Lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đang bối rối trước vấn đề chủ quyền biển đảo nhưng chưa biết phải đối phó ra sao vì dân và đảng không còn đi chung một đường.
Việc đầu tiên là người dân và nhiều Đại biểu Quốc hội đã công khai đòi Nhà nước phải cung cấp đầy đủ tin về tình hình Biển Đông. Họ muốn được Chính phủ cho biết sẽ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông bằng cách nào trước hành động tân tạo 6 đảo và bãi đá ở Trường Sa mà Trung Quốc đã chiếm của Việt Nam tháng 3 năm 1988 và đá Vành Khăn năm 1995.
Nhiều Đại biểu cũng đề nghị Quốc hội phải có thái độ mạnh mẽ hơn việc ra một Thông cáo yếu ớt như đã làm năm 2014, sau khi Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam từ 02/5 đến 15/07/2014.
Hồi đó, tại kỳ họp thứ 7, Quốc Hội chi biết nói : "Quốc hội khẳng định việc Trung Quốc đặt giàn khoan trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam; vi phạm luật pháp quốc tế nhất là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982; vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC); trái với thỏa thuận cấp cao giữa hai Đảng, Nhà nước Việt Nam - Trung Quốc. Tình hình biển Đông căng thẳng, hòa bình và an ninh đang bị đe dọa.
Quốc hội cùng toàn thể đồng bào, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài bày tỏ sự lo ngại và kiên quyết phản đối những vi phạm, sai trái của phía Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng biển quyền chủ quyền của Việt Nam.
Quốc hội tin tưởng và nhất trí cao với chủ trương của Đảng, Nhà nước đã lãnh đạo quân dân ta có nhiều biện pháp đấu tranh bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ trên cơ sở luật pháp quốc tế; đồng thời, kiên trì đấu tranh gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; kiên trì bảo vệ, giữ vững quan hệ hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc.
Nhận định diễn biến trên Biển Đông còn phức tạp và khó lường, Quốc hội đề nghị Chính phủ, các ngành, các cấp cùng đồng bào cả nước đoàn kết, thống nhất và đặc biệt quan tâm giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại của đất nước." (Trích báo VNEXPRESS, 24/06/2014)
TỪ 2014 ĐẾN 2015
Phản ứng của cơ quan quyền lực cao nhất nước đã bị lên án qúa yếu hèn, nếu so với hàng chục cuộc biểu tình tuần hành chống Trung Quốc của người dân trong nước và người Việt ở nước ngoài trong năm 2014.
Còn nhục nhã hơn và gây căm phẫn cho dân khi Nhà nước huy động lực lượng Công an và thuê Côn đồ ngăn cản, bắt bớ và đánh đập người dân xuống đường chống Trung Quốc ngay giữa Thủ đô Hà Nội và Sài Gòn từ 2007 đến thời kỳ cao độ của 2 năm 2011 và 2012.
Nhưng chỉ một năm sau ngày giàn khoan HD-981 rút lui, bất chấp phản đối của Việt Nam, Trung Quốc đã gia tăng bồi đắp, tân tạo và xây dựng 7 đảo và bãi đá thành các đảo cho người cự trú, căn cứ quân sự và xây dựng sân bay và bến cảng cho Hải quân sử dụng.
Nhiếu quốc gia trên thế giới, kể cả Hoa Kỳ, Liên hiệp Châu Âu và các nuớc trong khu vực Á Châu và Thài Bình Dương đã lên án hành động gây bất ổn định ở Biển Đông của Trung Quốc. Riêng Việt Nam, nước trực tiếp mất dần chủ quyền lại không có bất cứ hành động chống trả nào. Phát ngôn viên Bộ Ngọai giao chỉ biết tiếp tục phản đối bằng nước bọt và tái khẳng định chủ quyền ở Hòang Sa đã bị Trung Quốc chiếm tòan thể năm 1974 và ở Trường Sa.
Trước tình hình này, nhiều Đại biểu Quốc hội và người dân đòi Chính phủ tường trình công khai cho dân biết phải làm gì để bảo vệ lãnh thổ. Họ cũng đề nghị Quốc hội phải ra nghị quyết bày tỏ thái độ quyết liệt với Bắc Kinh. Rất tiếc Ban Thương vụ Quốc hội đã không ghi vào chương trình nghị sự của kỳ họp 9 (từ 20/5 đến 26/6/2015).
Mãi cho đến khi thấy phải đầu hàng áp lực của dư luận và yêu cầu của một số Đại biểu, Văn phòng Thường trực Quốc hội và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng mới yêu cầu Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngọai giao Phạm Bình Minh báo cáo tình hình với Quốc hội.
Tuy nhiên phiên họp được chờ đợi và hy vọng này lại họp kín chỉ để các Đại biểu nghe cho biết vào những giây phút nhạt nhẽo cuối cùng của ngày họp 5/6 (2015).
Việc làm của Quốc hội đã gây bất mãn trong dân. Một vài phát biểu sau đó trong phiên họp ngày 8/6 (2015) của hai Đại biểu Trần Quốc Tuấn (Trà Vinh) và Thích Thanh Quyết (Quảng Ninh) tuy đã gay gắt lên án Trung Quốc, nhưng không đủ sức lấy lại lòng tin với cử tri.
Nhưng tại sao đảng và chính phủ Việt Nam không muốn để cho Quốc hội thảo luận công khai về hành động vi phạm chủ quyền biền đảo của Việt Nam ở Biển Đông ?
Đã có ý kiến của cấp lãnh đạo Quốc hội CSVN cho rằng vì vấn đề tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông là "vấn đề nhạy cảm" nên phải cẩn thận để không gây ra những tình huống khó khăn cho chủ trương đấu tranh bằng biện pháp hòa bình.
Dư luận trong nước không đồng tình với lãnh đạo Quốc hội. Nhiều chuyên viên và trí thức, kể cả Tiến sỹ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ đã đề nghị Quốc hội phải có lập trường cứng rắn với Trung Quốc để tạo niềm tin cho dân, nhưng Quốc hội đã làm theo lệnh mũ ni che tai của Bộ Chính trị vì sợ làm mất lòng Trung Quốc !
Tiến sỹ Trần Công Trục và nhiều Trí thức, chuyên viên biểo đảo trong và ngoài nước và cựu lão thành Cách mạng cũng từng khuyên Chính phủ kiện Trung Quốc ra trước Tòa án Quốc tế như Phi Luật Tân đã làm nhưng nhà nước không dám làm.
Tại sao ? Một phần vì những người được gọi là "học giả-trí thức-chuyên viên" của đảng đã không đủ khả năng và bản lĩnh để đương đầu với đội ngũ trí thức và bộ máy tuyên truyền giầu tiền nhiều bạc của Trung Quốc trong công tác bảo vệ điều được gọi là "bằng chứng lịch sử" về chủ quyền của họ ở Biển Đông.
Chuyên viên của nhà nước Việt Nam chỉ biết nói đi nói lại luận cứ yêu sách đường Lưỡi bò hay đường 10 đọan (từ 9 mới tăng lên 10) chiếm ¾ diện tích 3.3 triệu cây số vuông Biển Đông là phi lý và vô căn cứ nhưng chưa trưng dẫn cho thế giới thấy những bằng chứng cụ thể của mình nên vẫn hụt hẫng.
Thêm vào đó, phía Việt Nam vẫn lúng túng về Công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 của thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai, mà theo lập luận của phía Trung Quốc là đã thừa nhận chủ quyền của Trung Hoa trên 2 quần đảo Tây Sa (Hòang Sa) và Nam Sa (Trường sa).
Nguyên văn Công hàm như sau:
" Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển.
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Phía Việt Nam Cộng sản bác bỏ quan điểm của Trung Quốc và cho rằng Chính phủ VNDCCH vào thời điểm 1958 không qủan lý 2 quần đào Hòang Sa và Trường Sa mà thuộc quyền Chính phủ Việt Nam Cộng hoà ở miền Nam nên VNDCCH không có quyền pháp lý với 2 quần đảo này.
Ngoài Công hàm 1958, chính quyền CSVN còn bị lúng túng trước thắc mắc tại sao Chính phủ VNDCCH đã không phản đối khi Trung quốc đem quân chiếm đóng Hòang Sa của Việt Nam Cộng hòa ngày 19/01/1975 ?
Vì vậy ông Trần Công Trục đã báo động: " Trung Quốc đang tìm mọi cách để tuyên truyền, quảng bá trên các diễn đàn quốc tế về cái gọi là "chủ quyền lịch sử" của họ đối với hầu hết Biển Đông trong yêu sách đường "lưỡi bò" hết sức phi lý; đồng thời với những hành động hòng đánh lừa dư luận, cài bẫy để giành sự công nhận trên thực tế của các bên trực tiếp hay gián tiếp có liên quan trong và ngoài khu vực đối với yêu sách chủ quyền của họ trong hầu hết Biển Đông.
Trong khi đó, nếu đội ngũ nghiên cứu người Việt chúng ta không đáp trả kịp thời và tương ứng thì vô hình chung chúng ta đã nhường trận địa, nhường thế thượng phong cho đối thủ trên mặt trận tuyên truyền và tập hợp sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ.
Nguy hiểm hơn, với lối nói lấy được cộng với việc chi tiền mua chuộc một số học giả quốc tế, thậm chí là mua chuộc một số quốc gia để đổi lấy sự ủng hộ chủ trương yêu sách phi lý của Trung Quốc ở Biển Đông, Trung Quốc đã và đang tạo ra rất nhiều khó khăn cho ta trong công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ." (trích báo Giáo dục Việt Nam, 6/6/2015)
TỪ 3 KHÔNG ĐẾN CHỜ SUNG RỤNG ?
Trong khi Việt Nam có nhiều bất cập như thế trong cuộc đấu tranh với Trung Quốc thì Ban Tuyên giáo Trung Ương đã phối hợp với Tổng cục Chính trị Quân đội mở ra mặt trận báo chí chống điều được gọi là "các thế lực thù địch" đang "xuyên tạc đường lối chính trị, chiến lược an ninh, quốc phòng của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta."
Một bài trên báo Quân đội Nhân dân ngày 08/06/2015 viết : "Hiện nay, trên không gian mạng vẫn còn "dư âm" về Diễn đàn an ninh châu Á Shangri-La lần thứ 14 vừa diễn ra tại Xin-ga-po. Những vấn đề địa-chính trị phức tạp, nóng bỏng và chiến lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam đã và đang trở thành chủ đề mà các thế lực thù địch lợi dụng làm phương tiện để xuyên tạc đường lối chính trị, chiến lược an ninh, quốc phòng của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta."
Bài báo không chỉ danh "các thế lực thù địch" là ai, bình thường hay ám chỉ người Việt Nam ở nước ngoài. Nhưng trong trường hợp này rõ ràng muốn bao gồm cả Trung Quốc vì một số Nhà bình luận và báo chí Trung Hoa, tiêu biểu là tờ Hòan Cầu Thời báo, đã cáo buộc Việt Nam muốn đi theo Mỹ để chống Trung Quốc.
Trung Quốc đã phản ứng sau chuyến thăm Việt Nam từ 31/5 đến 2/6/2015 của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter, trong đó hai nước Việt-Mỹ đã ký "Tuyên bố tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng" .
Tờ QĐND cũng chỉ trích ý kiến khuyên Việt Nam nên thay đổi chính sách quốc phòng.
Tác giả viết : " Có người còn đặt câu hỏi, phải chăng đã đến lúc Việt Nam nên từ bỏ chính sách ba không: "Không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia"(!)
Từ lý luận, kinh nghiệm lịch sử, trong điều kiện địa-chính trị của Việt Nam, để bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, trong đó có biển, đảo, chúng ta cần phải tái khẳng định nguyên tắc độc lập, tự chủ trong đường lối chính trị và chiến lược quốc phòng của Đảng và Nhà nước ta."
Nhưng với chính sách gậm nhấm và bá quyền của Trung Quốc đã rõ như ban ngày đối với Việt Nam từ đất liền đến biển đảo và từ kinh tế sang chính trị và ngọai giao thì lập trường Quốc phòng 3 không của Việt Nam có chống nổi Trung Hoa không ?
Hay Việt Nam muốn theo đuổi 3 không để chờ sung rụng đến từ hậu qủa xung đột giữa Trung Quốc với các cường quốc khác, kể cả Hoa Kỳ ở Biển Đông ?
Nếu Việt Nam muốn bình chân để thủ lợi thay vì phải tự cứu mình trước khi được người vớt thì chỉ là cầu may, không phải là sách lược khôn ngoan trước một Trung Hoa đã từng dạy cho Việt Nam 3 bài học ở Hòang Sa tháng 01/1974, cuộc chiến biến giới (1979-1989) và trận chiến ở Trường Sa tháng 3/1988.
