy quyền trong đảng và nhà nước cũng đã được nói nhiều trong các kỳ Đại hội đảng hay tại các kỳ Hội nghị của Trung ương nhưng chuhyện đâu vẫn còn đó.
Vì vậy, Đại tá Dương mới nói cho cả nước biết: “Đáng chú ý, các vụ việc tham nhũng xảy ra ở lĩnh vực cất nhắc, đề bạt, bổ nhiệm chức vụ, thuyên chuyển công tác. Đây là những loại hình rất khó kiểm soát, phát hiện. Hành vi này thường diễn ra “kín đáo” với sự “thông đồng”, ngầm hiểu “tiền nào của ấy”, “được việc người, được việc ta”, trở thành luật bất thành văn, thường được coi là một quy định ngầm, phổ biến diễn ra qua khâu trung gian, có người môi giới, “bắn tin”, “làm cò mồi”, kiểu “rung chà cá nhảy” hoặc trực tiếp giao dịch, thỏa thuận theo nguyên tắc các bên cùng có lợi. Người chạy chức, chạy ghế thường làm khâu “ứng trước” để sau khi có chức vụ thì thu hồi sau.”
Các ngón đòn tham nhũng lớn của các phe phái trong đảng, hay còn được gọi là “lợi ích nhóm” đã bộc lộ cao trong mấy năm qua trong nhiều lĩnh vực nhưng khó phanh phui vì các thế lực đã bao che, bảo vệ nhau để cùng có lợi.
Ông Dương vạch ra: “Một trong những biểu hiện của tham nhũng lớn là tham nhũng nhóm, lợi ích nhóm với những hành vi trục lợi cực lớn thông qua làm ăn theo kiểu “đánh quả”, “một vốn bốn mươi lời”. Đây là hình thức tham nhũng có tổ chức, có người đứng ra làm “đầu nậu”, chủ mưu, thao túng các tổ chức, một số người có quyền cao, chức trọng và nó thường diễn ra ở các hoạt động dự án, đầu tư, đất đai, tài chính, ngân hàng, xây dựng cơ bản, xuất nhập khẩu, xây dựng đô thị, v.v… Đây là điều giải thích tại sao nhiều vụ khiếu kiện tập thể kéo dài, vượt cấp, rất khó điều tra, chưa thể giải quyết dứt điểm.”
Biết rất rõ như thế mà ông Dương có làm được gì cho xã hội không ?
Tất nhiên là không vì cuối cùng, Đại tá Dương cũng chỉ đề ra giải pháp đã thất bại trong nhiều năm.
Ông viết: “ Một trong những giải pháp hữu hiệu để phòng, chống Tham nhũng là ngăn chặn, đẩy lùi bệnh cá nhân chủ nghĩa, giữ nghiêm kỷ luật Đảng, thực hiện tốt pháp luật của Nhà nước, đề cao tự phê bình và phê bình. Muốn vậy, phải duy trì thường xuyên chế độ sinh hoạt Đảng và thực hiện việc nghiêm túc công tác tự phê bình và phê bình, đi đôi với nó là công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Bởi lẽ, cán bộ tốt hay xấu chủ yếu là do công tác giáo dục trong Đảng tạo nên. Giáo dục trong Đảng bao hàm cả giáo dục kiến thức, tri thức, giáo dục đạo đức, nhân cách người cách mạng mà trước hết là giáo dục đạo làm người.”
Tất cả những ý kiến của Đại tá Dương đã được đảng thi hành từ khoá đảng VIII thời Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu. Từ ông Phiêu sang ông Nông Đức Mạnh và đến ông Trọng là 20 năm mà tham nhũng vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt” thì phải biết đảng chỉ biết nói mà không làm được gì cho ích quốc lợi dân.
QUÂN ĐỘI-CÔNG AN
Chính vì vậy mà không những chí có dân mà bây giờ đến lượt nhiều Bộ đội và lực lượng Công an cũng đã chán đảng, không còn tin vào những lời hứa suông của lãnh đạo nữa.
Những bất công xã hội, tình trạng chênh lệch giầu nghèo giữa thành phố và nông thôn mỗi ngày một giãn ra. Nền kinh tế gọi là “thị trường” còn giở hơi theo “định hướng xã hội chủ nghĩa” tiếp tục hãm dân trong vũng bùn chậm tiến để lạc hậu hơn các nước trong khu vực.
Nhân dân, một bộ phận lớn trong Quân đội và Công an cũng đã chán Chủ nghĩa thoái trào Cộng sản Mac-Lênin đến tận mang tai mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thì cứ bắt mọi người phải “tuyệt đối trung thành” với nó thì dân chưa lôi ông ra giữa chợ mà đôi co là may.
Bên cạnh đó còn là tình trạng Đảng cứ để mất dần biển đảo vào tay Trung Quốc. Quân đội và lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam cũng bất lực để cho các tầu Trung Quốc, ngụy trang Hải giám, tự do tấn công, cướp tài sản của thuyền cá Việt Nam đánh bắt ở vùng Hòang Sa, đôi khi cả ở Trường Sa, mà đảng thì cứ cúi đầu vâng theo lời nguyền ”vừa là đồng chí vừa là anh em” thì dân chịu đựng được bao lâu nữa?
Đó là những tín hiệu đang làm cho các cấp chỉ huy Quân đội và Công an lo âu nên từ 4 tháng qua đảng đã phát động một chiến dịch chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá” ngay trong nội bộ vào thời điểm tổ chức Đại hội đảng địa phương và đơn vị để tiến tới Đại hội đảng vào tháng 01/2016.
Tất cả các đơn vị Quân đội và Công an đều được lệnh học tập trung thành, bảo vệ đảng. Các biện pháp chống “diễn biến hòa bình” và học tập ngăn chặn phản tuyên truyền trong các tổ chức đảng tại đơn vị cũng đang ráo riết hoạt động.
Quân đội còn ra lệnh theo dõi tư tưởng binh lính và phải phê bình và chỉnh đốn ngay nếu có biến chứng. Đồng thời ra lệnh ngăn chặn bộ đội đọc tin ngoài luồng, chỉ theo dõi và truy cập thông tin chính thống từ báo Quân đội Nhân dân và của nhà nước.
Cả hai lực lượng Quân đội và Công an cũng được lệch chống các quan điểm sai trái chống đảng, chống chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tường Hồ Chí Minh.
Hai cơ quan Tuyên giáo của đảng và Tổng cục Chính trị quân đội còn phổ biến các bài viết tuyên truyền chống tư nhân hoá kinh tế và chống luôn cả những đòi hỏi dân chủ, tự do, nhất là tự do báo chí và nhân quyền. Các tác gỉa “dư luận viên” này đã gọi những người trong nước khuyên đảng từ bỏ chế độ Cộng sản là “những kẻ cơ hội”, hùa theo “các thế lực thù địch” ở bên ngoài để thực hiện “diễn biến hòa bình”, làm suy yếu đảng.
Vì vậy Thiếu tướng Nguyễn Xuân Nghi, Chánh Văn phòng Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam đã viết một bài báo phổ biến, trong đó ông yêu cầu:” Để phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận CBĐV quân đội, trước hết cần tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, sự chỉ đạo, quản lý của chỉ huy, chính ủy, chính trị viên đối với vấn đề này. Đây là giải pháp cơ bản nhất, giữ vai trò quyết định đến hiệu quả phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Bởi vì cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên có nhiệm vụ trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện CBĐV thuộc quyền.
Trong đơn vị quân đội, nếu cấp ủy, tổ chức đảng và các đối tượng trên phát huy tốt vị trí, vai trò, trách nhiệm trên mọi mặt hoạt động của đơn vị; nắm chắc và dự báo đúng tư tưởng của CBĐV; kịp thời phát hiện, kiên quyết lãnh đạo, tổ chức thực hiện tốt việc đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, trái với bản chất, truyền thống quân đội, những dấu hiệu suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống… của CBĐV thuộc quyền, thì các thế lực thù địch khó có thể lợi dụng để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đơn vị và nội bộ quân đội.” (theo báo diện tử Tỉnh Bắc Giang)
Với những diễn biến của tình trạng suy thoái tư tưởng của đảng viên ngày thêm phức tạp, nhất là trong quân đội và Công an, được công khai nêu lên trước Đại hội đảng XII không chỉ là điều bất thường vì chưa có tiền lệ mà còn là một chỉ dấu xấu cho tương lai chính trị của đảng.
Tôi có mặt cùng quý vị trong một chiến dịch vận động cho tù nhân lương tâm Việt Nam, cùng với hai người bạn đồng hành, ông Trương Minh Tam, cựu tù nhân lương tâm và ông Nguyễn Văn Lợi, thân phụ của TNLT Nguyễn Đặng Minh Mẫn.
Thưa quý vị, tôi là một mục sư của Hội Thánh Mennonite và đại diện Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam đến đây vì những người bạn, đồng đạo và tín đồ của chúng tôi bị đàn áp chỉ vì bày tỏ đức tin.
Trước khi đi, tôi được biết, khi Chùa Liên Trì của Thầy Thích Không Tánh đứng trước nguy cơ bị sang bằng, công an đã hâm dọa rằng “Sau khi vào TPP rồi, họ sẽ sang bằng Chùa Liên Trì”. Và nay tôi đến Hoa Kỳ trong một thời điểm hết sức quan trọng của tiến trình đàm phán TPP và tôi muốn mang kinh nghiệm và kiến thức của mình để cập nhập Quốc Hội Hoa Kỳ về hiện trạng tự do tôn giáo tại Việt Nam:
Hội Thánh Chuồng Bò là một điển hình của sự đàn áp đối với các tôn giáo không chấp nhận nhà cầm quyền CSVN can thiệp vào nội bộ. Hội thánh của chúng tôi có 100 tín đồ và 5 lớp học tình thương cho trẻ con nghèo. Vì không muốn chúng tôi làm việc từ thiện, nhà cầm quyền CSVN đã cưỡng chiếm buộc chúng tôi phải đi mượn một cái chuồng bò tồi tàn bỏ hoang để làm nơi thờ phượng Chúa.
Trong suốt 8 năm nay, từ ngày về chuồng bò, nhà nước Việt Nam vẫn luôn tìm cách tiêu diệt chúng tôi. Có một lần khi Hội Thánh đang làm lễ thì tôi được báo công an đến kiểm tra và khi tôi từ trên lầu đi xuống thì bị côn đồ nhảy vào bóp cổ và đè tôi xuống đất để công an bước qua người tôi lên phòng làm lễ để giải tán buổi lễ. Một lần khác họ dùng côn đồ đến Hội Thánh đập phá tan nát các đồ dùng sinh hoạt trong nhà tôi và hâm giết vợ chồng và đứa con trai tôi.
Thậm chí họ dùng côn đồ hoặc đánh đập dã man đồng đào của tôi như mục sư Nguyễn Hồng Quang. Ngoài ra họ dùng biện pháp cầm tù các bạn tôi như linh mục Nguyễn Văn Lý, Mục sư Dương Kim Khải và Mục sư Nguyễn Công Chính. Dù họ dùng mọi hình thức khủng bố thể xác, tinh thần cũng như kinh tế, nhưng chúng tôi không lùi bước.
Đối với các tôn giáo bạn của tôi, các vấn đề cấp bách nhất gần đây, xin quý vị quan tâm như:
• Cao Đài Chơn Truyền và Phật Giáo Hòa Hảo Thuần Tuý bị tịch thu nhiều thánh thất, như thánh thất Tuy an tại Phú Yên, cấm cản tín đồ tham gia vào lễ lớn.
• Công Giáo bị cấm cản không cho giám mục Hoàng Đức Oanh phong phẩm các tu sinh và sắp tới đây họ chuẩn bị cưỡng chiếm 22 nhà thờ của các tín đồ dân tộc thiểu số ở Gia Lai, Kontum. Một vấn đề Hội Đồng Liên Tôn quan ngại và phản đối, đó là Dự Luật Tín Ngưỡng Tôn Giáo sắp được nhà nước Việt Nam ban hành nhằm gia tăng kiểm soát tôn giáo và xiết chặt tự do tín ngưỡng.
Để đối phó với các thủ đoạn trên, 5 tôn giáo lớn đã liên kết thành lập Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam. Với tiếng nói chung, chúng tôi thường xuyên lên tiếng bênh vực các tôn giáo, các tù nhân lương tâm và thực hiện các công tác từ thiện.
Đứng trước những sự kiện như kỷ niệm 20 năm bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, cuộc đàm phán TPP cũng như chuyến viếng thăm Hòa Kỳ của Tổng Bí Thư CSVN, ông Nguyễn Phú Trọng, tôi mong chính phủ Hoa Kỳ:
• Kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do cho các tù nhân lương tâm, đặc biệt là các lãnh đạo tôn giáo như LM Nguyễn Văn Lý, MS Dương Kim Khải và MS Nguyễn Công Chính.
• Yêu cầu Sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội thường xuyên viếng thăm các tù nhân chính trị. Tôi kêu gọi sự quan tâm cấp bách đến trường hợp của blogger Đặng Xuân Diệu, TNLT Nguyễn Đặng Minh Mẫn, hiện đang bị cầm tụ tại Trại 5, Thanh Hoá, và nhà hoạt động Hồ Đức Hoà tại trại giam Nam Hà, tỉnh Hà Nam. Họ đang phải chịu đối xử tồi tệ, bị biệt giam và trong trường hợp của Hồ Đức Hoà, anh đã bị từ chối quyền được bày tỏ tín ngưỡng trong tù.
• Khuyến nghị nhà cầm quyền Việt Nam không ban hành Dự Luật Tôn Giáo Tín Ngưỡng.
GNsP(19.06.2015) – Trọng trách của người lính Quân lực Việt Nam Cộng Hòa là đứng về phía dân, bảo vệ Tổ quốc và phi chính trị hóa quân sự.
Còn đối với Quân đội Nhân dân thì Đảng cs VN ‘lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt’. Sự lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp đó thể hiện qua: “Đảng xác định đường lối, quan điểm quân sự, đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tính nhuệ, từng bước hiện đại.” (Trích từ báo Quân đội Nhân dân). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng khẳng định: “Chỉ có Đảng Cộng Sản VN là tổ chức duy nhất lãnh đạo Quân đội nhân dân VN…”, và “phi chính trị hóa quân đội là thủ đoạn cực kỳ nham hiểm của thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng nước ta…”
Nhưng, đường lối và quan điểm quân sự do Đảng xác định lại nhằm củng cố quyền lực của thể chế độc quyền, và đi ra ngoài sự an nguy của người dân. Ông TPB VNCH có tên là Chật, bị cụt mất một chân, sống ở vùng Sài Gòn, cho nhận xét:
“Câu châm ngôn của chúng tôi là “Tổ quốc, Danh dự, Trách nhiệm”. Lúc nào cũng phải vì dân trước, lo cho dân, người lính không thể bình chân như vại khi người dân gặp nạn, như là người dân bị tàu Trung Quốc tấn công thì Hải quân phải ra bảo vệ ngư dân, ai dè để cho ngư dân bị đánh, bị giết. Khi mình là người lính thì mình phải có trách nhiệm gìn giữ Tổ quốc của mình từ lãnh hải, lãnh địa, biên giới… không được để mất mát, làm cho người dân được sống an lành, bảo vệ tính mạng và tài sản của người dân cho đến cùng. Trong thời chiến, khi chúng tôi đương đánh mà thấy người dân gặp nạn thì phải cứu họ trước, mạng mình bỏ thì bỏ nhưng phải cứu người dân.”
“Chúng tôi không có nhiệm vụ phải bảo vệ chế độ hay ca ngợi lãnh tụ như bây giờ đâu. Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ người dân đúng như câu “Tổ quốc, Danh dự Trách nhiệm” Ông TPB Chật nhấn mạnh đến tính phi chính trị hóa quân đội của Quân lực VNCH.
Đồng tình với ông TPB Chật, ông TPB Ghanh, bị cụt mất một chân và bị liệt một cánh tay, cũng sống ở vùng Sài Gòn, nói: “Người lính VNCH là người có tinh thần chiến đấu rất cao. Câu châm ngôn mà người lính luôn nhớ đó là chiến đấu cho Tổ quốc và hy sinh cho dân tộc.”
Tinh thần sống chết bảo vệ Tổ quốc và nhân dân của người lính Quân lực VNCH được nuôi dưỡng từ tấm ghế nhà trường -một môi trường giáo dục đề cao nhân bản. Ông TPB Chật cho hay: “Tinh thần của chúng tôi là do giáo dục thôi. Từ nhỏ chúng tôi sống trong môi trường giáo dục có đạo đức, đề cao sự chan hòa với mọi người, cho nên khi người dân bị áp bức thì mình phải có nhiệm vụ bảo vệ họ. Giáo dục hồi đó có nhân bản hơn so với bây giờ.”
Hằng năm, khi đến ngày 19.06 -ngày kỷ niệm Quân lực VNCH, những người lính VNCH vẫn luôn tự hào về một thể chế đã đề cao nhân phẩm con người, đem lại sự tự do cho người dân Việt, và sự thịnh vượng cho đất nước. Ông TPB Danh, thuộc binh chủng Nhảy dù, bị chiến tranh cướp đi đôi chân và một con mắt, bày tỏ:
“Đã hơn 40 năm rồi, mình cũng không dám nhắc gì nhiều đến ngày 19.06, bởi vì tủi lắm. Đây là ngày vinh hạnh của chúng tôi. Ngày này sao chúng tôi quên được và sau đó là ngày kỷ niệm binh chủng của chúng tôi. Những ngày đó là ngày tự hào của người Việt Miền Nam đó. Ngày này làm mình nhớ lại một chế độ tự do, mình được hưởng những gì của tự do. Bây giờ đã 40 năm rồi nhưng không bằng thời VNCH. Thời nay không thể so sánh được với thời VNCH. Tôi tự hào với chế độ cũ của mình.”
Ông TPB Chật cho biết thêm: “Năm 1973 là năm cuối cùng Quân nhân Quân lực VNCH diễu binh. Họ diễu binh rất hào hùng, không giống như của chế độ này làm vào ngày 30.04.2015 vừa rồi đâu, khi tổng duyệt con voi diễu binh làm bằng cái xe rác, sau đó ‘Hai Bà Trưng’ phải đi bộ trong ngày diễu binh của họ. Chúng tôi thua trên bàn hội nghị, chứ không thua trên bàn chiến đấu, bởi vì người lính chúng tôi không bao giờ bỏ súng khi có giặc xâm lược như vậy.”
