Tin Việt Nam
- Viết bởi Phạm Trần
Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đã đặt tiêu chuẩn tiên quyết cho người được chọn vào Ban Chấp hành Trung ương khoá đảng XII là phải tuyệt đối trung thành với “chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng”.
Ông Trọng đã nói như thế trong diễn văn bế mạc Hội nghị Trung ương 11 ngày 07/05/2015 trước mặt 200 Ủy viên của khoá đảng XI sắp mãn nhiệm (175 chính thức và 25 dự khuyết).
Nhưng tại sao ông Trọng lại muốn bắt dân phải tiếp tục sống với những thây ma đã bị nhân dân trong thế giới Cộng sản ruồng bỏ từ 1989 ở Đông Âu và 1991 ở Liên bang Nga ?
Có phải lãnh đạo đảng CSVN đã quẫn trí hay phải kiên định Mác-Lênin để làm tròn nghĩa vụ 16 chữ phương châm với láng giềng lật lọng Trung Hoa : “Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan" , hay là "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" ?
Còn về “tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng Hiến pháp của Nhà nước …” được ông Trọng đính kèm có còn gì mà duy trì khi cả hệ thống đã phá sản, không đem lại cơm no áo ấm, tự do, dân chủ, độc lập và hạnh phúc cho dân như mục tiêu của cách mạng mà ông Hồ đã đặt ra ?
Ông Hồ từng nói : “ Đảng ta vĩ đại, vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác.” (Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, tập 10, tr.4.)
Nhà lãnh đạo đảng “nói dzậy mà không phải dzậy”. Đảng của ông có lợi khi cứ một mình một chợ, không cho ai chen chân vào gánh vác việc nước. Ông độc quyền, độc đảng và độc tài. Ông không cho dân ra báo, bắt mọi người phải đọc báo đảng và nghe tuyên truyền một chiều.
Ông bỏ tù những ai lăm le chệch hướng, giết bỏ những người ông nghi không có lợi cho đảng. Đảng của ông cũng đã nhúng tay vào máu nhân dân trong Cuộc cải cách ruộng đất mang tên “long trời lở đất” (1953-1956), thảm sát Mậu Thân Huế 1968 và phải mang tội với hàng trăm ngàn oan hồn Việt Nam đã chết trên Biển Đông sau ngày 30/04/1975 !
Cán bộ đảng viên của ông Hồ cũng chưa bao giờ biết “thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, hay biết “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.” (Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.2002, tập 12, tr.498.)
Chính vì vậy mà trong cuộc phỏng vấn của Bác sỹ Phạm Hồng Sơn, hai anh em nhà bỏ đảng Hùynh Nhật Hải (nguyên Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Đà Lạt kiêm Thành ủy viên) và Huỳnh Nhật Tấn (nguyên Phó Giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng kiêm Tỉnh ủy viên dự khuyết), đã nói về nhân cách của ông Hồ :
Phạm Hồng Sơn: Nhưng nhiều người cho rằng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh là rất tốt đẹp, đáng học theo?
Huỳnh Nhật Hải: Đúng, rất tốt đẹp và đáng học nếu chỉ căn cứ vào lời nói và khẩu hiệu như ông Hồ Chí Minh đã đề ra. Và đúng là ĐSCVN hiện nay cũng đang thực hiện đúng như thế, các khẩu hiệu, lời nói, mục tiêu của họ hiện nay cũng rất hoặc khá tốt đẹp, nhưng hành động và thực tế thì lại hoàn toàn ngược lại – cũng như ông Hồ Chí Minh.
Huỳnh Nhật Tấn: Nếu chỉ căn cứ vào truyền thống nhân ái của người Việt Nam thông thường thôi thì cũng thấy đáng lý ra, với cương vị là người có quyền hành cao nhất, ông Hồ Chí Minh phải ra lịnh không được giết hoặc hãm hại ân nhân của mình như vụ xử bắn bà Nguyễn Thị Năm và nhiều người khác trong Cải cách Ruộng đất. Hoặc những vụ bắt bớ, thanh trừng các đồng sự, các ân nhân của ĐCSVN sau này mà không qua xét xử thì ông Hồ Chí Minh không thể không biết là trái đạo lý. Nếu ông Hồ Chí Minh thực sự là người vì nước vì dân thì sau khi lên nắm quyền, điều đầu tiên ông Hồ Chí Minh phải làm là phải để nhân dân và giới trí thức có nhiều tự do hơn thời thực dân Pháp chớ.” (Phạm Hồng Sơn, pro&contra, Thế giới mới, ngày 10/05/2015)
Như vậy thì ông Hồ có tư tưởng gì, ngòai Cộng sản sắt máu thuần túy ? Do đó, “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên Chủ nghĩa Xã hội”, ra đời năm 1991 sau được bổ xung, phát triển năm 2011 và luật hoá thêm lần nữa tại Điều 4 Hiến pháp năm 2013, cũng chỉ nhằm củng cố địa vị cầm quyền độc tôn cho đảng để tiếp tục gây thảm họa cho đất nước.
Vậy mà vẫn có Dư luận viên Tuyên giáo đã lập luận lạc lõng rằng: “Sự kiên định của Đảng ta đối với Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh có cơ sở lý luận và thực tiễn khách quan. Trước hết, về phương diện lý luận, đó là sự phụ thuộc về bản chất chính trị của một đảng vào tính chất và nội dung hệ tư tưởng, lý luận mà đảng đó lựa chọn làm kim chỉ nam cho hành động.” (Trích báo Quân đội Nhân dân, ngày 12/05/2015)
Nhưng cái “kim chỉ nam” này đã đưa đến thảm họa 30 năm chinh chiến, trong đó có 20 năm miền Bắc xâm lược miền Nam mà cho đến 40 năm sau ngày được mạo danh “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, 30/04/1975, nhiều tiếng nói trong lòng chế độ đã lên án đảng.
Một trong những phản ứng đanh thép đến từ Nhà văn, Đại tá Quân đội Nhân dân nghỉ hưu Phạm Đình Trọng. Ông Trọng là người đã ra khỏi đảng ngày 20/1/2009, viết trong bài phổ biến hôm 22/4/2015 : “Những người Cộng sản Việt Nam đã cắt đôi đất nước Việt Nam, chia đôi dân tộc Việt Nam rồi họ lại lấy máu của chính dân tộc Việt Nam để thống nhất đất nước, để họ nghiễm nhiên thống trị cả nước không cần lá phiếu bầu chọn của người dân! Những người Cộng sản Việt Nam coi đó là chiến thắng vĩ đại của họ. Còn với dân tộc Việt Nam đó là keo thua đau đớn tức tưởi! Với những người dân miền Nam đã được sống trong tự do dân chủ, nay mất cả quyền con người, quyền công dân, không được quyền bầu chọn người quản lí đất nước, người lãnh đạo dân chúng, còn cái thua nào đau hơn!”
SUY THOÁI-MẤT ĐẠO ĐỨC
Trong diễn văn bế mạc Hội nghị Trung ương 11, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn là người đầu tiên kể từ thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (1986-1991) đã nói dõng dạc: “Kiên quyết không để lọt vào Ban Chấp hành Trung ương những người có một trong các khuyết điểm, như bản lĩnh chính trị không vững vàng, không kiên định đường lối, quan điểm của Đảng, có biểu hiện cơ hội chính trị, nói và làm trái Cương lĩnh, đường lối, nguyên tắc của Đảng tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, vận động cá nhân, tư tưởng cục bộ, phe cánh, lợi ích nhóm, không dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, mị dân, chuyên quyền, độc đoán, trù dập người thẳng thắn đấu tranh, phê bình để xảy ra tình trạng mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng, tham nhũng, tiêu cực lớn ở địa phương, đơn vị không chịu nghiên cứu học hỏi, bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói không đi đôi với làm ý thức kỷ luật kém, không chấp hành sự điều động, phân công của tổ chức kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc bản thân và vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính có vấn đề về lịch sử chính trị hoặc chính trị hiện nay.”
Tuy nhiên, những ngôn ngữ này không mới, người dân đã nghe lãnh đạo nói chỗ này chỗ kia nhiều lần rồi nhưng có thấy đảng làm gì để thay đổi cho dân bớt khổ đâu ?
Bằng chứng hiển nhiên đã ghi trong Nghị quyết số 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay (26-31/12/2011):
“Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Nổi lên một số vấn đề cấp bách sau đây:
-Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...
-Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng nhưng chưa được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước.
-Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.”
THAM NHŨNG TRÀN LAN
Đến Hội nghị Trung ương 5 từ ngày 07 đến ngày 15-5-2012, trong đó có việc thảo luận "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí".
Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị này viết: “Tuy nhiên, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt yêu cầu và mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành , nhất là trong các lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý ngân sách; thu thuế, phí; quản lý, sử dụng vốn, tài sản trong doanh nghiệp nhà nước; tín dụng, ngân hàng; công tác cán bộ; quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với người dân, doanh nghiệp..., gây bức xúc trong xã hội và là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. “
“….Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, yếu kém nêu trên là: Không ít cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa thực hiện tốt trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí .
Vai trò của nhiều chi bộ, tổ chức cơ sở đảng còn mờ nhạt; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành, kể cả cấp Trung ương, chưa nêu gương về đạo đức, lối sống, giảm sút sức chiến đấu và thiếu kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí . Cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực vẫn còn sơ hở, bất cập; một số quy định thiếu nhất quán, thiếu chặt chẽ, vẫn còn tình trạng "xin - cho". Tổ chức và hoạt động của cơ quan, đơn vị chuyên trách về phòng, chống tham nhũng chưa đủ mạnh, có mặt chưa hợp lý.”
Đến Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng ngày 05/05/2014, lần đầu tiên kể từ khi ông Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng vào đầu năm 2013, báo cáo vẫn viết: “Công tác phòng, chống tham nhũng vẫn còn những hạn chế: Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về phòng, chống tham nhũng chưa tạo được chuyển biến căn bản về nhận thức của người dân trong phòng, chống tham nhũng. Việc thực hiện các giải pháp phòng ngừa tham nhũng tại nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa được quan tâm đúng mức, còn mang tính hình thức.”
Báo cáo cũng nhìn nhận: “Một số giải pháp phòng ngừa tham nhũng hiệu quả thấp. Việc rà soát, đánh giá, sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục những sơ hở của cơ chế, chính sách, pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu phòng, chống tham nhũng. Việc tự kiểm tra, phát hiện tham nhũng trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị còn rất yếu. Việc phát hiện tham nhũng qua công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán còn hạn chế. Việc thu hồi tài sản tham nhũng đạt hiệu quả thấp; chưa phát huy được sức mạnh của toàn dân trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.”
BÈ PHÁI-PHE NHÓM
Đến Hội nghị Trung ương 6, từ ngày 01-10 đến ngày 15-10-2012, có thảo luận quan trọng về “Báo cáo kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể và cá nhân Bộ Chính trị, Ban Bí thư theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay".
Dư luận đặc biệt quan tâm theo dõi tin một Ủy viên Bộ Chính trị bị chính Bộ Chính trị đề nghị phải chịu một hình thức kỷ luật vì, trong số những vi phạm, đã không làm tròn nhiệm vụ. Tuy danh tính không bị lộ nhưng ai cũng biết người đó là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người bi dự luận bàn tán về chuyện giầu có lên nhanh của gia đình, lạm dung quyền hành và trách nhiệm trong hai vụ thua lỗ, phá sản của 2 doanh nghiệp hàng hải Vinalines và Vinashin.
Tuy nhiên, Thông báo cuối cùng của kỳ họp đã làm thất vọng hàng triệu người.
Ban Chấp hành Trung ương viết: “Về khuyết điểm chủ yếu : Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa ngăn chặn, khắc phục được tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt về lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tuỳ tiện, vô nguyên tắc.
Việc một số đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư (cả đương chức và nguyên chức) có lúc, có việc còn có biểu hiện chưa gương mẫu về đạo đức, lối sống của bản thân và gia đình, nói không đi đôi với làm, đã làm ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước và bản thân các đồng chí đó, đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa tập trung chỉ đạo làm rõ, đánh giá đầy đủ, thực chất tình hình để kịp thời có biện pháp kiên quyết khắc phục một số tiêu cực trong công tác cán bộ (như chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp…) và đề bạt con một số cán bộ lãnh đạo không dựa trên năng lực, trình độ và quá trình rèn luyện, gây dư luận bức xúc.”
Nói về mình, Thông báo đã viết về Bộ Chính trị : “Để giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng và góp phần giữ gìn uy tín, hình ảnh thiêng liêng của Đảng và làm gương cho toàn Đảng, Bộ Chính trị đã thống nhất cao tự nhận và đề nghị Ban Chấp hành Trung ương xem xét có hình thức kỷ luật khiển trách về trách nhiệm chính trị đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị. Ban Chấp hành Trung ương đánh giá cao việc tập thể Bộ Chính trị tự giác xin nhận kỷ luật; điều đó thể hiện tinh thần thẳng thắn, cầu thị, nghiêm túc, gương mẫu và quyết tâm cao trong việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng. Sau khi thảo luận, cân nhắc nhiều mặt, Ban Chấp hành Trung ương đã bỏ phiếu quyết định không kỷ luật Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị.”
Ông Dũng thoát nạn, nhưng uy tín lãnh đạo của ông Nguyễn Phú Trọng xuống dốc từ đây.
Nổi bật là ông đã thất bại trong kế họach đưa hai ông Trưởng ban Nội chính Trung ương Nguyễn Bá Thanh (đã qua đời) và Trưởng ban Kinh tế Trung ương Vương Đình Huệ vào Bộ Chính trị.
Thay vào đó, Trung ương đảng đã bỏ phiếu cho Bà Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và ông Nguyễn Thiện Nhân, khi ấy là Phó Thủ tướng.
Cuối cùng, uy tín của ông Nguyễn Phú Trọng đã xuống cấp thê thảm ở Hội nghị Trung ương 10 khi Trung ương đảng xếp ông đứng hàng thứ 8 trong số 20 người trong Bộ Chính trị và Ban Bí thư được lấy phiếu tín nhiệm. Ông chỉ được 135 phiếu tín nhiệm cao.Người đứng đầu bảng với số phiếu “tín nhiệm cao” nhất 152 thuộc về Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đứng hàng thừ nhì với 149 phiêu “tín nhiệm cao”.
Kết qủa này, do tin bán chính thức bị rò rỉ ra ngoài, đã gây chóang váng trong dự luận.
Như vậy, sau 5 năm cầm quyền và gần 30 năm “đổi mới” , kể từ khóa đảng VI năm 1986, ông Nguyễn Phú Trọng chưa chứng minh được một việc làm thành công.
Ngược lại, ông lại là người đã để cho Việt Nam lệ thuộc trên mọi lĩnh vực, quan trọng nhất là kinh tế, vào Trung Quốc ; ngăn chặn mọi phản ứng của nhân dân chống Trung Quốc bá quyền, bành trướng lãnh thổ; cấm dân tưởng niệm các chiến sỹ và đồng bào đã hy sinh trong cuộc chiến biên giới từ 1979 đến 1989.
Quan trọng hơn, ông Nguyễn Phú Trọng đã không có một hành động tích cực nào để chống lại kế họach lấn chiếm, tân tạo biển đảo Việt Nam của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Ông cũng đã để cho chính quyền Thành phố Hà Nội và Sài Gòn ngăn chặn không cho dân tưởng niệm 74 chiến sỹ Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh chống quân Trung Quốc xâm lược Hòang Sa năm 1974 và 64 chiến sỹ Quân đội Nhân dân hy sinh trong cuộc chiến với quân Tầu ở Trường Sa năm 1988.
Trên lĩnh vực kinh tế, Việt Nam vẫn chưa làm nổi con ốc vít, tiếp tục làm thuê cho nước ngòai và bị đứng sau cả Kampuchia và Lào thì khả năng tồn tại của ông Trọng và đảng CSVN có cần phải đặt lên bàn cân không ?
Như vậy, khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặt ra tiêu chuẩn ưu tiên phải tuyệt đối trung thành với những thứ đang hủy họai đất nước như “chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng” thì ông muốn Việt Nam đi về đâu ? -/-
Phạm Trần
(05/015)
- Viết bởi Cát Linh, phóng viên RFA
Nhân dịp chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến thăm Cộng hoà Séc, nhóm Văn Lang, một tổ chức gồm những người Việt yêu nước ở đó gửi đi một thỉnh nguyện thư với hằng trăm chữ ký thu thập được yêu cầu trả tự do cho Linh mục Nguyễn Văn Lý.
Hoàn toàn không được phúc đáp
Trong buổi họp báo của chủ tịch nước Trương Tấn Sang ở Cộng hoà Séc vào 12 giờ trưa ngày 11 tháng 5, thỉnh nguyện thư kêu gọi trả tự do cho Linh mục Nguyễn Văn Lý hoàn toàn không được nhắc đến, cho dù đã được gửi đến Đại sứ quán Việt Nam và cả văn phòng chủ tịch nước ở Hà Nội trước đó.
Bà Thanh Mai, đại diện cho nhóm Văn Lang đưa ra nhận định về phản ứng của Đại sứ quán Việt Nam ở Cộng hoà Séc khi nhận được thư ngỏ của nhóm Văn Lang:
“Có lẽ họ chẳng hài lòng chút nào khi nhận được lá thư về một sự thật không có gì đẹp đẽ của Việt Nam trong chuyến đi thăm chính thức của chủ tịch nước. Còn phản ứng cụ thể của họ thì chúng tôi không được biết. Nhưng họ không trả lời thư. Thậm chí lá thư này được gửi cả vào email của văn phòng chủ tịch ở Hà Nội thì email bị gửi quay trở lại. Chúng tôi không biết có ai đã từng gửi thư cho chủ tịch nước hay không?”
Ngoài Đại sứ quán Việt Nam ở Cộng hoà Séc và văn phòng chủ tịch nước ở Hà Nội, bà Thanh Mai cho biết thỉnh nguyện thư còn được gửi đến các cơ quan báo chí của Việt Nam, Tiệp và những cá nhân, hội đoàn khác:
“Thư được chúng tôi gửi đến tất cả những địa chỉ mà bọn mình thu thập được. Người nhận thư là Đại sứ quán Việt Nam và văn phòng chủ tịch nước. Bản copy thì gửi cho các tổ chức nhân quyền và Học viện công giáo của Tiệp, là những tổ chức lớn mà người ta hỗ trợ mình rất nhiều.”
Có lẽ họ chẳng hài lòng chút nào khi nhận được lá thư về một sự thật không có gì đẹp đẽ của Việt Nam trong chuyến đi thăm chính thức của chủ tịch nước. Còn phản ứng cụ thể của họ thì chúng tôi không được biết. Nhưng họ không trả lời thư
Bà Thanh Mai
Và khi lá thư được gửi đến cuộc họp báo giữa Cộng hoà Séc và ông Trương Tấn Sang thì đã có được 239 chữ ký và vẫn còn rất nhiều người ghi danh ký tên sau đó.
Theo bà Mai, nhóm Văn Lang đã chuẩn bị lá thư này và gửi đi lần thứ nhất vào ngày 7 tháng 5, trước khi ông Trương Tấn Sang bắt đầu chuyến viếng thăm chính thức Cộng hoà Séc. Và lần thứ hai là sau khi đã thu thập được chữ ký.
“Khi bắt đầu mở sự kiện thư ngỏ, chúng tôi đã gửi thư một lần. Sau khi có những chữ ký, chúng tôi lại gửi một lần nữa. Lúc trước chỉ báo cho họ biết là chúng tôi có lá thư này, và sẽ thu thập chữ ký.”
‘Lẽ ra phải huy động được nhiều chữ ký hơn’
Vì đây là hoạt động đầu tiên khá lớn của nhóm Văn Lang, một tổ chức chỉ khoảng 20 thành viên, cho nên bà Thanh Mai nói rằng không tránh khỏi những thiếu sót. Cũng như rất đáng tiếc khi đã không kịp thông báo cho các linh mục và các nhóm công giáo ở Việt Nam. Cho nên, các chữ ký thu thập được trong thư ngỏ gửi ông Trương Tấn Sang phần nhiều là của những cá nhân, hội đoàn bên Tiệp. Những ngày gần đây mới có người Việt Nam trong và ngoài nước tham gia ký tên.
“Ở trong một dịp như thế này thì lẽ ra phải huy động được chữ ký nhiều hơn, phải thông báo rộng rãi hơn cho người Việt biết, không chỉ người Việt ở Việt Nam, ở Tiệp mà còn những người Việt ở khắp nơi trên thế giới.”
Cha Phan Văn Lợi, người thuộc nhóm Linh Mục Nguyễn Kim Điền cùng với linh mục Nguyễn Văn Lý sau khi biết được hoạt động này đã nói:
“Tôi được biết mới đây thôi nhưng không thấy thông báo gì. Chỉ biết là nhóm Văn Lang gửi thư cho ông TRương Tấn Sang để yêu cầu trả tự do cho cha Lý là bạn của tôi. Điều này tôi rất ủng hộ và tán thành. Tôi rất cám ơn nhóm Văn Lang có một sáng kiến để đòi tự do cho người bạn của chúng tôi.”
Linh mục - tù nhân lương tâm
Linh mục Nguyễn Văn Lý, người được nhiều người trên thế giới biết đến qua bức hình bị bịt miệng trong phiên tòa xủ ông ở Thừa Thiên- Huế. Tấm ảnh được sử dụng để nói lên tình trạng tự do ngôn luận tại Việt Nam.
Đây không phải là chuyện đòi tự do cho một người công giáo hay là không công giáo, mà là đòi tự do cho một con người, mà con người này thì người ta không làm gì sai hết ngoài việc đòi quyền con người của mình
nhóm Văn Lang
Ông bị kết án lần gần nhất là vào năm 2007 với tội danh “tuyên truyền chống nhá nước CHXHCNVN” theo điều 88 Bộ luật Hình sự. Bản án ông phải chịu là 8 năm cộng 5 năm quản chế. Do bị tai biến trong tù, ông từng được cho về để chữa bệnh một thời gian, nhưng sau đó bị buộc về lại nhà tù để thụ án.