Bên cạnh việc bảo vệ quan điểm 3 không, Tồng cục Chính trị của Quân đội đã làm việc với "các cơ quan quản lý, cơ quan báo chí Trung ương" hôm 4/6 (2015) để thảo luận công tác phối hợp thông tin và tuyên truyền giữa Quân đội và các cơ quan báo chí nhà nước.
Thượng tướng Ngô Xuân Lịch, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Quân đội nhân dân Việt Nam đã chủ động buổi làm việc.
Tướng Lịch đã : "Nhấn mạnh, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, biển đảo, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong tình hình hiện nay đang đặt ra những vấn đề mới. Do đó, đề nghị các đại biểu đề xuất phối hợp tuyên truyền giữa Tổng cục Chính trị và các cơ quan báo chí Trung ương, về hoạt động quân sự - quốc phòng, đối ngoại quốc phòng đạt hiệu quả, chất lượng cao hơn."
Ông Lịch nói : "Thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực vẫn diễn biến phức tạp, khó lường, vấn đề đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo vẫn còn khó khăn, phức tạp, lâu dài. Đặc biệt từ nay đến Đại hội XII của Đảng, cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận diễn ra ngày càng gay gắt, quyết liệt trên các mặt trận tư tưởng – lý luận; kinh tế - xã hội; quốc phòng – an ninh và đối ngoại... Thực tế này đặt ra cho công tác phối hợp thông tin – truyên truyền báo chí cần phải thường xuyên bám sát tình hình, chủ động thông tin về những vấn đề, sự kiện nổi bật liên quan đến Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội XII của Đảng cũng như các vấn đề về quân sự, quốc phòng, đối ngoại quốc phòng, đảm bảo yêu cầu khách quan, chính xác, kịp thời." (trích VOV,Voice of Vietnam, 4/6/2015)
Đây là lần đầu tiên kể từ khi có tranh chấp chủ quyền biển đảo và lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc mới có một buổi làm việc với báo chí đảng do Tổng cục Chính trị Quân đội chủ động.
Tuy nhiên những điều cảnh giác của Tướng Lịch đã không nói ra hết những khó khăn trong lĩnh vực thông tin và bảo vệ chủ quyền của báo chí Việt Nam. Có điều chắc chắn là truyền thông Trung Quốc đã vượt xa Việt Nam trong lĩnh vực thông tin và tuyên truyền chủ quyền của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Vì vậy, nếu nhà nước tiếp tục che giấu nhân dân và Quốc hội về tình hình Biển Đông thì hậu qủa đảng phải một mình bảo vệ lãnh thổ có làm được không ? -/-
GNsP(06.06.2015) – Melbourne, Úc Đại Lợi – Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia với kinh tế tự do, y tế đại chúng, người cày có ruộng, báo chí tự do, tôn giáo, văn học, văn nghệ, nghệ thuật, giáo dục phát triển và đặc biệt có một nền dân chủ pháp trị với tam quyền phân lập rõ ràng.
Hệ tư tưởng nào đã giúp một quốc gia vừa giành được độc lập, phải đối đầu với chiến tranh và chỉ trong vòng 20 năm đã xây dựng được nền tảng nói trên?
Triết lý giáo dục tại miền Nam là nhân bản, khai phóng và dân tộc, mà giáo dục là nhằm truyền đạt tư tưởng, bởi thế tổng hợp của ba triết lý chính là tư tưởng chủ đạo và bản sắc Việt Nam Cộng Hòa.
Chủ đạo hay chỉ đạo
Tư tưởng chủ đạo ở một người, một tổ chức, một quốc gia là tư tưởng đã trở thành một căn bản triết lý và đạo đức giúp cá thể đó suy nghĩ độc lập và hành động một cách tự do.
Khi đã thấm nhuần tư tưởng chủ đạo thì con người tự ý thức và nhận trách nhiệm để thực hiện tốt nhất trong hoàn cảnh và khả năng cho phép.
Khác với tư tưởng chỉ đạo hay định hướng thường buộc con người phải đi theo và thực hiện những điều đã được vạch ra.
Thí dụ đảng Cộng sản lấy tư tưởng Mác Lê làm tư tưởng chỉ đạo. Khi tư tưởng này phá sản, thể chế cộng sản thiếu tư tưởng chỉ đạo chỉ bấu víu vào những định hướng do Bộ Chính Trị đưa ra.
Nhân Bản Nền Tảng Xã Hội Đa Nguyên
Nhân bản là lấy con người làm gốc.
Đã nói đến con người là nói đến suy tư. Nói đến suy tư là nói đến sự khác biệt giữa người với người. Hai trẻ sinh đôi lớn lên trong các điều kiện tương tự cũng mang nhiều khác biệt.
Suy tư lại dẫn đến hành động, hành động ảnh hưởng lẫn nhau, ảnh hưởng đến xã hội.
Ở mỗi người thì suy tư và hành động mỗi lúc mỗi khác, lúc đúng lúc sai và ai cũng đều có thể sửa đổi khi có cơ hội được sửa đổi. Xã hội nhân bản chấp nhận sự khác biệt giữa các cá nhân nhưng không chấp nhận dùng sự khác biệt để đánh giá con người, không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt tư tưởng chính trị, giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc.
Con người nhân bản luôn tìm hiểu, chấp nhận và tôn trọng mọi sự khác biệt để cùng nhau xây dựng một cuộc sống hài hòa trong cộng đồng dân tộc. Nhân bản là cội nguồn của tinh thần đa nguyên.
Ở xã hội nhân bản không ai có quyền lấy người khác làm phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng hay tổ chức nào. Mọi người đều có giá trị như nhau, có quyền và có bổn phận như nhau.
Tinh thần nhân bản nhìn nhận giới lãnh đạo quốc gia cũng dễ mắc phải những sai lầm thậm chí có thể gây ra tội ác. Một thể chế nhân bản là một thể chế đa đảng đối lập, quyền lực của tầng lớp lãnh đạo bị giảm thiểu và được pháp luật chặt chẽ kiểm soát.
Nhằm xây dựng một xã hội nhân bản mọi chiến lược, chính sách, chủ trương, hành động quốc gia đều phải phù hợp với nhân sinh quan về con người, hướng đến mục đích phục vụ con người, quan tâm tới quyền lợi và hạnh phúc của con người.
Đồng thời với nền giáo dục nhân bản, các sinh hoạt tôn giáo, sắc tộc, hướng đạo, văn hóa, nghệ thuật đều được khuyến khích và hỗ trợ một cách công bình không thiên vị. Các sinh hoạt nói trên góp phần không ít trong việc thực hiện xã hội nhân bản tại miền Nam. Mặc dù chưa phải là một thành viên trong Liên Hiệp Quốc, miền Nam đã nhìn nhận, áp dụng và cổ vũ quyền con người, quyền dân sự được ghi trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế nhân quyền.
Trong hoàn cảnh chiến tranh, gia đình của những người ở phía bên kia vẫn được đối xử một cách công bằng như mọi công dân khác. Họ được luật pháp bảo vệ, được quyền bầu cử, quyền tham gia chính trị, được làm ăn buôn bán, con em họ được đến trường như mọi trẻ em khác tại miền Nam.
Từ năm 1962, chương trình Hồi chánh giúp trên 200 ngàn người ở phía bên kia buông súng quay về tạo dựng cuộc sống mới trong cộng đồng dân tộc.
Khai phóng để bắt kịp các nước tân tiến
Khai phóng là bằng khả năng và trí tuệ hướng đến sự thật, đến điều tốt, điều thiện, đến cái mới cái hay cái đẹp (Chân, Thiện, Mỹ). Người có tinh thần khai phóng là người có suy nghĩ độc lập không cần sự chỉ đạo của người khác hay dẫn dắt bởi tập thể. Họ dễ dàng thích ứng với mọi môi trường và nhanh chóng đạt được những mục tiêu mới làm giàu cho cuộc sống họ, gia đình và nhân quần xã hội. Họ là những con người tự do.
Người có tinh thần khai phóng không ngừng hướng tới sự tiến bộ, tôn trọng sự thật, có tinh thần khoa học, mở rộng tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới.
Tinh thần khai phóng sản sinh cho xã hội những công dân biết sử dụng quyền tự do của họ một cách có trách nhiệm, biết tiếp nhận tinh thần dân chủ, xây dựng kinh tế, phát triển xã hội, tinh hoa văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, giúp cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới, góp phần phát triển sự cảm thông và hợp tác quốc tế, tích cực đóng góp vào sự thăng tiến nhân loại.
Tinh thần khai phóng trong thể chế cộng hòa tạo sự bình đẳng giữa người với người, sự công bằng cho mọi công dân, và mọi người có đồng đều cơ hội tích cực cạnh tranh trở thành lãnh đạo quốc gia như trở thành Tổng Thống hay dân biểu nghị sĩ.
Nhờ tinh thần khai phóng, miền Nam đã xây dựng một hiến pháp và một thể chế dân chủ tam quyền phân lập rõ ràng. Mô hình chính trị là mô hình lưỡng đảng đối lập tranh quyền. Nền Cộng Hòa tại miền Nam có thể được xem là một nền dân chủ hiến định pháp trị tiên tiến vào bậc nhất trong khu vực Á châu thời ấy.
Tinh thần dân tộc giữ gìn bản sắc Việt Nam
Tinh thần dân tộc đề cao các giá trị dân tộc như: độc lập, tự chủ, thuần phong mỹ tục hay chuẩn mực xã hội. Tinh thần dân tộc hình thành và phát triển theo lịch sử xây dựng, bảo vệ đất nước và bảo vệ dân tộc.
Tùy hoàn cảnh tinh thần dân tộc được biểu hiện qua hành động một cách khác nhau. Thời bình, thúc đẩy chúng ta đóng góp phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, nghệ thuật, nâng cao dân trí. Thời chiến giúp đoàn kết cùng nhau đánh đuổi ngoại xâm.
Tinh thần nhân bản và tinh thần khai phóng giúp cho chúng ta cởi mở, cầu tiến, học hỏi điều hay cái đẹp của các dân tộc khác còn tinh thần dân tộc giúp chúng ta giữ gìn bản sắc của người Việt Nam.
Nền Cộng Hòa tại miền Nam tôn trọng các giá trị đặc thù, các truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, sắc tộc, địa phương và đất nước.
Đồng thời bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.
Mặt khác bảo đảm sự đoàn kết và trường tồn của dân tộc, sự phát triển điều hòa và toàn diện của quốc gia.
Kết
30-4-1975 nền Đệ Nhị Cộng Hòa đã đi vào lịch sử, nhưng bản sắc Việt Nam Cộng Hòa – nhân bản, khai phóng và dân tộc – vẫn được bảo tồn và truyền đạt đến các thế hệ Việt Nam ngày nay.
Một người, một nhóm, một dân tộc thiếu tư tưởng chủ đạo sẽ không biết đang làm gì, sẽ đi về đâu, đi cách nào và làm sao để đạt được mục tiêu tối thượng.
Tổng hợp triết lý nhân bản, khai phóng và dân tộc là tư tưởng chủ đạo hướng dẫn những người miền Nam, nhất là những người cộng hòa tiếp tục con đường tiếp tục đấu tranh cho tự do của người Việt từ Bắc xuống Nam.
Bản sắc Việt Nam Cộng Hòa ngày nay được nhiều người miền Bắc biết đến đặc biệt là giới trẻ những người đang tìm kiếm một con đường thay cho con đường cộng sản đang bị nhân loại đào thải.
Tư tưởng chủ đạo nhân bản, khai phóng và dân tộc đã thích hợp và thành công ở miền Nam Việt Nam, thì cũng sẽ thích hợp với cả hai miền Nam Bắc khi Việt Nam đã có được tự do.
Từ mấy tuần qua tin tức về tình hình tại Biển Đông xem ra dồn dập và nóng bỏng, lôi kéo sự chú ý của các phương tiện truyền thông quốc tế.