Quân lực VNCH là lực lượng quân đội của chính quyền VNCH, thành lập từ năm 1955, với nòng cốt là lực lượng Quân đội Quốc gia Việt Nam trong Liên hiệp Pháp, chủ yếu là Bảo an đoàn, Bảo chính đoàn.
Vào ngày 02.11.1963: Nền Đệ Nhất Cộng Hòa bị sụp đổ qua vụ đảo chánh và ám sát Tổng thống Ngô Đình Diệm. Sau đó, Đất nước rơi vào tình thế đặc biệt, khủng hoảng lãnh đạo chính trị quốc gia… Vào năm 1965, trước tình hình đất nước lâm nguy do cộng sản Bắc Việt muốn thôn tính Miền Nam VN, nên chính quyền dân sự đã yêu cầu các tướng lãnh đứng ra đảm trách lãnh đạo quốc gia, đáp lại lời yêu cầu của chính quyền dân sự, tập thể chiến sĩ Quân Lực VNCH chính thức nhận nhiệm vụ lãnh đạo, điều khiển guồng máy hành chánh và quân sự của VNCH. Vào ngày 19.06.1965 ngày Quân Lực VNCH được thành lập.
Quân Lực VNCH đã không ngừng chiến đấu, bảo vệ Miền Nam tự do, trước họa xâm lăng của quân Cộng sản Bắc việt cho tới ngày 30.04.1975.
Sau năm 1975, những người TPB VNCH tật nguyền với những chiếc chân cụt, với những chiếc tay cụt, với những con mắt mù lòa và nhiều thương tật khác trên cơ thể đã mang dấu ấn một thời binh lửa, một thời cống hiến sức trẻ và hoài bão của người thanh niên để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, xả thân ngăn chặn hiểm họa Trung Cộng từ Phương Bắc. Cho đến bây giờ, họ vẫn ngẩng cao đầu đầy tự hào và hãnh diện trong thân phận người tật nguyền, bởi họ không trở thành gánh nặng cho gia đình và cho xã hội qua những công việc nhỏ, nhưng có giá trị. Họ tàn nhưng không phế!
GNsP(19.06.2015) – Đồng Nai – Một vài trãi nghiệm về 40 năm đã được đăng trên Facebook cá nhân dịp 30 tháng tư đã bị công an dùng gây xôn xao dư luận trước chuyến Mỹ du của ông Nguyễn Phú Trọng, TBT đảng CSVN.
Bài viết “Sự kiện thứ sáu Tuần Thánh” do linh mục-kiến trúc sư Nguyễn Duy Tân viết đã bị công an PA88 tỉnh Đồng Nai (công an phụ trách tôn giáo và dân tộc) kết án tác giả vi phạm điều 88, Bộ luật hình sự (BLHS), tức là tuyên truyền chống phá nhà nước XHCN, hôm thứ hai, 15.06 vừa qua.
Bài viết có thể tóm lược như sau: Bài viết được đánh dấu theo thứ tự từ 1 đến 8, mô tả kinh nghiệm của cha Tân về cộng sản từ bé đến nay, khi cha bước qua tuổi 47.
Cha cho biết lúc bé, mẹ thường nhắc: “Việt Cộng về làng rồi đấy, con phải đóng cửa chuồng gà cho chắc, nếu ai kêu cửa thì không được mở nghe chưa”. Hai chữ Việt Cộng làm cho mọi người trong làng xóm sợ hãi. Ngài mong “Việt Cộng rút về Bắc, để cho hòa bình hiển trị”. Rồi khi mới làm linh mục, ngài sợ hãi biết bao khi bị công an Đồng Nai, phòng PA88 mời làm việc với những đe dọa. Ngài kể: “Tôi phải làm việc với họ từ sáng tới chiều, phải bỏ cả lễ lậy. Máy camera quay liên tục, thỉnh thoảng máy chụp hình lại chớp chớp. Tôi ngồi ở giữa phòng, có lúc dăm bảy đồng chí đứng xung quanh. Hãi nhất là, có một đồng chí nói với tôi: Bánh xe lịch sử nó cứ quay, nếu anh mà không theo, thì sẽ bị bánh xe nghiền nát”. Lúc đó cha Tân nhận ra cách làm việc của công an vi phạm nhân quyền. Ngài ước mong xã hội VN có yêu thương và nhân quyền.
Cha Tân cũng cho biết ngài chưa lần nào đi bầu cử thật sự, những lần bầu đã qua, ngài nhờ mẹ đi bỏ phiếu, ghi tên ai cũng được, vì ngài biết dân chỉ bầu hình thức, vì ai đậu ai rớt, đảng CSVN đã định đoạt. Cha Tân mong có một cuộc bầu cử tự do được Liên hiệp quốc giám sát. Khi cha Tin Vui hỏi cha Tân có viết gì về 30 tháng 4 không? Cha Tân bảo: “Con cũng muốn phát biểu vài điều cảm nghĩ về “sự kiện ba mươi tháng tư”, nhưng chả dám, vì sợ bị “nhập kho”. Sống dưới triều nhà Sản, thì chả ai dám nói thật, kể cả các Linh mục và Giám mục. Vì nói thật thì mất lòng, và mất bổng lộc”. Cha Tân cho biết thêm: “Vì thế, tôi xin đổi đề tài “Sự kiện Ba mươi tháng tư” thành “Sự kiện thứ sáu Tuần Thánh”.
Sự kiện thứ sáu Tuần Thánh cha Tân mô tả lại cuộc khổ nạn của Chúa Yêsu cách đây 2000 năm. Trong đó ngài khẳng định cái ác thắng cái thiện, hận thù thắng tình yêu, gian tà thắng công lý, bạo lực thắng hòa bình. Đây là điều hoàn toàn đúng theo Thánh Kinh và Giáo lý Công giáo. Tuy không muốn bàn về 30 tháng tư, nhưng cha Tân cũng để lại vài dòng về nó: “Với sự trợ giúp súng AK, B40… của Satan, thì kẻ ác đã tăng thêm sức mạnh. Chúng bắn phá, giết chóc, cướp bóc, gây bao đau thương. Và cuối cùng cái ác đã chiến thắng”.
Mục áp cuối và mục cuối, cha Nguyễn Duy Tân viết về Thứ bảy Tuần Thánh và hướng đến Phục sinh cho dân tộc Việt Nam. Ngài xem 40 năm (1975-2015) như thời gian Chúa chết nằm trong mồ đợi ngày phục sinh. Ngày phục sinh Việt Nam đối với cha Tân thật đơn giản chỉ là “Cái thiện sẽ chiến thắng cái ác, Yêu thương sẽ chiến thắng hận thù, Công lý sẽ chiến thắng gian tà, Hòa bình sẽ chiến thắng bạo lực”. Rồi cha Tân ước mong Việt Nam sẽ có dân chủ và nhân quyền.
Tất cả chỉ có thế ! Những gì cha Tân nói viết ra như trãi nghiệm cá nhân của ngài thì rất nhiều sĩ quan quân đội của chế độ hiện hành, đảng viện cộng sản từng giữ vai trò lãnh đạo đã từng nói, báo chí, truyền thanh truyền hình lề đảng vẫn còn đang nói.
Vậy tại sao những người khác không bị câu lưu làm việc, mà một linh mục lại được chọn?
Vấn đề không khó hiểu lắm trong bối cảnh Việt Nam đang đu dây giữa Hoa Lục và Hoa Kỳ.
Một mặt Việt Nam đang chuẩn bị rất công phu cho chuyến Mỹ du của công TBT Trọng, nhằm tạo ra một tiền lệ Mỹ phải đón tiếp người đứng đầu đảng CSVN như là người đứng đầu quốc gia. Nếu tiền lệ này thành công, ông Trọng có thể kéo dài trách nhiệm đứng đầu đảng CSVN ít là ½ nhiệm kỳ nữa (2016-2018). Phía Mỹ cũng đã phát tín hiệu sẽ cố gắng sắp xếp một cuộc tiếp đón ngoại giao theo nghi thức cao nhất có thể (không hứa hẹn chắc chắn, nhưng làm được tốt đến đâu sẽ làm hết sức). Do đó các đối thủ chính trị tìm cách gây ra những sự kiện xấu, khiến chính giới Hoa Kỳ nhìn Việt Nam bất ổn, nhất là đang vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Do vậy công an chọn một linh mục để tạo dựng sự kiện là hiệu quả nhất trong lúc Mỹ đang ráo riết lên án Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo.
Mặt khác phe thân Hoa Lục không thể chấp nhận chuyện “đầu xuôi đuôi lọt” của chuyến Mỹ du này, vì như vậy có thể Việt Nam sẽ bám chặc đầu dây Hoa Kỳ hơn là Hoa Lục, tức những cám kết của đảng CSVN trước đây với Hoa Lục sẽ từ từ bị bạch hóa và tức khắc vô hiệu trước quốc dân Việt Nam, vì tự thân những cam kết đó không có giá trị pháp lý của quốc gia. Lúc đó những người phò Hoa Lục sẽ vào ngõ hẹp.
Từ nhiều năm nay, mỗi khi có một chính khách cao cấp của Việt Nam (chủ tịch nước, thủ tướng, …) thăm Mỹ, bao giờ trước đó hoặc ngay chính những ngày đang làm việc tại Mỹ thì ở Việt Nam liên tiếp xảy ra những vụ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng.
Kỳ này có thể cha Nguyễn Duy Tân. chánh xứ Thọ Hòa, giáo phận Xuân Lộc bị chọn làm con cờ thí cho bàn cờ chính trị của họ.
Trong những buổi chiều vào các trang mạng đọc tin, có nhều lần tôi đã phải lặng lẽ, ngồi bất động, rồi nước mắt đã lăn dài chỉ sau mây dòng chữ. Những dòng chữ mà tôi tin rằng có nhiều bạn đã từng đọc qua. Hoặc giả, là chứng nhân của những dòng chữ ấy. Như thế, theo bạn, quê hương Việt Nam của chúng ta bây giờ ra sao? Ở đó có là yên vui, có là hạnh phúc? Hay sau 40 năm, từ khi những “đôi dép râu đạp nát đời son trê” và những “ chiếc mũ tai bèo phủ kín tương lai” tung hoành bá đạo, quê hương ta đã mất dấu, đã hoàn toàn đỗi thay?
Đổi từ diện mạo đến con người. Đổi từ hạnh phúc sang đau thương. Đổi từ yêu thương ra thù hận. Từ nụ cười dấu ái ra nước măt đắng cay? Đổi từ sự trung thành ra phản bội, từ thuần lương ra gian trá, để tất cả cuốn theo dòng thác cách mạng Việt cộng, tạo nên mọi loại tội ác, nhấn chìm cuộc sống hiền lương của xã hội. Để ở đó, nước mắt của những “ thiên thần” chưa kịp nhỏ xuống để khóc thương cho một đất nước không còn lẽ sống, không còn nhân bản, đạo nghĩa thì đã phải lìa đời. Ở đó, ngưòi chưa kịp cất tiếng khóc cho một Việt Nam đang bị Tàu hóa và lấn chiếm thì đã mất cuộc sống. Ơ đó, có biết bao nhiêu là “thiên thần”, có thể là những tài hoa của đất nước, chưa một lần nhìn thấy mặt cha mẹ thì đã bị đẩy vào đáy huyệt trong nền văn hóa của sự chết. Là nền văn hóa không còn lương tri để biết phân biệt thiện ác. Là nền văn hóa chỉ duy có ác tính là tồn tại và lên ngôi với những giáo điều đa trá và bội phản của cộng sản.
Theo đó, bài viết này không phải là mới mẻ. Trái lại chỉ là sự góp nhặt một số câu chuyện, một số bài viết trên các trang mạng mà thôi. Nó được góp nhặt lại để cho thấy xã hội của chúng ta đã bị tàn phá ra sao dưới chế độ cộng sản. Để hỏi bạn xem, chúng ta phải làm gì, ngõ hầu, có thể giảm bớt được phần nào những đau thương. Đau thương như tội ác đang mỗi ngày nhấn chìm, xóa sổ yêu thương ở trên quê hương mến yêu của chúng ta. Đau thương vì ở đó, con người hầu như đang mất dần ý niệm về tội ác!: “Có bầu lần 2 với bạn, T. lại đi phá thai chui để giải quyết "hậu quả" đã được 18 tuần tuổi với suy nghĩ "thai chưa lớn mấy, phá có sao đâu, với lại bọn em còn đi học,( trích)."!.
Cha ông ta, từ xưa quan niệm rằng, đời người là một cuộc sống được chuyển hóa qua bốn gian đoạn: Sinh, Bệnh, Lão, Tử. và luôn gắn bó với những Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Dục. Quả thật, cuộc đời của mỗi người dù dài hay ngắn đều trải qua bốn giai đoạn này. Bệnh tật thì đến với con người nhiều lần trong đời, nhưng không ai có hai lần sinh và hai lần chết! Từ đó, cuộc sinh, sự sống là ân huệ đặc biệt của Tạo Hóa trao ban. Ngày nay, không phải quan niệm của cha ông ta đã sai đi. Nhưng xem ra, nó đã bị làm cho sai đi trong rất rất nhiều trường hợp. Đặc biệt, dưới chế độ cộng sản, khi đời sống con người được tổ chức và điều hành theo thuyết Tam Vô thì chữ sai kia càng lúc càng lớn dần. Nó lớn dần với cấp số cộng theo từng ngày tháng nó tồn tại. Hoặc gỉa, tăng theo một cấp số nhân đáng sợ hãi. Nhưng còn tồi tệ hơn cả cái cấp số kia là tỷ lệ phá thai gia tăng rất nhanh ở lứa tuổi vị thành niên. Đã thế, nó còn tăng song hành với những loại tội đại ác trong gia đình, trong xã hội và không có bất cứ một dấu hiệu nào cho thấy là nó sẽ đảo chiều hay ngừng lại!.
I. Những chứng từ đau thương của thời đại.
Dười đây là một số những trích đoạn, ghi nhận thực tế theo nhiều bài viết rải rác trên các trang mạng như Tin Mới (online), ” Ở cùng một thành phố, nếu như ngày ngày bác sỹ C.miệt mài trong công việc nạo, vét, phá thai… thì có một phụ nữ nghèo ngày ngày lui tới các phòng khám , xin những thai nhi bị bỏ rơi, bị giết ấy về chôn cất ngay trong mảnh đất nhà mình. Người phụ nữ ấy là bà là Nguyễn thị Nhiệm, 53 tuổi trú tại xóm Đồi Cốc, Sóc Sơn, Hà
Theo những câu chuyện đã đăng tải trên mạng, nghĩa trang này mỗi ngày nhận khoảng 20 thai ni. Vào những ngày cuối tuần, con số có thể lên đến 50-70 thai nhi một ngày. Theo lời bà Nhiệm “Có lần lên đến đĩnh diểm, 3 cái xe cải tiến đầy thai nhi. Ai nhìn thấy cũng phải xót xa, đứt ruột”! Ngoài việc tự đi thu lượm thai nhi, bà Nhiệm còn tiếp nhận hàng trăm thai nhi từ nhóm Thiện Nguyện đi thu, lượm về từ các phòng nạo, hút thai trên địa bàn Hà Nội. “Những sinh linh vô tội này được bà tắm rửa, khâm liệm với sự phụ giúp của ông Nguyễn văn Thạo, chồng bà. Tất cả cùng được mai táng chung với hàng nghìn thai nhi khác” Cũng theo lời bà và những nhân viên thiện nguyện khác thì: “hầu hết hài nhi vì bị phá bỏ, nên khi về đến đây hầu như tất cả không còn nguyên vẹn. Có cháu bị cắt ra, làm nát ra để đưa ra cho dễ dàng…” Nhưng dù thai nhi có bị bể nát cách nào chăng nữa, khi tẩm liệm, Bà Nhiệm không bao giờ quên đặt cho mỗi một cháu bé một tên Thánh. Đặt một lần và có khi cũng chẳng có dịp gọi lại.
Chuyện được kể là, khi mới khởi đầu, những cuộc chôn cất thai nhi ở Đồi Cốc thường được tổ chức riêng rẽ, hay theo từng nhóm nhỏ. Đến thời gian gần đây, vì nhiều lý do, các thai nhì mang về Đồi Cốc không được chôn cất riêng rẽ. Trái lại, “sau khi đã được tắm rữa và khâm liệm, các thai nhi được bảo quản trong tủ đông lạnh. Tới khi đủ con số 1000, bà Nhiệm mới cho vào các tiểu sành rồi xây một ngôi mộ lớn để mai táng chung một lần.” Theo lời cô Lập, một trong bảy người đàn bà đầu tiên phụ giúp bà Nhiệm làm công việc tắm rửa thai nhi, vừa lau nước mắt vừa kể: ” Có trường hợp em lớn, hôm trước mang về một nửa, hôm sau nửakia mới được mang về. Chúng tôi lại phải ngồi ghép các tay, chân, mặt… các cháu cho đầy đủ rồi mới đem khâm liệm, chôn cất. Các em bốn, năm tháng là thành hình, có tay, có chân đầy đủ, thậm chí phân biệt được trai hay gái rồi. Có em bị tiêm thuốc, người tím đen lại. Có em khi ra phải làm thủ thuật, không còn lành lặn nữa. Đau xót nữa là trường hợp các em bảy, tám tháng, khi về đây vẫn còn nóng hổi, bế trên tay vẫn còn thoi thóp thở, vẫn còn nấc nấc. Nhưng bệnh viện họ đã tiêm thuốc rồi, không cứu được nữa”.Về các trường hợp phá thai được nhận định chung như sau: “Đa số là vì lợ lầm, Nhưng dã man hơn, có trường hợp cả bố mẹ đẻ đưa con gái đi phá thai vì sợ ảnh hưởng đến danh dự của gia đình.”.