Linh mục Nguyễn Văn Lý còn là một trong những người sáng lập Khối 8406, tức Nhóm ra Bản Tuyên ngôn Tự do dân chủ 2006 đòi hỏi các quyền tự do căn bản của người dân.
Cho dù vẫn đang bị giam ở trại giam ở Nam Hà, nhưng theo lời linh mục Phan Văn Lợi thì tinh thần của người bị cầm tù Nguyễn Văn Lý vẫn rất bình thản.
“Cha Lý xem đó là nơi để lan truyền tư tưởng dân chủ tự do, không những cho tù nhân mà còn cho các cán bộ. Về phương diện thể xác thì vẫn mạnh khoẻ. Không bị tra tấn, hành hạ hoặc những biện pháp gọi là khắc nghiệt nên tình trạng sức khoẻ vẫn tốt.
Thỉnh nguyện thư kêu gọi trả tự do cho cha Nguyễn Văn Lý vẫn còn tiếp tục đón nhận chữ ký từ người dân trong và ngoài nước. Để kết thúc bài phóng sự, xin mượn lời nhóm Văn Lang để nói lên một công cuộc đấu tranh đòi tự do dân chủ nhân quyền cho người Việt Nam:
“Đây không phải là chuyện đòi tự do cho một người công giáo hay là không công giáo, mà là đòi tự do cho một con người, mà con người này thì người ta không làm gì sai hết ngoài việc đòi quyền con người của mình.”
Cát Linh, phóng viên RFA
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/
- Viết bởi Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam
Kính gởi:
- Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.
- Quý Chức sắc và Tín đồ mọi Tôn giáo tại Việt Nam.
- Quý Cơ quan Nhân quyền Quốc tế.
Vào ngày 17-04-2015, Ban Tôn giáo Chính phủ đã gởi đến 62 Tổ chức Tôn giáo Dự thảo 4 Luật Tín ngưỡng Tôn giáo 2015 (LTNTG) kèm một văn thư yêu cầu góp ý kiến quanh Dự thảo này và phải gởi về trước ngày 05-05-2015.
Đứng trước sự kiện và văn bản này, Hội đồng Liên tôn VN -quy tụ nhiều chức sắc của 5 tôn giáo lớn có mục đích tranh đấu cho tự do tôn giáo và dân chủ nhân quyền- có những nhận định và khẳng định như sau:
1- Những nhận định:
a- Việc gởi tới các Tổ chức Tôn giáo mà nhà nước đang công nhận một văn bản pháp luật quá dài, nhưng thời gian góp ý quá ngắn thể hiện sự coi thường các Tôn giáo, kỳ thị một số Tôn giáo khác, vừa là một âm mưu áp đặt lên tín đồ ý muốn của đảng Cộng sản.
b- Làm sao một Nhà nước vô thần và những viên chức không có kinh nghiệm tâm linh tôn giáo –thậm chí thuộc bộ Công an- lại lập luật cho người có tín ngưỡng và cho niềm tin tôn giáo?
c- Dự thảo LTNTG vẫn tiếp tục cơ chế xin-cho, với đủ mọi loại giấy phép, nhằm mục đích kiểm soát, khống chế, lũng đoạn các Giáo hội, giới hạn tự do tôn giáo một cách nghiêm ngặt hơn nữa.
d- Dự thảo LTNTG có rất nhiều từ ngữ và điều khoản mơ hồ tạo cơ hội để nhà cầm quyền và các viên chức địa phương tha hồ giải thích tùy tiện nhằm cấm cản hay thậm chí đòi hối lộ.
e- Dự thảo LTNTG có rất nhiều điều khoản mâu thuẫn với nhau, và nhất là mâu thuẫn với Công ước Quốc tế về các quyền Chính trị và Dân sự (điều 18) cũng mâu thuẫn với Hiến pháp 2013 (điều 24).
2- Những khẳng định:
a- Các tôn giáo phải được tự do thành lập và tự động sinh hoạt, phải được thừa nhận tư cách pháp nhân, phải được xem như là các tổ chức xã hội dân sự độc lập, mà không phải chờ “giấy phép công nhận” của nhà cầm quyền.
b- Các tôn giáo phải được quyền độc lập trong việc tổ chức nội bộ về nhân sự và cơ cấu như: chiêu sinh huấn luyện cho người tu hành, tấn phong, bổ nhiệm, thuyên chuyển các chức sắc; trong việc hình thành, sắp xếp các cơ cấu như chốn tu trì, trường đào tạo, lãnh địa hoạt động….
c- Các tôn giáo phải được tự do truyền bá giáo lý cho mọi người, góp phần giáo dục giới trẻ và có quyền tham gia các hoạt động y tế, từ thiện xã hội. Đồng thời, các tôn giáo phải được tự do lập nhà in, nhà xuất bản, đài phát thanh, đài truyền hình, trang mạng riêng để phục vụ các nhu cầu tôn giáo.
d- Các tôn giáo phải được quyền tư hữu đất đai, được tự do nhận tặng, mua bán, trao đổi bất động sản, được mở rộng hay thu hẹp cơ sở tùy theo nhu cầu tôn giáo của mình
e- Các tôn giáo phải được tự do liên lạc với đồng đạo hay với các cá nhân, tổ chức ở nước ngoài, tự do gởi thành viên của mình ra ngoại quốc để tiến hành các hoạt động liên quan đến Giáo hội mình dù ở quốc nội hay hải ngoại.
Mọi quyền và mọi tự do trên đây hoàn toàn không thấy có trong LTNTG!
Kết luận
Các tôn giáo tự bản chất là những tập thể bao gồm nhiều tín đồ và mọi tín đồ đều là những công dân bình đẳng. Họ có các quyền và nghĩa vụ như mọi công dân khác. Những quyền và nghĩa vụ này được xác định trong Hiến pháp và các bản văn dưới luật hình thành theo tinh thần tự do dân chủ, phù hợp với các Công ước quốc tế về nhân quyền.
Chính vì thế, trong tư cách những lãnh đạo tinh thần đang đấu tranh cho tự do độc lập của tôn giáo cũng như cho nhân quyền và dân quyền của đồng bào, chúng tôi hoàn toàn bác bỏ toàn văn và mọi điều khoản LTNTG mà nhà cầm quyền Việt Nam đã soạn thảo bất chấp ý kiến của các tôn giáo, nhằm mục đích dùng bạo lực hành chánh tiêu diệt tôn giáo ngõ hầu củng cố quyền lực độc tài toàn trị của đảng CS.
Làm tại Việt Nam ngày 10 tháng 5 năm 2015
Các chức sắc trong Hội đồng Liên tôn VN đồng ký tên.
Công Giáo:
- Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi (điện thoại: 0984.236.371)
- Linh mục Giu-se Đinh Hữu Thoại (điện thoại: 0935.569.205)
- Linh mục An-tôn Lê Ngọc Thanh (điện thoại: 0993.598.820)
- Linh mục Phao-lô Lê Xuân Lộc (điện thoại: 0122.596.9335)
Phật Giáo:
- Hòa thượng Thích Không Tánh (điện thoại: 0165.6789.881)
- Thượng tọa Thích Viên Hỷ (điện thoại: 0937.777.312)
Tin lành:
- Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa (điện thoại: 0121.9460.045)
- Mục sư Đinh Uỷ (điện thoại: 0163.5847.464)
- Mục sư Đinh Thanh Trường (điện thoại: 0120.2352.348)
- Mục sư Nguyễn Hồng Quang (điện thoại: 0978.207.007)
- Mục sư Phạm Ngọc Thạch (điện thoại: 0912.000.709)
- Mục sư Nguyễn Trung Tôn (điện thoại: 0162.838.7716)
- Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng (điện thoại: 0906.342.908)
- Mục sư Lê Quang Du (điện thoại: 0121.2002.001)
- Mục sư Đinh Diêm (điện thoại: 0169.237.4741)
Cao đài:
- Chánh trị sự Hứa Phi (điện thoại: 0163.3273.240)
- Chánh trị sự Nguyễn Kim Lân (điện thoại: 0988.971.117)
- Chánh trị sự Nguyễn Bạch Phụng (điện thoại: 0988.477.719)
Phật giáo Hoà Hảo Buddhist:
- Cụ Lê Quang Liêm, Hội trưởng (điện thoại: 0199.2432.593)
- Ông Lê Văn Sóc (điện thoại: 096.4199.039)
- Ông Phan Tấn Hòa (điện thoại: 0162.6301.082)
- Ông Tống Văn Chính (điện thoại: 0163.574.5430)
LETTER OF PROTEST AGAINST THE LAW ON THE RELIGION 2015
Of the Interfaith Council of Vietnam
To:
- The Vietnamese people in Vietnam and overseas.
- The dignitaries and the faithful of all the religions in Vietnam.
- The international organizations of Human Rights
On the 17th of April, 2015, the Government Department of Religions sent to 62 religion organizations the 4th Draft of the Law on the Religions (LOR), enclosing a letter to request their opinions which are supposed to be sent back before the 5th of May, 2015.
On this occasion, the Interfaith Council of Vietnam, consisting of the dignitaries of five big religions for the purpose of struggling for the religion freedom, democracy and human rights, would like to present the following comments and requests:
- 1.Some comments
a- The fact that the government sent the acknowledged religions a too long law document but allowed them a too short time to give their opinions shows the government’s contempt for the religions, religious discrimination and a plot to force the religions to do what the communists want.
b- How can a law on the religious believers made by an atheist government and the officials without religious spiritual experience, even the officials of the Police Ministry?
c- LOR continues to apply the asking-giving system in which too many kinds of applications are required for the purpose of controlling, restraining and cornering the religions, limiting the religion freedom more strictly.
d- LOR has been composed with a lot of ambiguous terms and articles which can be freely explained and applied by the local authorities. This will cause prevention of religious practice and help the official to commit bribery.
e- LOR contains a lot of contradictory articles, especially these articles contradict the International Covenant on Civil and Political Rights (Article 18), and contradict the Constitution of Vietnam (Article 24).
- 2.Our requests:
a- The religions must be freely founded and must do their activities themselves. Their legal entity must be acknowledged, and they must be considered as independent civil organization without waiting for the “license” of the government.
b- The religions must be independent to organize their personnel and structure such as admitting and training their religious, ordaining, assigning, transferring their dignitaries, building and organizing their structure: monasteries, training schools, areas etc.
c- The religions must be free to publicize their doctrine, contribute to educating young people, take part in health and charity activities. At the same time, the religions must have the rights to establish their publishing and printing houses, radio and television stations, websites to meet their needs.
d- The religions must have the possession of the land. They must be free to give, receive, buy, sell and exchange real estates, to widen or narrow their buildings according to their needs.
e- The religions must have freedom to communicate with their faithful or other individuals and organizations in other countries, to send their members abroad to carry out their activities.
The above rights and freedom are not found in the Draft of the Law on the Religions!
Conclusion:
The religions are naturally the organizations consisting of many faithful and the faithful are the citizens with equality. They have rights and duties as other citizens. These rights and duties are confirmed in the Constitution of Vietnam and other sub-law documents according to the freedom and democracy spirit suitable of the international conventions on the human rights.
Thus, as the spiritual leaders who are struggling for the freedom and independence of the religions as well as the human rights and civil rights of our people, we totally rebut the whole text and every article of the Draft of the Law on the Religions that the Vietnam government has composed with the purpose of using administrative violence to eliminate religions so that they can consolidate the dictatorship of the Vietnam communist party.
Vietnam, May 10, 2015
The Interfaith Council of Vietnam
Catholic:
- Reverend Peter Phan Văn Lợi (phone: 0984.236.371)
- Reverend Joseph Đinh Hữu Thoại (phone: 0935.569.205)
- Reverend Anthony Lê Ngọc Thanh (phone: 0993.598.820)
- Reverend Paul Lê Xuân Lộc (phone: 0122.596.9335)
Buddhist:
- Venerable Thích Không Tánh (phone: 0165.6789.881)
- Venerable Thích Viên Hỷ (phone: 0937.777.312)
Protestants:
- Pastor Nguyễn Hoàng Hoa (phone: 0121.9460.045)
- Pastor Đinh Uỷ (phone: 0163.5847.464)
- Pastor Đinh Thanh Trường (phone: 0120.2352.348)
- Pastor Nguyễn Hồng Quang (phone: 0978.207.007)
- Pastor Phạm Ngọc Thạch (phone: 0912.000.709)
- Pastor Nguyễn Trung Tôn (phone: 0162.838.7716)
- Pastor Nguyễn Mạnh Hùng (phone: 0906.342.908)
- Pastor Lê Quang Du (phone: 0121.2002.001)
- Pastor Đinh Diêm (phone: 0169.237.4741)
Cao Đài:
- First Master Hứa Phi (phone: 0163.3273.240)
- First Master Nguyễn Kim Lân (phone: 0988.971.117)
- First Master Nguyễn Bạch Phụng (phone: 0988.477.719)
Hoà Hảo Buddhist:
- Mr. Lê Quang Liêm, Chairperson (phone: 0199.2432.593)
- Mr. Lê Văn Sóc (phone: 096.4199.039)
- Mr. Phan Tấn Hòa (phone: 0162.6301.082)
- Mr. Tống Văn Chính (phone: 0163.574.5430)
- Viết bởi Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế Paris
- Viết bởi Hà Minh Thảo
Biến cố 30.04.1975, như cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã từng nói với đài BBC, là một sự kiện mà khi nhắc đến có hàng triệu người vui nhưng cũng có hàng triệu người buồn. Những triệu người buồn vì ngày ‘Sài gòn mất tên’ hay ‘ Việt Nam Cộng hòa bị bức tử’, rồi sau khi ‘đất nước thống nhất’, họ phải bỏ nước ra đi hoặc bị bắt bớ, tù đày mang hỗn danh ‘học tập cải tạo’, bị cướp tài sản và thân nhân chịu những thua thiệt, ngược đãi khác. Đối với họ, ngày 30/04 hay tháng Tư hàng năm là ‘Ngày Quốc hận’ hoặc ‘Tháng Tư đen’. Thời gian 40 năm đã trôi qua, số người buồn ngày càng tăng trước những sự nhượng đất và biển cho Tàu, vụ Lê Đức Anh ra lệnh bộ đội Việt cộng không được nổ súng tự vệ và chống Trung cộng khi chúng đánh chiếm đảo Gạc Ma, hình Nông Đức Mạnh khoe sự xa hoa vô liêm sĩ của đồng chí lãnh đạo ngồi ngai vàng tiếp khách ngày Tết, …
I.- DIỄN VĂN HỒ HỞI CỦA THỦ TƯỚNG.
Tham dự Lễ mít tinh, diễu binh, diễu hành chào mừng kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh sáng 30.04.2015, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đọc diễn văn :
« … trong không khí hào hùng của những ngày tháng Tư lịch sử, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phấn khởi, tự hào tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước… chân thành cảm ơn các nước xã hội chủ nghĩa nhất là Liên xô, Trung quốc đã nhiệt thành ủng hộ, dành những tình cảm và sự giúp đỡ quý báu cả về tinh thần, vật chất cho cuộc đấu tranh chính nghĩa, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước Việt Nam chúng ta… Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam có quyền thực hiện khát vọng thiêng liêng của mình là được sống trong một đất nước hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do, hạnh phúc và có quan hệ bình đẳng, hữu nghị với tất cả các quốc gia trên thế giới. Nhưng Đế quốc Mỹ đã ngang nhiên áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự của Mỹ, đàn áp tàn bạo Cách mạng miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại khốc liệt ở miền Bắc. Chúng đã gây ra biết bao tội ác dã man, biết bao đau thương, mất mát đối với đồng bào ta, đất nước ta. Tổ quốc ta đã phải trải qua những thử thách cực kỳ nghiêm trọng. Song, nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quí hơn độc lập tự do. Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ… Thành tựu đạt được trên các lĩnh vực trong 40 năm qua đã tạo cơ sở và tiền đề quan trọng, quý báu để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn nữa trong giai đoạn mới… đồng bào ta ở trong nước cũng như ở nước ngoài, mỗi người hãy nêu cao tinh thần dân tộc, lòng yêu nước thương nòi, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, không phân biệt quá khứ, vượt lên trên những khác biệt, cùng nhau chân thành hòa hợp dân tộc, vun đắp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, tất cả vì một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh… »
Nghe bài diễn văn này, chúng tôi có cảm tưởng như mình đang nghe hôm 15.05.1975 khi ‘Ban Quân quản ra mắt’, trừ phần kinh tế vì, khi đó, chưa có kinh tế thị trường định nghĩa xã hội mà chỉ vừa tiếp thu tài sản của Miền Nam dân tộc và sản phẩm Mỹ từ các kho hàng của họ và vừa chở ra Hà nội. Cảm tưởng đó càng thêm đúng khi nhìn vào khán đài chính, nơi đứng ngồi của các đảng viên cao cấp cầm những lá cờ nhỏ, khi đầu là cờ Mặt trận giải phóng Miền Nam, rồi sau trở thành cờ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, bị bức tử ngày 31.01.1977, nay lại tái xuất hiện. Tổ chức này bị giải tán sau khi hoàn thành nhiệm vụ ‘lường gạt’ thế giới là nhân dân Miền Nam nổi dậy chống chính quyền Sài gòn. Do đó, khi tay ông Dũng cầm cờ đỏ sao vàng, thì tay Nông Đức Mạnh cầm cờ Mặt trận (sao vàng trên nền đỏ và xanh), rồi đến Nguyễn Phú Trọng tay cầm cờ Đảng (búa liềm trên nền đỏ).
Một điểm khác thật khôi hài, đáng chú ý là hai Bà Trưng Trắc và Trưng Nhị diễn hành trên voi :
- Khi Sài gòn còn là Thủ đô Việt Nam Cộng hòa thì hai Bà ngụ trên voi thật vào ngày 07.03.1957 và năm 1961
http://vi.wikipedia.org/wiki/Hai_B%C3%A0_Tr%C6%B0ng#/media/File:HaiBaTrung.JPG
- Ngày 30.04.2015 tại thành Hồ, trên voi giả (sáu chân ?)
https://www.youtube.com/watch?v=6Dun8L00oWo
-> Vì Thủ tướng nắm quyền Hành pháp, nên diễn văn ông đọc thu hút sự quan tâm và hy vọng từ hàng triệu đồng bào trong và ngoài nước sau 40 năm Cộng đảng ngự trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam sau ngày chiếm Sài gòn. Như bao lần trước, nhất là khi ông Dũng gởi lời long trọng đến toàn dân dịp Đầu Năm 2014, lần này, nỗi thất vọng đã phát sinh ngay khi nghe luận điệu cũ rích ‘Đế quốc Mỹ áp đặt chế độ thực dân mới, biến miền Nam thành căn cứ quân sự, đàn áp tàn bạo Cách mạng miền Nam và gây chiến tranh phá hoại khốc liệt ở miền Bắc, với biết bao tội ác dã man’ và thấm thiết khi, trước đó, ông đã cảm ơn Liên xô, Trung quốc (Liên xô đã đoạt 16 tấn vàng mà Đảng đã vu cáo ông Nguyễn Văn Thiệu chở theo, Trung quốc đã và sẽ còn chiếm bao nhiêu đất lẫn biển của Việt Nam nữa).
Một vấn đề quan trọng khác đồng bào chờ nghe Thủ tướng đề nghị, nhưng ông không đề cập đến : đó là công cuộc hòa giải giữa chính quyền và đồng bào trong nước. Cuộc hòa giải này cần phải đặt căn bản trên : « Dân chủ và Nhà nước pháp quyền là cặp ‘song sinh’ trong một thể chế chính trị hiện đại… Người dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Mọi quyết định quản lý của Nhà nước đều phải minh bạch. » như Thủ tướng đã viết trong bài ‘Hoàn thiện thể chế, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2014, tạo nền tảng phát triển nhanh và bền vững’. Thời gian vẫn trôi dần, 16 tháng đã qua, Dân có làm chủ đâu. Tại Hà nội, Nhà nước cho nhóm lợi ích đốn cây bất hợp pháp, dân lên tiếng thì côn(g) an được sai đến đánh đập. Để đánh lạc hướng, ông Dũng nói : « đồng bào ta ở trong nước cũng như ở nước ngoài, mỗi người chúng ta hãy nêu cao tinh thần dân tộc, lòng yêu nước thương nòi, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, không phân biệt quá khứ, vượt lên trên những khác biệt, cùng nhau chân thành hòa hợp dân tộc, vun đắp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân ». Không cần sự hòa giải giữa đồng đồng bào trong và ngoài nước vì, hàng năm, người Việt hải ngoại vẫn gởi giúp thân nhân trong nước khoảng 12 tỷ mỹ kim, số tiền rất cần để làm dự trử ngoại tệ cho Việt Nam.
Đảng Cộng sản dùng Nghị quyết 36 Bộ Chính trị ngày 26.03.2004 về Công tác đối với người Việt ở ngoại quốc để chia rẽ những người này với nhau và dụ dỗ những vị khoa bảng về nước ăn Tết bằng tiền đóng thuế của đồng bào nghèo khổ. Gần đây, nhà nước đã cho phát đi những hình ảnh Thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn đang nhậu nhẹt với ‘kiều bào’ trên chuyến tàu đi Trường sa. Đảng rất thành công trong việc thi hành chỉ giáo của Tàu cộng là ‘đánh nhau tới người Việt cuối cùng’ trong khi chúng hòa hoãn với Đài loan.