Hôm mùng 2 tháng 6 vừa qua nhật báo Shimbun của Nhật Bản có đăng bài bình luận bàn về tình hình Biển Đông, và đưa ra ra câu hỏi: liệu tổng thống Barack Obama có thực sự muốn cản ngăn hành động cướp biển phi pháp của nhà nước Bắc Kinh hay không, và nếu có thì tới mức độ nào. Trong các tháng qua toàn thế giới đều chứng kiến thái độ ngoan cố, lì lợm, vô liêm sỉ của Nhà nước cộng sản Trung Quốc, ngang nhiên ngồi xổm trên luật pháp quốc tế, và công khai ăn cướp biển đảo của các nước vùng Đông Nam Á. Nó cho thấy Nhà nước Bắc Kinh càng ngày càng cương quyết nhận vơ Biển Đông là của mình, và đặt chủ quyền trên Biển Đông, bằng cách gấp rút xây các căn cứ và sân bay quân sự trên các đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các đảo khác đã cướp được của Việt Nam, với sự đồng loã phản quốc bán nước của Nhà nước cộng sản Hà Nội. Với các hoạt động gấp rút ấy quân cướp Trung Cộng muốn đặt thế giới trước những sự kiện đã rồi. Nhưng việc xây 7 đảo nhân tạo trái phép ấy trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam đã gây ra làn sóng tranh luận trên chính trường Hoa Kỳ cũng như trong nội bộ quân đội nước này. Ngay từ năm ngoái Hải quân Mỹ đã kêu gọi chính quyền Washington nhanh chóng đưa máy bay và tầu chiến vào khu vực các đảo bị Bắc Kinh chiếm đoạt phi pháp.
Từ tháng 5 vừa qua quân đội Hoa Kỳ đã bắt đầu cho máy bay do thám và tàu chiến hiện đại thực hiện các vụ trinh sát, giữ gìn tự do hàng hải ở Biển Đông. Và trong các ngày từ 17 đến 21 tháng 5 vùa qua Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Thái Bình Dương đã tổ chức một cuộc diễn tập tác chiến đổ bộ tại Hawaii với sự tham dự quan sát của các giới chức quân đội cao cấp của 20 quốc gia. Ngày 27 tháng 5 Tân chỉ huy Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương, đô đốc Harry Harris gọi các yêu sách của Trung Quốc là “lố bịch”. Phát biểu trong buổi lễ nhận chức ngày 27 tháng 5 đô đốc Harris nói: “Hoa Kỳ sẽ tái lập thế cân bằng ở Thái Bình Dương. Lực luợng kết hợp của chúng tôi sẽ làm việc chặt chẽ với các đồng minh và bạn bè ở khu vực. Nếu được yêu cầu chúng tôi sẽ chiến đấu ngay buổi tối hôm nay để bảo vệ lợi ích của Hoa Kỳ tại khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Hiện diện và phát biểu trong buổi lễ ông Ashton Carter, Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ, nhắc lại lập trường của Mỹ là phản đối bất kỳ hành động quân sự nào của Trung Quốc trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Ông nói: trước tiên chúng tôi muốn giải quyết các tranh chấp trong hòa bình và yêu cầu Trung Quốc ngưng ngay việc cải tạo đất ở Biển Đông dựa trên các yêu sách của họ. Thứ hai, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục bay, di chuyển và khai triển hoạt động ở bất cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép, như đã từng làm trên toàn thế giới này. Cuối cùng, với các hành động của mình Trung Quốc đang đứng ngoài hai tiêu chuẩn quốc tế, đó là đe đọa an ninh khu vực Á châu Thái Bình Dương và vi phạm nguyên tắc “tiếp cận không cưỡng chế” mà các nước trong khu vực đang theo đuổi.”
Hoa Kỳ cũng tuyên bố rằng nếu Trung Cộng không dừng hoạt động xây đảo nhân tạo phi pháp, thì chính quyền Mỹ sẽ đưa tầu chiến vào khu vực 12 hải lý của các đảo đá, mà Trung Quốc chiếm đoạt trái phép.
Mới đây nhất ngày mùng 2 tháng 6 vừa qua trong buổi đón tiếp và trao đổi với các đại diện giới trẻ hoạt động xã hội Đông Nam Á thuộc tổ chức “Chương trình thân hữu các sáng kiến của giới trẻ lãnh đạo Đông Nam Á” tại tòa Bạch Ốc, tổng thống Barack Obama kêu gọi Nhà nước cộng sản Trung Quốc tôn trọng luật pháp quốc tế, và ngưng ngay các hành động “thúc cùi chỏ”, ăn hiếp các quốc gia láng giềng để bành trướng thế lực tại Biển Đông. Nếu Trung Quốc không từ bỏ kiểu hành động này, dùng sức mạnh của một nước lớn để tranh giành chủ quyền và dựa vào lực lượng hải quân thay vì pháp luật, thì nền kinh tế Á châu sẽ không còn thịnh vượng nữa.
Trước mắt, Hoa Kỳ đưa ra chiến lược “Cost Imposing” kết hợp các biện pháp ngoại giao, quân sự và tuyên truyền tạo dư luận quốc tế bằng cách liên tục công bố các hình ảnh Trung Quốc xây dựng các đảo nhân tạo trái phép ở Biền Đông để buộc Trung Quốc phải trả giá mắc mỏ cho các tham vọng của mình. Đồng thời chính quyền Whasington cũng thắt chặt các mối quan hệ với các đồng minh châu Á Thái Bình Dương và các nước Đông Nam Á, gia tăng năng lực phòng vệ biển đảo, và mong Lực lượng phòng vệ Nhật Bản tham gia nhiệm vụ tuần tra ở Biển Đông.
Dọc dài lịch sử suốt 70 năm của mình Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chỉ biết xung phong làm “quân tốt thí” cho Liên Xô và Trung Cộng, hết hy sinh xương máu của nhân dân, rồi lại ký kết các công hàm bán nước cho Trung Quốc. Năm 1975 tập đoàn cộng sản Hà Nội đã rước 10 sư đoàn tầu cộng vào Bắc Việt để dồn quân tiến chiếm miền Nam. Sau đó vơ vét tất cả nhũng gì có thể vơ vét được để trả nợ cho Bắc Kinh. Giờ đây, bốn mươi năm sau khi đặt ách thống trị độc tài sắt máu trên cả nước, và để vuột mất bao nhiêu dịp may thoát ách nô lệ, chẳng lẽ đảng cộng sản Viêt Nam cứ luôn mãi ngu đần cúi đầu làm “quân tốt thí” trên bàn cờ thế giới hay sao?
GNsP(04.06.2015) – Huế – Theo ghi nhận mới nhất của chúng tôi được biết, Tp Huế sẽ nâng lên thành Tp trực thuộc Trung Ương và tham vọng chiếm trọn đồi thông của Đan Viện Thiên An với diện tích gần 100 hécta là có khả năng xảy ra.
Sau khi nhà cầm quyền chiếm khu vực đồi thông và Hồ Thủy Tiên có diện tích 50 hécta để làm khu sinh thái thì bước tiếp theo sẽ là chiếm trọn những đồi thông còn lại bao bọc xung quanh Đan Viện Thiên An gồm Đồi Thánh Giá và Đồi Đức Mẹ.
Sáng ngày 4.6 chúng tôi ghé thăm Đan Viện Thiên An và được một thầy Dòng (xin dấu tên), kể cho chúng tôi biết những động thái gần đây của nhà cầm quyền Tp. Huế cho thấy họ đang có dự tính bán Đồi Đức Mẹ, diện tích khoảng 30 hécta, cho một công ty du lịch Đài Loan để xây dựng khu nhà biệt thự. Khu đất này hiện nay được coi là đáng giá nhất của Tp. Huế dùng để xây dựng những biệt thự nghỉ mát.
Tất cả diện tích đất của Đan Viện Thiên An trước đây là 107 hécta với đầy đủ giấy tờ chứng nhận nhưng hiện nay nhà Dòng chỉ còn khoảng 10 hécta. Riêng tại Đồi Đức Mẹ, nhà Dòng đã cho đặt tượng Đức Mẹ tại đây hàng mấy chục năm trước. Nhưng mới đây, trước âm mưu của nhà cầm quyền muốn chiếm khu đất này để bán lại cho công ty du lịch, buộc nhà Dòng phải dựng tạm một mái nhà với lý do che mưa nắng cho Mẹ nhưng thật sự muốn gióng lên những tiếng nói yếu ớt của mình để bảo vệ mảnh đất là di sản từ bao đời mà nhà Dòng đã cố công khai phá và xây dựng.
Mỗi Chúa Nhật hàng tuần, nhà Dòng cho cử hành thánh lễ tại đây như muốn khẳng định chủ quyền của mình. Trong khi đó nhà cầm quyền đến phá rối và lấy chứng cứ đây không phải là nơi thờ tự, và không được cấp giấy phép cử hành thờ tự tại khu vực này. Nhưng bất chấp những lời đe dọa từ nhà cầm quyền, Chúa Nhật vẫn có thánh lễ tại đây với số lượng tín hữu tham dự vào khoảng 30 người.
Ngoài việc dọa nạt tín hữu đến tham dự thánh lễ tại khu Đồi Đức Mẹ, nhà cầm quyền còn dựng nên những căn lều tạm với lý do phòng cháy chữa cháy nhưng thực chất là lấn chiếm dần dần khu đất của nhà Dòng.
Về đồi Thánh Giá, hàng chục năm trước, Nhà Dòng cũng đã đặt tượng thánh giá tại đây. Nhưng hiện nay ngay dưới chân tượng Thánh Giá, nhà cầm quyền đã chiếm một khu đất để xây dựng cơ quan nhà nước với lý do chuẩn bị cơ sở hạ tầng để Tp. Huế nâng lên thành Tp. trực thuộc Trung Ương.
Kế đến nhà nước đòi quyền làm lại con đường dẫn lên Đan Viện như một hành động muốn cưỡng chiếm những mảnh đất thuộc khu vực xung quanh. Khi Nhà Dòng nêu ý kiến muốn tự mình làm lại con đường này thì họ làm khó dễ bằng việc ngăn cấm những xe tải chở đá và máy móc chuyên dụng thi công. Hiện tại Nhà Dòng đang phải tự thi công bằng những công cụ hết sức thô sơ. Cha tân Bề Trên Quản Nhiệm [trước đây gọi là Đan viện Phụ] Antôn Nguyễn Văn Đức cũng đã gửi đơn khiếu nại việc làm bất chấp luật pháp của nhà cầm quyền Tp. Huế.
Với những động thái như trên, phải chăng Nhà Nước đang có âm mưu cưỡng chiếm những quả đồi thông còn lại bao quanh Đan Viện Thiên An?
Hoa Kỳ và Việt Nam đã mở ra một kỷ nguyên hợp tác mới giữa hai cựu thù, nhưng Việt Nam phải đứng một mình giữa gọng kìm Trung-Mỹ ở Biển Đông.
Đó là kết qủa sau chuyến thăm Việt Nam 3 ngày của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter từ 31/05 đến 02/06 (2015). Hai bên đã ghi dấu đậm nét trong "Tuyên bố tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng" và 3 cuộc họp của ông Carter với Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh; Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Nhà nước Trương Tấn Sang.
Các tin chính thức từ phiá Việt Nam cho biết:"Tuyên bố tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng để định hướng hợp tác song phương trên cơ sở Bản ghi nhớ về thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương được ký kết năm 2011."
Bản ghi nhớ Việt-Mỹ ký năm 2011 nhằm:" Tăng cường trao đổi đoàn các cấp, nhất là cấp cao, tham vấn chính sách quốc phòng song phương; tăng cường hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh; tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liện Hiệp Quốc; trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực tìm kiếm cứu nạn, khắc phục thiên tai, thảm họa; hợp tác trong lĩnh vực quân y, tham vấn lẫn nhau trên các diễn đàn đa phương, ADMM+ (ASEAN Defence Ministers Meeting-Plus); hợp tác an ninh biển." (báo Lao Động online 01/06/2015)
Bộ trưởng Phùng Quang Thanh khẳng định: "Cuộc hội đàm đã diễn ra trên tinh thần hữu nghị, cởi mở, thẳng thắn và hiểu biết lẫn nhau. Hai bên đã trao đổi về quan hệ quốc phòng song phương và nhận thấy sự phát triển tích cực và ổn định trong lĩnh vực này. Chúng tôi hoan nghênh Hoa Kỳ đã triển khai tương đối tích chương trình khắc phục hậu quả chiến tranh. Tuyên bố tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng lần này là nhằm tăng cường hữu nghị, hiểu biết, xây dựng lòng tin, làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước, vì lợi ích của nhân dân hai nước". (VOV, Voice of Vietnam, 01/06/015)
Về phiá Mỹ, Bộ trưởng Carter xác nhận : "Hai bên hợp tác để đảm bảo hòa bình và ổn định trong khu vực và xa hơn nữa. Mỹ cam kết ủng hộ một Việt Nam độc lập, vững mạnh, thịnh vượng, tôn trọng quyền con người và quy định luật pháp.
Ông nói trong cuộc họp báo chung với tướng Phùng Quang Thanh: "Chúng tôi đã trao đổi về đề xuất của Mỹ các bên tranh chấp dừng ngay việc bồi đắp tôn tạo các đảo. Bộ trưởng Thanh giải thích rất rõ ràng công việc của Việt Nam. Bộ trưởng có đề cập Bộ Quy tắc ứng xử Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc. Tôi cho đây là một diễn đàn đa quốc gia và Mỹ rất ủng hộ để giải quyết hòa bình các tranh chấp."