Tưởng cũng nên ghi lại đôi dòng về bà Nguyễn thị Nhiệm. Bà là người Công Gíáo ở Đồi Cốc. Lúc đầu, khi mới tự làm công việc chôn cất các thai nhi bị vất vào xọt rác, bị bỏ trên lề đường, bờ lau, bụi cỏ, bà Nhiệm gặp phải sự dèm pha của nhiều người trong làng. Khen ít chê nhiều. Đi đâu trong làng cũng thấy người ta bàn tán về câu chuyện của bà:“Họ bảo tôi tâm thần, gàn dở, nên mới làm việc này. Ai đời tự dưng lại vác thêm một cái nghĩa trang về làng, người lành lặn thì không sao, biết đâu có những em bé bố mẹ nhiễm bệnh, hóa ra là mang bệnh về, rồi còn gây ô nhiễm môi trường chung”. Dù biết những người chung quanh chẳng có nhiều thiện cảm với công việc của mình, lại còn phải chuốc lấy những lời lẽ không hay từ những người chung quanh. Nhưng bà kể, ” mỗi lần nghĩ tới cái sinh linh bé bỏng bị vứt vào thùng rác, bị thú nuôi tha đi khắp nơi, bà lại không cầm được nước mắt”. Rồi vượt lên trên tất cả những lời dị nghị, bà quyết tâm làm thật tốt công việc này.
Mãi sau này, người ta mới nhận ra công việc của bà là một việc làm tử tể, tốt bụng, cần phải làm. Nếu như không muốn nói là đầy tính nhân bản và lòng thương người theo tinh thần của tôn giáo. Những lời ong tiếng ve mất dần, không còn. Thay vào đó là một nhóm những ngưòi có lòng nhân hậu trong xóm gặp nhau. Trước tiên, nước mắt họ bắt đầu rơi xuống trên những hình hài vô tri chết đau thương, cô quanh. Kế đến, họ cùng xăn tay áo lên, phụ làm công việc tắm rửa, chôn cát các thai nhi với bà Nhiệm. Khi làm công việc này, họ không lập hội hè với biên bản gian trá như nhà nưóc Việt cộng. Trái lại, cùng chung lòng ,chung sức bên nhau theo khả năng của mỗi người để xây dựng lại tinh thần nhân nghĩa, đạo hạnh cho đời. Kết quả, một nhóm có tên gọi “ Bảo vệ sự Sống” đã ra đời. Họ hoạt động bàng tấm lòng nhân ái, bằng bàn tay, bằng công sức của họ từ ngày này qua ngày khác mà không một đòi hỏi bất cứ một chút lợi nhuận nào, dù nhỏ.
Cũng theo câu chyện, các bài viết. Lúc đầu nghĩa trang chỉ có một nửa sào ruộng được trích ra từ ruộng đất của bà Nhiệm, đến nay nghĩa trang đã rộng hơn nhưng cũng không thể đáp ứng đủ nhu cầu. Bà cho biết: “Đất của nhà tôi bỏ ra, cộng với số đất của làng cho thêm, tổng diện tích nghĩa trang này hiện rộng ngót 2 sào. Chúng tôi cũng sắp phải cơi nới thêm ra bởi nó đã chật lắm rồi”. Phải đất đã chật lắm rồi và những giọt nưóc mắt của người không ngừng rơi xuống trên những thai nhi. Ai cũng đau xót, nhưng xem ra công viêc tẩm liệm thai nhi của bà mỗi ngày một thêm nhiều hơn. Lý do, nhà nước Việt cộng đã không có bất cứ một phương cách nào để có thể làm giảm bớt số thai nhi bị vất bỏ bên lề đường, bui cỏ, thùng rác hay cho chạy vào ống cống, bồn cầu. Trái lại, tập thể cộng sản này, ngày càng đẩy mạnh việc thi hành chính sách vô đạo, bất nhân bất nghĩa bằng cách thúc dục mọi giới, mọi cấp, học tập theo gương “đạo đức Hồ chí Minh” là một thứ đạo đức giết vợ đợ con, một thứ đạo đức đặt nền tảng trên cơ sở phản luân lý, phản nhân tính của con người. Với lối giáo dục này, chúng muốn triệt phá đời sống căn bản của các gia đình, lôi trẻ ra khỏi gia đình. Đẩy chúng vào đoàn thiếu nhi “bác hồ”, vào đoàn vào đảng, rồi cùng nhau tiêu diệt nền luân lý và đạo đức xã hội. Kết qủa càng ngày càng có nhiều thai nhi phải chết trứơc khi được sinh ra.
Theo câu chuyện được kể lại, bà Nhiệm không biết đi xe máy nên chồng bà, ông Nguyển văn Thạo, sau này đã thay vợ đi thu gom các bé về để mai táng. Ông kể : “Mỗi lần đỡ các bé ra khỏi các túi ni lon, bà đều xúc động tới mức chưa thể đem chôn ngay được, cứ đứng lặng người ngắm các bé rồi nước mắt giọt ngắn giọt dài.” Tuy nhiên, dù trời nắng trời mưa, thậm chí bão bùng, bà Nhiệm vẫn động viên chồng đi gom các cháu về đều đặn. Bà ngậm ngùi: “Mỗi ngày có hàng bao nhiêu cháu cần được chôn cất, mình mà không đi để các cháu phơi ngoài trời, sương gió, cho chó cắn mèo tha, ruồi bu kiến đậu… tôi không đành lòng”.Phần ông Thạo, cũng có tấm lòng thật quảng đại với những thân phận thai nhi xấu số. Ông kể: “ Có những đêm ông không ngủ được. Những cái tên ông bà đặt cho trẻ, những hình ảnh của các hài nhi cứ ám ảnh ông. Có những đêm mưa, đêm tăng sao, tôi nghe như có tiếng trẻ con gọi văng vẳng trong tai, tôi ngồi bật dậy, tôi khóc khi nghĩ đến chúng…”
Ở Hà Nội, không phải chỉ có Đồi Cốc, một nghĩa trang mà hôm nay có lẽ con số đã lên đến cả 100,000 thai nhi. Gần đó, xã Liên Châu, Thanh Oai, cũng có một người tên Nguyễn Văn Nho, ông Sinh, cô Ất… nhiều năm qua cũng tự nguyện làm công việc thật lạ đời. Đầu tiên, ông Nho một mình đến các bệnh viện, phòng khám tư để xin xác hài nhi mang về chôn cất. Sau này thêm những người từ tâm thiện nguyện trợ giúp. Sau mấy năm, ngôi mộ ông mới xây ngày nào giờ đã là nơi yên nghỉ cho hàng vạn “ thiên thần bè nhỏ” xấu số. Ông bấm ngón tay và bảo ” gần 25 nghìn hài nhi được chúng tôi và anh em thiện nguyện đi thu gom khắp các phòng phá thai, bệnh viện trên địa bàn Hà Nội trong 6 năm trời, đưa về chôn cất và hương khói tại một ngôi mộ tập thể. Đây là nơi chôn cất những hài nhi vô tội bị tước đoạt sự sống, quyền làm người từ khi còn trong bụng me”. Những con số này làm chúng ta kinh hoàng ư? Thật ra, chỉ là một phần nhỏ trong tổng số những bào thai bị phá bỏ và được những người hảo tâm thu nhặt về để chôn cất mà thôi. Phần lớn, đều được bác sỹ của nhà nước Việt cộng và bệnh viện, cơ sở cạo, nạo hút chính thức do nhà nước này điều hành đã cho giật nước cầu tiêu để đưa thai nhi vào đường cống thải, sau khi đã dùng thủ thuật để phá thai cho các khách hàng
Về đây, nếu gặp, ông Sinh, cô Ất, bạn sẽ được nghe những câu chuyện đứt cả ruột gan: ”Có những hôm trời mưa như trút nước, chúng tôi tưởng chừng không thể mang các em về được nơi chôn cất. Chiếc túi nilon màu đen đựng thi thể các em cũng lõng bõng nước mưah…”… .”Cũng có trường hợp, khi tôi mở túi ra, thì bên trong vẫn có những hài nhi còn thoi thóp thở như đang cố gắng níu lại chút hơi thở yếu đuối, cố gắng để được nhìn thấy ánh sáng mặt trời và hi vọng mình cũng sẽ có cơ hội làm người. Thế nhưng... chúng tôi vẫn chậm, cơn mưa cùng với sự vô tâm của một số người đã cướp đi quyền làm người của các em”.
Cách Hà Nội không xa là Nghĩa Thắng, một trong những xã nghèo miền biển thuộc huyện Nghĩa Hưng, Nam Định. Ở đó có xóm đạo nhỏ bé mang tên Quần Vinh. Người dân ở đây làm đủ mọi nghề để kiếm sống. Có nhiều gia đình bươn chải, vật lộn với sóng biển, gió cát để mưu sinh. Nhưng về Quần Vinh, hỏi gia đình ông Bao thì ai cũng biết. Người trong vùng gọi ông bằng cái tên rất đặc biệt "người cứu rỗi những linh hồn". Ông Vũ ngọc Bao, nay đã 60 ngoài, khiêm cung trong công việc bé nhỏ mỗi ngày. Ông kể: "Đời cư dân biển chẳng khác nào con nước ròng, nước lớn. Đối với ngư dân đánh cá, họ phải luôn đối chọi với bão tố ập đến bất cứ lúc nào. Có nhà cũng đã phải bán ghe để tìm nghề khác kiếm sống”. Nhưng vì lý do nào ông bỏ nghề biển, có phải vì ông :”muốn cứu rồi những linh hồn “ không? Không. Không phải thế!
Sau nhiều năm lênh đênh trên biển, ông đã từ giã cái thuyền và chuyển sang nghề cải táng mộ. Khi bước vào nghề mới, ông bắt gặp cảnh ngộ, không nguy hiểm như đi biển, mà là đầy nước mắt. Ông nói “ tôi thấy những hài nhi xấu số bị bỏ trong những túi nilong, hoặc quấn vải thả xuống nước, nhưng lại không trôi ra biển mà cứ mắc lại, trôi dạt vào bờ sông và cồn cát. Tự nhiên, nước mắt rơi. Vậy là hàng ngày, ông đi gom lại, tự làm nghi thức chôn cất của người Công Giáo cho xác thai nhi và chôn cất em.” Theo ông, những hài nhi này phần nhiều là từ cơ sở nạo phá thai tư nhân, hay của nhà nước tại xã thải ra theo đường ống cống. Nó đã không theo dòng sông trôi ra bể, nhưng lại vướng vào bụi cỏ, bờ cát…
Lúc đầu ông chỉ chôn cất những thai nhi bên bờ lau bụi cỏ, cồn cát. Nhưng về sau, ông đã trực tiếp đến những cơ sở này xin những hài nhi xấu số bị các bà mẹ bỏ rơi, đem về chôn cất ở một góc của nghĩa trang xứ Quần Vinh. Tính đến nay, khoảng 5000 hài nhi xấu số đã được ông khâm liệm, chôn cất. "Tôi gom những hài nhi đó, rồi đi xin những bát hương nhỏ, cho vào đó, gắn xi măng lại, đánh số theo ngày và đem chôn. Những ngày đầu, tôi giấu vợ con và đi chôn vào ban đêm. Nhưng rồi khi làm những nghi thức chôn cất ở một bãi đất trống của nhà dòng thuộc xứ, những người dân xung quanh cũng không đồng ý, vậy là tôi đem về nhà",
Dĩ nhiên, câu chyên về các nghĩa trang Thai Nhi không phải chỉ có bấy nhiêu. Trái lại chỉ là một phần nhỏ, khá nhỏ trong tổng số thật hiện hữu. Bởi vì, trải đều khắp trên mọi phần đất nước. Không có một nơi nào, tỉnh nào, thành phố nào mà không có những Thai Nhi bị bỏ bên đường cho chó mèo, cắn tha, lôi đi. Không nơi nào mà không có những người dân nhân hậu tốt bụng dem những Hài Nhi ấy vào lòng đất trong nỗi niềm xót thương. Và không một nơi nào trên bình diện cả nước mà không có những phòng nạo, cạo, hút thai của nhà nước cũng như của những tên “phù thuỷ tư”, cũng là những nhân viên y tế của nhà nước vô đạo CS làm thêm giờ, thi nhau mọc lên để phục vụ cho công tác giết người.
Nhưng có một điều rất đặc biệt và đáng chú ý cần ghi nhận ngay nơi đây là. Trong số tất cả những người tốt bụng làm công việc tẩm liệm, thu lượm nhửng Hài nhi bị bò đi để đem về tắm rửa, tẩm liệm, rồi tìm cho chúng có một nơi an nghỉ thì đã không có bất cứ một người nào ở trong hàng ngũ quan cán, hay là cựu đoàn đảng viên, là cán bộ cộng sản, là những kẻ tham ô, lắm tiền nhiều đất, hoặc giả là thân nhân của họ. Trái lại, chỉ toàn là những người dân nghèo khó mà thôi. Lạ không? Thật ra, chẳng có gì lạ. Trong lòng người dân thì có tình thương mến, tính nhân hậu. Trong lòng đảng viên chỉ có mã tấu và dối trá. Dối trá thì giết người và nhân hậu thì bao che cuộc sống. Đó cũng là lý do tình cơ tôi gặp được một người đang nuôi cô nhi. “ cháu “ là cháu ngoại của một viên tướng khá thời danh trong hàng ngũ cán cộng hôm nay. Người mẹ đã “lỡ lầm” trong lúc là một sinh viên theo học tại một trường đại học tại miền nam. “ hai người”, một bên đi làm công tác từ thiện, một bên thì đi phá thai gặp nhau. Cuộc gặp tình cờ nhưng có lẽ là cái duyên sống của đứa trẻ. Kết qủa, bà mẹ trẻ nghe lời khuyên nài, giữ lại bào thai. “ cháu “ được cứu sống và nay đã hơn 5 tuổi! Bà mẹ trẻ lúc trước thỉnh thoảng có thư thăm hỏi người nuôi cháu. Nhung đứa trẻ vĩnh viễn là trẻ mồ côi.
Về Nha Trang, miền quê hương cát trắng thơ mộng của một miền nam trù phú xưa kia với Nhà Thờ Đá, với con đường Độc Lập dẫn ra biển với hàng thùy dương như mộng như mơ, nay đã không còn. Thay vào đó là những ô cắm dùi, rào ngăn chắn, đất đai bờ biền bị chiếm để dành riêng cho các quan cán cộng và những tên quan thày Tầu, Nga trù ngụ. Người dân đã không còn được thả những bước chân thong thả đến bờ thùy dương năm xưa nữa. Nhưng đau xót hơn, cách TP Nha Trang khoảng 10km là một nghĩa trang chôn cuộc sống của những đứa trẻ chưa được sinh ra. Đó là nơi an nghỉ của hơn 10.000 hài nhi xấu số, không có cơ hội làm người. Nhưng để có một nơi tạm dung này cho các em là hoàn toàn nhờ vào lòng từ tâm của anh Tống Phước Phúc! Người đàn ông “ kỳ lạ” tên Tống Phước Phúc đã tự bỏ tiền túi ra mua khu dất nằm bên sườn núi để làm nơi trú ngụ cho linh hồn của các hài nhi. Ông Phước kể ” Bước qua cái tuổi tứ tuần rồi, tôi nghĩ đến khi chết tôi cũng chỉ làm một việc làm gom xác hài nhi thôi, những hình hài vô tội đó đối với tôi như một duyên phận, giờ muốn dứt ra cũng không được”. Đó là lời tâm sự của anh Tống Phước Phúc, số nhà 45, đường Phương Sài, TP.Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
Vẫn theo những câu chuyện được viết và kể lại, suốt hơn mười năm nay, anh Phúc không chỉ lặng lẽ đi nhặt xác hài nhi, mà anh còn cưu mang nhiều số phận lỡ làng. Đứng trước 10.250 nấm mộ vô danh là những hài nhi xấu số do chính mình lượm lặt, mang về chôn cất, người thợ hồ nhỏ thó có đôi mắt thật hiền hậu, lặng lẽ đốt lên từng nén nhang như muốn suởi ấm cho những linh hồn thơ ngây bé bỏng lạnh gía. Sau ánh mắt nhìn xa vắng, anh bặm môi như nuốt nước mắt vào trong lòng, anh tâm sự: “tôi cũng không ngờ số lượng lại tăng nhanh đến thế, mỗi lần chôn thêm một hài nhi là một lần đau đớn dù chẳng phải ruột thịt gì”. Với anh, anh cho rằng, số phận của những Hài Nhi (thai nhi) là vô cùng đen đủi, dẫu như chúng chẳng có một cái tội gì, Có chăng là do xã hội, do tổ chức của nhà nưóc vô lương đã tạo ra một nền giáo dục vô đạo và đẩy xã hội vào những ngày đen tối. Ở đó con ngưòi thật khó mà tránh thoát khỏi kiếp nạn. Nên anh tự bảo lòng là “Hãy yêu thương những linh hồn bé nhỏ bị bỏ rơi kể cả khi chúng đã qua đời, khi chưa được cất một tiếng khóc đã bị vứt bỏ bởi có thể những đứa trẻ tội nghiệp ấy đã gánh thay chúng ta những tai họa ở trần gian, những nặng nợ kiếp người, những hằn thù nhỏ nhen”.
Khi lên cao nguyên, không ai không nghe biết đến nghĩa trang Đồng Nhi, Pleiku. Trong nghĩa trang TP Pleiku, có nghĩa trang Đồng Nhi, tên mà những người thu gom thai nhi đem về đây chôn cất đặt cho khu vực riêng biệt này. Chuyện kể là, ở đây là nơi chôn cất hơn 15.000 hài nhi bị chối bỏ trong mấy năm qua. Tất cả hài nhi ở nghĩa trang Đồng Nhi Pleiku (Gia Lai) có chung số phận là bị cha mẹ chối bỏ. Nhiều thi thể em bé khi được phát hiện đã khô hay bị kiến cắn mất một phần. Hàng nghìn ngôi mộ chỉ gắn mấy dòng chữ ghi tên những nhà hảo tâm đã xây nên nơi yên nghỉ này. Năm 1992, Linh Mục Nguyễn Vân Đông (nhà thờ Thăng Thiên, thành phố Pleiku) lập nên nghĩa trang này để các hài nhi bị vứt bỏ có chốn yên nghỉ. Sau này, sức khỏe yếu, cha Đông bàn giao lại cho nhóm 3 người hảo tâm là anh Phụng, anh Lễ và cụ Tâm. Họ đã gắn bó với công việc này hơn mười năm. Họ đã chung tình thương dành cho các sinh linh nhỏ bé, ngày ngày những con người này cùng nhau đi gom nhặt những thai nhi bị chối bỏ, đem về chôn cất. Ba người tự bỏ tiền cá nhân mua quan quách, vật dụng tẩm liệm cho các cháu. Ôi những tấm lòng vàng hiếm hoi!