Đọc bài ‘Thông điệp từ bài diễn văn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng’ phát đi bởi đài RFA 01.05.2015, do biên tập viên Mặc Lâm viết. Nữ nghệ sĩ Kim Chi, người từ chối nhận khen thưởng của Thủ tướng Dũng vì cho rằng ông làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân, phê bình bài diễn văn : « người Mỹ không có ý định gì xấu với Việt Nam nữa mà đang hết lòng muốn giúp đỡ, tại sao lại còn làm ra như thế? Cứ tự ca mình chiến thắng hoài thì làm sao mà hòa hợp được dân tộc ». Tiếp theo, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, Viện nghiên cứu Y khoa Garvan ở Úc, nhiều lần về nước để giúp như Giáo sư y khoa, không tin là Thủ tướng đã viết diễn văn này mà chỉ là một phụ tá chuyên ‘bài Mỹ’ mà người ta đã nghe cả 40 năm qua : « Tôi rất ngạc nhiên vì thấy trong bài ông Thủ tướng có những đoạn rất là gay gắt với Mỹ mà Mỹ thì họ lại đang có mối quan hệ ngoại giao rất tốt với Việt Nam mình. Nếu tôi nhớ không lầm thì năm nay kỷ niệm 20 năm nối lại bang giao Việt Mỹ. Mỹ còn đã và đang giúp Việt Nam rất nhiều như giáo dục, khoa học thậm chí quân sự nữa thành ra tôi rất ngạc nhiên. Từ trước tới nay tôi vẫn nghĩ ông Thủ tướng là người khá cởi mở trong giới lãnh đạo Việt Nam vì ông có vẻ muốn đối thoại. Tôi rất ngạc nhiên vì ngôn ngữ của ông ấy thiếu tính ngoại giao ».
Nhắc đến ngày 30.04.1975, Luật sư Nguyễn Văn Đài nói : « Một chế độ dân chủ và văn minh đã thua một chế độ độc đảng toàn trị và lạc hậu. Cái ác đã chiến thắng. Thật buồn và nuối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng hòa, bởi tôi và rất nhiều người đều cho rằng nếu ngày 30.04.1975, bên chiến thắng là Việt Nam Cộng hòa thì giờ đây trong khu vực Á châu , Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn quốc về cả kinh tế và quân sự ».
Vì Việt Nam cộng sản không phải là một nước dân chủ, nên Thủ tướng, cũng như các lãnh đạo chóp bu khác, bất cần lời phê bình của người dân. Điều 4 Hiến pháp cho phép Đảng bầu họ. Ngày 22.10.2012, dù Thủ tướng Dũng đã ‘nhận trách nhiệm’ trước Quốc hội và Đảng về những khuyết điểm trong quản lý, điều hành kinh tế. Vì thế, ngày 14.11.2012, đại biểu Dương Trung Quốc đã đề nghị với ông : ‘Thủ tướng có lời xin lỗi trước Quốc hội là một điều đáng ghi nhận. Đã đến lúc phải đề cao trách nhiệm pháp luật, chứ không chỉ là lời xin lỗi. Phải chăng Thủ tướng nên nhân dịp này thể hiện quyết tâm sửa chữa bằng một tập quán phù hợp với xã hội hiện đại là văn hóa từ chức như quan chức các quốc gia tiên tiến vẫn làm? Ông Dũng trả lời : « Chỉ còn 3 ngày nữa tròn 51 năm tôi theo Đảng. Đảng hiểu rõ về tôi, cả ưu khuyết điểm, phẩm chất đạo đức, năng lực, khả năng, sức khỏe cũng như thương tật, tâm tư nguyện vọng. Đảng đã phân công tôi ứng cử làm Thủ tướng và Quốc hội đã bỏ phiếu bầu tôi, tôi nghiêm túc chấp hành quyết định của cơ quan quyền lực cao nhất. » và « Tôi sẽ tiếp tục công tác như tôi đã làm 51 năm qua ». Trong diễn văn, ông đã không quên cảm ơn Liên xô, Trung quốc đã nhiệt thành ủng hộ. Ngoài ra, ông cũng đã nhắc Mỹ, thực dân mới, đàn áp tàn bạo… Ngày nay, nếu họ có trở lại Việt Nam cũng chỉ để giúp nhà nước cộng sản đã gây bao tội ác với người dân bằng vi phạm nhân quyền và đánh đập người dân yêu nước chống Trung cộng xâm lăng. Nếu biết như vậy, chúng ta sẽ thấy sự hợp lý trong diễn văn của Thủ tướng.
II.- LUẬT VÀ NGHỊ QUYẾT VỀ NGÀY 30.04.1975.
A. Luật ‘Ngày Hành Trình đến Tự Do’.
Ngày 08.12.2014, Nghị sĩ Ngô Thanh Hải đã đệ nạp tại Thượng viện Canada Dự luật (Bill) S-219 đề nghị lấy ngày 30.04 hàng năm là Ngày Tháng Tư Đen (Black April Day) để tưởng nhớ hai triệu người Việt đã phải bỏ nước ra đi, và ước lối 250.000 người chết trên biển cả. Đồng thời, cũng để cám ơn Canada nhận 300.000 người Việt tị nạn tại quốc gia này. Do cụm từ ‘Tháng Tư Đen’ thật đúng là ‘quốc hận’ với đồng bào Việt, nhưng không ý nghĩa nơi người Canada, nên họ góp ý muốn đổi thành Ngày Hành Trình Đến Tự Do (The Journey To Freedom Day). Không đồng ý với tên Dự luật S-219 như vậy, nhiều người gốc Việt nhiều nơi, nhất là tại Hoa kỳ, yêu cầu hãy chọn ngày 27/02 vì ngày 27.07.1979, Không lực Canada đã có chuyến bay đưa những người Việt tị nạn đầu tiên vào Canada. Tuy nhiên, nếu ngày này được trở thành luật ở Canada thì Việt cộng ở Tòa Đại sứ còn gì mừng hơn bởi đó là ngày thương binh liệt sĩ Quân đội cộng sản Việt Nam. Dự luật này đã được Thượng nghị viện thông qua ngày 08.12.2014 và Hạ nghị viện cũng biểu quyết đồng ý hôm 22.04.2015 và đã được ông David Johnston, Thống đốc Toàn quyền Canada, đại diện Nữ Hoàng Elizabeth II (Anh), ký ban hành ngày 23.04.2015 và có hiệu lực ngày 30.04.2015.
Ngày 24.04.2015, Bộ Ngoại giao Việt Nam triệu Đại sứ Canada tại Hà nội David Devine để phản đối và nêu rõ quan điểm của Chính phủ Việt Nam về Luật này. Đồng thời, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình nói : ề S-219 là một đạo luật hoàn toàn sai trái, chứa đựng nhiều nội dung xuyên tạc lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế, trong đó có Canada ủng hộ. Việt Nam kiên quyết phản đối việc Canada thông qua đạo luật này… đây là bước lùi trong quan hệ giữa hai nước, gây ảnh hưởng tiêu cực tới quan hệ đang phát triển tốt đẹp giữa Việt Nam và Canada, xúc phạm tình cảm của nhân dân Việt Nam cũng như một bộ phận lớn cộng đồng người Việt tại Canada Ừ. Vào tháng 12/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã viết thư trực tiếp cho Thủ tướng Canada Stephen Harper để bày tỏ quan ngại về dự luật này. Nhớ rằng : Canada là một nước thi hành nguyên tắc ‘tam quyền phân lập’. Do đó, Thủ tướng nắm quyền Hành pháp, trong khi, quyền Lập pháp ở trong tay Quốc hội.
B. Nghị quyết ‘Tháng Tư Đen’.
Ngày 10.03.2015, Nghị quyết (Resolution) tưởng niệm Tháng Tư Đen được Nghị sĩ Janet Nguyễn và nhiều Nghị sĩ khác đệ nạp tại Thượng nghị viện California để :
- Tưởng niệm Quân Cán Chính Việt Nam Cộng hòa và Đồng minh đã Hy sinh cho chính nghĩa Tự Do của người Miền Nam ;
- Tưởng niệm nhiều trăm ngàn đồng bào đã bỏ mình ngoài biển khơi, trong rừng sâu trên bước đường chạy trốn khỏi chế độ tàn ác Cộng sản Việt ;
- Lên án sự độc ác của chế độ Việt cộng đàn áp, giam cầm hàng ngàn tù nhân lương tâm trong các nhà tù khắc nghiệt, trong các trại tập trung kinh hoàng
(Theo tài liệu chính phủ Hoa kỳ thì khoảng 170 000 người bị chết trong các trại tù cải tạo với thời gian giam giữ tối đa đến 17 năm và không cần xét xử) ;
- Vinh danh 580 000 người Việt ở California đã có công đóng góp, tạo dựng một Cộng đồng vững mạnh, cống hiến một văn hóa tốt đẹp vào Tiểu bang này.
Bất chấp sự phản đối từ Bộ Ngoại giao cộng sản Việt Nam, ngày 26.03.2015, Thượng nghị viện và Hạ nghị viện California đã thông qua Nghị Quyết SCR 29.
Lưu ý : Luật thì có hiệu lực cưỡng hành, tức bắt buộc mọi công dân nước đó phải thi hành. Nghị quyết thì không có tính cách đó.
Hà Minh Thảo
- Viết bởi Phạm Trần
30 năm qua, từ khi có chủ trương được gọi là Đổi Mới năm 1986, đảng Cộng sản Việt Nam đã nói đi nói lại trong suốt 11 khoá đảng từ VI đến XI về khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” , nhưng càng định hướng kinh tế Việt Nam càng nằm gọn trong vòng tay Trung Quốc và tiếp tục không làm nổi con ốc vít.
Vậy mà vào buổi sáng mùa Xuân ngày 28/02/2015 , tại Thủ đô ngàn năm văn vật Hà Nội, Hội đồng Lý luận Trung Ương-nơi quy tụ những “nhà tư tưởng siêu việt Cộng sản to đầu nhỏ óc ” vẫn có thể điềm nhiên phối hợp với Viện Hàn lâm Khoa học xã hội VN tổ chức tọa đàm để “Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng XHCN” để ghi vào dự thảo Báo cáo chính trị của Trung Ương tại Đại hội Đảng 12.
Vậy họ đã nói gì và dự tính sẽ làm gì để cứu Việt Nam ra khỏi vũng lầy lạc hậu cả về tư tưởng lẫn hành động ?
Trước hết, hãy lắng nghe ông tiến sỹ Nguyễn Xuân Thắng, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nói lạc quan: “ Thực tiễn 30 năm đổi mới đã chứng minh đầy sức thuyết phục về việc xử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nền kinh tế liên tục đạt được tốc độ tăng trưởng cao, phát triển ổn định; tỷ lệ đói nghèo giảm mạnh, bền vững và ấn tượng, được cộng đồng thế giới công nhận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt.”
Ông khoe tiếp : “Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình. Chính trị-xã hội ổn định, quốc phòng-an ninh được tăng cường. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu, thế và lực của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tiếp tục được hoàn thiện. Vai trò, hiệu quả, sức cạnh tranh của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế được nâng lên. Môi trường đầu tư và kinh doanh được cải thiện, bình đẳng và thông thoáng hơn.
Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, vận hành cơ bản thông suốt, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế. Hầu hết các loại giá cả hàng hóa, được xác lập theo nguyên tắc thị trường.”
Tòan lý thuyết viển vông không bằng chứng cụ thể và chỉ lập lại những điều của tập thể lãnh đạo đã phô trương trong ngót 30 năm qua.
Hãy nêu ra đây một bằng chứng không thể chối cãi : Tại Đại hội IX (năm 2001) đảng CSVN đề ra mục tiêu “đến năm 2020, Việt Nam trở thành một quốc gia công nghiệp hóa theo hướng hiện đại”, nhưng bây giờ thời gian chỉ còn 1,825 ngày (5 năm) nên giấc mộng vàng đã tan thành mây khói.
Lý do thất bại vì Việt Nam chỉ muốn xây nhà trên bãi cát thay vì phải có nền móng vững vàng dựa vào quy trình giáo dục và đào tạo có bài bản.
Hãy nghe bài giảng của Giáo sư Hòang Tụy, Nhà Toán học nổi tiếng thế giới của Việt Nam : “Khi mô tả sự phát triển kém cỏi của đất nước, chúng ta hay dùng từ lạc hậu hay tụt hậu, nhưng theo tôi để phản ánh đúng hơn thực chất phải nói ta đang trì trệ trong tụt hậu. Nếu tụt hậu mà đang đi lên thì cũng không quá lo lắng nhưng trì trệ trong tụt hậu thì đáng lo thật, mà biểu hiện rõ nhất sự trì trệ này là ngay về chỉ số đổi mới sáng tạo, theo đánh giá của quốc tế, Viêt Nam còn thua cả Lào và Campuchia. Nếu chỉ kể về mức độ lạc hậu, Lào và Campuchia hiện xếp sau Việt Nam nhưng nếu họ cứ tiếp tục đứng trên ta về chỉ số đổi mới sáng tạo thì với đà này, chẳng mấy chốc thứ tự đó sẽ đảo ngược, chắc chắn họ sẽ bỏ lại ta ở phía sau.” (Trích Tạp chí Tia Sáng, ngày 10/02/2015)
Cảnh báo của Giáo sư Hòang Tụy có làm cho Bộ Chính trị 16 người, đứng đầu bởi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng giật mình chăng, hay cứ mãi ca lên phương châm vẩn vơ “qúa độ lên xã hội chủ nghĩa” mà chưa biết, nói theo ông Trọng, “đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa “ ?
Như vậy thì có hướng đâu mà định. Đó là lý do tại sao Giáo sư Hòang Tuy đã nói thẳng : “ Suy ngẫm về đường lối công nghiệp hóa, phải nhìn nhận chúng ta đã thất bại, nói nhẹ hơn là chưa thành công. Sai lầm của chúng ta là muốn xây dựng ngay những ngành công nghiệp lớn, sản xuất những thành phẩm phức tạp, tinh vi, như công nghiệp ô tô, đại cơ khí, điện tử… mà không qua bước phát triển công nghiệp phụ trợ, nên sau nhiều thập kỷ mà rôt cuộc ngành nào cũng chỉ mới dừng lại ở trình độ lắp ráp.”
Nói đúng ra là làm thuê cho nước ngòai, bởi vì hầu hết các Doanh nghiệp Việt Nam chưa sản xuất được đồ phụ tùng cần thiết cho các Công ty có cơ sở kinh doanh tại Việt Nam.
Bài học Tập đòan Samsung của Nam Hàn ở Việt Nam không tìm được con ốc vít do Việt Nam làm để khỏi phải mua của nước khác tốn kém hơn không còn là chuyện thuần túy yếu kém về khả năng kỹ thuật của Việt Nam mà danh dự người Việt đã bị tổn thương.
Báo điện tử ZING.VN viết: “Ngày 11/9 (2014), tại buổi tiếp xúc với các doanh nghiệp VN và công bố các điều kiện để trở thành nhà cung cấp linh kiện cho Samsung, do Tập đoàn Samsung tổ chức ở Hà Nội, nhiều doanh nghiệp thừa nhận chưa thể đáp ứng điều kiện để cung cấp linh kiện cho Samsung, dù chỉ là ốc vít...”
Lý do vì các doanh nghiệp Việt Nam không đủ máy móc, khả năng chuyên môn và trình độ kỹ thuật
Theo bài báo thì : “Đại diện Samsung cũng giới thiệu có tám điều kiện cơ bản cho nhà cung cấp, nổi bật là công nghệ phải có đăng ký sáng chế, có hạ tầng cho nghiên cứu phát triển. Chất lượng phải có chứng nhận ISO (International Organization for Standardization (ISO)—Tiêu chuẩn Quốc tế ) . Giao hàng phải đáp ứng thời hạn, ngay cả khi có yêu cầu sản xuất nhanh hơn.
Về giá cả phải cạnh tranh, có thể điều chỉnh theo hướng tích cực. Tài chính phải đáp ứng về tỷ lệ nợ, tỷ lệ vốn lưu động. Phải đáp ứng tiêu chuẩn về lao động, quyền con người... Ngoài ra, Samsung cũng đưa ra 13 mục tiêu phải tuân thủ như: bơm dập cháy tự động, vật liệu xây dựng chống cháy, phải có thiết bị chống ô nhiễm không khí, có công trình xử lý nước thải...”
Giáo sư Hòang Tụy nói thêm : “Chúng ta đã nhận được sự đầu tư của các hãng sản xuất công nghiệp nổi tiếng thế giới như Toyota, Samsung…; riêng Samsung đã rót vào Việt Nam hàng tỉ đô la, kết quả là ta đã có nhà máy lớn, hiện đại, sản xuất điện thoại di động xuất khẩu khắp thế giới. Tuy nhiên điều đáng buồn là mức đóng góp của Việt Nam trong sản phẩm xuất khẩu của Samsung mới chỉ ở khâu lắp ráp, tức là lao động với năng suất thấp nhất, còn tất cả chi tiết, phụ tùng, từ cái đơn giản nhất cũng chưa làm đuơc mà đều phải nhập khẩu. Thậm chí đã từng có chuyên gia nước ngoài nhận xét cả nước Việt Nam không tìm đâu ra nơi nào sản xuất nổi cái đinh vít cho đúng với tiêu chuẩn quốc tế.”
“Tương tự, với ngành công nghiệp xe hơi cũng vậy. Vừa qua báo chí đăng tin có mấy doanh nghiệp Việt nam định hợp tác sản xuất xe hơi nhãn hiệu Việt Nam, nhưng khi xem xét kỹ chiếc xe hơi do công ty Trường Hải ở Đà Nẵng mới chế tạo thì hóa ra cũng chỉ là lắp ráp các chi tiết, phụ tùng nhập khẩu chứ phần làm ra thật ở Việt Nam chẳng có mấy. Như thế thì giá thành không thể rẻ, chất lượng không thể cao, làm sao cạnh tranh nổi trên thị trường quốc tế. Đành rằng rồi sẽ cải tiến dần, nhưng con đường đó vừa lâu vừa không hiệu quả.”
Với những tỷ dụ vừa kể thì dù không phải là chuyên viên ai cũng thấy Việt Nam phải có lớp chuyên viên giỏi cả về kiến thức, ngọai ngữ và tay nghề để xây dựng đất nước, nhưng giáo dục của Việt Nam lại không đặt nặng nền tảng cơ bản và rất cần thiết này.
Vì vậy, Giáo sư Hòang Tụy mới bảo : “Thời đại ngày nay muốn đổi mới sáng tạo trong bất cứ ngành hoạt động sản xuất nào cũng cần đến công nghiệp phụ trợ. Phải học bảng chữ cái rồi mới viết ra văn được chứ. Nước nào đi lên công nghiệp hiện đại cũng đã trải qua bước này còn chúng ta thì đang theo quy trình ngược, chưa có công nghiệp phụ trợ phát triển đã đòi xây dựng công nghiệp hiện đại thì làm sao thành công được.
Huống chi ngày nay chẳng còn mấy ai làm công nghiệp từ A đến Z, nước đi sau chỉ có thể đi lên bằng cách phấn đấu chen chân vào các khâu có giá trị gia tăng cao dần trong các chuỗi cung ứng. Đổi mới sáng tạo phải bắt đầu trên nên tảng công nghiệp phụ trợ là vì thế.”
Nhưng tại sao trong suốt 30 năm qua, qua 5 đời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng mà chẳng có ai nghĩ ra “làm nổi con ốc vít” cho đất nước ?
TỪ CƯƠNG LĨNH ĐẾN HIẾN PHÁP
Nhưng cả 5 ông này đều rất hồ hởi cổ võ cho chủ trương “Phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo”, theo “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", ngày 27-6-1991.
Đến Đại hội đảng XI (2011), Cương lĩnh được bổ sung nhưng vẫn hố hoán lên : “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.”
Cuối cùng, quan điểm làm kinh tế theo “định hướng xã hội chủ nghĩa” đã được viết vào Hiến pháp (sửa đổi) năm 2013 trong 2 Điều:
Điều 51
1. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
2. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
3. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.
Điều 52
Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường; thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân.
Như vậy từ năm 1991 (Đại hội đảng VII) cho đến Hiến pháp mới năm 2013, đảng CSVN chỉ nhắc đi nhắc lại chuyện làm “kinh tế thị trường” theo Chủ nghĩa Tư bản, nhưng lại thòng thêm cái đuôi “theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa”, hay Cộng sản cũng vậy và “Nhà nước phải lãnh đạo”, do đảng CSVN cai trị.
Chính mớ lý luận tổ ong vòng vo Tam quốc này mà kinh tế của Việt Nam đã bị còng tay và chỉ biết làm theo kiểu “mì ăn liền” không cần góp sức sáng tạo ra.
Nhưng ông Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thắng vẫn bảo thủ trong lời phát biểu hôm 28/02/2015 : “Vai trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, ngày càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế-xã hội. Việc huy động và phân bổ các nguồn lực gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội đã từng bước phù hợp với cơ chế thị trường; hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu.”
Nếu tốt đẹp như thế thì cần gì phải đổi mới tư duy để vẽ ra định nghĩa mới ”về khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” , nhưng vẫn không có lối thoát khỏi vũng lầy hiện nay ?
Lý do phải thay đổi thì ai cũng đã nhìn thấy vì sau 30 năm thực hiện, kinh tế Việt Nam đã hòan tòan lệ thuộc vào Trung Quốc để tồn tại và chỉ biết bắt dân làm công cho nước ngoài và xuất khẩu hàng thô, sơ chế sang Trung Quốc để sau đó lại nhập khẩu hàng chế biến từ những thứ mình xuất khẩu với giá cao hơn.
Vì vậy, ông Thắng mới nói : “Tuy nhiên, quá trình xây dựng, phát triển và hoàn thiện mô hình này còn có nhiều hạn chế, yếu kém và gặp không ít trở ngại, khó khăn.”
Nhưng đó có phải là lý do buộc những nhà lý luận của đảng phải đưa ra một “định nghĩa mới” cho Dự thảo Báo cáo Chính trị sẽ được Khóa đảng XI phân bua tại Đại hội đảng XII, dự trù vào tháng 01/2016, hay tư duy của Hội đồng Lý luận Trung ương cũng đã cạn tàu ráo máng ?
Theo tin TTXVN thì định nghĩa mới như thế này: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.”
Như vậy có khác gì nội dung của Cương lĩnh và Hiến pháp đâu. Tuy câu chữ có vài chỗ mới và thay đổi vị trí nhưng cơ bản “vẫn như cũ”, giống như “rượu cũ” đựng trong “bình mới” vậy thôi.
Chỉ có điều là độ rày, có thể bị áp lực từ Mỹ và nhiều nước trên thế giới chưa chịu nhìn nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường nên các “lão gia” tư tưởng của đảng muốn nói khác cho có vẻ màu mè thành thật.
Họ viết thêm : “ Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân trong phát triển kinh tế-xã hội.”