Bộ Quy tắc ứng xử, hay Code of Conduct (COC) do Hiệp hội các nước Đông Nam Á đề xướng với Trung Quốc từ năm 2012 nhằm "luật pháp hoá" hoạt động của các bên ở Biển Đông, nhưng Trung Quốc đã tìm mọi cách để từ chối ký kết. Bắc Kinh cho rằng họ chỉ nói chuyện song phương với các nước có tranh chấp với Trung Quốc, trong khi khối ASEAN thì không.
Chẳng những thế, Trung Quốc đã tự động tân tạo nhiều vùng đảo và dẫy san hô ở Biển Đông mà cả Phi Luật Tân và Việt Nam cùng tuyên bố chủ quyền.
Tuy nhiên Việt Nam là bên bị thiệt thòi và bị Trung Quốc đe dọa an ninh nhiều nhất, sau khi Bắc Kinh đánh chiếm 7 đảo và bãi đá của Việt Nam trong quần đảo Trường Sa năm 1988 (cũng có tin nói 8 vị trí).
Tại diễn đàn an ninh khu vực Shangri-La (Tân Gia Ba) ngày 30/5 (2015), ông Carter tố cáo Trung Quốc đã chiếm 2,000 mẫu ở Biển Đông chỉ trong vòng 18 tháng. Ông cáo giác Trung Quốc đã "vuợt ra ngoài luật pháp quốc tế" khi hành động như vậy.
Tại Hà Nội hôm 1/6, Bộ trường Carter nhắc lại: " Như tôi đã nói một tuần trươc ở Honolulu và hôm qua ở Shangri-La, Mỹ phản đối việc sử dụng vũ lực làm gia tăng căng thẳng và quân sự hóa các tranh chấp trong khu vực.
Mỹ không có tranh chấp lãnh thổ trong khu vực, nhưng chúng tôi có quan tâm và lợi ích trong khu vực, liên quan đến tự do hàng không và hàng hải, tự do thương mại. Không có hành động nào của bất kỳ quốc gia tranh chấp nào có thể làm thay đổi quan điểm của Hoa Kỳ."
Ông cũng nói thẳng cho Trung Quốc biết: "Đừng bao giờ nghĩ sai. Chúng tôi sẽ tiếp tục bay, rẽ sóng và tuần tiễu ở bất kỳ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép như Quân đội Mỹ vẫn làm khắp nơi trên thế giới."
("There should be no mistake," Carter said. "The United States will fly, sail and operate wherever international law allows, as U.S. forces do all over the world." (trích diễn văn tại Shangri-La)
Ông cũng kêu gọi tất cả các bên "dừng ngay và vĩnh viễn mọi việc liên quan đến bồi đắp và cải tạo đất".
"Quan tâm của chúng tôi làm sao khu vực hòa bình và ổn định, bảo đảm tự do hàng hải và hàng không, tự do thương mại, để các quốc gia trong khu vực kể cả Hoa Kỳ có điều kiện phát triển."
Phiá Việt Nam, qua lời tướng Phùng Quang Thanh, cũng xác nhận : "Việt Nam đang đóng quân trên 9 đảo nổi, 12 đảo chìm. Với các đảo nổi chúng tôi kè xung quanh để không bị xói lở, đảm bảo cho người dân và lực lượng đóng quân trên đảo có cuộc sống an toàn. Với các đảo chìm chúng tôi chỉ xây nhà rất nhỏ, ở được ít người và không mở rộng ra. Tính chất và quy mộ của chúng tôi hoàn toàn vì mục đích dân sự."
Ông Thanh hàm ý không mở mang rộng hay "quân sự hoá" như Trung Quốc đang làm, sau khi Thượng nghị sỹ John MacCain, Chủ tịch Ủy ban Quân sự Thương viện Mỹ tố cáo Trung Quốc đã đem súng Trọng pháo vào một trong những đảo tân tạo.
Có tin nói các ổ đại pháo này đang có mặt ở đảo Gạc Ma, mới được tái tạo rộng gần 14 mẫu. Tại tất cả các vùng do Trung Quốc tân tạo đều có dinh thự phòng thủ, dàn radar, đường bay và bến cảng.
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM
Đối với Trung Quốc thì dù bị tấn công tại Hội nghị Shangri-La, Trưởng đòan, Đô đốc Tôn Kiến Quốc, phó Tổng tham mưu trưởng quân đội vẫn làm như không quan tâm, và nói rằng: "Tình hình Biển Đông nhìn chung vẫn hòa bình và ổn định, và không bao giờ có vấn đề về tự do hàng hải".
Họ Tôn coi vùng Biển Đông như sân nhà của Trung Quốc nên tiếp tục khẳng định:"Trung Quốc đã tiến hành xây dựng trên một số đảo và rạn san hô trên Biển Đông chủ yếu vì mục đích cải tạo chức năng của các đảo và rạn san hô này, cũng như điều kiện làm việc và sống của những người ở đó... Ngoài việc đáp ứng các nhu cầu quốc phòng cần thiết, việc này sẽ giúp thực hiện tốt hơn các trách nhiệm và nghĩa vụ quốc tế của Trung Quốc liên quan đến việc tìm kiếm và cứu hộ trên biển, ngăn ngừa và cứu trợ thảm họa, nghiên cứu khoa học, quan sát thời tiết, bảo vệ môi trường, an toàn hàng hải, nghề cá và các dịch vụ khác."
Tại cuộc họp báo thường kỳ ngày 3/6 (2015), Tân Hoa Xã (Xinhua) trích lời người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh phê phán những chỉ trích về tình hình Biển Đông: "Trung Quốc phản đối tiến hành giải thích tuỳ tiện luật pháp quốc tế."
Xinhua viết: "Bà tái khẳng định, hoaṭ động liên quan của Trung Quốc là hợp pháp, hợp tình và hợp lý, Trung Quốc là người bảo vệ và xây dựng luật pháp quốc tế và quy tắc quốc tế. Trung Quốc không làm những viện vi phạm luật pháp quốc tế, hại người lợi mình, nhưng kiên định bảo vệ chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển quốc gia theo pháp luật."
Như vậy thì Trưởng đòan Việt Nam tại Shangri-La, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đã nói gì ?
Ông Vịnh nói với Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN, 30-05-015): "Tại Đối thoại Shangri-La lần này, tôi đi thay Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh bận việc ở trong nước nên đoàn Việt Nam không có phát biểu tại Đối thoại.
Tuy nhiên, việc đầu tiên đoàn làm được khi đến đây là lắng nghe một cách hết sức có trách nhiệm tiếng nói của tất cả các quốc gia có liên quan về nhiều vấn đề. Bên cạnh đó, đoàn cũng có các cuộc tiếp xúc song phương bên lề nhằm trao đổi ý kiến xung quanh các vấn đề đang nổi lên, như vấn đề xây dựng phát triển, vấn đề chiến lược và can dự của các nước lớn hay vấn đề Biển Đông. Trong các cuộc tiếp xúc, chúng tôi được lắng nghe những ý kiến xung quanh những vấn đề như vậy để chúng ta nắm được xu thế chung đối với khu vực của chúng ta, đồng thời chúng ta cũng bày tỏ quan điểm chính thống của Đảng và Nhà nước xung quanh những vấn đề mà thế giới và khu vực đang quan tâm. Trong các cuộc tiếp xúc thì đầu tiên là chúng ta tập trung thúc đẩy hợp tác song phương, bàn những biện pháp cụ thể để tăng cường hợp tác với các quốc gia."
Đây là một thái độ rất khác thường của phiá Việt Nam, nước bị Trung Quốc chèn ép và lấn đất, dành biển nhiều nhất ở Biển Đông mà lại không công khai phát biểu lập trường bảo vệ lãnh thổ của mình thì ai muốn giúp ?
Nhưng đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ dám đi nước cờ "hậu trường" để hy vọng Trung Quốc sẽ nương tay.
Tướng Vịnh tiết lộ việc họp với Phái đòan Trung Quốc như thế này: "Có thể ví dụ một số cuộc tiếp xúc song phương có kết quả rất tốt, như với Trung Quốc. Tại cuộc gặp với đoàn Trung Quốc, hai bên đã bàn những giải pháp cụ thể để thực hiện những cam kết của hai bộ trưởng quốc phòng đã thống nhất trong giao lưu quốc phòng vừa qua. Bên cạnh đó, hai bên cũng thống nhất những nội dung như nghiên cứu chiến lược chung, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình và trong một số nội dung khác hai bên cũng đạt được sự thống nhất. Chúng tôi cũng đã bàn về việc chuẩn bị để tháng 9 tới, Việt Nam và Trung Quốc tổ chức đối thoại chiến lược quốc phòng cấp thứ trưởng tại Hà Nội, làm thế nào để những cuộc đối thoại chiến lược này đóng góp thực chất vào việc tăng cường mối quan hệ hai nước, song đồng thời cũng để giải quyết những vấn đề còn vướng mắc, đặc biệt là những vấn đề trên biển."
Nói riêng về tranh chấp Biển Đông, tướng Vịnh xác nhận: "Về vấn đề Biển Đông, đoàn Việt Nam đã đề cập một cách thẳng thắn, trung thực, trên tinh thần xây dựng với đoàn Trung Quốc về những quan ngại của chúng ta liên quan đến vấn đề Biển Đông. Và chúng tôi cũng đưa ra những đề xuất mang tính chất xây dựng, trên cơ sở mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc để làm sao quân đội không làm tình hình căng thẳng hơn. Ngược lại, quân đội hai nước phải tham mưu cho Đảng và Nhà nước hai bên để xoa dịu tình hình, trước hết là không để xảy ra căng thẳng, và tuyệt đối không để xảy ra xung đột. Sau đó, hai bên từng bước tìm ra giải pháp để hợp tác trên những khu vực đã được phân định mà hai bên đã thống nhất, như là tuần tra chung, hợp tác cảnh sát biển, tổ chức tìm kiếm cứu nạn..."
Những điều ông Vịnh nói không có gì mới mà chỉ lập lại đường đi lối bước "nhũn như con chi chi" của phiá Việt Nam đối với hành động bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc. Nhưng, như đã chứng minh ở Biển Đông, mặc cho Việt Nam năn nỉ ỉ ôi, Trung Quốc vẫn lấn chiếm ngày một thô bạo và mau chóng khiến cho biển đảo Việt Nam rơi vào tay Trung Quốc mỗi ngày một nhanh, bất chấp những cam kết đã ký với Việt Nam từ trước.
Vậy mà ông Vịnh vẫn khiếm tốn nói với Tôn Kiến Quốc tại Shangri-La: "Chúng tôi cũng trao đổi với phía Trung Quốc rằng vấn đề Biển Đông cần phải được giải quyết tuân thủ theo luật pháp quốc tế và mỗi bên cần phải tự kiểm soát hành vi của mình, đừng để hành vi của mình phải buộc phía bên kia lên tiếng. Điều này là rất không hay đối với hai nước láng giềng vốn có truyền thống tốt đẹp Việt Nam và Trung Quốc, thì chúng ta cũng không nên để việc như vậy xảy ra. Chúng tôi đã trao đổi vấn đề như vậy với đoàn Trung Quốc và họ cũng ghi nhận một cách tích cực. Chúng tôi tin rằng, những thông tin đó sẽ được báo cáo lên lãnh đạo Quân ủy Trung ương Trung Quốc."
Người đứng đầu Quân ủy Trung ương Trung Quốc không ai khác hơn là Tập Cận Bình, Chủ tịch, Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Hoa. Họ Tập từng nghiêm chỉnh lập lại quan điểm nhất qúan của Lãnh tụ Đặng Tiều Bình đối với Biển Đông rằng "biển của ta, hãy gác tranh chấp cùng khái thác".
Ông Tập Cận Bình cũng chỉ thị cho Quân đội phải "bảo vệ quyền lợi biển" là cốt lõi của Trung Quốc.
Như vậy đã rõ chưa mà ông Vịnh và lãnh đạo CSVN cứ tiếp tục ngây ngô vuốt râu cọp ?
CARTER-TRỌNG-SANG
Nhưng đối với hai ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thì họ đã nhìn vấn đề Biển Đông như thế nào rong cuộc tiếp Bộ trưởng Ashton Carter ngày 01/06/2015 ?
Theo tin chính thức của phiá Việt Nam thì không thấy nói đến tuyên bố của ông Trọng liên quan đến Biển Đông trong cuộc họp với ông Carter.