Rồi Huế, một cái tên như mộng như mơ. Nào là cầu Tràng Tiền, Cột Vân Lâu! Rồi cung điện của nhiều vua quan cấm đạo xưa, nay xem ra đã lùi cả vào dĩ vãng để nổi bật lên những tên tuổi của những thành uỷ viên, hay trung ương CS như những qủy sứ nhập tràng từ sau Mậu Thân như Nguyển đắc Xuân, Hoàng phủ ngọc Tường, Ngọc Phan, thị Trinh… để nơi ấy ngoài những mồ chôn tập thể của người dân Việt vào tết Mậu Thân, giờ lại có thêm những bãi tha ma không chủ. Trong đó, không ai ngờ rằng, theo dòng thác cách mạng Việt cộng vươn lên, nay đã có hơn 42.200 hài nhi bị cha mẹ bỏ rơi từ khi chưa lọt lòng hiện đang yên nghỉ tại nghĩa trang bào thai ở Thừa Thiên – Huế. Đó dĩ nhiên là con số được ghi nhận, chôn cất trong nghĩa trang Anh Hài thôi. Ngoài ra là một con số thật lớn, thật kinh khủng khác đã không được đưa về đây, nhưng đã bị trôi dạt theo các đường ống cống, hay chó tha, mèo gặm, hoặc là theo ngày tháng tự vùi theo cát bụi trong những bờ lau bụi cỏ…
“ Anh Năng, người trông coi nghĩa trang Anh Hài (Thừa Thiên - Huế) cho biết: “Nghĩa trang ra đời ngày 2/2/1992, do một số linh mục Giáo phận Huế thành lập. Số lượng mỗi ngày một nhiều. Có ngày chôn tới 20 hài nhi vô tội. Để giảm kinh phí và diện tích đất chôn, những người phụ trách quyết định xây một mộ một tuần và hàng chục hài nhi được chôn chung một mộ. Ngày nào anh Năng cũng “hạ sơn”, lặn lội qua đò trên sông Hương rồi về TP Huế dạy thêm môn Anh văn cho học sinh cấp 2 để kiếm thêm thu nhập. Chiều tối về nhà, 'hành trang' của anh thường có xác hài nhi để mang về chôn. Bào thai anh nhận từ những người tình nguyện đi gom hoặc anh tự đi lượm được ở gốc cây, thùng rác.. “( theo Nguyên Bình và Cẩm Quyên)
Một bài thơ than khóc, viết trên những ngôi mộ tí xíu vô danh khiến người đọc phải lặng người, và dòng nước mắt rơi!
Em là thai nhi vô tội
Hiện thân là buồn tủi
Tình yêu tắt lịm rồi
Núi đồi xa xôi
Một đêm lạnh trời sương
Em vấp ngã nơi đây
Em thiếp ngủ không hay
Lá rụng che phủ đầy...”
(Linh mục Phaolo, 11/4/2008)
Vào miền nam, quê hương yêu dấu của đồng bào ta cũng không có gì ngoài đau thương và nước mắt. Câu chuyện ở Hố Nai, Biên Hòa, có lẽ chỉ là một chuyện đơn lẻ, rất nhỏ được ghi nhận lại trên các trang mạng, Nó hẳn nhiên không phải là câu chuyện duy nhất của miền Nam. Bởi vì Sài Gòn, miền yêu dấu xưa kia, nay đã được đổi theo tên của một Satăng nhập tràng là Hồ chí Minh với lời dậy bảo các đoàn đảng viên cộng sản là : “đảng viên là ngọc là vàng của đảng…”. Theo đó, muốn thành đoàn đảng viên ngọc ngà của đảng thì phải qua kiểm thảo, mà bài kiểm thảo căn bản lại là” phải công khai tuyên bố căm thù bố mẹ và đoạn tuyệt với bố mẹ..( Đèn cù, trang 74-75). Hồ chí Minh đặt nền móng giáo dục, đào tạo cán bộ, đảng viên CS như thế, xã hội Việt Nam sẽ còn lại gì khi những nhân sự này múa dao, vung liềm buá?
Thử hỏi, với cái định nghĩa này, thì Hồ Quang, tức Hồ chí Minh sẽ là ai đây? Là người, là thần, là qủy nhập tràng chăng? Với một tập đoàn như thế lãnh đạo đất nước thì chuyện Hố Nai, chỉ là một cuộn bóng mờ trong tổng số những trẻ em mất cuộc đời được ghi nhận mà thôi. Ở đây, Linh Mục nguyễn văn Tịch ( giáo xứ Tây Hải, Hố Nai Biên Hòa) người khởi xướng xây dựng nghĩa trang cho biết, “ trong một lần đi thăm người bệnh. Lúc trở về, ngài đã bắt gặp hài nhi chết bỏ bên đường. Ngài đã quyết định đưa em về chôn cất”. Từ đó, một vuông dất nhỏ không quá 200m2 do một số người hiến tặng, hơn bốn năm nay, đã là nơi an nghỉ cho hơn 7500 những “Thiên Thần bé bỏng” sớm mất cuộc sống…
Trên đây là nhiều đoạn viết của nhiều người, tôi trích, tổng hợp, ghi lại từ các bài viết trên các trang mạng ( xin lỗi là đã không ghi lại hết qúy danh của các tác giả và nơi xuất xứ). Tất cả như là những bằng chứng, những chứng nhân đích thực của “ nỗi đau và bất hạnh” của dân tộc Việt Nam trong thời cộng sản. Nó như một chứng liệu xác minh rằng, chính cộng sản là thủ phạm đã tạo nên những oan khiên bất hạnh này cho dân tộc ta. Bởi vì, ở một khía cạnh khác, cùng ngày khi viết về Nghĩa Trang Hài Nhi, tôi mở VNExpress.net, trang mạng thuộc hệ nhà nước cộng sản điều hành và đọc thấy trong mục Pháp Luật của trang mạng này có các tội đại ác liên hệ đến gia đình như sau. ( Bản tin Pháp Luật hôm ấy gồm có khoảng 30 bản tin về các loại tội phạm, thì đã có 6 tội phạm trực tiếp có liên hệ trong gia đình). Nó đã là một bằng chứng chắc chắn khác nữa cho thấy, việc học tập và theo gương “đạo đức hồ chí Minh” chính là nguyên do cơ bản tàn phá nền luân lý và đạo đức của xã hội Việt Nam! Xin trích, ghi lại như sau:
1, Người vợ trẻ tử vong sau trận cãi vã. Sau nhiều tiếng cãi nhau của hai vợ chồng trẻ, gia đình mới phát hiện chị Ánh tử vong với nhiều vết thương trên đầu, bên cạnh chiếc ghế gỗ dính đầy máu. Ngày 20/12
2, Tử hình kẻ cầm dao bầu đoạt mạng vợ. Không thuyết phục được vợ quay về, tại nhà mẹ vợ, Quân đã truy đuổi, đâm chết người đàn bà đã sinh cho hắn hai đứa con.
3. Cô giáo mầm non bị chồng sát hại. Theo bản án sơ thẩm ngày 18/12 của TAND Hà Nội Thứ tư, 17/12/2014
4. Lão gìa 67 tuổi truyền nhân đích thực tái hiện hình ảnh Hồ chí Minh lĩnh án. Câu chuyện của ông này rất gần gũi với câu chuyện của Hồ chí Minh và Nông thị Xuân. Mỗi lần dụ dỗ bé Sen 14 tuổi quan hệ tình dục, bị cáo Lan đều cho đứa trẻ 300.000-400.000 đồng. Sau nhiền lần xâm hại, Y đã khiến bé gái mang bầu, làm mẹ bất đắc dĩ. Chiều 17/12, TAND tỉnh Thừa Thiên – Huế đã mở phiên tòa phúc thẩm tuyên y án 3 năm tù với Kê Thanh Lan (67 tuổi, trú huyện A Lưới) Theo tờ báo, tên này bị kết án, bị phạt nhẹ vì có công với ” cách mạng “ Việt cộng. Không biết Y có phải là đoàn đảng viên Việt cộng hay không? Chỉ thấy tuyên dương y đã nhận nhiều huân chương ( huân chương sao vàng, huân chương Hồ chí Minh?) và nhiều huy chương nên được hưởng án nhẹ. Kinh hãi chưa? Cứ có công với Việt cộng là được hưởng giảm khinh. Tuy thế, nhiều người cho rằng, nếu đem bản án ra so với Hồ chí Minh, Y bị như thế là quá nặng, bởi vì lão chỉ học và làm theo gương “bác” mà bị tù. Khéo mà bị hàm oan?
5. Án chung thân cho đứa cháu nhằm đầu chú gây án. Đoạt mạng chú họ bằng hơn 20 nhát dao, Theo bản án sơ thẩm ngày 17/12 của TAND Hà Nội, Lê Văn Phúc (33 tuổi) là cháu họ của anh Lê Văn Minh (39 tuổi).
6. Con rể nã đạn vào mẹ vợ. Rình lúc mẹ vợ và cậu em đến nhà chơi, nửa đêm Tuấn cầm súng bắn hai người này cùng cô vợ. Công an Hà Nội thông báo đã bắt được Nguyễn Anh Tuấn (36 tuổi), nghi can bắn mẹ vợ cùng 3 người khác trong căn nhà trên phố Bùi Xương Trạch, quận Thanh Xuân.
Một ngày có bấy nhiêu vụ đại án phạm đến gia đinh. Một năm, rồi bốn mươi năm qua đã là bao nhiêu vụ rồi? Còn học tập theo gương Hồ chí Minh nữa hay là thôi?
II. Làm sao để giảm bớt những đau thương, oan nghiệt này? ( phần hai).
Bài viết nhỏ, như một nén hương muộn, kính viếng hương hồn các “Thiên Thần Bé Nhỏ” chưa được sinh ra đã mất cuộc sống.
B. Mỹ giúp Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới.
Để hình thành Hiệp định Thương mại song phương Mỹ-Việt, ngay từ ngày 11.03.1998, Tổng thống Bill Clinton đã tuyên bố miễn áp dụng tu chính án (amendment) Jackson-Vanik đối với Việt Nam. Tu chính án này, do Quốc hội Mỹ biểu quyết năm 1974, cấm dành quy chế tối huệ quốc (MFN, most favoured nation) trong buôn bán với các nước cộng sản và không cho phép các quốc gia này tiếp cận những chương trình hỗ trợ của Chính phủ Mỹ... Nhưng quyết định này chỉ có giá trị trong vòng một năm, nên hàng năm Chính phủ và Quốc hội Mỹ phải bày tỏ thái độ về việc áp dụng tu chính án đối với Việt Nam. Do đó, ngày 14.07.2000, tại Washington D.C., đại diện hai nước mới có thể ký BTA sau nhiều vòng đàm phán. Sau khi lưỡng viện Quốc hội thông qua, ngày 17.10.2001, Tổng thống George W. Bush ký ban hành Hiệp định này. Hoa kỳ cũng giúp đỡ không ít để Việt Nam được thu nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO, World Trade Organization, tiếng Anh và OMC, Organisation mondiale du commerce, tiếng Pháp) từ ngày 11.01.2007, sau khi nộp đơn xin gia nhập từ tháng 01.1995. Một lý do khác không được loan báo, nhưng không thể thiếu, là Việt Nam chỉ được phép gia nhập WTO sau khi Trung cộng đã vào tổ chức này vào ngày 11.12.2001.
Một vấn đề thật quan trọng khác mà Chính phủ và giới Lập pháp Mỹ vẫn lớn tiếng ‘hứa lèo’ với người dân Việt đau khổ, nạn nhân của họ, là các Thương ước ký giữa Hoa kỳ và Việt cộng sẽ được hình thành dựa trên căn bản : Nhân quyền có được Chính phủ Việt cộng tôn trọng như đã hứa hay không. Tin tưởng chính giới Mỹ, ngay từ năm 1999, người Mỹ gốc Việt đã có những cuộc vận động với Chính phủ cũng như các vị dân cử Quốc hội Hoa kỳ hầu có những cải thiện về tình trạng tự do tôn giáo tâi Việt Nam. Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa kỳ (USCIRF – United States Commission on International Religious Freedom), một cơ quan độc lập, hoạt động với ngân quỹ trực tiếp từ Quốc hội, đã yêu cầu Bộ Ngoại giao ghi tên Việt Nam vào danh sách các ‘Quốc Gia Đáng Quan Tâm Đặc Biệt’ (Country of Particular Concern, CPC) nhiều lần và, đến lúc, phải thành công… Năm 2004 là năm có Bầu cử Tổng thống. Ngày 15.09.2004, Ngoại trưởng Colin Powell chính thức chỉ định Việt Nam vào danh sách này bên cạnh các nước khác : Miến điện, Trung cộng, Iran, Bắc hàn, Sudan, Eritrea và Ả Rập Saudi. Ngày 02.11.2004, kết quả Tổng thống George Bush thắng nhiệm kỳ 2 với 50,73% số phiếu hợp lệ so với 48,27% cho Jonh Kerry rõ rệt hơn năm 2000, chỉ thu được 47,87% so với 48,38% cho Al Gore (hơn nhau về số đại cử tri : Bush 271 và Gore 266).
Đến năm 2006, ông Bush (con) cần một quà tặng cho nhà nước Việt Nam khi ông đến Hà nội để dự Hội nghị Thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác (APEC - Asia-Pacific Economic Cooperation) ngày 18 và 19.11.2006. Lúc đầu, ông ta tin chắc là Thượng viện lẫn Viện Dân biểu thông qua dễ dàng Quy chế Thương mại Bình thường Vĩnh viễn (Permanent normal trade relations - PNTR) cho Việt Nam cần thiết để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Nhưng cuộc bầu cử bán kỳ ngày 07.11.2006, đảng Dân chủ chiếm đa số tại Viện Dân biểu đã không thông qua dự luật HR. 5602 thiết lập quy chế này. Thất bại vụ PNTR, ông Bush, theo đề nghị của cô Condoleezza Rice, Ngoại trưởng, đã gạch bỏ tên Việt Nam khỏi danh sách các Quốc gia đáng Quan tâm Đặc biệt (CPC) để làm quà biếu cho Việt cộng.
C. Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương.
(TPP, Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement hay Trans-Pacific, tiếng Anh và Accord de partenariat transpacifique, tiếng Pháp) là một thỏa thuận thương mại tự do với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực Á châu - Thái Bình Dương. Hiệp định, thoạt tiên, được sự đồng thuận giữa các quốc gia : Brunei, Chí lợi (Chile), Tân tây lan (New Zealand) và Tân gia ba (Singapore) ngày 03.06.2005, có hiệu lực từ ngày 28.05.2006. Hiện nay, 8 nước đang đàm phán để gia nhập : Uùc đại lợi (Australia), Mã lai (Malaysia), Mễ tây cơ (Mexico), Peru, Hoa kỳ, Việt Nam, Gia nã đại (Canada) và Nhật bản (Japan). Ngày 14.11.2010, cuối Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác Kinh tế (APEC, Asia-Pacific Economic Cooperation, tiếng Anh và Coopération économique pour l’Asie-Pacifique, tiếng Pháp) tại Nhật bản, lãnh đạo 9 quốc gia (trong đó có Nhật bản) đã tán thành lời đề nghị của Tổng thống Obama về việc thiết lập mục tiêu các cuộc đàm phán tại kỳ Thượng đỉnh APEC năm 2011 tại Hoa kỳ. Từ đó đến nay, đã có 20 vòng đàm phán mà việc hình thành vẫn chưa xong. TPP nhằm mục tiêu giảm bớt các loại thuế xuất nhập cảng giữa các nước thành viên và thỏa thuận toàn diện các khía cạnh chính của một hiệp định thương mại tự do, bao gồm trao đổi hàng hóa, các quy định về xuất xứ, can thiệp, rào cản kỹ thuật, trao đổi dịch vụ, vấn đề sở hữu trí tuệ, các chính sách của chính quyền... Đây là những điều khoản mang tính chuyên môn, đang thương lượng giữa 11 quốc gia áp dụng nền kinh tế thị trường và theo nền dân chủ tam quyền phân lập, trừ Việt Nam khơng cĩ những đặc tính này, Do đĩ, 10 nước khác, hình như, để mặc Hành và Lập pháp Hoa kỳ thảo luận với Nhà nước đảng trị Việt Nam những điều kiện được cho là bảo vệ nhân quyền và quyền lập công đoàn khác với tổ chức lao động tùy thuộc Đảng cho người dân Quê hương này.
Ngày 26.10.2014, ông Tom Malinowski, Trợ lý ngoại trưởng Hoa kỳ phụ trách về vấn đề Dân chủ, Nhân quyền và Lao động Mỹ, trong một hội nghị bàn tròn với các giới chức Việt Nam tại Hà nội. Ngày 20.05.2015, sau cuộc gặp gỡ với người Việt ở Washington, đã trả lời phóng viên Hải Ninh (RFA) (xin tóm):
- có nhiều cơ hội tốt trong năm nay về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam vì là năm rất quan trọng giữa Mỹ và Việt Nam, kỷ niệm 20 năm bình thường hoá quan hệ và cần có những quyết định quan trọng đưa ra về TPP, liệu hai bên có thể tiến tới quan hệ đối tác chiến lược hay không. Chúng tôi đã tỏ rõ quan điểm với chính phủ Việt Nam rằng tất cả điều đó phụ thuộc vào những tiến bộ của Việt Nam trong vấn đề nhân quyền. Nếu cả hai đều muốn thu lợi được từ mối quan hệ này thì cả hai phải xích lại gần nhau hơn.