Có một điểm mới quan trọng là có lẽ các “nhà tư tưởng” đã nhìn ra cái đích biến Việt Nam “thành một quốc gia công nghiệp hóa theo hướng hiện đại” vào năm 2020 đã “xôi hỏng bỏng không” nên họ đã điều chỉnh lại.
Họ viết tiếp : “ Trên cơ sở thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh thần nêu trên, Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XII đã tiếp tục cụ thể hóa, nêu ra phương hướng mục tiêu và nhiệm vụ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn 5-10 năm tới.
Cụ thể, “Đến năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội.”
Như vậy, khi từ bỏ mục tiêu “công nghiệp hóa” vào năm 2020 nhưng vẫn phải đeo hòn đá tảng “định hướng xã hội chủ nghĩa” như Trung Quốc là đã mất tự chủ và thất bại ê chề rồi còn gì nữa ?
Nhưng ngoài làm công cho nước ngoài để tồn tại, Việt Nam còn bị nằm gọn trong tay Trung Quốc để được sống tiếp.
Lý do duy nhất vì Việt Nam đã tự biến mình thành “cây tầm gửi” chỉ biết ăn bám vào “mì ăn liền” của hàng Trung Quốc là thói quen lệ thuộc không còn tự hào dân tộc.
Báo Người Lao Động (NLĐ) ngày 09/12/2014 đã chứng minh tình trạng này : “Trong 11 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam qua Trung Quốc đạt 13,5 tỉ USD nhưng phải tốn đến 39,9 tỉ USD để nhập lại các mặt hàng từ thị trường này. Kết quả trên đã làm tốc độ nhập siêu của Việt Nam từ thị trường này tiếp tục tăng hơn 22,1% so với cùng kỳ năm trước (2013) với 26,4 tỉ USD.
Số liệu cụ thể được Tổng cục hải quan công bố, trong 10 tháng đầu năm, các doanh nghiệp trong nước đã chi ra 403 triệu USD để nhập khẩu mặt hàng thủy sản từ Trung Quốc. Bên cạnh đó, hàng rau quả cũng “ngốn” hơn 337 triệu USD dù đây là mặt hàng Việt Nam sản xuất được, thậm chí dư thừa. Một số loại rau quả, trái cây Trung Quốc do bị người tiêu dùng quay lưng nên thường lập lờ gắn mác hàng Việt như khoai tây, bắp cải, lựu, hồng giòn, lê, táo, quýt… để tiếp cận được với khách hàng.”
Như thế thì các Bộ, Ngành nhà nước có trách nhiệm an ninh và kinh tế-thương mại, đặc biệt về lĩnh vực kiểm sóat thị trường đang ăn lương của dân để phục vụ ai ?
Quan ngại hơn, theo báo NLĐ : “Trong danh mục nông thủy sản nhập khẩu từ Trung Quốc, có đến 798 triệu USD tiền nhập khẩu gạo (dù Việt Nam là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới); 76,2 triệu USD nhập khẩu cà phê; hơn 759 triệu USD nhập khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn.
Với mặt hàng bánh kẹo, dù không còn là nước nhập khẩu hàng đầu vào Việt Nam nhưng các sản phẩm bánh kẹo và các sản phẩm ngũ cốc từ Trung Quốc cũng chiếm 33,5 triệu USD.”
Phản ảnh lời cảnh báo của Giáo sư Hòang Tụy, bài báo cho biết : “ Dẫn đầu trong các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc phải kể đến nguyên phụ liệu dùng để sản xuất hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dệt may, máy vi tính các loại và linh kiện, các loại vải xơ sợi dệt… Trong đó, nhập khẩu xơ, sợi dệt các loại trị giá hơn 1 tỉ USD, hàng dệt may hơn 387 triệu USD, giày dép các loại là 426 triệu USD và nguyên phụ liệu dệt may da giày khoảng 95 triệu USD.
Tương tự, với các mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, Việt Nam cũng tốn hơn 1,7 tỉ USD nhập khẩu từ Trung Quốc. Điện thoại các loại và linh kiện nhập khẩu trị giá 368 triệu USD. Điều này cũng dễ hiểu khi mà ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam thua xa các nước, trong khi các đại gia công nghệ như Samsung, LG... đang ngày càng mở rộng sản xuất ở Việt Nam, cần rất nhiều linh kiện, nguyên phụ liệu.”
Như thế rõ ràng đảng và nhà nước CSVN chẳng có kế họach kinh tế “tự lực cánh sinh” gì ráo trọi. Tất tất mọi thứ đều do Trung Quốc cung cấp như Chính phủ trung ương Bắc Kinh đang làm đối với các tỉnh, thành địa phương của Trung Quốc, chỉ khác là Việt Nam đã xuất khẩu hàng hoá cho Trung Quốc để đổi lấy đồng tiền trả công làm ra sản phẩm cho các công ty nước ngòai sử dụng công nhân rẻ để sản xuất hàng hóa ở Việt Nam.
Tiến Sỹ Phạm Sỹ Thành - Giám đốc Chương trình Nghiên cứu kinh tế Trung Quốc thuộc Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) cũng đã báo động trên tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn hồi tháng 5 năm 2014 rằng : “Nguyên nhân dẫn đến việc Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc các hàng thô, sơ chế, có giá trị gia tăng thấp và nhập khẩu các hàng thành phẩm có giá trị gia tăng cao do công nghệ và sự phát triển của công nghiệp phụ trợ của Việt Nam.”
Ông Thành nói : “ Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc 30 triệu đô la Mỹ thì nhập khẩu từ quốc gia này 300 triệu đô la Mỹ mặt hàng nông sản cùng loại. Điều này cho thấy hoạt động quản lý thị trường hoặc chính sách thương mại của Việt Nam đang có vấn đề.”
Một trong hàng hà sa số “vấn đề” của Việt Nam đối với Trung Quốc là : “Hàng hóa Việt Nam nếu theo con đường tiểu ngạch thì do thương nhân Trung Quốc thu mua tận gốc với giá rẻ, nếu theo con đường chính ngạch thì mới chỉ thâm nhập vào các tỉnh ven biên giới như Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông mà chưa thể thâm nhập sâu vào nội địa Trung Quốc.
Trong khi đó ở Trung Quốc, công ty của Trung Quốc vào tận ruộng thu mua của nông dân với giá cao, xuất khẩu sang các nước khác.”
Như thế là Trung Quốc đã “chơi cha” trên mặt Việt Nam rồi còn gì nữa ? Họ không thèm nhập khẩu hàng hóa qua cửa chính mà để cho lái buôn lẻ của mình đi vào tận làng thôn Việt Nam đầu tư và đánh lừa nông dân, nhà sản xuất để mua hàng rẻ hoặc ghìm giá.
Sau đó, hàng chế biến từ các sản phẩm Việt Nam lại được xuất khẩu qua các nước và Việt Nam qua ngõ chính với giá cắt cổ mà nhà nước Việt Nam vẫn “vui vẻ” nhận hàng thì chỉ có hai ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mới trả lời được !
Ngoài tình trạng kinh tế chênh lệch nguy hiểm này, Trung Quốc còn cho thương gia buôn lậu hàng nhập vào Việt Nam, và dán nhãn Việt Nam trên hàng Trung Quốc để phá họai các doanh nghiệp Việt Nam.
Nhưng rất ngạc nhiên là không thấy Hội đồng Lý luận Trung ương gồm 42 người, đứng đầu bởi Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Đinh Thế Huynh, đề ra kiến nghị nào cho đảng để đối phó với tai họa này từ 30 năm qua.
Hội đồng này đã được trao nhiệm vụ : “Là cơ quan tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về các vấn đề lý luận chính trị làm cơ sở cho việc hoạch định, hoàn thiện, phát triển đường lối, chính sách của Đảng, về những chương trình, đề tài khoa học cấp nhà nước về lý luận chính trị, phục vụ trực tiếp công tác lãnh đạo của Đảng”, nhưng xem ra cũng đã mất định hướng và “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” như “một số không nhỏ” đảng viên khác. -/-
Phạm Trần
- Viết bởi Bảo Giang
Chuyện hoà giải, hòa hợp, lẽ ra, phải là câu chuyện thuộc hàng “ thiên kinh diễn nghĩa”, phải được coi trọng, vì nó đứng đầu trong những sự cần thiết và hữu ích, giúp cho con người có được cuộc sống tốt đẹp hơn. Bởi vì, không có một cá thể nào trên trái đất này mà không cần đến việc hòa giải và hòa hợp với đối tác của mình. Như thế, nó trở thành lẽ sống trong cuộc sống. Tuy nhiên, khi bước vào lãnh vực chính trị, nó trở thành chuyện xảo trá, nhiều kẻ lợi dụng ngôn từ để lừa dối nhau. Đặc biệt, theo kiểu chính trị của Việt cộng thì nó trở thành chiêu bài nhố nhăng, lố bịch. Sự kiện nhố nhăng, nham nhở do Việt cộng tạo ra không phải chỉ xuất hiện sau ngày 30-4-1975. Trái lại, trước đó CS cũng đã hô hào hoà giải hòa hợp dân tộc rất nhiều lần rồi. Đến sau ngày 30-4-1975, chuyện này lại được nhiều người đem ra lau chùi và đánh bóng kỹ hơn. Tuy nhiên, kết quả là chẳng có gì, nó như cái thùng rỗng, rỉ xét. Lý do:
Thứ nhất, thành phần chủ yếu đánh bóng cụm từ này là những kẻ ngụy hòa, những kẻ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, là những kẻ điếu đóm, bưng bô cho CS. Nhìn chung, đây là những câu chuyện của những kẻ đầu rỗng, không tim óc, chẳng lương tri, chẳng xác định được vị trí, vai trò và trách nhiệm của mỗi đối tác trong cuộc hòa giải ra sao. Chỉ hùa theo cộng sản là tập thể gây ra tội ác, nhưng đang nắm lợi thế sau khi cướp được chính quyền để kiếm phần ăn ké.
Thứ hai, do chính cộng sản tung ra như một loại chiêu bài để lừa bịp dư luận trong và ngoài nước, ngõ hầu đánh tan định kiến cho rằng cộng sản là một tập đoàn cầm đầu tội ác, không thể sống chung với xã hội loài người. CS chính là hiện thân của gian trá chống lại sự thật, là hiện thân của bạo lực, gây hấn, chống lại hòa bình, ổn định của cuộc sống. Tuy nhiên khi mở ra chiêu bài này, cộng sản đã không che đạy được cái bản ngã bất lương, vô đạo của tổ chức. Trái lại, còn lộ nguyên hình của một con khỉ biết đội mũ, khi CS tự cho mình ở vào vị thế “ người” có trí tuệ, giữ vị thế dân tộc hay cao hơn để đòi buộc người dân, đòi buộc những người khác chính kiến, những người thuộc khuynh hướng Quốc Gia, những người không theo cộng sản phải xếp vó quy hàng, tùng phục cái Tam Vô của cộng sản, càng làm cho chuyện hoà giải hòa hợp ra khả ố, nhố nhăng hơn.
Thật vậy, trong suốt mấy chục năm qua, tôi chưa thấy một người nào khi nói đến, hay đặt ra vấn đề hòa giải hòa hợp dân tộc mà họ lại có đánh gía đúng vị thế và vai trò của từng thành phần trong cuộc hòa giải, cũng như đặt ra được những điều kiện thích hợp cho một cuộc hòa giài, hòa hợp cho đúng nghĩa. Trái lại chỉ như tiếng cú kêu đêm hay tiếng chó hú ma thôi!
Sở dĩ tôi nói toạc ra như thế là bởi vì: Khi nói đến chuyện hòa giải là người ta mặc nhiên xác nhận có những điều bất bình, bất hợp tác của những đối tác liên hệ. Nhẹ thì công việc trì trệ, nặng thì vĩnh viễn có thể trở thành những kẻ thù không thể đội trời chung hoặc đường ai nấy bước. Thí dụ, một người nam và một ngưòi nữ, là hai thực thể hoàn toàn khác biệt, nhưng có thể hòa hợp với nhau trong một cuộc sống. Họ cùng chia ngọt, sẻ bùi, chia chung nỗi ân ưu để tạo nên một mái gia đình êm ấm, sống yên vui hạnh phúc bên nhau và bên những tiếng cười đùa của đàn con ngày một khôn lớn trưỏng thành. Tuy nhiên, cũng hai thực thể nam nữ hòa hợp với nhau thành một cặp trong cuộc sống, nhưng có nhiều điều bất hòa, gây ra trở ngại cho cuộc sống chung. Họ cần phải thực tâm làm cuộc hòa giải với nhau để ngõ hầu, tiếp tục cuộc sống với đàn con. Gặp trường hợp không thể hòa giải được nữa, vì lý do này hay lý do khác thì cái kết quả có thể là đường ai nấy đi. Cuộc sống trong xã hội, nói đúng hơn, trong những sinh hoạt của quốc gia cũng không có ngoại lệ. Như thế, trước hết phải điểm danh được những đối tác nào cần phải làm cuộc hòa giải với nhau, sau đó mới khả dĩ nói đến chuyện hoà giải và hòa giải thế nào?
a. Hoà giải giữa người dân với ngưòi dân hay giữa những sắc dân?
Người dân Việt Nam ở trong nước hay ở hải ngoại, theo tôi, không có nhu cầu thù hận lẫn nhau. Trái lại, theo truyền thống là một tập thể luôn bao dung, đùm bọc lấy nhau trong tình nghĩa đồng bào. Theo đó, người dân với người dân, hay giữa các sắc dân với nhau trong một nước không có nhu cầu phải hòa giải về chính trị. Việc riêng, mỗi cá thể, hay tập thể pháp nhân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi của mình đối với người khác. Khi đó, sự hòa giải giữa cá nhân này với cá nhân khác ( vì những va chạm ) thường là được hưởng dẫn bởi pháp luật. Đây không thể được coi là những cuộc hòa giải mang tính chính trị, dù có thể liên quan đến chính trị.
b. Hoà giải giữa các đảng phái và các tổ chức chính trị?
Nhu cầu hòa giải hay hòa hợp giữa các đảng phái thường vì quyền lợi của các đối tác. Nó không mang tính sinh hoạt quốc gia, tuy có ảnh hưởng đến sinh hoạt chung. Nghĩa là, nó không phải là trọng tâm trong những sinh hoạt của đất nước cần phải đạt đến. Nó mang tính hợp tác vì quyền lợi cho đôi bên hơn là những xung đột cần phải hòa giải giữa đôi bên. Hơn thế, những tranh chấp nếu có đều phải bị chi phối bởi luật pháp, nó không thể trở nên nguy hại cho an ninh đất nước.
c. Hoà giải giữa các đảng phái và người dân?
Trong một đất nước, khi công quyền và quyền chính trị của người dân được tôn trọng và bảo đảm. Việc một đảng phài có những sách lược đi ngược lại quyền lợi của đất nước, ngược với quyền lợi của người dân. Hoặc giả, không đem lại nhiều lợi ích cho quốc dân, đảng phái đó sẽ bước vào con đường tự diệt. Bởi vì, người dân sẽ dùng lá phiếu của mình để trừng phạt những sách lược tồi tệ ấy ngay tức khắc. Theo đó, không cần phải kêu gọi làm một cuộc hòa giải giữa đảng phái với người dân. Trái lại, chính các đảng phái phải biết tự mình làm cuộc hóa giải đơn phương với người dân bằng cách sửa đổi, hay thay đổi các chính sách, thay đổi lãnh đạo của đảng, ngõ hầu có thể tranh thủ lá phiếu của ngưòi dân, nếu muốn tồn tại.
d. Hoà giải giữa chính quyền với nhân dân?
Đối với người dân trong các nước dân chủ, nơi mà công quyền của con người được tôn trọng thì những việc làm sai trái của chính quyền (do các đảng phái lãnh đạo), làm mất lòng dân, làm cho đất nước bị suy thoái thì đã có một phương cách hòa giải tốt nhất và hữu hiệu nhất là lá phiếu của người dân trong các cuộc phổ thông đầu phiếu. Khi đó, các đảng phái phải trả lời cho công chúng về những chính sách của đảng mình và đảng đối lập có thể vạch ra những sai lầm của đối thủ và thúc đẩy người dân lật đổ chính quyền hiện hữu bằng cách bỏ phiếu cho đảng phái của mình trong cuộc bầu cử gần nhất. Như thế, không cần phải đặt ra chuyện hòa giải giữa chính quyền và người dân, vì tự nó (đảng phái đang lãnh đạo) phải biết điều chỉnh để giữ chính quyền. Hoặc sẽ bị loại bỏ bằng lá phiếu của người dân trong cuộc phổ thông đầu phiếu. Ở ngoài là thế, trường hợp ở Việt Nam có ngoại lệ hay không?
Theo nguyên tắc và theo văn bản thì ở Việt Nam cũng không cần có ngoại lệ. Bởi vì trong một bản văn gọi là hiến pháp của nhà nước CHXHCN (Việt cộng), dù do các đảng viên cộng sản nhóm họp lại, và tự gọi là Quốc Hội đã viết ra vào năm 2013, trong đó cũng có ghi một điều rất quan trọng như sau:
Điều 16:
1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Theo từ, ý nghĩa, văn bản này đã xác quyết. Mọi người công dân đều bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng trong đời sống chính trị. Không ai, không đoàn thể nào được tặng dữ ưu quyền hơn người khác. Theo đó, người dân có trọn quyền tham chính, không thể bị phân biệt trong việc ứng cử và bầu cử. Mọi người công dân đều có quyền lập hội, lập đoàn hay tổ chức chính trị và có quyền tham gia vào các hoạt động chính trị hay các sự kiện chính trị của đất nước. Người công dân cũng được bảo đảm không bị phân biệt đối sử trong các lãnh vực sinh hoạt văn hóa, xã hội. Nghĩa là họ có quyền khai thác các cơ sở về thông tin, văn hóa, xã hội. Theo tinh thần bản văn, người dân không thể bị phân biệt đối xử trong các lãnh vực trên và không cơ quan nào được phép tước đoạt công quyền, hay những quyền trực thuộc các lãnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội của công dân. ( trừ trường hợp phạm pháp)
Tuy nhiên, trong thực tế, đây chỉ là những chữ viết CS xử dụng để tuyên truyền láo khoét trong chủ đích lừa bịp thế giới và lừa bịp người dân Việt Nam mà thôi. Nó hoàn toàn không có hiệu lực, dù nhỏ, trong thực tế sinh hoạt. Bởi vì, chính đảng cộng sản đã cho hơn 400 đảng viên đảng cộng sản tập hợp lại trong một cái túi, gọi là quốc hội của nhà nước CHXHCN, rồi tự biểu quyết cướp giựt trắng trợn quyền bình đẳng về chính trị, dân sự, văn hóa, và xã hội của người dân Việt Nam do chính những kẻ này viết ra ở điều 16, và trao cho đảng cộng sản độc quyền chiếm lĩnh đời sống chính trị, dân sự, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội bằng điều 4 trong cùng một bản văn gọi là hiến pháp năm 2013.
Điều 4: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” .
Điều này có nghĩa là, đảng cộng sản qua bản văn đã khẳng đính: chỉ có các đảng viên đảng cộng sản mới có quyền chính trị, quyền tham chính và quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội. Người dân Việt Nam không có quyền tham gia vào các lãnh vực này. Ở đây, nhà nước được định nghĩa là hệ thống tập hợp và điều hành ba ngành hành pháp, tư pháp và lập pháp. Và xã hội thì bao gồm tất cả mọi sinh hoạt, mọi tổ chức có liên quan đến đời sống của người dân, mọi tổ chúc liên hệ đến xã hội như học đường, nhà thương, thông tin, văn hóa và tôn giáo v.v…. Như thế, chính điều khoản này đã tạo nên sự bất bình đẳng, tạo ra sự phân biệt đối xử giữa công dân với đảng viên cộng sản trước pháp luật mà điều 16 đã quy định. Chính điều 4 đã tước đoạt một cách man rợ công quyền của người dân. Nó đã chính thức xóa bỏ mọi chữ, mọi nghĩa đã được dàn dựng trong điều 16.
Từ điểm đựợc trao ưu quyền này, nó đã tạo ra một bất đồng, xung khắc lớn. Đảng viên đảng cộng sản cũng là một công dân, cũng chỉ có một lá phiếu. Đảng viên CS không phải là con bò, mà có lẽ cũng không phải là loài ma qoái, có chăng là những kẻ gây ra tội ác cho dân, tại sao lại được trao quyền lãnh đạo đất nước và xã hội, người dân thì không? Câu hỏi này đến nay vẫn không có câu trả lời thỏa đáng. Và ở ngay trường hợp nó giải tích được câu trả lời là con bò, hay là ma quỷ thì thắc mắc cũng không chấm hết.
Rồi cùng với cái tồi tệ này, Điều 4 còn có hiệu lực xóa bỏ, triệt tiêu hòan toàn ý nghĩa trong khoản 2 điều 2 do chính CS tự ý viết ra trong văn bản này : “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”.
Đọc xong, bạn tôi bảo. “Bố khỉ, nó thối không thể tưởng tượng được”. Ở trên, nó láo lếu, lừa bịp, viết rằng” nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nưóc thuộc về nhân dân”. Ở dưới, ngay trong điều 4 nó lại quy định là:” “Đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”: Vậy quyền làm chủ của người dân là cái quyền gì, ở đâu? Rồi “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” là cái quyền lực gì? Hơn 90 triệu người dân làm chủ mà không có quyền lãnh đạo đất nước ư? Một đảng phái bao gồm 2,3 triệu đảng viên lại có quyền lãnh đạo và truất phế, hủy bỏ quyền lãnh đạo đất nước của hơn 90 triệu chủ nhân ư?