Tin từ TTXVN cho biết ông Carter nhìn nhận: " Hợp tác giữa hai nước đã đạt được nhiều tiến triển tích cực, kể cả trong lĩnh vực an ninh-quốc phòng; khẳng định Hoa Kỳ coi trọng và mong muốn tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác nhiều mặt với Việt Nam. Bộ trưởng tán thành sự cần thiết tăng cường trao đổi đoàn cấp cao giữa hai nước, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng và ý nghĩa lịch sử của chuyến thăm Hoa Kỳ sắp tới của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Liên quan đến vấn đề an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không trong khu vực và những diễn biến gần đây ở Biển Đông, Bộ trưởng Quốc phòng Ca-tơ thông báo cho Tổng Bí thư kết quả tham dự Diễn đàn Shang-ri La tại Xinh-ga-po vừa qua và tái khẳng định quan điểm ủng hộ việc giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp ngoại giao và trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế."
Về phần mình, ông Trọng đã :"Khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam coi trọng thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, vì lợi ích lâu dài của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định, phát triển trong khu vực và trên thế giới. Tổng Bí thư ghi nhận sự hợp tác của Chính quyền, Quốc hội và nhiều tổ chức, cá nhân Hoa Kỳ nói chung trong việc tham gia giải quyết hậu quả chiến tranh; đồng thời cũng hoan nghênh sự hợp tác của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ với Bộ Quốc phòng Việt Nam, trong đó có việc rà phá bom mìn, tẩy độc môi trường, hỗ trợ nhân đạo và tìm kiếm quân nhân mất tích. Tổng Bí thư nhấn mạnh sự cần thiết phía Hoa Kỳ nỗ lực hơn nữa trong lĩnh vực này nhằm tăng cường lòng tin và sự hiểu biết lẫn nhau, tạo cơ sở cho sự phát triển của quan hệ song phương, trong đó có lĩnh vực quốc phòng."
Tuy nhiên, trong cuộc hội đàm với ông Trường Tấn Sang thì vấn đề Biển Đông đã được ông Sang nêu lên.
Tin TTXVN viết ông Sang đã : " Đề nghị Hoa Kỳ tiếp tục có sự hỗ trợ cần thiết cho Việt Nam trong quá trình tăng cường năng lực của các lực lượng thực thi pháp luật trên biển. Chủ tịch nước cho rằng hai bên cần tăng cường trao đổi thông tin trên các kênh thích hợp về các vấn đề quan tâm.
"Trao đổi về vấn đề Biển Đông, Chủ tịch nước nhấn mạnh qua theo dõi tình hình, dư luận khu vực và thế giới đều thấy rằng Biển Đông là một trong những vấn đề đang ngày càng trở nên nóng bỏng. Việt Nam luôn theo đuổi chính sách xây dựng đất nước phồn thịnh, độc lập, tự chủ, mong muốn hợp tác với tất cả các nước trên cơ sở đoàn kết và hữu nghị, đây là lập trường nhất quán của Việt Nam. Các tranh chấp trên biển Đông cần được giải quyết trên cơ sở đối thoại hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước về luật biển 1982 của LHQ, nghiêm túc thực hiện DOC và sớm đi đến COC.
Bản tin viết tiếp lời ông Sang nói với ông Carter: "Chủ tịch nước nhấn mạnh, trên diễn đàn quốc tế, chúng ta nghe nhiều đến khái niệm tự kiềm chế, không làm phức tạp tình hình và Việt Nam là quốc gia nghiêm chỉnh thực hiện điều đó. Thái độ của Việt Nam là rõ ràng, phản đối mạnh mẽ các hành động làm thay đổi nguyên trạng, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, đó là chưa kể việc có một số người tuyên bố việc thay đổi hiện trạng, tôn tạo đảo có thể sử dụng cho mục đích quân sự. Chủ tịch nước khẳng định, sự phi lý của đường đứt khúc 9 đoạn đang làm phức tạp thêm tình hình, Việt Nam hoan nghênh tất cả các nước ủng hộ lập trường của Việt Nam và ASEAN trong việc giải quyết những tranh chấp mới nảy sinh trên biển Đông."
Ông Sang không nói tên Trung Quốc, nhưng rõ ràng ông đã chỉ trích hành động và chủ trương của Bắc Kinh muốn kiểm soát gần tòan bộ diện tích trên 3 triệu cây số vuông Biển Đông mà họ đã tự vẽ trong hình Lưỡi Bò, hay còn được gọi là đường 9 đọan.
Ông Sang cũng đề nghị với ông Carter rằng: " Hai bên cần có những việc làm cụ thể thiết thực như kết thúc TPP, bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam."
TPP, hay Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement (Hiệp ước Đối tác kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương) bao gồm 12 quốc gia
gồm Brunei, Chile (Chí Lợi), New Zealand (Tân Tây Lan), Singapore (Tân Gia Ba), United States (Hoa Kỳ), Australia (Úc Đại Lợi), Peru, Việt Nam, Malaysia (Mã Lai Á), Mexico, Canda (Gia Nã Đại) và Japan (Nhật Bản).
Khối kinh tế này đang có những cuộc thương thuyết vào giai đọan chót và hy vọng kết thúc trong năm nay (2015) sẽ là một địch thủ có khả năng thách thức đối với kế họach bành trướng ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc ở Á Châu và Thái Bình Dương.
Bộ trưởng Carter thì nói với ông Sang rằng hợp tác giữa hai nước trong thời gian qua: " Là những tín hiệu tích cực và thể hiện quyết tâm của Hoa Kỳ nhằm tăng cường hợp tác hai nước. Việt Nam và Hoa Kỳ có quan điểm khá tương đồng liên quan đến hòa bình, an ninh, an toàn hàng hải trên biển Đông, và mong muốn rằng hai bên tiếp tục hợp tác chặt chẽ về vấn đề này."
Trong chuyến thăm Việt Nam, ông Carter đã công bố cung cấp 18 triệu dollars cho Cảnh sát biển Việt Nam mua tàu tuần tra cao tốc Metal Shark của Mỹ. Và Mỹ cũng giúp Việt Nam xây dựng trung tâm huấn luyện gìn giữ hòa bình cho quân đội Việt Nam.
Bộ Quốc phòng Mỹ cũng sẽ sớm cử chuyên gia gìn giữ hòa bình công tác thường trực tại tòa Đại sứ Mỹ để phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng Việt Nam trong công tác huấn luyện quân đội Việt Nam tham gia các phái bộ của Liên Hiệp Quốc.
Tuy nhiên, những việc làm này của Mỹ hay việc Hoas Kỳ sẽ bán vũ khí sát thương phòng thủ cho Việt Nam sau này không có nghĩa là Lãnh đạo đảng CSVN sẽ tìm đường thoát khỏi bao vây của Bắc Kinh.
Bởi vì Việt Nam vẫn còn khăng khăng bảo vệ lập trường quốc phòng 3 không gồm: "Không tham gia các liên minh quân sự và không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào; không cho nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam; không dựa vào nước nào để chống nước khác".
Chủ trương này có vẻ là khôn ngoan đấy, nhưng Việt Nam sẽ phải đứng một mình giữa ngã 3 đường ở Biển Đông, hay giữa gọng kìm Trung-Mỹ để nhìn biển đảo Việt Nam mất dần vào tay Bắc Kinh thay vì có thể lấy lại những gì đã mất. -/-
Viết bởi Bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 220 (01-06-2015)
GNsP(02.06.2015) – Thừa Thiên Huế – Người ta còn nhớ việc làm đầu tiên của ông Nguyễn Tấn Dũng khi vừa mới nhậm chức lãnh đạo chính phủ là giải tán ngay “Ban Nghiên cứu của Thủ tướng”, nơi hội tụ những chuyên gia, những trí tuệ thông thái hàng đầu của đất nước được hai vị tiền nhiệm là Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải thành lập tin dùng. Thay vào đó, với não trạng của một ủy viên đảng ủy công an (CA) trung ương, Nguyễn Tấn Dũng đã mời một tay CA có nhiều thành tích đàn áp dân chủ nhân quyền làm tư vấn, làm đặc phái viên bên cạnh: trung tướng Nguyễn Văn Hưởng! Rồi suốt hai nhiệm kỳ của ông, công luận đều nhận thấy bộ máy nhà nước ngày càng bị CA hóa sâu rộng.
Rất nhiều quan chức CA cấp cao đã trở thành bí thư, chủ tịch tỉnh, cán bộ cao cấp của lắm bộ ngành. Chẳng hạn ông Trương Hòa Bình, chánh án Tòa án nhân dân tối cao, từng là một trung tướng CA. Ông Nguyễn Hòa Bình, nguyên thiếu tướng CA, nay được bổ nhiệm làm viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân. Trung tướng CA Phạm Dũng hiện là trưởng ban Tôn giáo chính phủ. Cấp huyện cũng thế. Bên trong bộ máy nhà nước, bộ máy đảng của nhiều địa phương, tỷ lệ quan chức nguyên là CA cũng đáng kể. Riêng lực lượng CA thuần túy và hàng tướng tá CA thì ngày càng hùng hậu!
Tại sao có tình trạng CA hóa nhà nước và xã hội như thế? Có nhiều nguyên nhân. Trước hết, đó là bản chất của chế độ CS: phải luôn cai trị nhân dân bằng bạo lực! Tiếp đến, trong hoàn cảnh VN, đó là từ kinh tế đến tài chánh, văn hóa đến giáo dục, an ninh đến môi trường ngày càng đi xuống. Trái lại cảnh nghèo khổ, nỗi bất mãn của dân chúng và sự hỗn loạn, mức tội ác trong xã hội ngày càng đi lên. Cộng thêm vào đó, nhờ các phương tiện truyền thông đại chúng ngày càng phát triển, sự hiểu biết của người dân về tình hình đất nước xã hội và về bộ mặt chủ nghĩa chế độ ngày càng gia tăng, khiến sức phản kháng và chí đấu tranh của mọi tầng lớp đồng bào ngày càng bừng dậy. Thành thử nhà nước độc tài ngày càng thấy phải trấn áp nhân dân bằng công cụ bạo lực.
Công cụ đó chính cái là lực lượng được họ giữ chặt trong tay bằng lời thề cưỡng ép: “trung thành tuyệt đối với đảng CS”, bằng danh hiệu tâng bốc: “thanh gươm lá chắn của đảng”, bằng khẩu hiệu gây mụ mị: “chỉ biết còn đảng thì còn mình”. Dĩ nhiên, ai cũng thấy những cái đó nói lên thái độ vô ơn trắng trợn đối với toàn dân là tập thể sản sinh CA từ lòng mình và nuôi dưỡng CA từ tiền mình, thái độ phỉ báng tàn tệ đối với chức năng và danh dự của CA là chỉ phải biết lấy Tổ quốc và Nhân dân làm đối tượng phục vụ. Những cái đó ngoài ra còn giết chết lương tri và lương tâm của những con người đang làm một nghề cao quý tự bản chất lẫn cần thiết cho xã hội, mở đường cho bao thái độ kiêu căng hống hách, ứng xử vô luật (sử dụng côn đồ), hành động ám muội (giả dạng côn đồ), nghĩa là tàn bạo đối với nhân dân.
Thái độ vô cảm và ác độc như thế mà hiện đầy dẫy mới đây đã được một cựu học viên cảnh sát tiết lộ đến lạnh người trong bài “Vì sao CA vô cảm?”: “Chắc hẳn không ít người vẫn còn nhớ vụ học viên Học viện Cảnh sát Nhân dân đăng tải loạt album treo cổ chó vào năm 2011. Đó là một phần của chương trình đào tạo… Đầu tiên, tôi xin trình bày về nội dung của bài thực hành ‘Quan sát & khám nghiệm hiện trường’. Mục đích của bài, đúng như tên gọi, nhằm đào tạo cho các sĩ quan tương lai có những kinh nghiệm đầu tiên về việc quan sát tử thi, biểu hiện của tử thi qua nhiều kiểu chết khác nhau. Điểm đáng chú ý của bài học là các học viên không thực hành với những xác chết thật mà thay vào đó là những con chó còn sống. Khi tham gia bài học này, họ phải tự tay giết chết vật mẫu là các chú chó vô tội… Trong quá trình thực hành, học viên phải trải nghiệm mọi phương pháp giết người bằng cách trực tiếp hành hình những con chó, còn trong tâm trí phải tưởng tượng đó là người. Đây là lệnh! Ngoài mục đích chính trên thì thông qua bài học, học viên còn đạt được kỹ năng tra khảo tội phạm mà không phải chùn tay. Giờ thì các bạn hiểu lý do vì sao có những cái chết bất thường khi nghi phạm bị hỏi cung rồi chứ? Vì trong tâm trí những chiến sĩ CA, mạng người không khác mạng chó!”.