- những thay đổi gì từ Việt Nam khi TPP kết thúc? Tiến trình dài và khó khăn. Đầu tiên, Quốc hội cần thông qua Dự luật TPA (xin xem bên dưới) và thông qua hiệp ước cuối cùng. Điều quan trọng là xuyên suốt tiến trình này chính phủ Việt Nam có những thay đổi về những vấn đề như cải cách luật pháp, thả tù nhân lương tâm, cho phép tự do tôn giáo, v.v... Cuối cùng, nếu được như vậy, tôi nghĩ nó sẽ tốt cho Việt Nam, được giàu có hơn, sẽ có quan hệ gần gũi hơn với Mỹ, và các tổ chức dân sự ở Việt Nam sẽ mạnh mẽ hơn. Những thay đổi trong luật lao động, Việt Nam phải có một công đoàn tự do và độc lập.
- đúng, Việt Nam cần phải thay đổi nhiều, nhưng ngay khi ông đang ở Việt Nam, một nhà hoạt động bị đánh. Sau khi ông về lại Mỹ thì vài người khác bị tấn công, bị tra hỏi và bị cấm xuất cảnh ? Tôi nghĩ họ đang gửi nhiều thông điệp tới chính người dân nước họ : có những người hiểu rằng đất nước sẽ hùng mạnh, thịnh vượng hơn nếu người dân được tự do lên tiếng nói và sống cuộc theo ý. ; những người khác lo bị đe doạ bởi viễn cảnh thay đổi. Vì thế, có những căng thẳng và đấu tranh trong đó. Họ thả tù nhân và cũng có những nhà hoạt động bị đe doạ hay bị đánh. Tôi tin khi hai nước gần gũi nhau càng khiến những người muốn cởi mở, muốn tôn trọng luật và nhân quyền trở nên mạnh mẽ hơn và chúng tôi đang cố gắng giúp nhóm này nhiều hơn.
- Việt Nam luôn nói họ không có tù nhân lương tâm. Không sao, chúng ta cần đạt một kết quả tốt cho hai nước và quan tâm hai bên được giải quyết. Khi ai được thả, tôi vui mừng, không cần biết chính phủ Việt Nam gọi họ là gì. Tất nhiên, về lâu dài, điều quan trọng nhất là cải tổ luật pháp để thay đổi những định nghĩa về các loại tội mà chúng tôi đã ký. Đó là điều chính phủ Việt Nam hứa sẽ làm và khuyến khích họ thực hiện lời hứa đó.
- tù nhân này khi được được đưa sang Mỹ tị nạn. Mỹ là chỗ chứa những người làm trái pháp luật ở VN sao? giúp họ ở lại Việt Nam hoạt động tiếp không?
Điều đó không hay. Chúng tôi nói rõ với họ rằng để thúc đẩy phát triển về nhân quyền, họ cần thả người và cho phép những người đó được tiếp tục sống ở trong nước. Thực ra cũng có một số người được thả và tiếp tục sống ở Việt Nam rồi. Tất nhiên, chúng tôi muốn thấy nhiều sự việc như thế này hơn.
- Việt Nam mang tiếng là nuốt lời hứa. Để TPP được hoàn tất thì họ cần phải có những thay đổi đã. Khi thoả thuận hoàn tất, hai bên sẽ bị ràng buộc về pháp lý, sẽ có nghĩa vụ với nhau về kinh tế, về luật lao động, …Khi có tranh cãi, sẽ có cơ chế để xác định bên nào đúng, bên nào sai.
Mỹ làm gì để giúp các xã hội dân sự ở Việt Nam hoạt động hiệu quả hơn? So với 10 năm trước thì các tổ chức này đã có nhiều ‘đất’ hơn. Họ không chỉ vận động cho dân chủ mà còn nhiều mặt phát triển nữa cho Việt Nam, như bảo vệ môi trường, bảo vệ cây xanh ở Hà Nội, làm rất nhiều điều tốt cho đất nước và tôi nghĩ nhiều người trong chính phủ bắt đầu nhận ra rằng họ nên hợp tác với các tổ chức xã hội dân sự để đạt được mục tiêu của nhà nước.
Ngày 08.05.2015, khi nói chuyện về TPP tại trụ sở công ty Nike, sản xuất đồ thể thao, ở Portland, tiểu bang Oregon, Tổng thống B. Obama có đưa Việt nam như một ví dụ để chứng minh cho người Mỹ thấy rằng nếu có TPP thì điều kiện làm việc của công nhân ở Việt nam sẽ được cải thiện, và đây là lần đầu tiên một quốc gia như Việt nam sẽ có được tổ chức công đoàn độc lập.
Ngày 21.05.2015, Đại sứ Lưu động về Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa kỳ David Saperstein đã gặp và trao đổi với Hội đồng Liên tôn Việt Nam (phi quốc doanh) tại Dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn. Vì các Linh mục Dòng này đang tĩnh tâm nên phái đoàn Công Giáo không tham gia được. Thầy Thích Không Tánh trình bày : ề Sự thật mà nói, không có cái gọi là ‘tự do tôn giáo ở Việt Nam’. Chỉ có các tôn giáo quốc doanh mới được chính quyền tạo điều kiện, các tôn giáo độc lập nói chung và Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất nói riêng, từ sau 30.04.1975 đến nay đều bị nhà cầm quyền cộng sản đàn áp tịch thu tài sản, đất đai, các cơ sở thờ tự Ừ. (Giáo Hội Công Giáo không quốc danh, nhưng giáo sĩ được nhà nước chấp thuận trước khi được phong chức…). Trưởng phòng chính trị Tổng Lãnh sự Mỹ tại Sài gòn Charles Sellers cho biết rất ngạc nhiên khi nghe các trình bày vì hoàn toàn trái ngược với các văn bản mà chính quyền Việt Nam cung cấp. Những trao đổi hôm nay được ghi nhận. Oâng Saperstein nói : ề Cám ơn quý chức sắc đã dành thời gian cung cấp cho đoàn những thông tin rất quý giá và sẽ đưa vào nội dung cuộc đàm phán TPP với Việt Nam. Hoa kỳ mong muốn Việt Nam sẽ trả tự do cho một số tù nhân lương tâm trong nay mai. TPP có thể đem lại cơ hội phát triển kinh tế cho Việt Nam. Nhưng quyền lợi luôn đi đôi với trách nhiệm, chúng tôi muốn thúc đẩy Hà nội phải cải tiến các điều kiện nhân quyền, tự do tôn giáo trong nước Ừ. Gần đây, Dự thảo 4 đã được gởi đến lãnh đạo các tôn giáo toàn văn Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo để góp ý. Ngày 04.05.2015, Hội đồng Giám mục Việt Nam không đồng ý Dự thảo này. Hội đồng Liên tôn Việt Nam cũng có kháng thư về Dự luật ngày ngày 10.05.2015.
Ngày 06.05.2015, Cố vấn Ngoại trưởng Mỹ Tom Malinowski gặp và đề nghị các đại diện 14 tổ chức dân sự tại Hà nội đặt mình trong vai trò của 535 dân biểu Mỹ đầu phiếu cho Việt Nam gia nhập TPP. Kết quả có 5/14 phiếu ủng hộ, 1 trắng và 8 chống. Luật sư Nguyễn Văn Đài đã bỏ phiếu ủng hộ và đã giải thích trên Facebook : ề Tôi hoàn toàn tin tưởng vào Bộ ngoại giao và chính phủ Hoa kỳ sẽ đạt những thỏa thuận tốt nhất về nhân quyền cho Nhân dân Việt Nam Ừ.
Về nội bộ Hoa kỳ, ngày 12.05.2015, dự luật ‘Thẩm quyền xúc tiến Mậu dịch’ (TPA, Trade Promotion Authority) đã không được đưa ra tranh luận tại Thượng nghị viện vì không đủ túc số 60 phiếu (52 thuận) đồng ý của các Nghị sĩ. Luật này, nếu được Quốc hội thông qua, sẽ cho phép Tổng thống thương lượng các hiệp định tự do mậu dịch, kể cả TPP. Sau đó, Quốc hội chỉ có quyền chấp thuận hay bác bỏ, chứ không được sửa đổi. Các Nghị sĩ Dân chủ, phe ông Obama, đã chống đối mạnh nhất, trong khi phe Cộng hòa, đa số tại hai Viện, ủng hộ luật này. Nhưng hôm 22.05.2015, các nghị sĩ Mỹ, với 62 phiếu thuận và 37 chống đã thông qua luật cho Tổng thống Obama quyền đàm phán nhanh các hiệp định tự do mậu dịch. Tại Hạ nghị viện, Dân biểu Nancy Pelosi, Trưởng khối Dân chủ thiểu số đã lên tiếng đe dọa sẽ chặn dự luật TPA tại Viện này để có thời gian tu chính. Bà không đồng ý cho Tổng thống quá rộng quyền trong thời gian hiệu lực 6 năm, để có thể dẫn đến lạm quyền.
Ngày 11.06.2015, bà Pelosi và các đồng viện Dân chủ đã biến lời đe dọa đó thành sự thật, dù sáng hôm đó, Tổng thống Obama đã đến Điện Capitol để mời gọi lần cuối các vị này vì họ lo ngại TPP sẽ giúp đem thêm nhiều công việc làm ở Mỹ ra nước ngoài và gây ô nhiễm môi trường. Viện Dân biểu (Hạ viện), bằng 302 phiếu chống và 126 thuận, đã bác dự luật Điều chỉnh Trợ giúp Thương mại (TAA, Trade Adjustment Assistance) do Thượng viện đã thông qua buộc đi kèm với dự luật TPA. TAA ấn định chính sách trợ giúp cho các công nhân Mỹ bị mất việc làm do ảnh hưởng của thương ước. Sự từ chối này làm chính quyền Obama thêm khó khăn trong việc thỏa thuận với 11 nước khác về TPP.
Ngày 13.06.2015, ứng cử viên Tổng thống trong đảng Dân chủ Hillary Clinton, cựu Ngoại trưởng nhiệm kỳ 1 của Tổng thống Obama, khi tiếp xúc với cử tri đang vận động tranh cử ở bang Iowa, đã kêu gọi ông Obama hãy lắng nghe tiếng nói từ các dân cử cùng đảng, để bảo đảm TPP khi thành hình sẽ có lợi cho kinh tế quốc gia và cho công nhân Hoa Kỳ. Nếu những đòi hỏi đó không được đáp ứng, thì cách tốt nhất là đừng ký kết hiệp định.
Kết luận : Có hai câu hỏi :
1.- Tổng thống Hoa kỳ Barack Obama có kịp thấy TPP thành hình trước khi chấm dứt nhiệm kỷ ngày 20.01.2017 không ?
2.- Trước sức ép của Hoa kỳ về Dân chủ và Nhân quyền (trong quá khứ, chỉ là ‘chiêu bài bài’), đảng Cộng sản Việt Nam có đồng ý cải thiện thật sự không ? Nên nhớ, Đại hội Đảng đã gần kề 2016 và thời điểm 2020 không còn xa đâu. Việt Nam thật sự nếu có TPP thì họ tuyên truyền là Việt Nam có dân chủ và nhân quyền và các nhóm lợi ích thu thêm quyền và tiền. Nếu không có TPP, thì họ được Tàu gia tăng buôn bán không những hàng hóa, dịch dụ mà còn đất biển nữa.
Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP, Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement, tiếng Anh và Accord de partenariat transpacifique, tiếng Pháp) là một thỏa thuận thương mại tự do với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực Á châu - Thái Bình Dương. Hiệp định, thoạt tiên, được sự đồng thuận giữa các quốc gia : Brunei, Chí lợi (Chile), Tân tây lan (New Zealand) và Tân gia ba (Singapore) ngày 03.06.2005, có hiệu lực từ ngày 28.05.2006. Sau đó, 5 nước tham gia đàm phán để gia nhập là: Uùc đại lợi (Australia), Mã lai (Malaysia), Peru, Hoa kỳ, và Việt Nam. Ngày 14.11.2010, cuối Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác Kinh tế (APEC, Asia-Pacific Economic Cooperation, tiếng Anh và Coopération économique pour l’Asie-Pacifique, tiếng Pháp) tại Nhật bản, lãnh đạo 10 quốc gia (9 nước trên và Nhật bản, Japan) đã tán thành lời đề nghị của Tổng thống Obama về việc thiết lập mục tiêu các cuộc đàm phán tại kỳ Thượng đỉnh APEC năm 2011 tại Hoa kỳ. Sau cùng, Mễ tây cơ (Mexico) và Gia nã đại (Canada) cũng tham gia đêă đưa tổng số nước dự tuyển là 12. Từ đó đến nay, đã có 20 vòng đàm phán mà việc hình thành vẫn chưa xong.
Trong thời gian gần đây, Tổng thống Barack Obama cho biết các quan chức Trung quốc đã ngỏ ý muốn tham gia Hiệp định này. Đây là điều đã không được dự trù trước vì ý đồ Mỹ khi hình thành TPP là để tái cân bằng về lực lượng chính trị, quân sự và kinh tế, trong đó có thương mại ở Á châu. Trong 12 quốc gia đang thương thảo để thành hình TPP thì 11 đang là nước tư bản, chỉ duy có Việt Nam là nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, Hoa kỳ mặc nhiên được coi là đại diện các nước khác để đặt vấn đề nhân quyền và quyền lao động tại các doanh nghiệp nhà nước, nơi mà chỉ có công đoàn của đảng cộng sản chèn ép công nhân để có giá thành thấp. Về dân số, Việt Nam đứng thứ tư sau Mỹ, Mexico, Canada nhưng về Tổng sản lượng nội địa (TSLNĐ) {Gross Domestic Product (GDP), tiếng Anh và Produit Intérieur Brut (PIB), tiếng Pháp} lại nhỏ nhất.
Mục tiêu TPP là nhằm giảm bớt các loại thuế xuất nhập cảng giữa các nước thành viên và thỏa thuận toàn diện các khía cạnh chính của một hiệp định thương mại tự do, bao gồm trao đổi hàng hóa, các quy định về xuất xứ, can thiệp, rào cản kỹ thuật, trao đổi dịch vụ, vấn đề sở hữu trí tuệ, các chính sách của chính quyền... Đây là những điều khoản mang tính chuyên môn, do đó, trong bài này, chúng ta chỉ đề cập đến những hứa hẹn mà Nhà nước dân chủ Hoa kỳ đặt ra cho Nhà nước cộng sản Việt Nam nhằm tạo sự bình đẳng mậu dịch giữa các quốc gia thành viên tương lai.
I./ NHỮNG ĐIỂM KHÁC NHAU GIỮA VIỆT NAM VÀ HOA KỲ.
A. Về nền kinh tế.
1./ Việt Nam áp dụng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tương tự Trung cộng, hai quốc gia thực thi duy nhất trên thế giới, tức một cơ chế quản lý kinh tế được đảng Cộng sản Việt triển khai trong nước từ thập niên 1990 và việc thực thi nó cũng được ghi vào Hiến pháp (Điều 51). Các kinh tế gia đảng chỉ có thể hiểu đây là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sau 20 năm thi hành, kết quả hoàn toàn trái ngược :
- nợ công gia tăng 50-60% so với TSLQN theo Bộ Tài chính nhưng các chuyên viên ngoại quốc ước tính trên 106%, theo tiêu chuẩn Ngân hàng Thế giới đặt ra. Đồng hồ nợ công toàn cầu (Global debt clock) ngày 03.05.2015 ghi nợ công Việt Nam đã lên tới 89,07 tỷ mỹ kim, tăng 3 tỷ trong vòng 5 tháng. Tính trung bình, người Việt Nam hiện gánh nợ này hơn 979,77 mỹ kim. Ngày 03.09.2014, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Văn Nên cho biết phải phát hành khoảng 1 tỷ mỹ kim trái phiếu quốc tế vì không có ngoại tệ để thanh toán nợ đáo hạn ;
- Trong báo cáo triển vọng hệ thống Ngân hàng Việt Nam năm 1914 của Công ty thẩm lượng tín dụng Moody ngày 18.02.1914 đánh giá tỷ lệ nợ xấu gần 15% tổng số dư nợ, thay vì chỉ 4,70% như Ngân hàng Nhà nước công bố tháng 10/2013. Chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành ở Hà nội nói với Phóng viên Nam Nguyên (RFA) ngày 19.08.2014: « Hiện giờ theo những thông tư được biết thì Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các ngân hàng phải khai báo đầy đủ những nợ khó đòi và nợ xấu… nhưng ngân hàng không làm. Cho nên tỷ lệ nợ xấu nợ khó đòi 7%, 8%, 9% hay 15%, 17% chẳng ai biết rõ được.
- Với những con số thống kê bất nhất như vậy, cựu Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã nhận định ‘Các con số Việt Nam cứ thế nào ấy. Tôi không dám tin. Thế mà chúng ta lại đem số liệu đấy ra phân tích nữa thì chắc là càng không đúng’ khi nghe Báo cáo thống kê nửa chặng đường phát triển kinh tế Việt Nam trong 5 năm 2011-2015. Khi lý giải nguyên nhân tại sao nền kinh tế nước nhà suy giảm, rất ít người phân tích những sai lầm chủ quan, thường viện vào 2 lý do : tác động bên ngoài (kinh tế thế giới khó khăn) và những vấn đề nội tại bên trong. Tuy đúng nhưng không phải trọng yếu. Kinh tế thế giới khó khăn, vẫn có các nước trong khu vực cùng chịu ảnh hưởng như chúng ta nhưng lại không bị tác động mạnh. Về các vấn đề nội tại khó khăn là chuyện đã hàng chục năm nay, chứ có phải là mới đâu. Vì vậy nếu chỉ lý giải dựa trên hai lý do này thì chưa đủ’, ông Khoan nhận định (báo Dân Việt, 24.09.2013).
Để đơn giản hóa sự tìm hiểu, chúng ta có thể nói : cụm từ ‘kinh tế thị trường’ chỉ để cho thấy Việt Nam cũng có một nền kinh tế như những nước khác, nhưng ‘xã hội chủ nghĩa’ có nghĩa là ‘cộng sản’, tức ‘công hữu tài sản’ làm cho mọi người sợ. Trong thực tế, chiêu bài ‘đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước quản lý’ đã tạo dịp để đảng viên tham nhũng tràn lan, gây cảnh ‘dân oan’ phải đổ máu và thiệt mạng khắp nước.