Có ai tìm ra được một bản văn nào tồi tệ, nặng mùi như bản văn được gọi là hiến pháp “ trí tuệ” của Việt cộng không? Thử hỏi xem, có một hãng xưởng nào, cơ sở làm ăn nào, dù nhỏ hay lớn, mà chủ nhân không có quyền lãnh đạo cơ sở của mình hay không? Hỏi xem, trong những cơ sở ấy, người chủ có quyền đuổi nhân viên, có quyền lãnh đạo nhân viên hay một cái “tổ chức nhân viên” nào đó có quyền lãnh đạo và sai khiến cả chủ nhân? Thậm chí, có quyền truất phế chủ nhân, biến chủ nhân thành một thứ nô lệ phải nghe lệnh của chúng? Hỏi để thấy cái bản văn này nó thối tha như thế nào. Thà rằng đừng viết ra cái khoản 2 ở điều 2, đừng có điều 16 thì hơn!
Trước đây, thi hào Cao bá Quát có viết “ câu thơ thi xã, con thuyền Nghệ An”. Thơ thi xã có bài hay bài dở, bản văn này không có một điều nào ngửi được. Trái lại, chính nó mới có khả năng lột trần được cái ý của “con thuyền Nghệ An”! Đúng thế, “bản văn hiến pháp, con thuyền Ngệ An”. Bởi vì, một nhóm có hơn 400 đảng viên cộng sản tự bình bầu cho nhau, họp lại với nhau và tự bảo nhau ấy là quốc hội, rồi tự động viết ra một bản văn trao cho đảng cộng sản có trên dưới ba triệu đảng viên quyền lảnh đạo tuyệt đối một đất nước có hơn 90 triệu chủ nhân! Buộc hơn 90 triệu chủ nhân trở thành những kẻ nô lệ, vô quyền, vô năng. Chỉ được nói những điều cộng sản cho nói. Chỉ được nghe những điều cộng sản cho nghe và chỉ được nhìn xem những gì cộng sản cho nhìn xem. Mà tất cả những điều được nghe, được nói, được nhìn, toàn là những gian trá lừa bịp và phản phúc! Nó gian trá, lừa bịp và phản phúc đến mức xem thường và phỉ báng trí năng và sự hiểu biết của cả một dân tộc. Khi nó đã viết ra điều số 4, còn vẽ vời ra khoản 2 điều 2 và điều 16, có phải là để để xỉ nhục và thách đố người dân Việt Nam chăng? Với tôi, nó là loại chữ nghĩa của đồ đểu, không phẩm hạnh, nó đáng vất vào xọt rác dơ bẩn, không đáng được nhắc tới,
Với một bản văn như thế nên người ta gọi đảng cộng sản tại Việt Nam là đảng cướp thật không sai một tý nào. Bởi vì, từ lời lẽ đến hành động nó đã cướp đoạt tất cả mọi công quyền và dân quyền của người dân. Nó đã biến cái nhà nước CHXHCNVN thành một công cụ, thành một tổ chức giúp chúng hợp thức hóa việc chiếm hữu công quyền, dân quyền và quyền tư hữu của người dân. Và rồi, chính cái nhà nước, lúc trước gọi là VNDCCH và nay là CHXHCNVN trở thành cái bình phong hợp pháp, hợp lệ để tập đoàn cộng sản Hồ chí Minh, người Tàu, gây ra muôn vàn tội ác mang tính diệt chủng với dân tộc Việt Nam. Trong đó có cái chết oan khiên của hơn 172000 người trong mùa đấu tố và hơn 200000 quân cán chính miền nam bị đày ải trong các trại tù sau ngày 30-4-19075. Những hành động man rợ này đều nhắm phục vụ cho một mưu đồ triệt tiêu sức sống của dân tộc Việt Nam, ngõ hầu giúp chúng thực hiện trọn vẹn âm mưu Hán hóa Việt Nam của Trung cộng qua con cờ Hồ chí Minh. Nó muốn đưa tổ quốc và dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ Bắc Kinh. Theo đó, chuyện hoà giải hòa hợp do CS đạo diễn chỉ là những lời kêu gọi toàn dân Việt Nam hãy quy hàng và làm nô lệ cho tập đoàn cộng sản mà thôi. Nó không có một ý nghĩa nào khác.
Như thế, chuyện hoà giải, hòa hợp theo kiểu Việt cộng đã rõ trắng đen. Nó không thể lừa bịp được ai nữa. Theo đó, nếu cần có một cuộc hòa giải tại Việt Nam, thì đó phải là cuộc hòa giải giữa hai đối tác chính yếu là đảng Cộng Sản và Quốc Dân Việt Nam. Ngoài hai đối tác này ra, tuyệt đối không cần phải có bất cứ một cuộc hòa giải nào khác! Bởi vì, tất cả các đối tác khác, không đáp ứng được nhu cầu hòa giải của đất nước.
Đọc đến đây, bạn có thể kết tôi vào thành phần bảo thủ, cực đoan chống cộng và xem ra không muốn thấy có cuộc hòa giải với cộng sản? Phải, tôi chống cộng sản rất quyết liệt. Tôi không chống những cuộc hòa giải đứng đắn, nghiêm chỉnh. Trái lại, tôi hết lòng ủng hộ những cuộc hòa giải nghiêm chỉnh được quốc dân Việt Nam chấp thuận. Như thế, bạn sẽ hỏi, nếu có cuộc hòa giải giữa quốc dân Việt Nam và đảng cộng sản vào lúc này để cứu nguy Tổ Quốc thì ai, hay tổ chức đảng phái nào sẽ đại diện cho quốc dân Việt Nam, trong khi phía cộng sản đã có sẵn bộ chính trị?
Tôi xin trả lời ngay rằng, vào lúc này, quốc dân Việt Nam chưa cần hay chẳng cần một tổ chức, hay một đảng phái nào đại diện cho họ cả. Hơn 90 triệu người chủ nhân kia sẽ là một tập hợp đối tác độc lập với cộng sản. Vì quyền lợi của đất nước, tôi tin rằng, họ sẵn sàng chấp nhận cuộc hòa giải một chiều theo công thức sau:
1. Đảng cộng sản, nhà nước CHXHCNVN và công cụ của họ trong cái gọi là quốc hội hiện nay phải phục hồi nguyên vẹn ý nghĩa được diễn giải phân minh theo từng chữ, từng câu trong điều 16 bằng cách huỷ bỏ vô điều kiện và ngay lập tức điều 4 trong bản văn gọi là hiến pháp 2013. Để từ đây người dân có đủ công quyền về chính trị, đủ tư cách pháp nhân để tham gia vào đời sống chính trị và xã hội của đất nước
2. Sau khi hủy bỏ điều 4 trong hiến pháp, quốc hội hiện nay phải bị giải tán trong vòng 6 tháng, hoặc sớm hơn. Nhà nước có thể tạm thời dùng bản văn này trong công tác điều hành đất nước, trong khi chờ đợi một cuộc tổng tuyển cử tự do, được ấn định theo thời khoá biểu nhất định, trong khoảng một năm, để mọi công dân thực hiện quyền tham gia đời sống chính trị của mình trong các cuộc phổ thông đầu phiếu để chọn lựa người lãnh đạo đất nước, cũng như bầu cử các thành viên của Quốc Hội nhằm xây dựng tiến trình Lập Hiến và Lập Pháp cho Việt Nam. Trong đó bảo đảm sẽ không có một điều khoản tương tự điều 4 sẽ tái diễn trong Hiến Pháp mới.
3. Nhà nước CHXHCN phải chính thức công bố và xác định chấm dứt đặc quyền của đảng cộng sản theo những văn bản trước đây. Trong sinh hoạt mới, tất cả các đảng phái và mọi công dân đều bình đẳng trong đời sống chính trị và xã hội. Đặc biệt, hai tổ chức võ trang là quân đội và cảnh sát phải được tách rời ra khỏi mọi định kiến chính trị, chỉ phục vụ tổ quốc và đồng bào, không trực thuộc bất cứ một tổ chức chính trị hay đảng phái nào khác.
Công thức hòa giải này chỉ gồm có ba điểm ngắn gọn. Tuy nhiên, đây có thể là phương thức nghiêm túc duy nhất để được gọi là Hòa Giài. Bởi vì, từ hơn 80 năm qua, đảng cộng sản đã gây ra qúa nhiều tang thương, thống khổ cho dân tộc. Đã đẩy cả một dân tộc và đất nước vào con đường khốn cùng, đã làm suy thoái về chính trị, văn hoá, đời sống và luân lý của xã hội. Chính cộng sản đã buôn xương bán máu đồng bào Việt Nam không phải chỉ ở trong chiến tranh. Chính đảng cộng sản đã dâng những phần đất linh thiêng của Tổ Quốc là Nam Quan, Bản Giốc, Lão Sơn, bờ biển Tục Lãm, rồi Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung cộng. Rồi chỉ vì quyền lợi và quyền lực của phe nhóm, CSVN để cho Trung cộng vào cắm dùi dài hạn trên nhiều phần đất trong nội điạ cũng như bờ biển của Việt Nam như Nhân Cơ, Đắc Nông, Vũng Áng, Bình Dương, Nha Trang… Có thể nói, đó là những trọng tội đối với tổ quốc, với tiền nhân và với xương máu của người Việt Nam. Những trọng tội đến trời đất cũng không thể dung thứ.
Tuy nhiên, nếu cộng sản muốn Hòa Giải, muốn quay về Hòa Hợp với Dân Tộc, thì đây chính là phương cách duy nhất và cũng là một cơ hội thuận tiện và tốt nhất họ nên nhận lấy phần trách nhiệm của mình trong mấy chục năm qua để làm lại một việc, mà chính ra họ đã phải làm từ lâu. Họ phải làm để trước hết, giải cứu chính bản thân và gia đình họ như Borris Yelsin đã làm. Kế đến, nhờ việc hòa giải thực tâm này, đất nước có cơ hội chuyển mình. Toàn dân có cơ hội chung tay xây dựng lại một đất nước đã tan nát. Hơn thế, bảo vệ được chủ quyền cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ của tiền nhân.
Ngoài những điều kiện căn bản này ra, tôi cho rằng, cộng sản và công cụ của nó đừng bao giờ ảo tưởng trong chiêu bài hòa giải và hòa hợp dân tộc theo kiểu tính toán của cộng sản. Bởi vì dân tộc Việt Nam sẽ không bao giờ đầu hàng hay khuất phục trước mọi loại bạo quyền và gian trá. Trái lại, hãy nhớ rằng tiến trình đổi thay của đất nước do người dân chủ động đã bắt đầu. Khi tập đoàn CSVN muốn thi hành mật ước Thành Đô, quy thuận Trung cộng thì đó cũng chính là lúc lá cờ Phúc Kiến do cộng sản mang vào Việt Nam sẽ bị xé tan trên mảnh đất này trước khi chúng kịp dở trò bỏ phiếu đòi tự trị như ở Crimea.
B. Với những điều kiện như thế, liệu có thể có một cuộc hòa giải giữa quốc dân Việt Nam là chủ nhân của đất nước với đảng cộng sản đang tiếm quyền hay không? (phần 2)
Bảo Giang
- Viết bởi Phạm Trần
“Thảm họa Bắc thuộc” là tựa đề cuốn phim tài liệu của nhóm Film Club ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn sẽ phát hành vào hạ tuần tháng 6 (2015), đánh dấu 25 năm ngày hai đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc nối lại quan hệ ngọai giao (1990-2015).
BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Việt Nam và Trung Quốc đã gián đọan ngọai giao trong 10 năm từ 1979 đến 1989, sau khi quân đội Trung Quốc mở các đợt tấn công vào Việt Nam để gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học”, theo lệnh của Lãnh tụ Đặng Tiểu Bình.
Cuộc chiến do Trung Quốc chủ động chia làm 2 đợt:
-Lần thứ nhất, bắt đầu từ ngày 17/02/1979, kết thúc ngày 5/03/1979. Có trên trên 600,000 quân Trung Quốc được xe tăng và đại pháo yểm trợ đã tràn qua biên giới tấn công vào 6 tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Qủang Ninh. Chiếu dài của chiến trường là 1.200 cây số từ tây sang đông.
Lý do thầm kín của Bắc Kinh trong lần tấn công này là để cứu đàn em Pol Pot, lãnh tụ Khmer đỏ khi ấy cai trị Kampuchea, không bị 200,000 quân Việt Nam tiêu diệt nhanh chóng.
Trong khi đó thì Việt Nam đã nêu lý do đem quân vào Cao Miên để “phản công lại các hoạt động quân sự của quân Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, giết chóc người dân và đốt phá làng mạc Việt Nam trong những năm 1975-1978”.
Ngòai lý do bề mặt “trả đũa”, Việt Nam xua quân sang Cao Miên còn nhằm yểm trợ cho phe Cộng hòa Nhân dân Campuchia của Mặt trận Dân tộc thống nhất Cứu quốc Campuchia (KNUFNS, Kampuchean National United Front for National Salvation) do hai lãnh tụ Heng Samrin và Hun Sen lãnh đạo. Ông Heng Samrin từng là tư lệnh cấp Sư đòan toan tính đảo chính Pol Pot và Hun Sen, Tiểu đòan Trưởng quân đội Khmer đỏ đã bỏ hàng ngũ chạy quan Việt Nam lánh nạn trước năm 1978.
Tại mặt trận biên giới Việt-Trung sau 2 tháng giao tranh, quân Trung Quốc bị bộ đội Việt Nam cầm chân và thiệt hại nặng khiến Lãnh tụ Đặng Tiểu Bình cho lệnh ngưng chiến và rút quân từ ngày 05/3/1979. Bắc Kinh tuyên ngưng chiền vì đã “hòan thành mục tiêu chiến tranh”.
Không đâu có số chính thức về thương vong đôi bên. Phía Việt Nam nói đã giết 26.000 lính Trung Quốc và gây cho khỏang 37,000 người bị thương. Tây phương ước lượng số quân tử thương của Trung Quốc là ngót 7,000 người và bị thương trên 14,000.
Trung Quốc nói tổn thất của Việt Nam là 30,000 quân chết. Tây phương ước tính Việt Nam đã thiệt mạng khỏang 8,000 binh sỹ. Phía Việt Nam chỉ nói có lối 10,000 thường dân bị thiệt mạng.
Số quân và dân của Việt Nam bị tử thương sau 2 tháng giao tranh đẫm máu được nói nhiều trong khỏang từ 40,000 đến 45,000 người. Thiệt hại tài sản của nhân dân 6 tỉnh do quân Trung Quốc gây ra là vô gía.
Tội ác của lính Trung Quốc được phía Việt Nam ghi lại: “Mặc dù Trung Quốc tuyên bố rút quân, chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số nơi. Dân thường Việt Nam vẫn tiếp tục bị giết, chẳng hạn như vụ thảm sát ngày 9 tháng 3 tại thôn Đổng Chúc, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, khi quân Trung Quốc đã dùng búa và dao giết 43 người, gồm 21 phụ nữ và 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai, rồi ném xác xuống giếng hoặc chặt ra nhiều khúc rồi vứt hai bên bờ suối. Trong thời gian chuẩn bị rút quân, Trung Quốc còn phá hủy một cách có hệ thống toàn bộ các công trình xây dựng, từ nhà dân hay cột điện.” (Trích Duyên Dáng Việt Nam ngày 17/02/2014)
CUỘC CHIẾN THỨ 2
Tuy nhiên quân Trung Quốc không trở về căn cứ mà duy trì ở biện giới và trong lãnh thổ Việt Nam. Sau đó, từ ngày 02/04/1984 đến năm 1987, trên 800,000 quân Trung Quốc đã mở mặt trận thứ 2 pháo kích và tấn công bộ binh 3 đợt có xe tăng yểm trợ vào Lạng Sơn và huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Tuyên (Hà Giang-Tuyên Quang, sau này đổi lại là Hà Giang)
Cuộc chiến Việt-Trung lần thứ 2 chỉ lắng đọng từ cuối năm 1989, sau khi quân CSVN rút khỏi chiến trường Kampuchia sau 10 năm tham chiến. Việt Nam đã phải hứng chịu tổn thất nặng nề với số tử vong được ước tính trên 100,000 người, theo lời ông Đặng Xương Hùng, cựu Phó Vụ trưởng Bộ Ngoại giao và Lãnh sự Việt Nam tại Thụy Sỹ trong cuộc phỏng vấn của BBC tiếng Việt ngày 26/09/2014. Ông Hùng hiện đang sống tị nạn chính trị tại Thụy Sỹ.
Trong cuộc chiến Việt-Trung lần 2, theo số thống kê của Bộ Quốc phòng Việt Nam thì mỗi ngày quân Trung Quốc đã bắn quan Việt Nam từ 10,000 đến 40,000, thậm chí có ngày lên đến 65,000 (như ngày 7/01/1987) qủa đạn cối.
Theo ViệtnamExpress ngày 25/07/2014 thì trong hơn 5 năm (1984-1989), số lượng pháo Trung Quốc bắn vào Hà Tuyên là trên 2 triệu quả, trong đó 60% là đạn cối. Phạm vi địch bắn phá tập trung vào hai xã Thanh Đức, Thanh Thuỷ trong khoảng diện tích 20 km2.
VIỆT NAM MẤT 2 NÚI CHIẾN LƯỢC
Nếu Trung Quốc không chiến thắng trong trận đánh vào 6 tỉnh Việt Nam lần thứ nhất thì Việt Nam đã thất bại trong cuộc chiến với quân Trung Quốc lần 2.
Bộ đội Việt Nam, dù đã tăng viện các sư đòan thiện chiến có kinh nghiệm chiến trường vẫn không giữ được hai ngọn núi chiến lược là Lão Sơn (còn gọi là Núi Đất hay điểm cao 1509) và Gỉa Âm Sơn (điểm cao 1250). Theo tài liệu của Việt Nam, quân Trung Quốc đã sự dụng hỏa lực mạnh và chiến thuật tấn công biển người để mở 3 đợt tấn công chiếm 2 ngọn núi từ ngày 02/04/1984. Đến ngày 14/07/1984 thì đỉnh Lão Sơn đã hòan tòan thuộc về Trung Quốc sau nhiều giờ giao chiến “sáp lá cà” đẫm máu.
Để mất 2 vị trí chiến lược cao điểm Lão Sơn và Gỉa Âm Sơn, quân đội Việt Nam đang phải đối phó với hiện tượng bị các dàn radar và hệ thống nhiễu sóng thông tin của Trung Quốc đặt ở đây làm rối loạn thông tin tòan khu cực bắc lãnh thổ.
Các chuyên gia Quốc phòng Nhật Bản ở quần đảo Okinawa cũng đã phát giác ra các tín hiệu nhiễu sóng của Trung Quốc phát đi từ 2 đỉnh núi này. Vì vậy, có nhiều khả năng hệ thống phòng không và quốc phòng của Việt Nam sẽ bị tệ liệt nếu xẩy ra cuộc chiến mới với Trung Quốc.
Hậu qủa nghiêm trọng của cuộc chiến Việt-Trung lần 2 tại Lão Sơn và Gỉa Âm Sơn được ghi lại trong Bách Khoa tòan thư (mở) về “Xung đột biên giới Việt Nam-Trung Quốc 1979-1990” như sau:
“Kết quả, quân Trung Quốc chiếm được một số ngọn đồi thuộc dải đồi này, gồm 29 điểm trong lãnh thổ Việt Nam. Trong số các vị trí mà quân Trung Quốc chiếm được có các cao điểm 1509, 772 ở phía tây sông Lô và các cao điểm 1250 (Núi Bạc), 1030 và đỉnh Si Cà Lá ở phía đông sông Lô. Chiến sự diễn ra dọc tuyến biên giới dài khoảng 11 km, và nơi quân Trung Quốc chiếm được sâu nhất trong lãnh thổ Việt Nam là Cao điểm 685 và Cao điểm 468, nằm cách biên giới khoảng 2 km….Việt Nam không thành công trong nỗ lực tái chiếm 8 mỏm núi, và Trung Quốc đã cho quân đóng giữ ở các mỏm núi này.”
Về thương vong đôi bên công bố năm 1984, Tài liệu cho biết: “Theo công bố chính thức của Việt Nam, họ đã tiêu diệt một trung đoàn và 8 tiểu đoàn quân Trung Quốc, "loại khỏi vòng chiến đấu" 5.500 quân Trung Quốc. Tới tháng 8, Việt Nam tuyên bố nâng tổng số quân Trung Quốc bị loại ra khỏi vòng chiến đấu lên đến 7.500 quân trong vòng 4 tháng. Trung Quốc tuyên bố loại khỏi vòng chiến khoảng 2.000-4.000 quân Việt Nam, còn về phía mình Trung Quốc có 939 lính và 64 dân công chết. Phía Việt Nam xác nhận trong trận đánh ngày 12 tháng 7, chỉ riêng Sư đoàn 356 của họ đã có gần 600 binh sĩ thiệt mạng.”
5 ĐỜI QUY HÀNG
Với bối cảnh phá họai hoang tàn, dã man và bị Trung Quốc chiếm lãnh thổ như thế mà các Lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam từ 5 đời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (1986-1991), Đỗ Mười (1991-1997), Lê Khả Phiêu (1997-2001), Nông Đức Mạnh (2001-2011) và Nguyễn Phú Trọng (từ 2011- ) đa lần lượt cúi đầu trước áp lực của quân xâm lược phương Bắc để mang họa về cho dân tộc.
-Bắt đầu từ Hội nghị bí mật Thành Đô (Tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc) năm 1990 của phái đòan đảng gồm Tổng Bí thư Nguyển Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thù tướng) Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng.
Thông tin bề mặt từ phía Việt Nam thì nói là mục đích chuyến đi nhằm bàn với lãnh đạo Trung Quốc gồm Giang Trạch Dân, Chủ tịch Nhà nước, Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Hoa và Lý Bằng, Thủ tướng về kế họach bảo vệ và củng cố Xã hội Chủ nghĩa dựa trên Chủ nghĩa Mác-Lênin, sau khi Thế giới Cộng sản bị tan rã ở Đông Âu và khi ấy đảng và nhà nước Liên Xô cũng đang lung lay.
Nhưng thật sự thì phái đòan Nguyễn Văn Linh muốn nối lại bang giao với Trung Quốc theo những điều kiện của Bắc Kinh buộc Việt Nam phải tuân thủ:
-Việt Nam phải rút quân khỏi Cao Miên vô điều kiện; phải chấp nhận một giải pháp chính trị cho Cao Miên với bảo đảm phải có sự tham dự của phe Khmer đỏ.