Nhìn lại những gì công cụ bạo lực này (gồm công an, cảnh sát, dân phòng, gọi tắt là CA) gây ra cho nhân dân đất nước gần cả thập niên qua, chúng ta thấy có những nét nổi bật như sau:
1- Tàn phá văn hóa đạo đức Dân tộc:
Đó là phá đám tang của các đảng viên phản tỉnh như Trần Độ, Lê Hiếu Đằng, Trần Lâm…, thậm chí đám tang dân thường như bà Hồ Nhu thuộc giáo xứ Cồn Dầu năm 2010. CA cũng nhiều lần đốt phá nhà chứa đồ tang lễ của Đồng bào H’Mông tại Cao Bằng (tháng 3-2013, 10-2014, 2-2015). Đạo lý truyền thống “nghĩa tử là nghĩa tận” lần đầu tiên trong lịch sử Dân tộc, đã bị lực lượng này ngang nhiên chà đạp. Chưa hết, CA còn nhiều lần xâm phạm lễ tưởng niệm các liệt sĩ chống Trung Quốc bằng cách tự mình hay dùng tay sai cản phá buổi lễ, chửi bới hành hung những người đi tưởng niệm.
2- Đàn áp nhân dân đòi quyền sống:
Các cuộc biểu tình đòi đất của dân oan từ bắc chí nam như Văn Giang, Bắc Giang, Dương Nội, Tiên Lãng, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Thủ Thiêm, Thủ Đức, Long An… đã mau chóng bị dẹp tan trong máu và nước mắt, trong đánh đập và bỏ tù nhờ bàn tay của những CA lạnh lùng, mù quáng tuân theo lệnh trên hay mờ mắt vì món tiền thưởng. Những thiện nguyện viên cứu giúp họ như hai ông Hà Thanh và Tiến Sơn cũng bị hành hung (03-2015). Cuộc xuống đường của dân Bình Thuận tháng 4-2015 phản đối nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân gây ô nhiễm đã bị cảnh sát cơ động đối phó bằng dùi cui, súng chỉ thiên và lựu đạn cay. Những ai hỗ trợ công nhân đình công đòi quyền lợi cũng bị giam cầm, xử án, bỏ tù. Người dân Hà Nội biểu tình bảo vệ cây xanh hoặc bị đưa về đồn tra hỏi (04-2015), hoặc bị CA giả dạng côn đồ hành hung thô bạo như Trịnh Anh Tuấn, Nguyễn Chí Tuyến. Thậm chí người dân xuống đường chống quân xâm lăng, đòi quyền sống cho dân tộc, CA cũng chẳng để yên; các lớp dạy sinh ngữ miễn phí tự nguyện cũng bị đặt vấn đề rồi dẹp bỏ.
3- Tra tấn, giết chết người bị tạm giam:
Từ thập niên nay, đồn CA đã trở nên nỗi khiếp đảm cho dân lành. Theo báo cáo của Quốc hội (04-2015), trong 3 năm qua, đã có hơn 260 người chết đang khi bị tạm giữ. Phần lớn họ bị bắt vào đồn vì những vi phạm nhỏ nhặt, nhưng rồi đã bị tra khảo đến chết để lấy khẩu cung. Điều đáng nói là hầu hết đều bị vu khống tự tử nhưng hiếm có CA nào bị xử lý đúng pháp luật.
4- Bạo hành với ai hoạt động nhân quyền:
Trước hết, đó là cấm hành nghề hoặc áp lực đuổi khỏi nghề những luật sư bênh vực nhân quyền như Lê Trần Luật, Võ An Đôn… Thứ đến, gây rối cuộc sống của những ai hoạt động nhân quyền, có khi không cho họ xuất cảnh. Tiếp nữa, khóa cổng chặn đường những công dân muốn tham dự các cuộc hội họp về nhân quyền thậm chí do chính khách ngoại quốc tổ chức; bao vây, cướp giật đồ đạc của những ai đến tham dự các phiên tòa chính trị (vụ Lấp Vò 8-2014), chặn đường hành hung bạn hữu các tù nhân lương tâm như ông Phạm Văn Trội (01-2014), ông Trần Anh Kim (01-2015). Ngang nhiên và tàn bạo hơn nữa là truy sát, đánh trộm đến trọng thương như các ông Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Bắc Truyển, Trương Minh Đức, Trương Văn Dũng, Nguyễn Văn Thạnh, các bà Trần Thị Nga, Nguyễn Hoàng Vi, gia đình ông Huỳnh Ngọc Tuấn…. Chưa hết, còn phục kích để bắt giam vô cớ rồi xử án vô luật như đối với bà Bùi Minh Hằng, anh Phạm Minh Vũ và bạn đồng hành của họ.
Các nhà hoạt động cho quyền tôn giáo cũng bị CA và côn đồ chặn đường gây sự như Hội đồng Liên tôn VN, nhiều chức sắc và tín đồ Công giáo, Tin lành, Phật giáo, Cao đài, Hòa Hảo. Đặc biệt, các cộng đoàn Tin lành Mennonite hay các Hội thánh Tin lành tại gia thường xuyên là nạn nhân thói bạo hành của họ. Những nhà báo tố cáo CA tham nhũng hối lộ, mua quan bán chức… rốt cục đã phải nếm cảnh lao tù như phóng viên Hoàng Khương, chủ bút Kim Quốc Hoa.
5- Hành hạ các tù nhân lương tâm:
Bắt đầu thẩm vấn dạng tù nhân này, CA thường dùng biện pháp hèn hạ là lường gạt, tra tấn thể xác và bức bách tinh thần để họ phải nhận tội. Hai trường hợp bức cung nổi tiếng nhất là buộc Nguyễn Văn Chưởng và Hồ Duy Hải vào tội giết người để nay bị tuyên án tử. Mới đây, nhiều tướng tá CA tại Quốc hội còn chống cả quyền im lặng của bị cáo. Một khi họ đã thụ án, CA tiếp tục cưỡng buộc nhận tội những tù nhân bất khuất, bằng nhiều biện pháp tàn độc bẩn thỉu như bỏ đói (Đặng Xuân Diệu), nhờ tù nhân hình sự đánh đập (Hồ Thị Bích Khương), biệt giam kỷ luật (Nguyễn Đặng Minh Mẫn), cắt thăm nuôi (Đinh Nguyên Kha), không chăm sóc y tế đầy đủ (Nguyễn Xuân Nghĩa), đày đi thật xa gia đình (Mai Thị Dung, Tạ Phong Tần). Đặc biệt là đầu độc cho chết trong tù (như Huỳnh Anh Trí, Đinh Đăng Định). Công an trại tù còn bóc lột tù nhân (chính trị lẫn hình sự) bằng cách bán hàng với giá cắt cổ, đòi hối lộ để cho chút thoải mái hay giảm án tù, nhất là cưỡng bức lao động khổ sai đến kiệt lực. Thành viên các trại cai nghiện, “trung tâm giáo dục” và “trường phục hồi nhân phẩm” cũng không thoát khỏi số phận bi thảm đó. Chính quốc tế từng lên án chuyện này.
Kết luận:
Sự gia tăng con số khổng lồ của CA –đặc biệt sự gia tăng nhanh chóng số tướng CA trong thời bình và sự phân bổ các tướng lãnh này vào nhiều bộ ngành và địa phương- đã tạo một áp lực thường xuyên và khủng khiếp lên bộ máy nhà nước, lên cuộc sống nhân dân, khiến chẳng mấy ai có thể làm việc theo lương tâm và trong an bình để đóng góp xây dựng xã hội. Sự gia tăng lối hành xử bạo lực của CA đối với những người đòi công lý hay đòi dân chủ, tiên thiên coi họ như kẻ thù đã làm suy giảm nguyên khí quốc gia, gây chán nản cho các công dân thiện chí, chẳng thể nào làm Đất nước phát triển. Tụt hậu toàn diện của đất nước, thất bại mọi mặt của các chính sách, sai lầm đủ thứ của nhà cầm quyền, tội ác tràn lan trong dân chúng và bất ổn triền miên trong xã hội, ngành CA và những ai đang điều khiển nó gánh trách nhiệm không phải nhỏ. Họ tưởng bạo lực và dối trá có thể bình định được lòng dân đang phẫn uất và củng cố được chế độ đang suy tàn sao? Họ có bao giờ nghĩ đến hình phạt mà nhân dân, lịch sử và kể cả các Đấng linh thiêng sẽ dành cho những kẻ đã lợi dụng quyền lực để gây tội ác?
Bài xã luận – BAN BIÊN TẬP – Bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 220 (01-06-2015)
Dà Lạt - Chiều 31.5, một trận mưa lớn kéo dài gần 2 giờ đồng hồ tại TP.Đà Lạt (Lâm Đồng) làm ngập hàng chục nhà dân tại đường Ngô Văn Sở, Hồ Xuân Hương, Vòng Lâm Viên (phường 9, TP. Đà Lạt). Một linh mục đã trượt chân và bị nước cuốn.
Nước suối chảy xiết kéo theo rác thải nông nghiệp chắn ngang cầu Ngô Văn Sở (cạnh Nhà thờ Chi lăng), khiến giao thông trên đường này bị ngưng trệ thời gian dài.
Nước lũ dâng lên làm ngập hàng chục nhà dân dọc 2 bên đường Ngô Văn Sở, có nhà bị ngập 60cm.
Sau khi trận mưa vừa dứt, Linh mục Trần Văn Định (68 tuổi, quản xứ Chi Lăng), cùng một số giáo dân ra cầu Ngô Văn Sở dọn dẹp rác để khơi thông nguồn chảy. Khi đang khơi rác, chẳng may Linh mục Định trượt chân và bị lũ cuốn trôi xuống hồ Mê Linh cách xa hơn 100m. Mặc dù được người dân kịp cứu vào bờ và đưa đi cấp cứu, nhưng nạn nhân đã tử vong tại Bệnh viện Đa Khoa Lâm Đồng.
GNsP(01.06.2015) – Sài Gòn – Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng điều trần vận động cho tự do Tôn giáo Việt Nam tại đại sảnh trung tâm Quốc hội Canada (Central Block).
Vào lúc 13:00 ngày 28 tháng 5 năm 2015, Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng là thành viên của Hội đồng Liên tôn Việt Nam đã có buổi điều trần trước Tiểu ban Quốc tế Nhân quyền, thuộc Ủy ban Thường trực về Đối ngoại và Phát triển Quốc tế, Quốc hội Canada.
Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng là nhân chứng đại diện Hội đồng Liên tôn Việt Nam điều trần về sự bách hại, đàn áp Tôn giáo của các cấp chính quyền tại Việt Nam đối với 5 Tôn giáo lớn là: Cao Đài, Công Giáo, Phật Giáo Hòa Hảo Thuần túy, Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và Tin Lành.
Ngoài ra Mục sư Nguyễn Mạnh hùng cũng trình bày quan điểm lập trường của Hội đồng Liên tôn Việt Nam là bác bỏ các văn bản pháp luật nhằm ngăn cản, tước bỏ quyền tự do tín ngưỡng đối với các nhóm Giáo hội không được nhà nước công nhận hợp pháp. Đặc biệt là Dự luật Tín ngưỡng Tôn giáo sắp ban hành tới đây nhằm trói buột, siết chặt quyền tự do Tôn giáo hơn nữa bằng cơ chế xin cho. Mục sư kêu gọi Quốc hội Canada luôn đặt vấn đề nhân quyền trong đó có quyền tự do Tôn giáo trong các quan hệ ngoại giao, hợp tác hay viện trợ cho Việt Nam, xin các đại biểu nêu lên quan ngại của Canada về Dự luật Tín ngưỡng Tôn giáo mà nhà nước Việt Nam dự tính ban hành trong nay mai, xin các đại biểu khuyến nghị lên Chính phủ Canada áp lực nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do cho tu sï, tín đồ các Tôn giáo và các tù nhân lương tâm bị giam cầm vì đấu tranh cho quyền con người và quyền tự do Tôn giáo.
Ngày 01 tháng 6 năm 2015, Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng sẽ tham dự buổi tiếp tân, gặp gỡ 1 số Dân biểu tại Quốc hội Canada do 2 dân biểu Judy Sgro và dân biểu Irwin Cotler đồng bảo trợ. Sau đó sẽ gặp gỡ một số tổ chức phi chính phủ (NGO), một số chức sắc tôn giáo và tường trình lại buổi điều trần trước Quốc hội Canada với cộng đồng người Việt tại thành phố Toronto.
Sau đó Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng sẽ tiếp tục chuyến công tác vận động sang Hoa Kỳ, gặp gỡ một số Dân biểu Quốc hội Hoa kỳ, tổ chức phi chính phủ (NGO), chức sắc Tôn giáo và cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ.