2./ Hoa kỳ, cũng như các nước dự tuyển TPP, đều áp dụng nền kinh tế thị trường. Theo đó, các sinh hoạt kinh tế đều do tư nhân vận dụng theo định luật ‘cung cầu’ (loi d’offre et et demande) tức xí nghiệp sản xuất (cung) hàng hóa khi có người mua (cầu). Quyền tư hữu các phương tiện sản xuất được xã hội và pháp luật bảo vệ, sự chuyển đổi quyền này phải thông qua giao dịch dân sự được pháp luật và xã hội quy định. Cá nhân dùng sở hữu tư nhân để tự do kinh doanh bằng hình thức các công ty tư để thu lợi nhuận thông qua cạnh tranh trong các điều kiện thị trường tự do: mọi sự phân chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần tham gia vào quá trình kinh tế. Các công ty này là thành thành phần kinh tế tư nhân, chủ yếu của nền kinh tế tư bản.
B. Tổ chức công quyền.
1./ Hoa kỳ thực thi Tam quyền phân lập, tức quyền lực quản lý nhà nước được chia làm ba Lập pháp (làm luật), Hành pháp (thi hành luật) và Tư pháp (xét xử các hành vi phạm luật) nhằm mục tiêu kiềm chế quyền lực để hạn chế lạm quyền, bảo vệ tự do và công bằng trước pháp luật. Những quyền này được trao cho ba cơ quan khác nhau, độc lập nhưng không biệt lập với nhau : Quốc hội, Chính phủ và hệ thống Tòa án các cấp. Do không biệt lập, các cơ quan này có thể kiểm tra và giám sát hoạt động lẫn nhau. Trong thể chế này, không một cơ quan hay cá nhân nào có quyền lực tuyệt đối trong sinh hoạt chính trị quốc gia. Ngoài ra, Hoa kỳ có hệ thống chính trị đa đảng với lưỡng đảng (Cộng hòa và Dân chủ) đủ mạnh để thực thi nguyên tắc Đa số và Thiểu số, hay Đối lập tại cơ quan Lập pháp.
2./ Việt Nam có độc đảng Cộng sản, toàn quyền nhưng vô trách nhiệm. Đảng ban chức quyền cho nhân viên các cơ quan, hầu hết đều có đảng tịch. Đa số vừa làm luật lẫn thi hành luật hay vừa làm luật kiêm nhiệm xử án. Điều đó chứng minh không có dân chủ ở Việt Nam vì người dân có quyền bầu trực tiếp đâu. Điều 2.3 Hiến pháp 2013 quy định: ề Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, tư pháp, hành pháp Ừ. Hiện nay, bộ máy nhà nước được tổ chức theo hướng tập trung quyền lực tuyệt đối vào đảng Cộng sản cầm quyền. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định ‘Nhà nước ta không tam quyền phân lập’.
II./ TIẾN TRÌNH BUÔN BÁN GIỮA MỸ VÀ VIỆT NAM CỘNG SẢN.
A./ Hiệp ước Thương mại Song phương (United States-Vietnam Bilateral Trade Agreement, BTA). Để ký được hiệp định này, hai nước đã phải mất tới 5 năm với 11 vòng đàm phán: Vòng 1 bắt đầu từ ngày 21.01.1996 tại Hà nội đến vòng 11 ngày 03.07.2000 tại Washington để hoàn tất và được ký kết ngày ngày 13.07.2000 tại thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, Hiệp ước Thương mại này được chuyển qua Quốc hội để phê chuẩn.
Lúc đó, Việt Nam chưa là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO: World Trade Organization), lại muốn hưởng những điều kiện buôn bán bình thường với Hoa kỳ, nên cần phải có một Thương ước. Hiệp ước Thương mại song phương đó đòi hỏi phài có sự phê chuẩn của Quốc hội. Quốc hội Hoa kỳ, để rõ sự việc trước khi biểu thảo luận, đã tham ý Ủy ban Hoa kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế, cơ quan có nhiệm vụ cố vấn Hành pháp và Lập pháp về tình trạng vi phạm Tự do Tôn giáo trên thế giới. Vì thế, Uũy ban đã mời nhiều thuyết trình viên nguời Việt lẫn ngoại quốc, trong có Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý và Thượng tọa Thích Thái Hòa ở Việt Nam tham gia cuộc điều trần ngày 13.02.2001. Sau phiên điều trần, Uũy ban đưa ra các khuyến cáo giới cầm quyền Việt Nam mà các điểm chính là:
- Quốc hội chỉ chấp thuận Thương ước Việt-Mỹ sau khi đã thông qua nghị quyết đòi Việt Nam phải cải thiện Tự do Tôn giáo,
- Trả tự do cho tất cả những người bị giam cầm và quản chề vì lý do tôn giáo,
- Các Tôn giáo được tự do hành động (tự quản lý, đề cử lãnh đạo, phân phối các ấn phẩm tôn giáo), thực hiện các công tác giáo dục, từ thiện, nhân đạo.
Sau đó, Ban Đối thoại với Việt Nam Quốc hội lại mời Linh mục Lý điều trần tại Hạ nghị viện vào ngày 16.05.2001 (giờ Washington). Do Cha vẫn không thể đến được, Mục sư Kiều tuấn Nam, thay mặt để đọc bản điều trần của Cha. Đáp câu hỏi mà các Dân biểu Mỹ đã đặt cho những nhân vật Việt ở trong và ngoài nước và người ngoại quốc ‘Quốc hội Hoa kỳ có nên phê chuẩn Hiệp ước Thương mại Song phương (BTA) với Việt Nam vào mùa Xuân 2001 không ? Việc này sẽ ảnh hưởng thế nào đến Tự do Tôn giáo tại Việt Nam’. Nhiều vị được mời tham vấn đã không trả lời câu hỏi này, nhưng Cha Lý đã viết : ề Là một nhà tu hành, không chuyên môn về vấn đề thương mại và chính trị, chỉ đứng trên quan điểm một người Việt, yêu Tổ quốc nồng nàn và thiết tha đến nhân quyền của đồng bào, tôi xin đóng góp các ý kiến thô thiển như sau:
1. Việt Nam rất cần BTA để phát triển kinh tế. Trên nguyên tắc, tôi thiết tha mong ước nước tôi được các nước tin cậy, trong đó có Hoa kỳ, để nước tôi được sớm giàu mạnh, dân tộc tôi được no ấm hạnh phúc, đồng bào tôi được văn minh và phát triển về mọi mặt.
2. Nhưng nếu cộng sản Việt Nam (CSVN) vẫn duy trì chế độ toàn trị độc đoán, không tôn trọng các quyền tự do cơ bản của dân chúng, mà Hoa kỳ tạo thêm điều kiện thuận lợi cho CSVN duy trì việc cai trị độc đoán nầy, thì Hoa kỳ chỉ giúp cho thiểu số đang cầm quyền thêm thuận lợi, kéo dài đau khổ cho Dân tộc chúng tôi, còn thực tế tuyệt đại đa số người dân thấp cổ bé miệng chúng tôi chỉ hưởng được đôi điều rất ít ỏi không đáng kể do BTA nhưng phải oằn vai gánh chịu kiếp đọa đày áp bức lâu dài thêm.
3. Về việc ký kết và phê chuẩn các Hiệp ước với CSVN thì tôi thiết tha kêu gọi Hoa kỳ không nên tin vào sự ngay thẳng giả tạo của CSVN như chính Hoa Kỳ đã kinh nghiệm một cách chua cay trong nhiều năm qua.
4. CSVN đã ký rất nhiều Hiệp ước về Nhân quyền, nhưng không thực tâm tuân giữ, chỉ muốn ký để lừa gạt cộng đồng quốc tế mà thôi. Nếu các Tổ chức Nhân quyền Quốc tế dễ dàng chấp thuận cho CSVN ký kết thì tạo nên 3 hậu quả tai hại : Thứ nhất, làm cớ cho CSVN rêu rao rằng họ đang có đầy đủ nhân quyền, tạo nên một hình ảnh không trung thực về CSVN. Thứ hai, làm giảm uy tín các Tổ chức này vì đã tỏ ra quá ngây ngô nhẹ dạ, bị CSVN lừa gạt quá dễ dàng. Thứ ba, có tội lớn với nhân dân Việt Nam vì tiếp tay cho CSVN tiếp tục cai trị dân chúng trong độc đoán áp bức, biết đến bao giờ mới chấm dứt. Ví dụ, CSVN đã ký tên xin gia nhập Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị ngày 24.09.1982, nhưng những điều 18, 19 về quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tư do ngôn luận, không họ bao giờ tuân thủ.
5. Vì vậy, nếu Hoa kỳ thật lòng yêu thương Dân tộc quá bất hạnh thương đau của chúng tôi, thật lòng quan tâm đến vấn đề nhân quyền, và đặc biệt là quyền tự do tôn giáo trên đất nước chúng tôi, thì Hoa kỳ không nên tiếp tay làm cho CSVN kéo dài thêm chế độ độc đoán toàn trị mà nên : vừa ngưng ngay những hiệp ước tai hại, vừa tìm mọi cách gây sức ép để Việt Nam sớm có dân chủ, tự do thực sự ».
Chỉ vài giờ sau đó, Linh mục Lý bị 600 công an đến bắt khi Cha đang chuẩn bị dâng Thánh Lễ sáng ngày 17.05.2001, khoảng 6 giờ. Ngày 19.10.2001, tòa án ở Huế đã tuyên phạt Cha 15 năm tù và 5 năm quản chế vì phạm tội ‘phá hoại đoàn kết quốc gia’ và ‘không tuân theo lệnh quản chế hành chánh’. Nhiều người Công Giáo, giáo sĩ lẫn giáo dân, vì lý do nào đó, đã kết luận: Linh mục Lý làm chính trị. Thời gian trôi qua, đến nay, những điều Cha đã tiên tri đã trở thành Sự Thật: BTA có giúp kinh tế Việt Nam tăng trưởng, nhưng tiền lời chỉ chạy vào tay những kẻ nằm trong các nhóm lợi ích. Người nghèo ngày càng thiếu ăn, nhà cửa họ bị bọn tư bản đỏ thuê đảng viên cầm quyền sai công an và côn đồ cướp phá. Nếu chống lại, nhân danh luật rừng, chúng thẳng tay đánh đập và, trong nhiều trường hợp, giết chết nạn nhân. Trước kia, các Cha Dòng Chúa Cứu thế đã hiệp dâng Thánh Lễ để cầu nguyện Công lý và Hòa bình, nhưng từ vài tháng nay, Nhà Dòng với Bề trên Giám tỉnh mới, Thánh Lễ cầu nguyện đặc biệt này đã bị ngưng…
Trước áp lực của hành và lập pháp các quốc gia tây phương và các tổ chức phi chính phủ, Cha Tađêô Nguyễn Văn Lý đã được trả tự do ngày 01.02.2005, nhưng phải bị quản chế tại Nhà Chung Tòa Tổng Giám mục Huế.
Trong những buổi chiều vào các trang mạng đọc tin, có nhều lần tôi đã phải lặng lẽ, ngồi bất động, rồi nước mắt đã lăn dài chỉ sau mây dòng chữ. Những dòng chữ mà tôi tin rằng có nhiều bạn đã từng đọc qua. Hoặc giả, là chứng nhân của những dòng chữ ấy. Như thế, theo bạn, quê hương Việt Nam của chúng ta bây giờ ra sao? Ở đó có là yên vui, có là hạnh phúc? Hay sau 40 năm, từ khi những "đôi dép râu đạp nát đời son trê" và những " chiếc mũ tai bèo phủ kín tương lai" tung hoành bá đạo, quê hương ta đã mất dấu, đã hoàn toàn đỗi thay?
Đổi từ diện mạo đến con người. Đổi từ hạnh phúc sang đau thương. Đổi từ yêu thương ra thù hận. Từ nụ cười dấu ái ra nước măt đắng cay? Đổi từ sự trung thành ra phản bội, từ thuần lương ra gian trá, để tất cả cuốn theo dòng thác cách mạng Việt cộng, tạo nên mọi loại tội ác, nhấn chìm cuộc sống hiền lương của xã hội. Để ở đó, nước mắt của những " thiên thần" chưa kịp nhỏ xuống để khóc thương cho một đất nước không còn lẽ sống, không còn nhân bản, đạo nghĩa thì đã phải lìa đời. Ở đó, ngưòi chưa kịp cất tiếng khóc cho một Việt Nam đang bị Tàu hóa và lấn chiếm thì đã mất cuộc sống. Ơ đó, có biết bao nhiêu là "thiên thần", có thể là những tài hoa của đất nước, chưa một lần nhìn thấy mặt cha mẹ thì đã bị đẩy vào đáy huyệt trong nền văn hóa của sự chết. Là nền văn hóa không còn lương tri để biết phân biệt thiện ác. Là nền văn hóa chỉ duy có ác tính là tồn tại và lên ngôi với những giáo điều đa trá và bội phản của cộng sản.
Theo đó, bài viết này không phải là mới mẻ. Trái lại chỉ là sự góp nhặt một số câu chuyện, một số bài viết trên các trang mạng mà thôi. Nó được góp nhặt lại để cho thấy xã hội của chúng ta đã bị tàn phá ra sao dưới chế độ cộng sản. Để hỏi bạn xem, chúng ta phải làm gì, ngõ hầu, có thể giảm bớt được phần nào những đau thương. Đau thương như tội ác đang mỗi ngày nhấn chìm, xóa sổ yêu thương ở trên quê hương mến yêu của chúng ta. Đau thương vì ở đó, con người hầu như đang mất dần ý niệm về tội ác!: "Có bầu lần 2 với bạn, T. lại đi phá thai chui để giải quyết "hậu quả" đã được 18 tuần tuổi với suy nghĩ "thai chưa lớn mấy, phá có sao đâu, với lại bọn em còn đi học,( trích)."!.
Cha ông ta, từ xưa quan niệm rằng, đời người là một cuộc sống được chuyển hóa qua bốn gian đoạn: Sinh, Bệnh, Lão, Tử. và luôn gắn bó với những Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Dục. Quả thật, cuộc đời của mỗi người dù dài hay ngắn đều trải qua bốn giai đoạn này. Bệnh tật thì đến với con người nhiều lần trong đời, nhưng không ai có hai lần sinh và hai lần chết! Từ đó, cuộc sinh, sự sống là ân huệ đặc biệt của Tạo Hóa trao ban. Ngày nay, không phải quan niệm của cha ông ta đã sai đi. Nhưng xem ra, nó đã bị làm cho sai đi trong rất rất nhiều trường hợp. Đặc biệt, dưới chế độ cộng sản, khi đời sống con người được tổ chức và điều hành theo thuyết Tam Vô thì chữ sai kia càng lúc càng lớn dần. Nó lớn dần với cấp số cộng theo từng ngày tháng nó tồn tại. Hoặc gỉa, tăng theo một cấp số nhân đáng sợ hãi. Nhưng còn tồi tệ hơn cả cái cấp số kia là tỷ lệ phá thai gia tăng rất nhanh ở lứa tuổi vị thành niên. Đã thế, nó còn tăng song hành với những loại tội đại ác trong gia đình, trong xã hội và không có bất cứ một dấu hiệu nào cho thấy là nó sẽ đảo chiều hay ngừng lại!.
I. Những chứng từ đau thương của thời đại.
Dười đây là một số những trích đoạn, ghi nhận thực tế theo nhiều bài viết rải rác trên các trang mạng như Tin Mới (online), " Ở cùng một thành phố, nếu như ngày ngày bác sỹ C.miệt mài trong công việc nạo, vét, phá thai... thì có một phụ nữ nghèo ngày ngày lui tới các phòng khám , xin những thai nhi bị bỏ rơi, bị giết ấy về chôn cất ngay trong mảnh đất nhà mình. Người phụ nữ ấy là bà là Nguyễn thị Nhiệm, 53 tuổi trú tại xóm Đồi Cốc, Sóc Sơn, Hà
Theo những câu chuyện đã đăng tải trên mạng, nghĩa trang này mỗi ngày nhận khoảng 20 thai ni. Vào những ngày cuối tuần, con số có thể lên đến 50-70 thai nhi một ngày. Theo lời bà Nhiệm "Có lần lên đến đĩnh diểm, 3 cái xe cải tiến đầy thai nhi. Ai nhìn thấy cũng phải xót xa, đứt ruột"! Ngoài việc tự đi thu lượm thai nhi, bà Nhiệm còn tiếp nhận hàng trăm thai nhi từ nhóm Thiện Nguyện đi thu, lượm về từ các phòng nạo, hút thai trên địa bàn Hà Nội. "Những sinh linh vô tội này được bà tắm rửa, khâm liệm với sự phụ giúp của ông Nguyễn văn Thạo, chồng bà. Tất cả cùng được mai táng chung với hàng nghìn thai nhi khác" Cũng theo lời bà và những nhân viên thiện nguyện khác thì: "hầu hết hài nhi vì bị phá bỏ, nên khi về đến đây hầu như tất cả không còn nguyên vẹn. Có cháu bị cắt ra, làm nát ra để đưa ra cho dễ dàng..." Nhưng dù thai nhi có bị bể nát cách nào chăng nữa, khi tẩm liệm, Bà Nhiệm không bao giờ quên đặt cho mỗi một cháu bé một tên Thánh. Đặt một lần và có khi cũng chẳng có dịp gọi lại.
Chuyện được kể là, khi mới khởi đầu, những cuộc chôn cất thai nhi ở Đồi Cốc thường được tổ chức riêng rẽ, hay theo từng nhóm nhỏ. Đến thời gian gần đây, vì nhiều lý do, các thai nhì mang về Đồi Cốc không được chôn cất riêng rẽ. Trái lại, "sau khi đã được tắm rữa và khâm liệm, các thai nhi được bảo quản trong tủ đông lạnh. Tới khi đủ con số 1000, bà Nhiệm mới cho vào các tiểu sành rồi xây một ngôi mộ lớn để mai táng chung một lần." Theo lời cô Lập, một trong bảy người đàn bà đầu tiên phụ giúp bà Nhiệm làm công việc tắm rửa thai nhi, vừa lau nước mắt vừa kể: " Có trường hợp em lớn, hôm trước mang về một nửa, hôm sau nửakia mới được mang về. Chúng tôi lại phải ngồi ghép các tay, chân, mặt... các cháu cho đầy đủ rồi mới đem khâm liệm, chôn cất. Các em bốn, năm tháng là thành hình, có tay, có chân đầy đủ, thậm chí phân biệt được trai hay gái rồi. Có em bị tiêm thuốc, người tím đen lại. Có em khi ra phải làm thủ thuật, không còn lành lặn nữa. Đau xót nữa là trường hợp các em bảy, tám tháng, khi về đây vẫn còn nóng hổi, bế trên tay vẫn còn thoi thóp thở, vẫn còn nấc nấc. Nhưng bệnh viện họ đã tiêm thuốc rồi, không cứu được nữa".Về các trường hợp phá thai được nhận định chung như sau: "Đa số là vì lợ lầm, Nhưng dã man hơn, có trường hợp cả bố mẹ đẻ đưa con gái đi phá thai vì sợ ảnh hưởng đến danh dự của gia đình.".