-Việt Nam không được nhắc đến chuyện Quần đảo Hòang Sa đã bị Trung Quốc chiếm năm 1974; không nhắc đến cuộc chiến Trường Sa năm 1988 có 64 người lính Việt Nam bị quân Trung Quốc giết chết khi có lệnh của Bộ trưởng Quốc phòng Đại tướng Lê Đức Anh ra lệnh “không được nổ súng chống lại” dù bị mất 8 mỏm đá, quan trọng nhất là đá Gạc Ma, nằm ở vị trí chiến lược phiá nam của dãy Trường Sa.
Phía Việt Nam còn không được nhắc đến cuộc chiến biên giới đẫm máu giữa 2 nước từ 2979 đến 1989 do phiá Trung Quốc chủ động xâm lược.
-Đến đời ông Đỗ Mười thì tiếp tục tuân thủ với Trung Quốc những gì do ông Nguyễn Văn Linh để lại và đặc biệt đã khẳng định tại Đại hội đảng VII, theo đúng như ý muốn của Trung Quốc là đưa ra Cương lĩnh “lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.”
Trong thực tế điều được gọi là “tư tưởng dân tộc” của ông Hồ Chí Minh trong chủ trương này chỉ là tấm bình phong che mặt Chủ nghĩa Cộng sản mà đảng CSVN vẫn rỉ rả tuyên truyền là “qúa độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”.
Phiá Trung Quốc thì lại bảo họ đang theo đuổi chủ trương gọi là “chủ nghĩa xã hội có đặc sắc Trung Quốc” được chấp thuận tại Đại hội đại biểu đảng toàn quốc lần thứ XV tháng 9 năm 1997.
Cả hai nước đã đồng thuận một điểm quan trọng là chỉ mở cửa kinh tế mà không mở cửa chính trị; không chấp nhận đa nguyên đa đảng, không cho tư nhân ra báo và giữ độc quyền thông tin, báo chí.
-Sang thời Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thì ông này, thi hành tiếp những điều ông Đỗ Mười đã đồng ý với Trung Quốc, đã cắt đất, nhượng biển và chia quyền đánh bắt cá cho Trung Quốc ở Vịnh Bắc Bộ xuyên qua 3 Thoả hiệp:
-Ngày 30 tháng 12 năm 1999, Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt - Trung đã được hai Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm và Đường Gia Triền, thay mặt Chính phủ hai nước ký kết chính thức tại Hà Nội.
Việt Nam mất ải Nam Quan (còn có tên là Hữu Nghị Quan, Mục Nam Quan), mất 2/3 phần đẹp nhất của thác Bản Giốc, mất ½ sông Bắc Luân tại khu vực biên giới giữa thành phố Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam) và huyện cấp thị Đông Hưng (địa cấp thị Phòng Thành Cảng, Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc).
Việt Nam cũng bị mất những phấn đất cả ngàn cây số vuông dọc biên giới sau 2 cuộc chiến tranh biên giới từ 1979 đến 1989, quan trọng nhất là vùng núi Lão Sơn và Gỉa Âm Sơn.
Qua năm 2000, ông Phiêu đã ký với Trung Quốc thêm 2 Hiệp định:
-Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ ký ngày 25 tháng 12 năm 2000 nhằm xác định biên giới lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế trong Vịnh Bắc Bộ.
Qũy nghiên cứu Biển Đông của các chuyên viên biển đảo Việt Nam ở trong nước và nước ngoài cho biết: “Vịnh Bắc Bộ được bao bọc bởi Việt Nam và Trung Quốc có diện tích 123.700 km2, chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 320 km (176 hải lý) và nơi hẹp nhất khoảng 220 km (119 hải lý). Chiều dài bờ biển phía Việt Nam khoảng 763 km, còn phía Trung Quốc khoảng 695 km. Phần Vịnh phía Việt Nam có khoảng 1.300 hòn đảo ven bờ, đặc biệt có đảo Bạch Long Vĩ nằm cách đất liền nước ta khoảng 110 km, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 130 km. Vịnh có vị trí chiến lược quan trọng đối với Việt Nam và Trung Quốc về an ninh và quốc phòng. (Trích bài viết “Đàm phán Việt - Trung về khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ” ngày 24/02/2014)
Nguyên Bộ trưởng Ngọai giao Nguyễn Dy Niên cho biết: “Việt Nam đư¬ợc hư¬ởng 53,23% diện tích Vịnh và Trung Quốc đ¬ược h¬ưởng 46,77% diện tích Vịnh”.
Như vậy, phiá Việt Nam hơn Trung Quốc 6,46%, hay khỏang 8,205 cây số vuông, theo ước tính của Qũy Biển Đông.
Ông Lê Công Phụng, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ đã có lần phủ nhận Việt Nam để mất 10,000 cây số vuông ở Vịnh Bắc Bộ. Ngược lại ông còn nói Việt Nam được lợi đến 8,000 cây số vuông như Qũy Biển Đông đã viết.
Tuy nhiên, các chuyên viên biển đảo và địa dư không đồng ý và cho rằng, ít nhất Việt Nam cũng đã bị thiệt từ 3,000 đến 4,000 cây số vuông.
--Cùng thời gian này, Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ được ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc tại Bắc Kinh ngày 25 tháng 12 năm 2000.
Tài liệu chính thức cho biết người đại diện ký kết của Việt Nam là Bộ trưởng Thủy sản Tạ Quang Ngọc, người đại diện ký kết của Trung Quốc là Bộ trưởng Nông nghiệp Trần Diệu Bang.
-Khi ông Nông Đức Mạnh thay Lê Khả Phiêu cầm quyền trong 10 năm (2001-2011) thì đã mở cửa cho Trung Quốc vào khai thác Bauxite trên Tây Nguyên, một hành động đã bị cả ngàn Cựu quan chức, đảng viên cao cấp và Trí thức trong và ngòai nước ngăn cản nhưng không thành.
Trong số những người ký tên vào kiến nghị gửi Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương đảng có cả Bà nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình; nguyên Đại tướng Võ Nguyên Giáp; Đức Cha Nguyễn Thái Hợp, Trưởng ban Công lý và Hòa bình của Giáo Hội Công Giáo và Nhà văn nổi tiếng Nguyên Ngọc, người rất thông thạo về phong tục, tập qúan của các Dân tộc ở Tây Nguyên.
Trong số các chuyên viên cảnh giác sẽ mắc bẫy Trung Quốc, gây thiệt hại kinh tế, môi trường và làm xáo trộn đời sống của hàng trăm nghìn dân là Tiến sỹ Nguyễn Thành Sơn, nguyên Giám đốc Ban quản lý Dự án than Đồng bằng sông Hồng – Vinacomin.
Ông đã nhiều lần ông lên tiếng với những chứng liệu khoa học cụ thể về lời và lỗ nhưng Tập đòan Than-Khóang sản Việt Nam vẫn chũi đầu xuống cát cãi lý, nhưng lại được sự đồng thuận của các viên chức Bộ Công Thương.
Tiến sỹ Sơn nói thằng: “Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) đã sập bẫy giá rẻ của Trung Quốc. Ước tính tổng số lỗ của dự án bauxite Tân Rai (Lâm Đồng) Nhân Cơ (Đăk Nông) trong năm 2015 sẽ khoảng 37,4 triệu USD.” (báo Dân Trí)
Chuyên gia này đã công bố ước tính của ông tại cuộc tọa đàm về dự án Bauxite do Trung tâm Thiên nhiên và Con người (Pan Nature) tổ chức ngày 28-3-2015 ở Hà Nội.
Nhưng không phải chỉ lỗ bấy nhiêu mà còn lỗ dài hạn, tiếp tục rút tiền mồ hôi nước mắt của dân mà chưa biết đến bao giờ mới thoát khỏi cái bẫy “thầu giá rẻ” của Nhà thầu Chalieco (Trung Quốc).
Báo Dân Trí viết tiếp: “ Nguyên nhân được ông Sơn chỉ ra là vì theo phụ lục trong Hợp đồng EPC giữa Vinacomin và nhà thầu Chalieco (Trung Quốc) ngày 14-7-2008 của dự án Tân Rai, nhà thầu cam kết 630.000 tấn/năm, giảm 20.000 tấn/năm (giá trị tương đương 20 triệu USD) so với công bố của chủ đầu tư. Kéo theo doanh thu giảm khoảng 5 triệu USD/năm.
Còn ông Nguyễn Văn Ban, nguyên Trưởng ban Nhôm – Titan, Tổng công ty Khoáng sản Việt Nam, cho rằng khi Trung Quốc chào thầu, giá rất thấp. Thế nhưng khi kí hợp đồng thì giá lại tăng lên. Phía họ lấy lý do đội giá là do mức giá chào thầu chưa tính đến thiết bị dự phòng. Đây chính là bẫy của họ.”
Vẫn theo Dân Trí và các báo khác thì Tiến sỹ Nguyễn Thành Sơn cho biết: “ Năm 2014 tổng số alumina tiêu thụ của Nhà máy Tân Rai là 492.000 tấn với giá bán bình quân 326,5 USD/tấn. Tuy nhiên trên thực tế nếu tính cả chi phí khấu hao, chi phí vận tải về cảng Gò Dầu thì giá thành đầy đủ tương đương 413,5 USD/tấn. Như vậy, trong năm 2014, mỗi tấn alumina bị lỗ ít nhất là 87 US$/tấn. Tổng số lỗ của năm 2014 là 42,8 triệu USD và trong năm 2015 tình hình sẽ tiếp tục như thế.”
Các báo ở Việt Nam cũng loan tin: “ Theo dự toán của Vinacomin, mức lỗ của năm 2015 cho cả hai sự án Tân Rai và Nhân Cơ (Đăk Nông), bất kể là sản xuất đến đâu, tiêu thụ đến đó, cũng xấp xỉ 37,42 triệu USD.”
Như vậy thì Trung Quốc hay Việt Nam có lợi trong dự án khai thác Bauxite ở Lâm Đồng và Dak Nông ? Ngoài ra còn phải xét đến yếu tố ông Nông Đức Mạnh đã “mở cửa nóc nhà Đông Dương” để cho người Trung Quốc vào vùng đất chiến lược Tây Nguyên mà Đại tướng Võ nguyên Giáp đã cảnh giác.
Ngoài Dự án Bauxite, trong 10 năm đứng đầu đảng, ông Mạnh đã để cho hàng chục ngàn lao động Trung Quốc “không giấy phép làm việc” và “chỉ biết làm những việc” bình thường tự do vào Việt Nam làm cho các công ty Trung Quốc từ Nam ra Bắc.
Quan trọng sau Dự án Bauxite là ông Mạnh đã đồng ý để cho người Trung Hoa (Đài Loan và Trung Quốc) xây dựng nhà máy luyện kim ở khu kinh tế Vũng Áng tại huyện Kỳ Anh, phía Nam tỉnh Hà Tĩnh, cách thành phố Hà Tĩnh 70 km về phía Nam.
Theo Bách khoa toàn thư (mở) thì Vũng Áng “Được thành lập vào tháng 4 năm 2006 trên cơ sở khu công nghiệp - cảng biển Vũng Áng đã được thành lập từ năm 1997…có vị trí địa lý tự nhiên (gần cảng nước sâu Vũng Áng và Sơn Dương, gần quốc lộ 1A, trên quốc lộ 12A nối với Lào và Thái Lan, gần mỏ sắt Thạch Khê) để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Hà Tĩnh, tạo điểm bứt phá về kinh tế – xã hội trong khu vực Bắc Trung Bộ, tạo sự liên kết phát triển giữa các tỉnh Bắc Trung Bộ, thu hẹp khoảng cách trong phát triển kinh tế – xã hội, hội nhập với cả nước và quốc tế.”
Đã có những quan ngại Việt Nam sẽ bị cắt làm hai khi xẩy ra chiến tranh với Trung Quốc vì ngoài lợi ích kinh tế, theo Bách khoa toàn thư (mở” thì: “ Khu kinh tế Vũng Áng bao gồm: dịch vụ cảng biển, công nghiệp luyện kim gắn với lợi thế về tài nguyên và nguồn nguyên liệu (mỏ sắt Thạch Khê, mỏ titan,...); các ngành công nghiệp gắn với việc khai thác cảng biển; các ngành công nghiệp khai thác nguồn nguyên liệu trong vùng cũng như nhập khẩu, đặc biệt là từ Lào và Thái Lan; các ngành công nghiệp phục vụ xuất khẩu.”
Ông Mạnh cũng để cho thương lái Trung Quốc ra vào Việt Nam như đi chợ để mua nông phẩm và súc vật của Việt Nam nhằm làm hại nền kinh tế Việt Nam.
Ngoài ra ông Nông Đức Mạnh và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người đã ký giấy khai thác Bauxite, còn có trách nhiệm trong việc để cho các cấp Chính quyền địa phương, đặc biệt tại các Tỉnh chiến lược dọc biên giới cho các Công ty Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan thuê đất dài hạn đến 50 năm để trồng rừng.
Tại các khu vực này, người Việt Nam không được phép vào và cả chính quyền cũng không biết các Công ty gốc Trung Hoa đã và đang làm gì trong vùng đất “cấm địa” này ngay trên lãnh thổ Việt Nam ?
Nhiều phố xá, xóm làng của người Trung Hoa làm chủ, qủan lý, tiêu biều như Đông Đô Đại Phố ở Bình Dương cũng đã được thành lập dưới thời ông Mạnh và Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết.
-Đến thời ông Nguyễn Phú Trọng thì từ khi ông lên cầm quyền năm 2011, Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc gia tăng đến mức chóng mặt va rất đáng lo ngại.
Ông cũng là người đã thi hành nghiêm chỉnh phương châm 16 chữ: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt: “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, mặc dù hại nhiều hơn lợi đã nghiêng về phiá Việt Nam.
Ông Trọng đã thăm Trung Quốc rất vội vã trong cả hai chuyến đi đầu tiên tháng 10/2011 và lần thứ hai từ ngày 7 đến 10/04/2015.
Lần thứ nhất, ông đã cùng với Chủ tịch nhà nước, Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Hoa Hồ Cẩm Đào chứng kiến lễ ký 6 Điểm “Nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển Việt-Trung”, ngay sau khi đến Bắc Kinh chiều ngày 11/10/2011. Điều này chứng tỏ Văn kiện 6 điểm đã được các bên đồng ý từ trước, nhưng có thảo luận nay không thì chưa rõ.
Hai bên tuyên bố: “Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam-Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác.”
Điều này có nghĩa ông Trọng đã tán thành lập trường của Trung Quốc chỉ thảo luận song phương giữa 2 nước có tranh chấp với nhau mà không chấp thuận đa phương hay quốc tế hóa xung đột ở Biển Đông như nhiều nước trong Hiệp hội các nước Đông Nam Á và Hoa Kỳ mong muốn.
Tiếp theo, ông Nguyễn Phú Trọng cũng đồng ý: “Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này….”
Điều đồng ý này của phiá Việt Nam, lần đầu tiên cho thấy ông Trọng đã bằng lòng hợp tác với Trung Quốc để “hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này….”, đúng như đòi hỏi từ năm 1979 của Lãnh tụ Đặng Tiểu Bình, khi ấy ông ta nói:”Biển của ta, hãy gác tranh chấp đề cùng khai thác “ !
Từ sau chuyến đi này, ông Trọng đã để mặc cho Công an Việt Nam tự do đàn áp người dân tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Quốc bành trướng ở Biển Đông và tấn công các thuyền đánh cá của Việt Nam đến đánh bắt ở Hòang Sa và Trường Sa.
Các hành động thuần phục Trung Cộng khác của ông Trọng còn được đánh dấu ở cả Sài Gòn và Hà Nội khi người dân, vào mỗi tháng Hai, không được phép tổ chức tưởng nhớ các chiến sỹ và đồng bào đã hy sinh trong cuộc chiến biên giới chống quân Trung Quốc xâm lược (17/02/1979).
Các cuộc tuần hành kỷ niệm 40 năm ngày Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hòang Sa (1974-2014) cũng bị chống phá và ngăn cản thô bạo ở Hà Nội.
Ngay đến ngày kỷ niệm 14 tháng 3 hàng năm tưởng niệm 64 chiến sỹ của Quân đội nhân dân chống xâm lược Trung Quốc hy sinh ở Trường Sa năm 1988 cũng không được phép tổ chức cấp quốc gia, không được biểu tình chống bành trướng và bá quyền Bắc Kinh.
Ngược lại, các buổi ca nhạc, nhảy nhót thô bỉ như để ăn mừng chiến công của quân đội Trung Quốc đã được Chính quyền Thành phố Hà Nội tổ chức trước mắt người dân và báo chí nước ngoài.
Khi Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 vào bên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đề thăm dò dầu khí từ ngày 2/5 đến 15/7/2014 thì cũng chính ông Trọng đã không tán thành ý kiến của nhiều Đại biểu Quốc hội và người dân muốn Quốc Hội ra nghị quyết lên án hành động của Bắc Kinh.
CHUYẾN ĐI LẦN HAI
Cuối cùng, trong chuyến đi Bắc Kinh vội vã lần 2 từ ngày 07 đến 10/04/2015 để gặp Chủ tịch nhà nước, Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Hoa Tập Cận Bình, ông Trọng đã “hợp thức hoá” tất cả những cam kết của Việt Nam từ trước.
Trong số này, có những cam kết và thỏa thuận đã ký kết được ghi trong 9 điểm của “Thông cáo chung Việt Nam - Trung Quốc”, công bố ngày 08/04/2015, trước cả ngày về nước của phái đòan Việt Nam.
Những điểm quan trọng gồm: “ Việt Nam và Trung Quốc là láng giềng quan trọng của nhau, nhất trí cho rằng hai nước có chế độ chính trị tương đồng, có con đường phát triển gần gũi, có tiền đồ vận mệnh tương quan, sự phát triển của nước này là cơ hội quan trọng cho nước kia.”
Hai bên cũng đồng ý: “Tăng cường giao lưu, hợp tác trong các lĩnh vực ngoại giao, quốc phòng, thực thi pháp luật và an ninh. Tiếp tục tổ chức tốt tham vấn ngoại giao thường niên, mở rộng giao lưu hợp tác giữa Bộ Ngoại giao hai nước. Duy trì tiếp xúc cấp cao giữa quân đội hai nước và đối thoại quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh giao lưu hữu nghị giữa hai lực lượng biên phòng, quản lý thoả đáng bất đồng, đi sâu trao đổi kinh nghiệm về công tác Đảng và công tác chính trị trong quân đội; tăng cường hợp tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ; tiếp tục tổ chức tuần tra chung trong vịnh Bắc Bộ và tàu hải quân hai bên thăm nhau. Đi sâu hợp tác trong lĩnh vực an ninh và thực thi pháp luật, tăng cường đối thoại an ninh…”
Tông báo còn viết: “Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký kết “Kế hoạch hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2016-2020”; “Hiệp định về hợp tác dẫn độ giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”; “Thỏa thuận về các vấn đề về thuế đối với Dự án thăm dò chung tài nguyên dầu khí tại vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc” giữa Bộ Tài chính nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Tài chính nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; “Bản ghi nhớ giữa Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về hợp tác trong lĩnh vực gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc”; “Bản ghi nhớ về việc thành lập Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng trên bộ” (MOU) giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam và Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia Trung Quốc; “Điều khoản Tham chiếu Nhóm công tác hợp tác tài chính tiền tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc”; và “Bản ghi nhớ về hợp tác làm phim truyền hình chuyên đề giữa Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc”.
Quan trọng hơn, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn đồng ý: “ Tích cực nghiên cứu việc đàm phán, ký kết Hiệp định sửa đổi về thương mại biên giới Việt - Trung. Sớm bàn bạc và xác định phương án tổng thể chung về xây dựng khu hợp tác kinh tế qua biên giới; thiết thực thúc đẩy các dự án kết nối cơ sở hạ tầng….Hai bên tuyên bố chính thức thành lập Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng và Nhóm Công tác về hợp tác tiền tệ.”
Như vậy thì Việt Nam đã biến thành một quận huyện của Trung Quốc chưa ? Và bao giờ thì người dân Việt sẽ chi tiêu với nhau bằng đồng Nhân Tệ của Trung Hoa trên đất nước của mình ?
PHÁT TRIỂN TRÊN BIỂN ĐÔNG
Riêng trong lĩnh vực Biển Đông, Thông báo viết rất rõ về sự nhượng bộ của ông Trọng: “Hai bên trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhấn mạnh tuân thủ nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc”; sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt - Trung, kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển. Cùng kiểm soát tốt bất đồng trên biển
Hai bên nhất trí thúc đẩy hoạt động của Nhóm bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm, vững bước thúc đẩy đàm phán phân định khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này, sớm khởi động khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ trong năm nay.”
Như vậy thì có còn gì để nghi ngờ về lòng dạ phù Trung của ông Nguyễn Phú Trọng nữa không ?
THẢM HỌA BẮC THUỘC
Phải chăng những “thành tích sáng chói” của 5 đời Tổng Bí thư đảng CSVN trên đây là lý do khiến nhóm Film Club ở vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn đã hoàn thành phim tài liệu “Thảm Họa Bắc Thuộc” ?
Họ nói mục đích của cuốn phim dài ngót 2 tiếng sau hơn 2 năm chuẩn bị là để: “Nhận diện một Cộng sản Trung Hoa đầy tham vọng bành trướng, và nhận diện một Cộng sản Việt Nam thần phục Bắc Kinh để tồn tại, bất chấp quyền lợi tối thượng của đất nước.”
Để có những bằng chứng về hiểm họa Bắc Thuộc lần thứ hai đang rình rập trên đầu người dân Việt, nhóm chủ trương cho biết họ đã thực hiện “21 cuộc phỏng vấn các nhân vật trong và ngoài nước, người Việt Nam và ngoại quốc” nhẳm “đánh lên tiếng chuông cảnh báo Thảm Hoạ Bắc Thuộc, đánh lên hồi trống thúc dục người Việt Nam khắp nơi đứng lên đánh đổ bạo quyền Cộng sản Việt Nam.”
Trong số người ngọai quốc, có Đạo diễn điện ảnh David Satter, người đã thực hiệm phim The Age of Delirium; Giáo sư Stephen Young, Đại học Hamline, Minnesota, một người nói tiếng Việt rất sõi và hiểu tường tận lịch sử đấu tranh chống ngọai xâm của dân tộc Việt Nam.