Ngày 31 tháng 05 năm 2015 Hội đồng Liên tôn Việt Nam
—-
Bài điều trần của đại diện Hội đồng Liên tôn Việt Nam về tình hình tôn giáo tại Việt Nam trước Quốc hội Canada – ngày 28-05-2015
Kính thưa Ông Chủ tịch Ủy ban Nhân quyền và đại biểu Quốc hội Canada
Kính thưa Quý vị Quan khách.
Trước tiên tôi xin bày tỏ tấm lòng biết ơn đến Quý vị đã quan tâm tới tình hình nhân quyền của đất nước chúng tôi và có lời mời chúng tôi tham dự buổi điều trần ngày hôm nay. Tôi là Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng, quản nhiệm Hội thánh Tin lành Chuồng bò thuộc Giáo hội Mennonite độc lập, thành viên Hội đồng Liên tôn Việt Nam (HĐLTVN).
Tôi xin phát biểu trong tư cách chứng nhân, đồng thời là đại diện HĐLTVN, một tổ chức quy tụ nhiều chức sắc lãnh đạo 5 tôn giáo lớn là: Cao Đài, Công Giáo, Phật Giáo Hòa Hảo Thuần túy, Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và Tin Lành. Là một thành viên của HĐLTVN, tôi xin trình bày 3 nội dung sau:
I- Nhận định tổng quát về tình hình tôn giáo hiện nay.
Xét theo vẻ bên ngoài và theo các thông tin do nhà nước VN cung cấp, tại VN xem ra có tự do tôn giáo và phát triển tôn giáo qua các hiện tượng: có nhiều nơi thờ tự cùng cơ sở tôn giáo được xây cất, nhiều lễ hội tôn giáo to nhỏ được tổ chức, nhiều chức sắc và tín đồ được đi ra hải ngoại để lo việc tôn giáo. Xin thưa với Quý vị rằng đó chỉ là những thứ tự do giả tạo và cũng chỉ được nhà nước ban cho những cộng đoàn tôn giáo, những tín đồ ngoan ngoãn tuân phục hoặc im lặng trước các sai lầm và tội ác của họ.
Còn quyền tự do tôn giáo thực sự là quyền được tự do thành lập và sinh hoạt; được công nhận như pháp nhân trước luật pháp; được độc lập trong việc tuyển sinh, huấn luyện tu sĩ cũng như tấn phong, bổ nhiệm, thuyên chuyển các chức sắc lãnh đạo; quyền được rao giảng giáo lý và lối sống văn hóa cho mọi người, việc góp phần vào giáo dục văn hóa cho giới trẻ từ tiểu học tới đại học, việc thi hành các công việc cứu tế xã hội, quyền tư hữu đất đai và mua bán, chuyển nhượng, nới rộng hay thu hep cơ sở; quyền tự do liên lạc với quốc tế và mời người ngoại quốc vào trong nước vì nhu cầu tôn giáo cũng như phái người ra ngoại quốc. Tất cả các quyền tự do căn bản này đều bị ràng buộc phải xin phép nhà nước với những ngăn cản khắt khe và phải chờ đợi nhiều năm cũng không được chấp thuận. Với những cơ chế mang tính trói buộc như vậy làm cho hàng lãnh đạo tôn giáo giảm phẩm chất, hàng tín đồ ít dấn thân vào công việc xã hội, hoạt động của tôn giáo kém hiệu quả và ảnh hưởng của tôn giáo khó lan tỏa ra ngoài xã hội.
Đó chính là mục tiêu hiểm độc của Luật Tín ngưỡng Tôn giáo mà nhà nước VN dự tính ban hành trong nay mai. HĐLT chúng tôi đã có một kháng thư về Dự luật này, công bố ngày 10-05-2015. Trong đó chúng tôi cho rằng việc một Nhà nước vô thần và những viên chức không có kinh nghiệm về tâm linh tôn giáo, thậm chí chống đạo, mà lập luật cho người có tín ngưỡng và cho niềm tin tôn giáo, là âm mưu áp đặt ý muốn của đảng Cộng sản lên các Giáo hội độc lập. Dự luật TNTG vẫn tiếp tục cơ chế xin-cho, với đủ mọi loại giấy phép, nhằm mục đích kiểm soát, khống chế, lũng đoạn các Giáo hội, giới hạn tự do tôn giáo một cách nghiêm ngặt hơn nữa. Dự luật TNTG có rất nhiều điều khoản và từ ngữ mơ hồ tạo điều kiện để nhà nước và các viên chức địa phương tha hồ giải thích tùy tiện cấm cản, sách nhiễu, lũng đoạn các Giáo hội. Dự luật TNTG có nhiều điều khoản mâu thuẫn với nhau, và mâu thuẫn với Công ước Quốc tế về các quyền Chính trị và Dân sự (điều 18), cũng như mâu thuẫn với Hiến pháp VN 2013 (điều 24). Trong kháng thư đó, chúng tôi cũng tố cáo nhà cầm quyền tiêu diệt các quyền tự do tôn giáo cơ bản như đã nêu ở trên.
II- Một số sự kiện minh chứng chính sách đàn áp tôn giáo.
Từ sau sự kiện 30/04/1975, nhà cầm quyền tịch thu nhiều đất đai, cơ sở thờ tự của các tôn giáo, gây áp lực, đàn áp thô bạo các tôn giáo độc lập:
a- Đối với đạo Cao Đài: Ngăn cản cuộc họp của các châu đạo như châu đạo Vĩnh Long nhiều lần. Phá phách, ngăn cấm các buổi cúng cầu siêu. Dùng Hội đồng Chưởng quản (do nhà nước thành lập) sách nhiễu Giáo hội chánh truyền để chiếm đoạt các thánh thất như Khổ Hiền Trang (Tiền Giang), Tuy An (Phú Yên). Ngăn cản thô bạo cuộc họp của HĐLTVN ngày 07-05-2015 tại Đức Trọng (Lâm Đồng).
b- Đối với Công Giáo: Tiếp tục giam giữ Linh mục Nguyễn Văn Lý 18 năm tù và hiện đang giam giữ lần tù thứ 4. Sách nhiễu Giám mục Hoàng Đức Oanh (Kontum): cấm bổ nhiệm linh mục, toan tính triệt hạ 22 nhà nguyện của người thiểu số. Áp lực lên Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn để họ từ bỏ việc bênh vực cho những người bị áp bức và đấu tranh cho công lý.
c- Đối với Phật Giáo Hòa Hảo Thuần túy: Tiếp tục giam giữ nhiều chức sắc và tín đồ, quản thúc vị Hội trưởng Lê Quang Liêm. Cấm đoán, phá phách các lễ trọng của đạo, hành hung đánh đập các tín đồ tới tham dự lễ. Phá tan nhiều niệm phật đường, dùng Phật giáo quốc doanh làm luận văn phỉ báng đức Huỳnh Giáo chủ và Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo Thuần túy.
d- Đối với Phật Giáo Thống Nhất: Dự tính cưỡng chiếm chùa Liên Trì (Thủ Thiêm, Sài Gòn). Sách nhiễu tăng ni nhiều chùa chiền, tự viện, cản ngăn chùa Phước Thành (Thừa Thiên-Huế) không cho cứu trợ thương binh Việt Nam Cộng hòa tháng 03-2015, quản chế Tăng thống Thích Quảng Độ và theo dõi sách nhiễu Hòa thượng Thích Không Tánh nhiều năm.
e- Đối với đạo Tin Lành: Đàn áp thô bạo Mục sư Nguyễn Hồng Quang và tín đồ cộng đoàn Mennonite độc lập có lần phải vào bệnh viện cấp cứu. Đập phá tan hoang trụ sở của Giáo hội Mennonite tại Bến Cát (Bình Dương) liên tục từ tháng 06-2014 đến nay. Dùng côn đồ đập phá tan nát tư gia, nhắn tin hăm dọa giết cả nhà Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng, quản nhiệm Hội thánh Chuồng bò (là tôi). Hăm dọa Mục sư Đinh Diêm không cho tham gia HĐLT. Hiện đang giam giữ Mục sư Nguyễn Công Chính tới 11 năm tù và Mục sư Dương Kim Khải 5 năm tù.
III-Một số đề nghị cụ thể với Chính phủ và Quốc hội Canada :
a- Xin Quý quan chức Chính quyền và Đại biểu Quốc hội Canada luôn đặt vấn đề nhân quyền trong đó có quyền tự do tôn giáo trong các quan hệ ngoại giao hợp tác hay viện trợ cho VN. Chúng tôi hy vọng sự giúp đỡ của Quý quốc có thể giúp cải thiện được tình trạng nhân quyền tại VN, ngõ hầu sự giúp đỡ của Quý quốc thực sự đem lại phúc lợi cho các nhân dân VN và cải thiện được quyền tự do tôn giáo cho chúng tôi.
b- Chúng tôi mong rằng, với kinh nghiệm của Quý vị trong một quốc gia có tự do dân chủ, nơi mà các tín đồ được bình đẳng như các công dân bình thường, nơi mà các quan hệ nhà nước với tôn giáo được xác định qua một số thỏa ước, xin Quý vị nêu lên quan ngại của Canada về Dự luật tín ngưỡng Tôn giáo mà nhà nước VN dự tính ban hành trong nay mai sẽ hạn chế quyền tự do tôn giáo của công dân. Vì đây là toan tính nhằm xiết chặt, bóp nghẹt quyền tự do của các tôn giáo độc lập.
c- Xin Quý vị khuyến nghị lên Chính phủ Canada áp lực nhà cầm quyền VN phải trả tự do cho tu sĩ, tín đồ các tôn giáo và các tù nhân lương tâm bị giam cầm vì đấu tranh cho quyền con người và quyền tôn giáo. Đặc biệt yêu cầu VN phải tôn trọng quyền tín ngưỡng, hành đạo cho các tín đồ trong các nhà tù và với các nhóm dân tộc thiểu số ở những vùng sâu vùng xa.
Kính cảm ơn Quý vị đã chú ý lắng nghe. Trân trọng cảm ơn ông Chủ tịch Ủy ban Nhân quyền Quốc hội Canada. Tôi xin trả lời thỏa đáng tất cả các câu hỏi của Quý vị.
Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng, Quản nhiệm Hội thánh Tin lành Chuồng bò
“Nha Trang là miền quê hương cát trắng Có những đêm nghe vọng lại Ầm ầm tiếng sóng xa đưa …”
Chưa bao giờ tôi nghe lại bản nhạc này với niềm xúc động dâng trào như bây giờ. Có lẽ cái cảm giác sắp phải đánh mất một điều gì đó rất quý giá khiến trong lòng tôi nỗi nhớ thương về “miền quê hương cát trắng” càng day dứt tơi bởi …
“Nha Trang cảnh đẹp nên thơ khiến nhớ Bao năm du khách hằng chờ Một ngày ghé đến Nha Trang”
Và “cảnh đẹp nên thơ ” khiến lưu luyến bước chân du khách mỗi lần ghé đến Nha Trang dù chỉ một ngày đó là bãi biển thơ mộng như mái tóc người thiếu nữ duyên dáng trải dài theo thành phố. Đây quả là báu vật vô giá mà Mẹ Thiên Nhiên đã hào phóng ban tặng cho người dân Nha Trang. Nó không chỉ mang lại lợi ích về sức khỏe mà còn là nơi ghi dấu bao kỷ niệm thơ mộng trong cuộc đời của biết bao thế hệ người dân Nha Trang. Nó cũng là nguồn cảm hứng vô tận cho bao nhạc phẩm, thi ca ra đời .
Thế nhưng những ngày qua , báo chí đồng loạt đưa tin về việc UBND tỉnh Khánh Hòa đồng ý giao cho một Công ty TNHH Dewan International xây dựng dọc bờ biển Nha Trang một khu đô thị hiện đại với mức độ “bêtông hóa” kinh khủng. Theo dự án của công ty Dewan thì các công trình biệt thự Phoenix De Playa, cụm sáu khách sạn mang tên The Crown, tòa nhà thương mại Fish Scale, quán cà phê trên ngọn cây Arboreals, khu cao ốc vườn Phoenix… sẽ là những tòa nhà cao tầng sắp được mọc lên từ mặt biển Nha Trang. Đó là các công trình trong quy hoạch phân khu tỉ lệ 1/2.000 khu vực phía đông đường Trần Phú và đường Phạm Văn Đồng , thành phố Nha Trang đã được UBND tỉnh Khánh Hòa phê duyệt ngày 17-10-2014.