Tưởng cũng nên ghi lại đôi dòng về bà Nguyễn thị Nhiệm. Bà là người Công Gíáo ở Đồi Cốc. Lúc đầu, khi mới tự làm công việc chôn cất các thai nhi bị vất vào xọt rác, bị bỏ trên lề đường, bờ lau, bụi cỏ, bà Nhiệm gặp phải sự dèm pha của nhiều người trong làng. Khen ít chê nhiều. Đi đâu trong làng cũng thấy người ta bàn tán về câu chuyện của bà:"Họ bảo tôi tâm thần, gàn dở, nên mới làm việc này. Ai đời tự dưng lại vác thêm một cái nghĩa trang về làng, người lành lặn thì không sao, biết đâu có những em bé bố mẹ nhiễm bệnh, hóa ra là mang bệnh về, rồi còn gây ô nhiễm môi trường chung". Dù biết những người chung quanh chẳng có nhiều thiện cảm với công việc của mình, lại còn phải chuốc lấy những lời lẽ không hay từ những người chung quanh. Nhưng bà kể, " mỗi lần nghĩ tới cái sinh linh bé bỏng bị vứt vào thùng rác, bị thú nuôi tha đi khắp nơi, bà lại không cầm được nước mắt". Rồi vượt lên trên tất cả những lời dị nghị, bà quyết tâm làm thật tốt công việc này.
Mãi sau này, người ta mới nhận ra công việc của bà là một việc làm tử tể, tốt bụng, cần phải làm. Nếu như không muốn nói là đầy tính nhân bản và lòng thương người theo tinh thần của tôn giáo. Những lời ong tiếng ve mất dần, không còn. Thay vào đó là một nhóm những ngưòi có lòng nhân hậu trong xóm gặp nhau. Trước tiên, nước mắt họ bắt đầu rơi xuống trên những hình hài vô tri chết đau thương, cô quanh. Kế đến, họ cùng xăn tay áo lên, phụ làm công việc tắm rửa, chôn cát các thai nhi với bà Nhiệm. Khi làm công việc này, họ không lập hội hè với biên bản gian trá như nhà nưóc Việt cộng. Trái lại, cùng chung lòng ,chung sức bên nhau theo khả năng của mỗi người để xây dựng lại tinh thần nhân nghĩa, đạo hạnh cho đời. Kết quả, một nhóm có tên gọi " Bảo vệ sự Sống" đã ra đời. Họ hoạt động bàng tấm lòng nhân ái, bằng bàn tay, bằng công sức của họ từ ngày này qua ngày khác mà không một đòi hỏi bất cứ một chút lợi nhuận nào, dù nhỏ.
Cũng theo câu chyện, các bài viết. Lúc đầu nghĩa trang chỉ có một nửa sào ruộng được trích ra từ ruộng đất của bà Nhiệm, đến nay nghĩa trang đã rộng hơn nhưng cũng không thể đáp ứng đủ nhu cầu. Bà cho biết: "Đất của nhà tôi bỏ ra, cộng với số đất của làng cho thêm, tổng diện tích nghĩa trang này hiện rộng ngót 2 sào. Chúng tôi cũng sắp phải cơi nới thêm ra bởi nó đã chật lắm rồi". Phải đất đã chật lắm rồi và những giọt nưóc mắt của người không ngừng rơi xuống trên những thai nhi. Ai cũng đau xót, nhưng xem ra công viêc tẩm liệm thai nhi của bà mỗi ngày một thêm nhiều hơn. Lý do, nhà nước Việt cộng đã không có bất cứ một phương cách nào để có thể làm giảm bớt số thai nhi bị vất bỏ bên lề đường, bui cỏ, thùng rác hay cho chạy vào ống cống, bồn cầu. Trái lại, tập thể cộng sản này, ngày càng đẩy mạnh việc thi hành chính sách vô đạo, bất nhân bất nghĩa bằng cách thúc dục mọi giới, mọi cấp, học tập theo gương "đạo đức Hồ chí Minh" là một thứ đạo đức giết vợ đợ con, một thứ đạo đức đặt nền tảng trên cơ sở phản luân lý, phản nhân tính của con người. Với lối giáo dục này, chúng muốn triệt phá đời sống căn bản của các gia đình, lôi trẻ ra khỏi gia đình. Đẩy chúng vào đoàn thiếu nhi "bác hồ", vào đoàn vào đảng, rồi cùng nhau tiêu diệt nền luân lý và đạo đức xã hội. Kết qủa càng ngày càng có nhiều thai nhi phải chết trứơc khi được sinh ra.
Theo câu chuyện được kể lại, bà Nhiệm không biết đi xe máy nên chồng bà, ông Nguyển văn Thạo, sau này đã thay vợ đi thu gom các bé về để mai táng. Ông kể : "Mỗi lần đỡ các bé ra khỏi các túi ni lon, bà đều xúc động tới mức chưa thể đem chôn ngay được, cứ đứng lặng người ngắm các bé rồi nước mắt giọt ngắn giọt dài." Tuy nhiên, dù trời nắng trời mưa, thậm chí bão bùng, bà Nhiệm vẫn động viên chồng đi gom các cháu về đều đặn. Bà ngậm ngùi: "Mỗi ngày có hàng bao nhiêu cháu cần được chôn cất, mình mà không đi để các cháu phơi ngoài trời, sương gió, cho chó cắn mèo tha, ruồi bu kiến đậu... tôi không đành lòng".Phần ông Thạo, cũng có tấm lòng thật quảng đại với những thân phận thai nhi xấu số. Ông kể: " Có những đêm ông không ngủ được. Những cái tên ông bà đặt cho trẻ, những hình ảnh của các hài nhi cứ ám ảnh ông. Có những đêm mưa, đêm tăng sao, tôi nghe như có tiếng trẻ con gọi văng vẳng trong tai, tôi ngồi bật dậy, tôi khóc khi nghĩ đến chúng..."
Ở Hà Nội, không phải chỉ có Đồi Cốc, một nghĩa trang mà hôm nay có lẽ con số đã lên đến cả 100,000 thai nhi. Gần đó, xã Liên Châu, Thanh Oai, cũng có một người tên Nguyễn Văn Nho, ông Sinh, cô Ất... nhiều năm qua cũng tự nguyện làm công việc thật lạ đời. Đầu tiên, ông Nho một mình đến các bệnh viện, phòng khám tư để xin xác hài nhi mang về chôn cất. Sau này thêm những người từ tâm thiện nguyện trợ giúp. Sau mấy năm, ngôi mộ ông mới xây ngày nào giờ đã là nơi yên nghỉ cho hàng vạn " thiên thần bè nhỏ" xấu số. Ông bấm ngón tay và bảo " gần 25 nghìn hài nhi được chúng tôi và anh em thiện nguyện đi thu gom khắp các phòng phá thai, bệnh viện trên địa bàn Hà Nội trong 6 năm trời, đưa về chôn cất và hương khói tại một ngôi mộ tập thể. Đây là nơi chôn cất những hài nhi vô tội bị tước đoạt sự sống, quyền làm người từ khi còn trong bụng me". Những con số này làm chúng ta kinh hoàng ư? Thật ra, chỉ là một phần nhỏ trong tổng số những bào thai bị phá bỏ và được những người hảo tâm thu nhặt về để chôn cất mà thôi. Phần lớn, đều được bác sỹ của nhà nước Việt cộng và bệnh viện, cơ sở cạo, nạo hút chính thức do nhà nước này điều hành đã cho giật nước cầu tiêu để đưa thai nhi vào đường cống thải, sau khi đã dùng thủ thuật để phá thai cho các khách hàng
Về đây, nếu gặp, ông Sinh, cô Ất, bạn sẽ được nghe những câu chuyện đứt cả ruột gan: "Có những hôm trời mưa như trút nước, chúng tôi tưởng chừng không thể mang các em về được nơi chôn cất. Chiếc túi nilon màu đen đựng thi thể các em cũng lõng bõng nước mưah..."... ."Cũng có trường hợp, khi tôi mở túi ra, thì bên trong vẫn có những hài nhi còn thoi thóp thở như đang cố gắng níu lại chút hơi thở yếu đuối, cố gắng để được nhìn thấy ánh sáng mặt trời và hi vọng mình cũng sẽ có cơ hội làm người. Thế nhưng... chúng tôi vẫn chậm, cơn mưa cùng với sự vô tâm của một số người đã cướp đi quyền làm người của các em".
Cách Hà Nội không xa là Nghĩa Thắng, một trong những xã nghèo miền biển thuộc huyện Nghĩa Hưng, Nam Định. Ở đó có xóm đạo nhỏ bé mang tên Quần Vinh. Người dân ở đây làm đủ mọi nghề để kiếm sống. Có nhiều gia đình bươn chải, vật lộn với sóng biển, gió cát để mưu sinh. Nhưng về Quần Vinh, hỏi gia đình ông Bao thì ai cũng biết. Người trong vùng gọi ông bằng cái tên rất đặc biệt "người cứu rỗi những linh hồn". Ông Vũ ngọc Bao, nay đã 60 ngoài, khiêm cung trong công việc bé nhỏ mỗi ngày. Ông kể: "Đời cư dân biển chẳng khác nào con nước ròng, nước lớn. Đối với ngư dân đánh cá, họ phải luôn đối chọi với bão tố ập đến bất cứ lúc nào. Có nhà cũng đã phải bán ghe để tìm nghề khác kiếm sống". Nhưng vì lý do nào ông bỏ nghề biển, có phải vì ông :"muốn cứu rồi những linh hồn " không? Không. Không phải thế!
Sau nhiều năm lênh đênh trên biển, ông đã từ giã cái thuyền và chuyển sang nghề cải táng mộ. Khi bước vào nghề mới, ông bắt gặp cảnh ngộ, không nguy hiểm như đi biển, mà là đầy nước mắt. Ông nói " tôi thấy những hài nhi xấu số bị bỏ trong những túi nilong, hoặc quấn vải thả xuống nước, nhưng lại không trôi ra biển mà cứ mắc lại, trôi dạt vào bờ sông và cồn cát. Tự nhiên, nước mắt rơi. Vậy là hàng ngày, ông đi gom lại, tự làm nghi thức chôn cất của người Công Giáo cho xác thai nhi và chôn cất em." Theo ông, những hài nhi này phần nhiều là từ cơ sở nạo phá thai tư nhân, hay của nhà nước tại xã thải ra theo đường ống cống. Nó đã không theo dòng sông trôi ra bể, nhưng lại vướng vào bụi cỏ, bờ cát...
Lúc đầu ông chỉ chôn cất những thai nhi bên bờ lau bụi cỏ, cồn cát. Nhưng về sau, ông đã trực tiếp đến những cơ sở này xin những hài nhi xấu số bị các bà mẹ bỏ rơi, đem về chôn cất ở một góc của nghĩa trang xứ Quần Vinh. Tính đến nay, khoảng 5000 hài nhi xấu số đã được ông khâm liệm, chôn cất. "Tôi gom những hài nhi đó, rồi đi xin những bát hương nhỏ, cho vào đó, gắn xi măng lại, đánh số theo ngày và đem chôn. Những ngày đầu, tôi giấu vợ con và đi chôn vào ban đêm. Nhưng rồi khi làm những nghi thức chôn cất ở một bãi đất trống của nhà dòng thuộc xứ, những người dân xung quanh cũng không đồng ý, vậy là tôi đem về nhà",
Dĩ nhiên, câu chyên về các nghĩa trang Thai Nhi không phải chỉ có bấy nhiêu. Trái lại chỉ là một phần nhỏ, khá nhỏ trong tổng số thật hiện hữu. Bởi vì, trải đều khắp trên mọi phần đất nước. Không có một nơi nào, tỉnh nào, thành phố nào mà không có những Thai Nhi bị bỏ bên đường cho chó mèo, cắn tha, lôi đi. Không nơi nào mà không có những người dân nhân hậu tốt bụng dem những Hài Nhi ấy vào lòng đất trong nỗi niềm xót thương. Và không một nơi nào trên bình diện cả nước mà không có những phòng nạo, cạo, hút thai của nhà nước cũng như của những tên "phù thuỷ tư", cũng là những nhân viên y tế của nhà nước vô đạo CS làm thêm giờ, thi nhau mọc lên để phục vụ cho công tác giết người.
Nhưng có một điều rất đặc biệt và đáng chú ý cần ghi nhận ngay nơi đây là. Trong số tất cả những người tốt bụng làm công việc tẩm liệm, thu lượm nhửng Hài nhi bị bò đi để đem về tắm rửa, tẩm liệm, rồi tìm cho chúng có một nơi an nghỉ thì đã không có bất cứ một người nào ở trong hàng ngũ quan cán, hay là cựu đoàn đảng viên, là cán bộ cộng sản, là những kẻ tham ô, lắm tiền nhiều đất, hoặc giả là thân nhân của họ. Trái lại, chỉ toàn là những người dân nghèo khó mà thôi. Lạ không? Thật ra, chẳng có gì lạ. Trong lòng người dân thì có tình thương mến, tính nhân hậu. Trong lòng đảng viên chỉ có mã tấu và dối trá. Dối trá thì giết người và nhân hậu thì bao che cuộc sống. Đó cũng là lý do tình cơ tôi gặp được một người đang nuôi cô nhi. " cháu " là cháu ngoại của một viên tướng khá thời danh trong hàng ngũ cán cộng hôm nay. Người mẹ đã "lỡ lầm" trong lúc là một sinh viên theo học tại một trường đại học tại miền nam. " hai người", một bên đi làm công tác từ thiện, một bên thì đi phá thai gặp nhau. Cuộc gặp tình cờ nhưng có lẽ là cái duyên sống của đứa trẻ. Kết qủa, bà mẹ trẻ nghe lời khuyên nài, giữ lại bào thai. " cháu " được cứu sống và nay đã hơn 5 tuổi! Bà mẹ trẻ lúc trước thỉnh thoảng có thư thăm hỏi người nuôi cháu. Nhung đứa trẻ vĩnh viễn là trẻ mồ côi.
Về Nha Trang, miền quê hương cát trắng thơ mộng của một miền nam trù phú xưa kia với Nhà Thờ Đá, với con đường Độc Lập dẫn ra biển với hàng thùy dương như mộng như mơ, nay đã không còn. Thay vào đó là những ô cắm dùi, rào ngăn chắn, đất đai bờ biền bị chiếm để dành riêng cho các quan cán cộng và những tên quan thày Tầu, Nga trù ngụ. Người dân đã không còn được thả những bước chân thong thả đến bờ thùy dương năm xưa nữa. Nhưng đau xót hơn, cách TP Nha Trang khoảng 10km là một nghĩa trang chôn cuộc sống của những đứa trẻ chưa được sinh ra. Đó là nơi an nghỉ của hơn 10.000 hài nhi xấu số, không có cơ hội làm người. Nhưng để có một nơi tạm dung này cho các em là hoàn toàn nhờ vào lòng từ tâm của anh Tống Phước Phúc! Người đàn ông " kỳ lạ" tên Tống Phước Phúc đã tự bỏ tiền túi ra mua khu dất nằm bên sườn núi để làm nơi trú ngụ cho linh hồn của các hài nhi. Ông Phước kể " Bước qua cái tuổi tứ tuần rồi, tôi nghĩ đến khi chết tôi cũng chỉ làm một việc làm gom xác hài nhi thôi, những hình hài vô tội đó đối với tôi như một duyên phận, giờ muốn dứt ra cũng không được". Đó là lời tâm sự của anh Tống Phước Phúc, số nhà 45, đường Phương Sài, TP.Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
Vẫn theo những câu chuyện được viết và kể lại, suốt hơn mười năm nay, anh Phúc không chỉ lặng lẽ đi nhặt xác hài nhi, mà anh còn cưu mang nhiều số phận lỡ làng. Đứng trước 10.250 nấm mộ vô danh là những hài nhi xấu số do chính mình lượm lặt, mang về chôn cất, người thợ hồ nhỏ thó có đôi mắt thật hiền hậu, lặng lẽ đốt lên từng nén nhang như muốn suởi ấm cho những linh hồn thơ ngây bé bỏng lạnh gía. Sau ánh mắt nhìn xa vắng, anh bặm môi như nuốt nước mắt vào trong lòng, anh tâm sự: "tôi cũng không ngờ số lượng lại tăng nhanh đến thế, mỗi lần chôn thêm một hài nhi là một lần đau đớn dù chẳng phải ruột thịt gì". Với anh, anh cho rằng, số phận của những Hài Nhi (thai nhi) là vô cùng đen đủi, dẫu như chúng chẳng có một cái tội gì, Có chăng là do xã hội, do tổ chức của nhà nưóc vô lương đã tạo ra một nền giáo dục vô đạo và đẩy xã hội vào những ngày đen tối. Ở đó con ngưòi thật khó mà tránh thoát khỏi kiếp nạn. Nên anh tự bảo lòng là "Hãy yêu thương những linh hồn bé nhỏ bị bỏ rơi kể cả khi chúng đã qua đời, khi chưa được cất một tiếng khóc đã bị vứt bỏ bởi có thể những đứa trẻ tội nghiệp ấy đã gánh thay chúng ta những tai họa ở trần gian, những nặng nợ kiếp người, những hằn thù nhỏ nhen".