Một nhân chứng khác của cuốn phim tài liệu “Thảm Họa Bắc Thuộc” là Giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia có uy tín quốc tế về thời cuộc Đông Nam Á. Ông Thayer, 70 tuổi, mang song tịch Mỹ-Úc cũng là người nói rành 3 thứ tiếng Lào, Thái và Việt. Ông đã cảnh giác về mối đe dọa của Trung Quốc đối với các nước trong vùng Biển Đông, trong đó có Việt Nam và Phi Luật Tân.
Về phiá người Việt Nam, sự xuất hiện của Nhà báo Bùi Tín, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Nhân dân trước khi ông tị nạn chình trị tại Pháp năm 1990, đã nổi bật với tiết lộ tại sao các cấp lãnh đạo cao cấp của đảng CSVN đã tỏ ra “hồ hời thỏa mãn” với việc quân đội Trung Quốc tấn công và chiếm Quần đảo Hòang Sa từ tay Hải quân Việt Nam Cộng hòa năm 1974.
Cuốn phim có giá trị lịch sử này được nhóm chủ trương qủang bá khắp nơi trên thế giới còn mang lời cảnh giác rằng: “Bằng những tài liệu dẫn chứng, những nhận định của các nhà nghiên cứu, và xác nhận của các nhân chứng lịch sử, cuốn phim gởi đi lời cảnh báo khẩn cấp: Cộng sản Trung Hoa và Cộng sản Việt Nam đang biến Việt Nam thành một thuộc địa kiểu mới của Bắc Kinh.”
Vậy người Việt Nam ở trong và ngoài lãnh thổ có thấy cái bóng đen Bắc Kinh khổng lồ đang sừng sững trước mắt mình như nhóm Film Club đã thấy ?
Hay nhiều người vẫn nghĩ mơ hồ rằng tình trạng bất động của đảng và nhà nước CSVN trước cường độ biến bãi đá thành đảo của Trung Quốc ở Trường Sa cũng chỉ để thể hiện thiện chí “vừa là đồng chí vừa là anh em” với người hàng xóm láng giềng phương Bắc.
Hoặc thông minh hơn, có người còn nghĩ hành động của Trung Quốc tiềm ẩn một thiện chí sâu sắc hơn vì họ đang “bảo vệ biển đảo và tài nguyên giúp Việt Nam” ở Trường Sa, như lãnh đạo Việt Nam đã từng qúang gà khi Bắc Kinh chiếm quần đảo Hòang Sa năm 1974 ?
Phạm Trần
- Viết bởi Mặc Lâm biên tập viên RFA
Không đáp ứng sự trông đợi
Bài diễn văn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đọc trước cuộc diễn binh mừng ngày 30 tháng Tư được cho là không đáp ứng sự trông đợi của hàng triệu người trong và ngoài nước trong dấu mốc thời gian 40 năm sau ngày thống nhất.
Từ nhiều tháng trước Sài Gòn chứng kiến cảnh nhộn nhịp chuẩn bị ngày lễ kỷ niệm 40 năm thống nhất đất nước mà chính quyền vẫn gọi là ngày giải phóng. Tâm lý chờ đợi một điều gì đó khác với 39 lần trước sẽ xảy ra từ phía chính quyền đã làm không ít người nôn nóng và tâm lý ấy dành hẳn cho bài diễn văn quan trọng mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ là người đọc lên không những cho gần 90 triệu đồng bào trong nước mà còn gửi tới một thông điệp cho hơn ba triệu đồng bào hải ngoại, những người trực tiếp có dính líu tới cuộc chiến mà 40 năm vể trước đã đứt ruột bỏ nước ra đi.
Tâm lý ấy khiến hàng triệu người lắng nghe và thầm hy vọng rằng Thủ tướng sẽ có những lời lẽ đột phá như ông đã từng làm vài lần trước đây và niềm hy vọng ấy kéo dài nhiều ngày cho tới sáng ngày 30 tháng 4 năm 2015.
Giáo sư Nguyễn Đình Cống từ Hà nội cho biết nhận xét của ông khi nghe bài diễn văn này:
“Tôi đoán chắc rằng cái lời phát biểu này không phải là chính ông Dũng nói mà chắc là phải thông qua Bộ Chính trị. Và vì chuyện như thế thành ra có những điều mà tôi mong đợi thì ông Dũng không nói tới. Phần lớn vẫn thổi lại điệu kèn ò e í e như trước nay cộng sản họ vẫn nói thôi chứ chưa thấy một cái gì mới mẻ cả.”
Bên cạnh việc nhắc lại những thành tựu quen thuộc, một nỗi thất vọng lớn lao tràn ngập khi câu chữ được dùng trong bài diễn văn quan trọng này không khác một mảy may nào so với 40 năm về trước khi người Sài Gòn lần đầu tiên nghe trên đài phát thanh và ở những buổi họp tổ dân phố sau khi bộ đội kéo vào tiếp quản Sài Gòn. Cụm từ “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” được lập lại trong không khí lắng đọng đã làm cho hàng triệu tiếng thở dài từ trong cũng như ngoài nước nổi lên.
“Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ kính yêu, quân và dân cả nước đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, kiên cường, sáng tạo, anh dũng chiến đấu, hy sinh, lập nên những chiến công oanh liệt, đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào mà đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975”
Nữ nghệ sĩ Kim Chi, người theo dõi trực tiếp bài diễn văn đã cay đắng nói với chúng tôi:
“Tôi nghĩ đã đến giai đoạn sang trang vì đã 40 năm rồi, người Mỹ người ta không có ý định gì xấu với Việt Nam nữa hết mà người ta lại đang hết lòng muốn giúp đỡ, tại sao lại còn làm ra như thế? Tại sao phải khuếch trương cái thắng lợi ấy làm gì để khoét thêm nỗi đau của những người anh em ruột thịt mình. Bây giờ người ta đã ở xa rồi người ta cũng muốn quay về nhưng mà với thái độ như thế cứ tự ca mình chiến thắng hoài thì làm sao mà hòa hợp được dân tộc.”
Trong bài diễn văn dài 25 phút ngoài các chi tiết nhắc tới những chiến thắng vang dội hay thành tựu kinh tế và phát triển quen thuôc, giới quan sát chú ý tới các điểm mà đồng bào trong và ngoài nước chờ đợi đã không được Thủ tướng đáp ứng. Vấn đề cốt lõi nhất là công cuộc hòa giải giữa chính quyền và đồng bào hải ngoại. Trong bài diễn văn cũng được Thủ tướng nhắc tới nhưng chủ thể đã lệch sang một hướng khác. Thủ tướng Dũng cho rằng: “đồng bào ta ở trong nước cũng như ở nước ngoài, mỗi người chúng ta hãy nêu cao tinh thần dân tộc, lòng yêu nước thương nòi, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, không phân biệt quá khứ, vượt lên trên những khác biệt, cùng nhau chân thành hòa hợp dân tộc, vun đắp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân”.
Chưa bao giờ cần hòa giải?
Thực tế cho thấy đồng bào trong và ngoài nước chưa bao giờ cần hòa giải vì họ chưa khi nào hành hạ, giết chóc hay bắt bớ giam cầm lẫn nhau. Đối tượng cần được hòa giải là Chính quyền và đồng bào hải ngoại. Bài diễn văn quan trọng này đã sai sót khi quên chủ thể là Chính phủ, hay Đảng Cộng sản Việt Nam khi nói đến vấn đề hòa giải.
Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng có lẽ là người chờ đợi câu nói hòa giải từ người đứng đầu chính phủ nhất, bởi ông là người từng bỏ nước ra đi nay đã quay về giúp Việt Nam đào tạo hàng trăm Tiến sĩ cũng như thạc sĩ cấp quốc tế, ông chia sẻ:
“Bài diễn văn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong ngày lễ 30 tháng 4 hôm qua cái vấn để hòa giải hòa hợp dân tộc lẽ ra nên đặt vào dịp này để đáp ứng yêu cầu của rất đông người trông đợi, nhất là anh chị em trí thức. Một điểm nữa tôi cũng hơi ngạc nhiên là không thấy Thủ tướng đề cập tới vấn đề bảo vệ biển đào của Việt Nam nhất là phía Trung Quốc họ đang kiến tạo những pháo đài, sân bay quân sự mà những nhà học giả người ta nói là có khả năng Trung Quốc sẽ dần dần tiến tới kiểm soát toàn bộ Biển Đông.”
Trong thời gian gần đây trước sự o ép ngày càng mạnh của Trung Quốc, họa ngoại xâm chừng như sẽ xảy ra bất cứ giờ phút nào đã khiến đảng Cộng sản Việt Nam cần tới sự hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực nhằm cân bằng, đối trọng với sự lớn mạnh của Trung Quốc. Hàng chục cuộc viếng thăm cấp cao của hai nước đã diễn ra và sắp tới là chuyến công du chính thức của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Thật ngạc nhiên khi Thủ tướng NguyễnTấn Dũng nhắc lại những gì mà trong chiến tranh Đài Tiếng nói Việt Nam phát thanh từ miền Bắc vẫn nhắc đi nhắc lại hàng ngày, ông nói:
“Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam có quyền thực hiện khát vọng thiêng liêng của mình là được sống trong một đất nước hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do, hạnh phúc và có quan hệ bình đẳng, hữu nghị với tất cả các quốc gia trên thế giới. Nhưng Đế quốc Mỹ đã ngang nhiên áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự của Mỹ, đàn áp tàn bạo Cách mạng miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại khốc liệt ở miền Bắc. Chúng đã gây ra biết bao tội ác dã man, biết bao đau thương, mất mát đối với đồng bào ta, đất nước ta. Tổ quốc ta đã phải trải qua những thử thách cực kỳ nghiêm trọng.”
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn thuộc Viện nghiên cứu Y khoa Garvan tại Úc, đã rất nhiều lần về Việt Nam giúp cho ngành y khoa trong nước những kinh nghiệm mà ông có được trong vai trò của một Giáo sư y khoa. Giáo sư Tuấn chia sẻ:
“Nói một cách công bằng khả năng rất cao là ông Thủ tướng không phải là người chấp bút để viết cái bài diễn văn đó. Rất có thể một người phụ tá của ông ấy đã viết mà phụ tá thì họ xem cái việc viết diễn văn như một cái nghề của họ và họ đã quen dùng từ ngữ rất là quen thuộc thành ra trong bài diễn văn đó có những chữ như “đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào..rồi tội ác dã man, rồi đế quốc Mỹ...” tôi rất ngạc nhiên về chữ đế quốc Mỹ, thực dân mới, những từ ngữ mà người ta đã nghe cả 40 năm nay rồi.
Ai viết không cần biết nhưng ông Thủ tướng đúng ra đọc thành ra người ta chỉ biết là ông Thủ tướng thôi. Tôi rất ngạc nhiên vì thấy trong bài ông Thủ tướng có những đoạn rất là gay gắt với Mỹ mà Mỹ thì họ lại đang có mối quan hệ ngoại giao rất tốt với Việt Nam mình. Nếu tôi nhớ không lầm thì năm nay kỷ niệm 20 năm nối lại bang giao Việt Mỹ. Mỹ còn đã và đang giúp Việt Nam rất nhiều như giáo dục, khoa học thậm chí quân sự nữa thành ra tôi rất ngạc nhiên. Từ trước tới nay tôi vẫn nghĩ ông Thủ tướng là người khá cởi mở trong giới lãnh đạo Việt Nam vì ông có vẻ muốn đối thoại. Tôi rất ngạc nhiên vì ngôn ngữ của ông ấy thiếu tính ngoại giao.”
Đồng bào trong và ngoài nước cùng nhận ra rằng dù dưới lý do nào thì bài diễn văn đã mang tới cho tất cả mọi công dân Việt Nam một thông điệp rất rõ ràng: Chính phủ Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định lập trường: “Mỹ trước sau như một vẫn là kẻ xâm lược và chế độ Sài Gòn sau 40 năm vẫn là chế độ ngụy”.
Mặc Lâm biên tập viên RFA
- Viết bởi Tú Hoa (Đàn Chim Việt)
ĐÁNH TƯ SẢN cũng là một sự kiện chấn động lịch sử Việt Nam ngang hàng sự kiện THUYỀN NHÂN VIỆT NAM và chỉ xảy ra sau ngày 30 tháng Tư năm 1975. Sự kiện ĐÁNH TƯ SẢN thể hiện quyết tâm cướp bóc thẳng tay của Cộng Sản Hà Nội trực tiếp lên đầu lên cổ người dân miền Nam Việt Nam.
Đặc biệt, Cộng Sản Hà Nội ban hành Quyết Định mang số 111/CP vào ngày tháng 4 năm 1977 do Phạm Hùng ký chỉ đặc biệt nhằm vào việc tịch thu nhà cửa đất đai của nhân dân miền Nam một cách công khai trắng trợn đại trà như Phát Xít Đức đã từng thi hành đối với các công dân Đức gốc Do Thái vào năm 1939.
Các đợt ĐÁNH TƯ SẢN cướp bóc người dân miền Nam được Cộng Sản Hà Nội cho ký số X1, X2 và X3.
Đợt cướp X1 được bắt đầu vào sáng ngày 11 tháng Chín năm 1975 xảy ra khắp 17 tỉnh thành miền Nam và thành phố Sài Gòn. Đợt cướp này chủ yếu nhắm vào nhà của các cư dân thành thị, tịch thu nhà và cưỡng bức toàn bộ những nạn nhân phải đi về vùng Kinh Tế Mới sống đói khổ như Phát Xít Đức đã từng làm khi tống cổ người Đức góc Do Thái vào trại tập trung.
Đợt cướp X1 này, những người dân Việt gốc Hoa vốn đã di dân vào miền Nam Việt Nam từ cuối triều Minh, đầu triều nhà Thanh, sanh sống thanh công tại miền Nam ngót nghét hơn 200 năm. Máu và nước mắt, oán hờn ngút trời cho một vùng đất hiền lành này phải chịu oan thiên tan nát.
Đợt cướp X2 được Cộng Sản Hà Nội tiến hành từ tháng Ba năm 1978 và được kéo dài cho đến sau Đổi Mới, tức là khoảng năm 1990 thì mới chấm dứt. Đợt cướp này chủ yếu nhắm vào tư thuơng, tiểu tư sản, các thành phần sản xuất nhỏ vốn rất đa dạng và phồn thịnh trong nền kinh tế tự do do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa khuyến khích hậu thuẫn cho quốc dân từ bấy lâu.
Nền công nghiệp nhẹ, sản xuất đồ xài gia dụng trong nhà của Việt Nam đã hoàn toàn chính thức bị phá hũy. Người dân Việt Nam sẽ không còn thấy các sản phẫm tự hào của dân tộc như nồi nhôm hiệu Ba Cây Dừa , xà-bông (savon) hiệu cô Ba, xe hơi hiệu La Đalat, hiệu đèn trang trí Nguyễn Văn Mạnh, …etc…. Không những thế, các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẫm như đường, bột giặt, giấy, …etc cũng bị tê liệt vì chủ nhân bị quốc hữu hóa và bị đẩy đi vào tù.
Riêng tại Sài Gòn, thì báo Tuổi Trẻ đã phải thừa nhận vuốt đuôi là đã có trên 10000 tiệm bán bị đóng chỉ qua một đêm, khiến một viên thuốc trụ sinh cũng không có mà mua, mà dùng. Nhà sách Khai Trí lừng lẫy, biểu tượng của cả Sài Gòn cũng bị báo đài tại Sài Gòn lúc bấy giờ rêu rao là tư bản chó đẻ và cần phải tịch thu. Nhà sách Khai Trí đã từ tâm giúp đỡ biết bao văn nghệ sĩ của miền Nam, âm thầm thực hiện đường lối khai dân trí của cụ Phan Chu Trinh cho dân tộc mà nay cũng bị cướp không từ bởi Cộng Sản.
Riêng về chỉ thị 43 của Bộ Chính Trị Cộng Sản Hà Nội vào tháng Năm năm 1978 đã quốc hữu hóa toàn bộ đất đai của nông dân miền Nam vào tay nhà nước thông qua hình thức “Tập Đoàn Sản Xuất” dẫn đến nạn đói năm 1979 ngay liền sau đó vì lúa gạo và các sản phẩm nông nghiệp bị sút giảm toàn diện tại miền Nam.
Tình trạng cướp bóc của Đảng Cộng Sản Hà nội ở nông thôn miền Nam càng kinh khiếp và dữ dội hơn ở Sài Gòn dù không ồn ào bằng.
Tổng số lúa mà nông dân miền Nam Đảng Cộng Sản Hà Nội bị cướp đoạt để chở ra ngoài Bắc không thông qua quy chế thu mua được loan truyền là khoảng 4 triệu tấn gạo vào đầu năm 1978 trên đài phát thanh Hà Nội khi ca ngợi thành tích ĐÁNH TƯ SẢN của các đảng bộ địa phương miền Nam. Đương nhiên, con số chính thức được các nông dân kêu ca là lớn hơn nhiều.
Sang đến năm 1979, Võ Văn Kiệt đã phải phỉnh lừa, làm bộ giả nhân giả nghĩa loan báo thu mua lúa từ nông dân với giá cao gấp cả ngàn lần giá quy định của Nhà Nước (!) để cứu vãn tình thế bất mãn không còn dằn được nữa từ nông dân miền Nam trước những đợt cướp lúa từ năm 1977 trở đi.
Song song với chiến dịch X2 là chiến dịch X3 đặc biệt tập trung tại Sài Gòn với một âm mưu kín đáo từ Bộ Chính Trị là trục xuất toàn bộ người Sài Gòn củ ra khỏi nơi ở để “Bắc Kỳ hóa” thành phố Sài Gòn. Sau chiến dịch X3, hàng ngàn gia đình cán bộ miền Bắc đã vào Sài gòn sanh sống trong những ngôi nhà bị tịch thu. Theo thừa nhận ngắn ngủi từ báo SGGP và báo Công An khi bàn đến vấn đề trả lại nhà cho những “đối tượng” bị đánh tư sản oan ức vào tháng 9 năm 1989, ước tính lên đến khoảng 150 ngàn người thuộc gia đình cán bộ gốc miền Bắc vào Sài Gòn sanh sống trong những ngôi nhà bị tịch thu.
Đỗ Mười, sau này là Tổng Bí Thư Đảng, lúc bấy giờ thay thế ông Nguyễn Văn Linh làm trưởng ban cải tạo TW Vào ngày 16 tháng Hai năm 1976 là người chỉ huy trực tiếp cuộc cướp bóc này lên đầu lên cổ người dân Sài Gòn.
Trong chiến dịch này, số lượng người Sài Gòn phải bị mất hết tài sản và bị cưỡng bức đi KINH TẾ MỚI là khoảng SÁU TRĂM NGÀN NGƯỜI, tạo ra một sự hoảng sợ hoang man chưa từng có trong lịch sử phát triển Sài Gòn qua các triều đại. Cuối đợt X3 , ghi nhận của Cộng Sản Hà Nội là có khoảng 950 ngàn người Sài Gòn bị cưỡng bức đi KINH TẾ MỚI, không hoàn thành chỉ tiêu đề ra là một triệu hai người!
Sức mạnh kinh tế Sài Gòn tự nhiên bị phá hoại đi đến kiết quệ hoàn toàn sau chiến dịch X3 do Đổ Mười trực tiếp chỉ huy. Hơn 14 NGÀN cơ sở tiểu thủ công nghiệp tại Sài Gòn rất cần cho nền kinh tế quốc dân, với khoảng 270 ngàn nhân công hoàn toàn bị cướp trắng, đóng cửa với tổng số thiệt hại tài sản trước mắt lên đế gần chín đến hai mươi mốt tỷ Mỹ kim và tiến trình phát triển công nghệ của đất nước trong tự cường hoàn toàn KHÔNG CÒN HY VỌNG để phục hồi.
Riêng về tổng số vàng, nữ trang mà Cộng Sản Hà Nội thẳng tay cướp bóc người dân miền Nam được các báo đài của Đảng thừa nhận lên đến 4000 lượng vàng- nhưng đây chỉ là con số tượng trưng tính riêng ở Sài Gòn từ tháng Năm năm 1977 qua tháng Hai năm 1978 mà thôi. Cộng Sản Hà Nội đã cướp cả thảy trên dưới gần 35 ngàn lượng vàng, tính luôn cả nử trang và kim cương trong những đợt ĐÁNH TƯ SẢN cướp bóc thẳng tay lên đầu lên cổ nhân dân miền Nam.
Xin được ghi chú thêm là chỉ nội vụ lừa đảo mà Đảng Cộng Sản Hà Nội tiến hành cho phép người Việt gốc Hoa ra đi bán chính thức nếu đóng khoảng 120 lượng vàng đã góp vào gần 10 ngàn lượng vàng tổng cộng.
Trung bình , mổi người dân miền Nam nằm trong đối tượng bị ĐÁNH TƯ SẢN mất trắng khoảng 9 lượng vàng không tính đất đai , nhà cửa , phụ tùng thiết bị , đồ cổ , và các tài sản khác. Trữ lượng vàng của toàn bộ người dân miền Nam có thể lên đến 250 ngàn lượng vàng tính đến năm 1975 nhưng Cộng Sản đã không thể cướp sạch nổi do đồng bào khôn khéo giấu đi và phản kháng cũng như đem theo khi di tản.
II. KINH TẾ MỚI:
Tất cả những ai tại Sài Gòn bị đảng Cộng Sản Hà Nội cướp nhà , tịch thu tài sản điều phải đi về vùng KINH TẾ MỚI, là những nơi mà cơ sở hạ tầng cho sanh hoạt chưa được xây dựng, trong đó có cả điện nước, trường học và bệnh Xá. HƠN SÁU TRĂM NGÀN nạn nhân bị cưỡng bức qua đêm phải rời Sài Gòn để về những vùng KINH TẾ MỚI và bỏ lại hết toàn bộ tài sản của mình từ nhà ở , của cải , đồ đạc cho Đảng Cộng Sản quản lý.