Theo văn bản tại cuộc họp ngày 11-5 do ông Nguyễn Chiến Thắng – chủ tịch UBND tỉnh chủ trì, Sở Kế hoạch và đầu tư Khánh Hòa báo cáo Công ty TNHH Dewan International VN chưa góp đủ vốn điều lệ của dự án Phoenix Beach. Kết luận cuộc họp, ông Thắng giao Sở Kế hoạch và đầu tư làm việc, yêu cầu Công ty TNHH Dewan International VN hoàn thành việc góp vốn điều lệ của công ty này, nếu đến 30-6 mà công ty không hoàn thành, thì Sở Kế hoạch và đầu tư Khánh Hòa tham mưu UBND tỉnh thu hồi giấy chứng nhận đầu tư dự án. (xemthêm http://tuoitre.vn/…/dung-trien-khai-du-an-tren-…/752580.html).
Nhiều người dân Nha Trang tỏ ra vui mừng và hy vọng rằng bãi biển Nha Trang sẽ không bị bức tử trước “tín hiệu vui” này. Thế nhưng theo thiển ý, thật tình tôi không dám mừng, bởi lẽ những ý kiến không đồng thuận của đa số người dân Nha Trang không phải là nguyên nhân của việc dừng triển khai dự án trên công viên bãi biển Nha Trang nhưng là do Công ty Dewan chưa góp đủ vốn điều lệ của dự án Phoenix Beach. Nghĩa là do phía đầu tư CHƯA ĐỦ TIỀN chứ không phải lãnh đạo tỉnh Khánh Hòa ĐÃ ĐỦ TÂM nhận thức được vấn đề là cần phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường sống cho người dân không chỉ cho thế hệ này, mà còn cho một tương lai tốt đẹp cho người dân ở thế hệ mai sau.
Cách đây 3 năm, gia đình cậu em trai của tôi có chuyến du lịch tại đảo Palawan,Philippines. Palawan được mệnh danh là hòn đảo ‘thiên đường’ của du lịch Philippines. Quả danh bất hư truyền! Điều làm cho gia đình người em trai của tôi vô cùng thích thú và hài lòng về chuyến đi nghỉ đó là vì “nơi đây sở hữu những cảnh quan tuyệt đẹp với những rạn san hô rực rỡ, những khu rừng nhiệt đới dày đặc và hệ sinh thái vô cùng đa dạng, kể cả trên biển và đất liền”. Đặc biệt là vấn đề bảo vệ các sinh vật biển được thực hiện rất nghiêm ngặt. Du khách cứ thoải mái ngắm nhìn nhưng không một con Ốc hay con San Hô nào được phép vớt lên khỏi mặt nước. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên đảo được bảo tồn nguyên vẹn. Bãi biển còn nguyên vẹn vẻ đẹp vắng vẻ hoang sơ. Tự hỏi vì sao Philippines cũng là một quốc gia được xếp vào loại nghèo trên thế giới nhưng vì sao lãnh đạo của họ đã không khai thác thiên nhiên một cách vô tội vạ, không “lạm dụng thiên nhiên” như là một hình thức “ ăn cắp của công” (xem Giáo lý Công Giáo, số 2415), không sử dụng thiên nhiên cách tùy tiện để phục vụ cho những cái lợi trước mắt mà quên đi cái hại là sự khủng hoảng môi trường, điều mà con người phải gánh chịu không chỉ hiện tại mà còn cho cả tương lai? Hay vì là một quốc gia có 99% là người tin có Thiên Chúa nên họ hiểu rằng “một Kitô hữu không bảo vệ tạo vật… là một Kitô hữu không lo cho công trình của Thiên Chúa” ( Đức Thánh Cha Phanxico).
Có lẽ thời xa xưa, cha ông ta không nghe đến cụm từ “bảo vệ môi trường”, tuy nhiên họ vẫn nhắc nhau có hai tội ác mà chúng ta nên tránh để khỏi thất đức với con cháu đó là: “Nhất phá Sơn Lâm, nhì đâm Hà Bá”. Nghĩa là đừng xâm phạm và hủy hoại môi sinh một cách thô bạo, vì đó là tội ác, và sự thất đức để lại cho con cháu chính là hành động của mình là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường và gây tác hại nghiêm trọng cho sức khỏe của con người trong tương lai và ngay cả hiện tại? Vì thế, nếu vì một lý do nào đó mà lãnh đạo chính quyền không làm tròn trách nhiệm bảo vệ môi trường mình đang quản lý, điều đó cũng có nghĩa là ‘chính con người đang vả vào mặt của tự nhiên” ( Đức Thánh Cha Phanxico) thì đối tượng bị hủy hoại, bị tàn phá không chỉ là thiên nhiên vô tội mà con người cũng sẽ lãnh nhận hậu quả tàn khốc khi thiên nhiên nổi giận vì đã lãnh nhận những cái vả quá tàn nhẫn của con người. “Nha Trang cảnh đẹp trăng thanh gió mát”, đặc biệt là những đêm trăng trên biển với bãi cát vàng óng ả luôn là niềm “luyến tiếc xa xôi” mà du khách “không quên để lại”. Ước mong sao bãi biển xinh đẹp của Nha Trang quê tôi thoát khỏi bàn tay lạm dụng đầy thô bạo tham lam và độc ác của con người, để khi trở về, tôi không phải xót xa nhìn một Nha Trang hóa đá vô hồn với những khối bêtông và bãi biển Nha Trang thơ mộng đầy nhân văn ngày xưa chỉ còn là trong hoài niệm …. “ Còn đâu những chiều vui xưa Còn đâu những chiều say sưa Ngồi nơi biển buồn trông ra khơi mênh mông….”
GNsP (31.05.2015) – Nghệ An – Đạo đức, nhân phẩm của người Việt ngày càng xuống cấp trầm trọng. Người ta có thể bán rẽ lương tâm, danh dự, nhân phẩm, dẫm đạp lên đồng loại, bằng mọi cách để đạt được mục đích mà bản thân mình mong muốn.
Trong xã hội hiện nay, dù bạn ở nơi đâu cũng dễ dàng bắt gặp những con người bất hạnh, có hoàn cảnh khó khăn. Chắc chắn rằng: Bạn hay tôi đều có lòng trắc ẩn, muốn giúp đỡ người đó. Tuy nhiên, lòng tốt của chúng ta cần phải đặt đúng chỗ. Nếu không, bạn sẽ vô tình tiếp tay cho kẻ xấu.
“Đói cho sạch, rách cho thơm!”
Chắc hẳn không ai không biết câu châm ngôn này mà ông cha đã để lại cho hậu duệ con cháu người Việt.
Lúc còn thiếu thời, bố mẹ tôi thường dạy bảo: “Dù cuộc sống có khó khăn đến đâu. Con cũng không được buông xuôi hay bán rẽ lương tâm, nhân phẩm, danh dự của con người để đổi lấy sự vinh hoa phú quý. Con phải ghi nhớ suốt đời câu châm ngôn mà ông cha đã để lại: “Đói cho sạch, rách cho thơm.” Nếu không có con hãy xin; tuyệt đối không bao giờ được ăn cướp hay ăn trộm của người khác.” Cũng chính vì danh dự của bản thân, của gia tộc nên bản thân tôi phải luôn giữ lấy lề.
Đứng ngoài nhìn vào khía cạnh của cuộc sống, nhiều người cho rằng: “Xã hội Việt Nam vẫn luôn tốt đẹp, dân giàu – nước mạnh – xã hội công bằng – dân chủ – văn minh. Nhiều người sống ảo tưởng trong quá khứ hào hùng nên đã quên đi tương lai vận mệnh của dân tộc.” Tuy nhiên, nếu bạn đi sâu, đi sát vào cuộc sống của người dân sẽ thấy tình cảnh Dân Việt mình như thế nào?
Hôm nay, tôi đến bệnh viện Từ Dũ – quận 3 – Tp Sài Gòn để thăm người thân đang điều trị ở đó. Khi tôi vừa đến cổng bệnh viện, có một người thanh niên dáng vẻ cũng khôi ngô tuấn tú. Anh ta mặc áo kẻ sọc màu hồng, tay cắp chiếc cặp màu đen. Anh ta đến bên tôi và nói: “Nhờ anh làm phúc giúp đỡ em với. Em đang chăm sóc người nhà ở trong bệnh viện. Mấy hôm nay hết tiền nên đang phải nhịn đói. Anh có thể cho em xin một hộp cơm để ăn được không?” Tôi nghĩ thầm trong bụng: “Nếu anh ta xin Tiền thì mình sẽ không bao giờ cho. Vì ở bệnh viện nhiều người bị lừa như vậy. Tuy nhiên, anh ta lại xin hộp cơm để ăn vì đói bụng. Nhìn anh ta cũng có dáng vẻ thanh cao, có sức khoẻ để đi làm kiếm tiền. Nghĩ sẽ chẳng có chuyện đó đâu.” Nghĩ đến đây nên lòng trắc ẩn và quyết định mời anh ăn cơm. Vì lúc đó tôi cũng chưa ăn gì nên bảo anh ta: “Nếu vậy thì mời anh cùng đi ăn cơm với tôi. Tôi cũng chưa ăn gì nên luôn tiện mời anh.” Anh ta cũng rất vui vẻ và nói lời cám ơn rồi đi cùng. Khi tới quán cơm, tôi hỏi: “Anh dùng cơm với món gì?” Anh bảo: “Cho em hộp cơm với sườn nướng.” Tôi nói: “Sao anh không ngồi ăn ở quán luôn mà lại xin hộp bỏ làm gì?” Anh đáp: “Em mặc cảm về bản thân mình nên cầm hộp cơm anh cho rồi sẽ ra ngoài ăn cho đỡ tủi.” Tôi hơi thắc mắc và suy nghĩ chút rồi nói: “Không có gì phải mặc cảm cả. Anh không có tiền nên phải xin. Điều đó chẳng có gì phải xấu hổ cả. Vì thế mà anh hãy ngồi ăn cơm cùng cho vui.” Tuy nhiên, anh ta vẫn không ngồi ở lại ăn mà cầm hộp cơm rồi đi ra.
Cũng vì hơi thắc mắc và tò mò nên tôi quyết định đi theo anh ta coi thử xem sao. Tuy nhiên, mọt điều quá bất ngờ mà tôi không thể chấp nhận được. Sau khi anh ta cầm hộp cơm của tôi cho. Anh ta không có ăn mà lại đi đến những người chay xe ôm để bán lại hộp cơm đó với giá 10.000 (vnđ). Tôi đến để hỏi lý lẽ với anh ta thì anh bỏ đi mất mà không nói gì.
Sau đó, những hộ dân buôn bán kinh doanh trước cổng bệnh viên cho biết: “Xung quanh bệnh viện này có khoảng 10 – 15 người như anh ta. Bọn nó nghiện Heroin nhưng không có tiền để chích. Ngày nào bọn nó cũng dạt dẽo quanh khu vực này và xin người ta hộp cơm, gói bánh, hộp sữa. Sau đó, chúng bán lại cho những người khác rồi tích cóp tiền mua một Tép Heroin để chích vào người. Chẳng hạn, hộp cơm giá 25.000 – 30.000 (đ) nhưng chúng bán lại cho mấy ông xe ôm này giá chỉ có 10.000 (đ) mà thôi.”
Sau khi dùng cơm xong, tôi lại thấy anh ta xuất hiện và tiếp tục xin những người khác. Lần này không chỉ thấy riêng mình anh mà còn có thêm mấy người như anh ta nữa.
Tôi còn nhớ lúc còn nhỏ, mấy khi xảy ra nạn trộm cắp, cướp giật dọc đường. Mọi người đều có ý thức trong cuộc sống, biết yêu thương, đùm bọc lẫn nhau lúc khó khăn.
Nhưng ngày nay, hễ bạn hay tôi sơ hở một chút là tài sản tự nhiên không cánh mà bay. Ra đường thì cướp giật, giết người, mại dâm tràn lan.
Vì đâu mà dân tôi nên nỗi thế này?
Đất nước tôi đã thống nhất hai miền Nam Bắc kể từ 30/04/1975. Tính đến nay đã 40 năm trôi qua, nhiều người không thể quên được tình cảnh cuộc sống người dân lúc bấy giờ.
Trước 1975, Sài Gòn được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Được nhiều người mơ ước sẽ một lần đặt chân đến Sài Gòn. Cuộc sống, kinh tế của người dân VNCH lúc bấy giờ vượt qua Thái Lan, Singapor, Hàn Quốc.
Tuy nhiên sau 40 năm thống nhất đất nước, người dân mình có cuộc sống ra sao? Bây giờ, 50 năm nữa mình mới bằng Thái Lan, còn Singapor thì cả 100 năm sau. Phải chăng vì nguyên nhân đất nước mình chìm ngập trong chiến tranh để lại hậu quả to lớn không thể khắc phục?