Khi lên cao nguyên, không ai không nghe biết đến nghĩa trang Đồng Nhi, Pleiku. Trong nghĩa trang TP Pleiku, có nghĩa trang Đồng Nhi, tên mà những người thu gom thai nhi đem về đây chôn cất đặt cho khu vực riêng biệt này. Chuyện kể là, ở đây là nơi chôn cất hơn 15.000 hài nhi bị chối bỏ trong mấy năm qua. Tất cả hài nhi ở nghĩa trang Đồng Nhi Pleiku (Gia Lai) có chung số phận là bị cha mẹ chối bỏ. Nhiều thi thể em bé khi được phát hiện đã khô hay bị kiến cắn mất một phần. Hàng nghìn ngôi mộ chỉ gắn mấy dòng chữ ghi tên những nhà hảo tâm đã xây nên nơi yên nghỉ này. Năm 1992, Linh Mục Nguyễn Vân Đông (nhà thờ Thăng Thiên, thành phố Pleiku) lập nên nghĩa trang này để các hài nhi bị vứt bỏ có chốn yên nghỉ. Sau này, sức khỏe yếu, cha Đông bàn giao lại cho nhóm 3 người hảo tâm là anh Phụng, anh Lễ và cụ Tâm. Họ đã gắn bó với công việc này hơn mười năm. Họ đã chung tình thương dành cho các sinh linh nhỏ bé, ngày ngày những con người này cùng nhau đi gom nhặt những thai nhi bị chối bỏ, đem về chôn cất. Ba người tự bỏ tiền cá nhân mua quan quách, vật dụng tẩm liệm cho các cháu. Ôi những tấm lòng vàng hiếm hoi!
Rồi Huế, một cái tên như mộng như mơ. Nào là cầu Tràng Tiền, Cột Vân Lâu! Rồi cung điện của nhiều vua quan cấm đạo xưa, nay xem ra đã lùi cả vào dĩ vãng để nổi bật lên những tên tuổi của những thành uỷ viên, hay trung ương CS như những qủy sứ nhập tràng từ sau Mậu Thân như Nguyển đắc Xuân, Hoàng phủ ngọc Tường, Ngọc Phan, thị Trinh... để nơi ấy ngoài những mồ chôn tập thể của người dân Việt vào tết Mậu Thân, giờ lại có thêm những bãi tha ma không chủ. Trong đó, không ai ngờ rằng, theo dòng thác cách mạng Việt cộng vươn lên, nay đã có hơn 42.200 hài nhi bị cha mẹ bỏ rơi từ khi chưa lọt lòng hiện đang yên nghỉ tại nghĩa trang bào thai ở Thừa Thiên – Huế. Đó dĩ nhiên là con số được ghi nhận, chôn cất trong nghĩa trang Anh Hài thôi. Ngoài ra là một con số thật lớn, thật kinh khủng khác đã không được đưa về đây, nhưng đã bị trôi dạt theo các đường ống cống, hay chó tha, mèo gặm, hoặc là theo ngày tháng tự vùi theo cát bụi trong những bờ lau bụi cỏ...
" Anh Năng, người trông coi nghĩa trang Anh Hài (Thừa Thiên - Huế) cho biết: "Nghĩa trang ra đời ngày 2/2/1992, do một số linh mục Giáo phận Huế thành lập. Số lượng mỗi ngày một nhiều. Có ngày chôn tới 20 hài nhi vô tội. Để giảm kinh phí và diện tích đất chôn, những người phụ trách quyết định xây một mộ một tuần và hàng chục hài nhi được chôn chung một mộ. Ngày nào anh Năng cũng "hạ sơn", lặn lội qua đò trên sông Hương rồi về TP Huế dạy thêm môn Anh văn cho học sinh cấp 2 để kiếm thêm thu nhập. Chiều tối về nhà, 'hành trang' của anh thường có xác hài nhi để mang về chôn. Bào thai anh nhận từ những người tình nguyện đi gom hoặc anh tự đi lượm được ở gốc cây, thùng rác.. "( theo Nguyên Bình và Cẩm Quyên)
Một bài thơ than khóc, viết trên những ngôi mộ tí xíu vô danh khiến người đọc phải lặng người, và dòng nước mắt rơi!
Em là thai nhi vô tội
Hiện thân là buồn tủi
Tình yêu tắt lịm rồi
Núi đồi xa xôi
Một đêm lạnh trời sương
Em vấp ngã nơi đây
Em thiếp ngủ không hay
Lá rụng che phủ đầy..."
(Linh mục Phaolo, 11/4/2008)
Vào miền nam, quê hương yêu dấu của đồng bào ta cũng không có gì ngoài đau thương và nước mắt. Câu chuyện ở Hố Nai, Biên Hòa, có lẽ chỉ là một chuyện đơn lẻ, rất nhỏ được ghi nhận lại trên các trang mạng, Nó hẳn nhiên không phải là câu chuyện duy nhất của miền Nam. Bởi vì Sài Gòn, miền yêu dấu xưa kia, nay đã được đổi theo tên của một Satăng nhập tràng là Hồ chí Minh với lời dậy bảo các đoàn đảng viên cộng sản là : "đảng viên là ngọc là vàng của đảng...". Theo đó, muốn thành đoàn đảng viên ngọc ngà của đảng thì phải qua kiểm thảo, mà bài kiểm thảo căn bản lại là" phải công khai tuyên bố căm thù bố mẹ và đoạn tuyệt với bố mẹ..( Đèn cù, trang 74-75). Hồ chí Minh đặt nền móng giáo dục, đào tạo cán bộ, đảng viên CS như thế, xã hội Việt Nam sẽ còn lại gì khi những nhân sự này múa dao, vung liềm buá?
Thử hỏi, với cái định nghĩa này, thì Hồ Quang, tức Hồ chí Minh sẽ là ai đây? Là người, là thần, là qủy nhập tràng chăng? Với một tập đoàn như thế lãnh đạo đất nước thì chuyện Hố Nai, chỉ là một cuộn bóng mờ trong tổng số những trẻ em mất cuộc đời được ghi nhận mà thôi. Ở đây, Linh Mục nguyễn văn Tịch ( giáo xứ Tây Hải, Hố Nai Biên Hòa) người khởi xướng xây dựng nghĩa trang cho biết, " trong một lần đi thăm người bệnh. Lúc trở về, ngài đã bắt gặp hài nhi chết bỏ bên đường. Ngài đã quyết định đưa em về chôn cất". Từ đó, một vuông dất nhỏ không quá 200m2 do một số người hiến tặng, hơn bốn năm nay, đã là nơi an nghỉ cho hơn 7500 những "Thiên Thần bé bỏng" sớm mất cuộc sống...
Trên đây là nhiều đoạn viết của nhiều người, tôi trích, tổng hợp, ghi lại từ các bài viết trên các trang mạng ( xin lỗi là đã không ghi lại hết qúy danh của các tác giả và nơi xuất xứ). Tất cả như là những bằng chứng, những chứng nhân đích thực của " nỗi đau và bất hạnh" của dân tộc Việt Nam trong thời cộng sản. Nó như một chứng liệu xác minh rằng, chính cộng sản là thủ phạm đã tạo nên những oan khiên bất hạnh này cho dân tộc ta. Bởi vì, ở một khía cạnh khác, cùng ngày khi viết về Nghĩa Trang Hài Nhi, tôi mở VNExpress.net, trang mạng thuộc hệ nhà nước cộng sản điều hành và đọc thấy trong mục Pháp Luật của trang mạng này có các tội đại ác liên hệ đến gia đình như sau. ( Bản tin Pháp Luật hôm ấy gồm có khoảng 30 bản tin về các loại tội phạm, thì đã có 6 tội phạm trực tiếp có liên hệ trong gia đình). Nó đã là một bằng chứng chắc chắn khác nữa cho thấy, việc học tập và theo gương "đạo đức hồ chí Minh" chính là nguyên do cơ bản tàn phá nền luân lý và đạo đức của xã hội Việt Nam! Xin trích, ghi lại như sau:
1, Người vợ trẻ tử vong sau trận cãi vã. Sau nhiều tiếng cãi nhau của hai vợ chồng trẻ, gia đình mới phát hiện chị Ánh tử vong với nhiều vết thương trên đầu, bên cạnh chiếc ghế gỗ dính đầy máu. Ngày 20/12
2, Tử hình kẻ cầm dao bầu đoạt mạng vợ. Không thuyết phục được vợ quay về, tại nhà mẹ vợ, Quân đã truy đuổi, đâm chết người đàn bà đã sinh cho hắn hai đứa con.
3. Cô giáo mầm non bị chồng sát hại. Theo bản án sơ thẩm ngày 18/12 của TAND Hà Nội Thứ tư, 17/12/2014
4. Lão gìa 67 tuổi truyền nhân đích thực tái hiện hình ảnh Hồ chí Minh lĩnh án. Câu chuyện của ông này rất gần gũi với câu chuyện của Hồ chí Minh và Nông thị Xuân. Mỗi lần dụ dỗ bé Sen 14 tuổi quan hệ tình dục, bị cáo Lan đều cho đứa trẻ 300.000-400.000 đồng. Sau nhiền lần xâm hại, Y đã khiến bé gái mang bầu, làm mẹ bất đắc dĩ. Chiều 17/12, TAND tỉnh Thừa Thiên – Huế đã mở phiên tòa phúc thẩm tuyên y án 3 năm tù với Kê Thanh Lan (67 tuổi, trú huyện A Lưới) Theo tờ báo, tên này bị kết án, bị phạt nhẹ vì có công với " cách mạng " Việt cộng. Không biết Y có phải là đoàn đảng viên Việt cộng hay không? Chỉ thấy tuyên dương y đã nhận nhiều huân chương ( huân chương sao vàng, huân chương Hồ chí Minh?) và nhiều huy chương nên được hưởng án nhẹ. Kinh hãi chưa? Cứ có công với Việt cộng là được hưởng giảm khinh. Tuy thế, nhiều người cho rằng, nếu đem bản án ra so với Hồ chí Minh, Y bị như thế là quá nặng, bởi vì lão chỉ học và làm theo gương "bác" mà bị tù. Khéo mà bị hàm oan?
5. Án chung thân cho đứa cháu nhằm đầu chú gây án. Đoạt mạng chú họ bằng hơn 20 nhát dao, Theo bản án sơ thẩm ngày 17/12 của TAND Hà Nội, Lê Văn Phúc (33 tuổi) là cháu họ của anh Lê Văn Minh (39 tuổi).
6. Con rể nã đạn vào mẹ vợ. Rình lúc mẹ vợ và cậu em đến nhà chơi, nửa đêm Tuấn cầm súng bắn hai người này cùng cô vợ. Công an Hà Nội thông báo đã bắt được Nguyễn Anh Tuấn (36 tuổi), nghi can bắn mẹ vợ cùng 3 người khác trong căn nhà trên phố Bùi Xương Trạch, quận Thanh Xuân.
Một ngày có bấy nhiêu vụ đại án phạm đến gia đinh. Một năm, rồi bốn mươi năm qua đã là bao nhiêu vụ rồi? Còn học tập theo gương Hồ chí Minh nữa hay là thôi?
II. Làm sao để giảm bớt những đau thương, oan nghiệt này? ( phần hai).
Bài viết nhỏ, như một nén hương muộn, kính viếng hương hồn các "Thiên Thần Bé Nhỏ" chưa được sinh ra đã mất cuộc sống.
GNsP(10.06.2015) – Sài Gòn – “Chúng tôi đã gởi cho phái đoàn [Đức] hồ sơ các tù nhân lương tâm (TNLT) là tín đồ Phật giáo Hòa Hảo (PGHH) đang còn bị giam giữ, cùng các hồ sơ vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền và những tài liệu này rất hữu ích cho phái đoàn hiểu thêm về hoàn cảnh của PGHH”.
Ông Nguyễn Bắc Truyển cho biết như vậy sau khi gặp ông Christoph Strasser, Đặc ủy Nhân quyền Liên bang Đức tiếp tại Tổng lãnh sự quán Đức ở Sài Gòn. Cùng tiếp phái đoàn PGHH Miền Tây còn có bà Stefanie Seedig, phụ trách vùng Đông Nam Á thuộc bộ Ngoại giao Đức, và ba nhân viên khác thuộc bộ Ngoại giao Đức.
Phái đoàn PGHH Miền Tây có ông Nguyễn Bắc Truyển (điều phối viên Hội Ái hữu tù nhân tôn giáo và chính trị), cùng vợ là bà Bùi Thị Kim Phượng, bà Mai Thị Dung (TNLT) và ông Võ Văn Bửu, chồng bà Dung.
Để đến được với cuộc gặp này, đoàn PGHH Miền Tây đã phải có rất nhiều cố gắng thoát qua sự canh phòng và ngăn cản của công an VN.
Ông Truyển kể: “Từ sáng ngày 08.06, tôi và Phượng đã rời khỏi nhà từ rất sớm, nên mặc dù bị mật vụ canh nơi ở trọ hai ngày 8 và 9 tháng 6, nhưng tôi và Phượng vẫn đến nơi hẹn an toàn vào lúc 14:00 ngày 09.06. Ngoài ra, còn có Dung và Bửu cũng thoát được sự canh gát của mật vụ lên Sài Gòn tham dự buổi gặp”.
Như vậy chỉ quanh quẩn trong Sài Gòn, nhưng hai phái đoàn phải mất 36 tiếng di chuyển mới có thể đến được nơi gặp cách an toàn.
Về nội dung và diễn tiến buổi làm việc, ông Truyển cho biết:
“Ông Đặc ủy đã hỏi thăm về hoàn cảnh của các tín đồ là tù nhân lương tâm sau khi rời nhà tù. Việc đàn áp của chính quyền đối với các tín đồ PGHH độc lập. Hỏi thăm sức khỏe của Dung.
Chúng tôi trình bày với phái đoàn về trường hợp của Dung, Bửu, gia đình Phượng, vụ án chị Bùi Thị Minh Hằng, Minh và Thúy Quỳnh, và gởi nhiều tài liệu, hồ sơ liên quan đến các vụ đàn áp tín đồ PGHH và tù nhân lương tâm.
Chúng tôi cũng cám ơn bộ Ngoại giao Đức, ông Frank Heinrich – Dân biểu LB Đức, VETO (Đức quốc) đã can thiệp hữu hiệu cho Mai Thị Dung, giúp Dung được rời nhà tù trước 16 tháng.
Ông Đặc ủy cũng cho biết là ông có biết chuyến thăm của ông báo cáo viên đặc biệt về tự do tôn giáo của LHQ vào tháng 07.2014 đã gặp nhiều khó khăn do sự cản trở của nhà cầm quyền. Ông cũng đặt nhiều câu hỏi, trong đó có câu hỏi vì sao nhà cầm quyền công nhận PGHH mà lại đàn áp các tín đồ PGHH?
Chúng tôi đã gởi cho phái đoàn hồ sơ các TNLT là tín đồ PGHH đang còn bị giam giữ, Hồ sơ vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền, Bản lập trường của tín đồ PGHH về tình hình của đạo PGHH trong 40 năm qua, Bản tuyên bố của tín đồ PGHH về dự thảo luật Tôn giáo, Hồ sơ vụ án chị Hằng… và những tài liệu này rất hữu ích cho phái đoàn hiểu thêm về hoàn cảnh của PGHH.
Đoàn Đức đề nghị được sử dụng hình ảnh của buổi gặp cho truyền thông, chúng tôi đồng ý”.
Được biết trong hai năm 2008-2009, Bộ Phát triển Đức viện trợ mới cho Việt Nam 117 triệu euro. Đức sẽ tăng cường hỗ trợ Việt Nam trong lĩnh vực xử lý nước và rác thải tại các đô thị tăng trưởng nhanh và giúp đỡ những dự án bảo vệ rừng. Trong những năm gần đây, Đức đã quan tâm hơn đến những vi phạm nhân quyền tại Việt Nam, và đã trực tiếplên tiếng bảo vệ những nhà hoạt động và thúc đẩy nhân quyền tại Việt Nam.
Cùng sự kiện, chiều ngày 09.06, anh Phạm Bá Hải, Điều phối viên Hội cựu tù nhân lương tâm cùng được mời gặp ông Christoph Strasser, Đặc ủy Nhân quyền Liên bang Đức tiếp tại Tổng lãnh sự quán Đức ở Sài Gòn, nhưng khi rời khỏi nhà để đến cuộc hẹn thì một nhóm công an an ninh bốn cấp (Bộ công an, TpHCM, huyện Hóc Môn và khu vực) canh giữ trước cửa nhà, đã đuổi theo ép anh Phạm Bá Hải quay về nhà. Trước đó một ngày, an ninh đã vào nhà gặp anh Phạm Bá Hải, thông báo rằng sẽ cấm không cho đi gặp ông Cao ủy trưởng Nhân quyền của Đức.
Được biết, ông Christoph Strasser đã đến Việt Nam từ 03 đến 09.06, vừa đển làm việc chính thức với nhà cầm quyền Hà Nội vừa để gặp trực tiếp các tổ chức xã hội dân sự độc lập. Ông Christoph Strasser đã tiếp xúc với Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (blogger Mẹ Nấm, thành viên Mạng Lưới Blogger Việt Nam – MLBVN) ngay sau ngày blogger Phạm Thanh Nghiên và các thành viên MLBVN bị hành hung ở Hải Phòng.
Cũng tại Hà Nội ông Christoph Strasser đã gặp anh Nguyễn Chí Tuyến (blogger Anh Chí, người bị an ninh giả côn đồ đánh giữa Hà Nội), luật sư Nguyễn Văn Đài (TNLT) và tiến sĩ Nguyễn Quang A.
Viết bởi Văn phòng TNS Janet Nguyễn, tại California
GNsP (12.06.2015) – California, USA – “Trong thời gian qua, văn phòng Thượng nghị sĩ Janet Nguyễn được cho biết có một số cá nhân ở Hoa Kỳ và một số nơi trên thế giới và ngay cả tại Việt Nam, đang yêu cầu một số người đưa tiền trước để làm hồ sơ bảo lãnh cho thương phế binh VNCH và thân nhân, muốn đến định cự tại Mỹ, qua chương trình đang được đề nghị gia hạn với lời hứa và bảo đảm giả tạo, là sẽ hoàn tất đơn một cách nhanh chóng cho họ”.
Đây là thông tin được phát đi chính thức từ Văn phòng TNS Janet Nguyễn, tại California, hôm 10.06 vừa qua.