Chỉ tiêu đề ra là phải đưa cưỡng bức khoảng gần một triệu người Sài Gòn ra các Vùng KINH TẾ MỚI và buộc họ phải bỏ hết tài sản nhà cửa lại cho Đảng Cộng Sản Hà Nội quản lý. Tổng kết từ các báo cáo thành tích cải tạo XHCN của Đảng, số người bị cưỡng bức đi Kinh Tế Mới từ Sài Gòn qua mười năm Quá Độ- ĐÁNH TƯ SẢN như sau:
THỜI KỲ |
CHỈ TIÊU |
KẾT QUẢ THỰC HIỆN |
GHI CHÚ |
1976- 1979 |
4 triệu người |
1,5 triệu người |
95% là từ Sài Gòn |
1979-1984 |
1 triệu người |
1,3 triệu người |
50% là từ Sài Gòn |
Khi đến vùng KINH TẾ MỚI để sống tham gia các tập đoàn sản xuất hay còn gọi tắt là Hợp Tác Xã, “thành quả lao động” của các nạn nhân này được phân phối chia ra như sau:
30% trả thuế
25% góp cho chính phủ theo giá thu mua của nhà nước;
15% trả lương cho cán bộ quản lý ;
30% còn lại chia cho các thành viên tính theo số điểm thuế lao động
Như vậy là sản phẩm nông nghiệp từ các nông trường vùng Kinh tế Mới đã bị Đảng tịch thu hết 70 % và chỉ còn 30% là chia lại cho các thành viên, vốn là các nạn nhân bị tịch thu nhà cửa các nạn nhân sống trong vùng Kinh Tế Mới.
Thế là cả triệu người dân Sài Gòn đột nhiên lâm vào cảnh đói kém trầm trọng như là đòn trả thù hữu hiệu của chế độ Cộng Sản Hà Nội đối với những bị liệt vào thành phần không phải “Cách Mạng”, ngụy quân ngụy quyền và tiểu tư sản.
Ước tính có khoảng 300 ngàn trẻ em bị thất học vì sống ở các vùng Kinh Tế Mới này. Nhân dân miền Nam- cả triệu người đang sống sung túc bổng lao vào chịu đói kém khổ sở chưa từng có. Nạn đói kém lan tràn khắp mọi nơi, mọi nhà trước thảm cảnh cướp bóc này của Cộng Sản Hà Nội.
Hàng vạn người dân Sài Gòn đã phải bỏ trốn khỏi các vùng Kinh Tế Mới, đi ăn xin trên đường Về Sài Gòn, đói rách khổ sở. Đây là thời kỳ khốn khổ bi đát nhất trong lịch sử phát triển Sài Gòn.
III. Nguyên văn toàn bộ Quyết Định 111/CP của Cộng Sản Hà Nội trong quyết tâm cướp bóc tài sản người dân miền Nam Việt Nam
Quyết định 111/CP của Cộng Sản Hà Nội là một tài liệu chứng quan trọng đối với sử học cho tội ác cướp bóc của Cộng Sản đối với nhân dân miền Nam Việt Nam.
Quyết định này là nguồn gốc của mọi khổ đau, nghèo khó của người dân miền Nam Việt Nam sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 và là lý do Việt Nam bị tụt hậu về mọi mặt , đứng hàng thứ ba nghèo nhất thế giới theo tuyên bố của Liên Hiệp Quốc vào năm 1985.
Sau đây là nguyên bản của quyết định:
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Số: 111/CP
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 14 tháng 04 năm 1977
QUYẾT ĐỊNH
CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ SỐ 111/CP NGÀY 14 THÁNG 4 NĂM 1977
VỀ VIỆC BAN HÀNH CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ VÀ CẢI TẠO XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT CHO THUÊ Ở CÁC ĐÔ THỊ
CỦA CÁC TỈNH PHÍA NAM
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Tiếp theo bản tuyên bố của Chính phủ về chính sách đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam hiện nay;
Để tăng cường quản lý nhà đất và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư nhân ở các tỉnh phía Nam;
Theo đề nghị của đồng chí Bộ trưởng Bộ Xây dựng và của đồng chí Trưởng Ban Cải tạo Công thương nghiệp tư doanh Trung ương trong phiên họp Hội đồng Chính phủ ngày 25/2/1977;
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1.- Nay ban hành kèm theo quyết định này bản chính sách quản lý và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nhà đất cho thuê ở các đô thị các tỉnh phía Nam.
Điều 2.- Các đồng chí Thủ trưởng các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ và các đồng chí chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ở phía Nam có trách nhiệm thi hành quyết định này, các đồng chí Bộ trưởng các Bộ Xây dựng, Nội vụ, Ngoại giao và các đồng chí Trưởng ban Cải tạo Công thương nghiệp tư doanh Trung ương có trách nhiệm hướng dẫn các ngành, các cấp thi hành quyết định này, tuỳ theo chức năng quản lý và những vấn đề có liên quan đến ngành mình.
CHÍNH SÁCH
QUẢN LÝ VÀ CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT
CHO THUÊ Ở CÁC ĐÔ THỊ CÁC TỈNH PHÍA NAM
MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
Việc quản lý và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nhà, đất cho thuê ở các đô thị, các tỉnh phía Nam cần đạt được mục đích, yêu cầu sau đây:
– Xoá bỏ kinh doanh bóc lột về nhà đất; thực hiện thống nhất quản lý của Nhà nước về nhà đất ở đô thị.
– Cải tạo đến đâu, quản lý tốt đến đó, đồng thời tiến hành quy hoạch, bố trí, sắp xếp điều chỉnh lại những khu vực sản xuất, khu vực hành chính, sự nghiệp, khu vực ở và các cơ sở phúc lợi công cộng… sao cho công bằng; hợp lý và có lợi nhất, trên tinh thần tận dụng cơ sở sẵn có, kết hợp với xây dựng mới; từng bước giải quyết chỗ làm việc cho cơ quan Nhà nước và chỗ ở cho công nhân, nhân viên và nhân dân lao động chưa có chỗ ở hoặc ở quá chật, cải thiện từng bước điều kiện nhà ở của nhân dân góp phần ổn định và phát triển sản xuất.
– Tăng cường việc bảo quản, sửa chữa nhà cửa và từng bước cải tạo và xây dựng thành thị theo hướng xã hội chủ nghĩa.
I. CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NHÀ ĐẤT,
CHO THUÊ:
1. Nhà nước quốc hữu hoá toàn bộ nhà cho thuê, không kể diện tích cho thuê nhiều hay ít của tư sản mại bản, của địa chủ, của tư sản gian thương lớn, của những người phạm tội nặng về chính trị và kinh tế của các tổ chức phản động.
2. Nhà nước trực tiếp quản lý toàn bộ nhà cho thuê của các chủ là cá nhân, công ty, đoàn hội, tôn giáo v.v… trừ trường hợp nhân dân lao động có ít diện tích cho nhau thuê để ở hoặc cho ở nhờ.
Tuỳ theo chất lượng, công dụng của từng ngôi nhà, tuỳ theo diện tích cho thuê nhiều hay ít, tuỳ theo thu nhập của chủ nhà cao hay thấp, Nhà nước để cho những chủ nhà là cá nhân được hưởng một phần tiền thuê nhà. Phần chủ nhà được hưởng sẽ do Bộ Xây dựng quy định cụ thể, nhiều nhất không quá 25% tiền thuê nhà.
Riêng đối với những chủ nhà là cá nhân có ít nhà cho thuê để ở, diện tích cho thuê dưới 150 m2 ở các tỉnh, dưới 200 m2 ở thành phố Hồ Chí Minh, hoặc thu tiền cho thuê nhà (không kể tiền đặt cọc) hàng năm dưới 600 đồng ở các tỉnh và 800 đồng ở thành phố Hồ Chí Minh thì trước mắt chủ nhà vẫn được tạm thời cho thuê nhưng phải chấp hành đầy đủ những quy định thống nhất về đăng ký, hợp đồng giá cho thuê, điều lệ bảo quản sửa chữa, quyền lưu trú của người thuê.
3. Nhà nước trực tiếp quản lý tất cả các biệt thự cho thuê (không kể diện tích nhiều hay ít) và toàn bộ diện tích nhà cho thuê không phải để ở mà để làm cửa hàng, bệnh viện, trường học (không kể diện tích cho thuê nhiều hay ít). Nhà nước trực tiếp quản lý tất cả các cư xá công và tư, không kể là cư xá cho thuê hay ở không mất tiền. Đối với những căn hộ mà người ở đã mua đứt và có giấy tờ hợp lệ thì coi như của riêng, nếu không phải là đối tượng bị tịch thu trưng thu thì người đã mua nhà được Nhà nước thừa nhận quyền sở hữu.
4. Đối với thần sĩ trí thức, gia đình có công với cách mạng có nhà cho thuê thì vận động họ hiến. Công nhân, viên chức Nhà nước và Đảng viên có nhà cho thuê hoặc đang quản lý nhà cho thuê thì giao những nhà đó cho Nhà nước quản lý.
5. Những chủ có nhà cho thuê mà không có chỗ ở được giữ lại một diện tích để ở tương đương với bình quân diện tích chung ngoài xã hội hoặc có thể rộng hơn một ít tuỳ theo cấu trúc của ngôi nhà.
6. Nhà nước trực tiếp quản lý toàn bộ đất cho thuê không phân biệt diện tích nhiều hay ít và nói chung không bồi hoàn, trừ trường hợp đặc biệt.
7. Người đang thuê đất được phép sử dụng mà không được mua bán, chuyển dịch và phải tuân theo những quy định về quản lý nhà đất ở đô thị.
II. ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT VẮNG CHỦ
1. Tất cả những nhà, đất và tài sản vắng chủ của người Việt nam và ngoại kiều đều do Nhà nước trực tiếp quản lý. Khi người chủ về, Nhà nước sẽ giải quyết với họ. Không ai được chiếm dụng, tự ý chuyển nhượng, mua bán nhà cửa, tài sản vắng chủ khi không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
2. Nhà nước quản lý sử dụng những nhà, đất và tài sản vắng chủ cho thuê theo chính sách cải tạo nhà cho thuê.
3. Nhà nước quản lý sử dụng những nhà, đất và tài sản vắng chủ của những người đã ra nước ngoài làm ăn buôn bán, hành nghề từ trước ngày giải phóng, khi họ trở về sẽ tuỳ từng trường hợp mà nghiên cứu giải quyết sau.
Riêng đối với những người sau đây, khi họ trở về, Nhà nước sẽ xét từng trường hợp cụ thể mà trả lại nhà cửa, tài sản cho họ:
a. Những người làm ăn lương thiện đi chữa bệnh, đi thăm viếng bà con, đi học ở nước ngoài.
b. Những người đi tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến.
c. Những người là nhân dân lao động vì hoang mang sợ hãi bỏ chạy đi các nơi trước và trong những ngày giải phóng.
4. Những nhà, đất và tài sản mà trước khi vắng, chủ nhà đã uỷ quyền hợp pháp cho những người là con đẻ, vợ hoặc chồng hợp pháp của mình quản lý thì những người ấy được tiếp tục quản lý và phải chấp hành những chính sách quản lý nhà, đất của Nhà nước; trường hợp chưa kịp uỷ quyền hợp pháp thì Nhà nước cho phép những người là cha mẹ, con đẻ, vợ hoặc chồng hợp pháp của họ trước đây đã ở trong những nhà ấy, nay được tiếp tục ở nhưng không được bán, chuyển dịch bất động sản.
Đối với thân nhân không phải là cha mẹ, vợ chống, con của các chủ vắng mặt mà trước đây cùng ở chung với chủ nhà, nếu nay còn ở lại thì sẽ được thu xếp cho ở một chỗ trong nhà hoặc xếp ở nơi khác.
5. Những trường hợp xin thừa kế, xin hiến nhà, đất và tài sản vắng chủ sẽ được nghiên cứu giải quyết từng trường hợp cụ thể theo chính sách.
6. Uỷ ban nhân dân thành phố, tỉnh thống nhất quản lý những nhà đất và tài sản vắng chủ tại địa phương.
Cơ quan quản lý nhà đất và cơ quan tài chính chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng, kiểm kê định giá, xử lý và thanh toán với chủ nhà khi họ trở về theo đúng các chính sách chế độ và thống nhất quản lý nhà đất và tài sản vắng chủ của Nhà nước.
III. ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT CỦA CÁC ĐOÀN HỘI TÔN GIÁO
Để bảo đảm thống nhất quản lý nhà cửa, bảo đảm tôn trọng tự do tín ngưỡng và căn cứ vào các chế độ, chính sách khác của Nhà nước, việc quản lý của các đoàn, hội tôn giáo ở các tỉnh phía Nam được quy định như sau:
1. Nhà nước bảo hộ mọi nhà thờ, chùa chiền, miếu mạc, thánh thất được thực sự và thuần tuý dùng vào việc thờ cúng hành đạo.
2. Nhà nước tịch thu toàn bộ nhà đất của các Đoàn Hội các tổ chức không được Nhà nước thừa nhận và cho phép hoạt động.
3. Nhà, đất của các đoàn, hội, các tổ chức khác và của các tôn giáo hiện đang cho thuê được giải quyết theo chính sách chung về nhà, đất cho thuê. Riêng đối với các nhà tập trung của các tổ chức, các tôn giáo đã cho hội viên, giáo dân của mình nhờ, hoặc ở thuê với giá rất rẻ mà không nằm trong phạm vi nơi thờ cúng, hành đạo thì Nhà nước có thể xét cấp hẳn cho người đang sử dụng.
4. Những nhà cửa đất đai khác còn bỏ trống hoặc dùng vào mục đích không phải thờ cúng, hành đạo, thì Nhà nước vận động thuyết phục giáo dân giao cho Nhà nước dùng vào việc phục vụ lợi ích chung.
IV. ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT CỦA CÁC TỔ CHỨC VÀ CÁ NHÂN THUỘC BỘ MÁY CAI TRỊ CỦA NGUỴ QUÂN NGUỴ QUYỀN VÀ ĐẢNG PHÁI PHẢN ĐỘNG
1. Mọi loại nhà cửa, đất đai trước ngày Giải phóng do chính quyền Mỹ nguỵ quản lý hoặc dành cho những tổ chức hay cá nhân, thuộc nguỵ quân nguỵ quyền và các tổ chức đảng phái phản động sử dụng, nay đều là tài sản công cộng, do Nhà nước trực tiếp quản lý.
2. Nhà cửa, đất đai của những người sau đây đều do Nhà nước trực tiếp quản lý:
– Sĩ quan nguỵ quân cấp từ thiếu tá trở lên.
– Sĩ quan cảnh sát từ cấp trung uý trở lên.
– Cán bộ thuộc bộ máy cai trị của nguỵ quyền đã giữ chức vụ, từ Chủ sự phòng cơ quan Trung ương, Ty phó, Quận phó trở lên.
– Các phần tử ác ôn, mật vụ, tình báo, chiêu hồi cố tình phản cách mạng.
3. Những người có nhà cho thuê và nhà thuộc diện Nhà nước trực tiếp quản lý, tuỳ theo chức vụ cấp bậc, quá trình hoạt động dưới thời Mỹ nguỵ và thái độ chính trị hiện nay của đương sự mà có thể chiếu cố dành cho một diện tích ở thích đáng, nếu chưa có chỗ ở.
V. ĐỐI VỚI NHÀ ĐẤT CỦA NGOẠI KIỀU
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không thừa nhận mọi cam kết của chính quyền Mỹ nguỵ với các nước và các tổ chức quốc tế có cơ quan ở miền Nam Việt Nam.
Nhà nước không thừa nhận quyền sở hữu về bất động sản đã có của các nước và của ngoại kiều trên lãnh thổ Việt Nam từ trước ngày Giải phóng. Chính phủ sẽ giải quyết các vấn đề tồn tại về các loại nhà, đất này theo hướng sau đây:
1. Quốc hữu hoá không bồi hoàn toàn bộ đất đai, nhà cho thuê của chính phủ nước ngoài và ngoại kiều. Xét trường hợp cụ thể có hình thức xử lý đích đáng; không bồi hoàn, bồi hoàn tượng trưng, bồi hoàn một phần tuỳ theo quan hệ ngoại giao giữa nước ta với nước hữu quan nếu là nhà thuộc quyền sở hữu của Nhà nước hữu quan, và tuỳ theo tính chất kinh doanh bóc lột của ngoại kiều nếu là nhà thuộc quyền sở hữu của ngoại kiều.
2. Tịch thu toàn bộ tài sản:
a. Của nước trực tiếp tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam.
b. Của ngoại kiều trực tiếp phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
c. Của nước ngoài đã được sử dụng vào mục đích của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
3. Đối với nhà làm việc và nhà ở của các Chính phủ nước ngoài khác và của các tổ chức quốc tế thì giải quyết như sau:
Nếu là nhà mua hoặc tự xây cất hợp pháp, căn cứ vào quy hoạch của đô thị mà có thể cho họ giữ lại một số nhà cần thiết để làm cơ quan lãnh sự hoặc cơ quan nghiệp vụ được Nhà nước ta chấp nhận. Những nhà không dùng vào công việc trên thì phải nhượng lại.
Đối với những nhà không mua hoặc xây cất không hợp pháp thì Nhà nước quản lý không bồi hoàn.
4. Nhà của ngoại kiều:
– Đối với những ngoại kiều được ở lại nước ta làm ăn sinh sống, có nhà tự xây dựng hợp pháp thì được thừa nhận quyền sử dụng để ở.
– Đối với ngoại kiều được phép xuất cảnh:
Nếu là người lao động, thì Nhà nước cho phép bán nhà mà họ đang ở hoặc tự xây cất hợp pháp.
Nếu có cha mẹ, vợ chồng hợp pháp, con đẻ được ở lại và đã cùng ở chung một hộ thì có thể được xét cho nhận uỷ quyền quản lý.
Đối với nhà của ngoại kiều không phải là nhân dân lao động thì trước khi xuất cảnh đều phải giao lại cho Nhà nước quản lý, và tuỳ từng trường hợp, Nhà nước sẽ không bồi hoàn, bồi hoàn tượng trưng, hoặc bồi hoàn một phần.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
(Đã ký)
Phạm HùngĐiều IV của QĐ 111/CP đã cho thấy rõ gia đình thân nhân của các anh em quân lực Việt Nam Cộng Hòa phải chịu mất nhà mất cửa rất thê thảm. Mọi quy chụp là phản động hay Ngụy quyền thì coi như là bị tịch thu nhà cửa.
Dòng chữ cuối cùng của khoản 2 điều IV của QĐ 111/CP có ghi rõ là nhà cửa đất đai của các thành phần sau đây bị tịch thu: “Các phần tử ác ôn, mật vụ, tình báo, chiêu hồi cố tình phản cách mạng.” Bởi không có định nghĩa rõ ràng thế nào là thành phần ác ôn nên các viên chức cán bộ Cộng Sản tha hồ kết tội thuờng dân vô tội vạ là thành phần ác ôn của “Ngụy quyền” để tư lợi cướp bóc nhà cửa cho riêng mình, không cần tòa án nào xét xử cả. Ai ai cũng có thể là điệp viên CIA, hay là có lý lịch ba đời liên quan đến Ngụy quân, và đều có tư tưởng phản động và cần phải tịch thu nhà cửa dựa trên điều khoản này của Q Đ 111/CP.
Không khí hoảng sợ , đau thuơng oán hận lan tràn khắp cả miền Nam.
IV. Hậu quả ĐÁNH TƯ SẢN của Cộng Sản Hà Nội:
Theo các chuyên gia của Liên Hiệp Quốc về kinh tế, Việt Nam tụt hậu hơn 50 năm về kinh tế vì các chính sách đánh tư sản này của Cộng Sản Hà Nội lên đầu người dân miền Nam. Việt Nam là quốc gia nghèo đứng hàng thứ ba trên thế giới vào năm 1985.
Cho đến giờ phút này , người dân Việt Nam vẫn chưa thực sự có quyền TƯ HỮU mà chỉ có quyền SỬ DỤNG, nghĩa là thảm họa bị ĐÁNH TƯ SẢN trong quá khứ vẫn treo lơ lửng trên đầu người dân Việt Nam bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra chiếu theo luật pháp hiện hành của Cộng Sản Hà Nội.
Kinh tế của Việt Nam mãi đến năm 1997 mới thực sự khắc phục được một phần hâu quả của 10 năm Quá Độ, ĐÁNH TƯ SẢN mang đầy cướp bóc ngu xuẫn do Cộng Sản Hà Nội tiến hành từ năm 1976 đến năm 1987.
Từ năm 1987 đến năm 1997, Hoa Kỳ đã nhắm mắt làm ngơ cho những người Việt di tản hay Vượt Biên định cư tại Mỹ gởi tiền hàng ồ ạt về cứu đói thân nhân mình và vực dậy sự sinh động về kinh tế vốn có ngày nào của miền Nam. Tổng số ngoại tệ gởi về lên đến 8 đến 15 tỷ Mỹ kim mỗi năm trong suốt 10 năm đó.
Sang đến năm 1989, báo SGGP từ hào Sài Gòn chịu 90 % ngân sách của cả nước và bắt đầu tiến hành trả lại nhà cho một số nạn nhân bao năm trời khổ ải đói rách, cũng như bắt đầu bàn tới vấn đề cho phép các sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa được bán nhà vốn hầu hết đã bị tịch thu nếu ra đi theo chương trình HO-Special Release Reeducation Center Detainee Resettlement Program (Chương trình tái định cư phóng thích đặc biệt tù nhân trung tâm cải tạo)
Chỉ số nghèo đói của Việt Nam đứng hàng thứ ba trên thế giới và chỉ mới có những tiến bộ cải thiện mà thôi trong dạo gần đây khi World Bank và USAID tăng tốc trợ giúp.
Mọi tài liệu, hình ảnh ca ngợi ĐÁNH TƯ SẢN từ các báo chí đài phát thanh của Đảng cũng bị dẹp dần đi.
Đảng Cộng Sản Hà Nội tới ngày nay vẫn chưa chính thức xin lỗi hai mươi mốt triệu người dân miền Nam về hành động cướp bóc phi pháp này.
Nguồn: Đàn Chim Việt