Tin Việt Nam
- Viết bởi Hội đồng Liên tôn Việt Nam
GNsP (01.06.2015)
Kính gởi:
– Quý Chức sắc và tín đồ các Tôn giáo tại Việt Nam.
– Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.
Đồng kính gởi:
– Tiến sĩ Heiner Bielefeldt, Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hợp Quốc về tự do tôn giáo.
– Các Chính phủ dân chủ năm châu, các Tổ chức nhân quyền quốc tế, các Cơ quan báo chí hoàn vũ.
Ngày 13-05-2015, một tổ chức thuộc Ủy ban Nhân dân quận 2, thành phố Sài Gòn, gọi là “Hội đồng bồi thường, hỗ trợ thiệt hại và tái định khu đô thị mới Thủ Thiêm” đã gởi đến Hòa thượng Thích Không Tánh, Phó Viện trưởng kiêm Tổng ủy viên Từ thiện Xã hội thuộc Tăng đoàn Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất (nhưng gọi xách mé theo thế danh là “ông Phan Ngọc Ấn”) một “Thông báo về việc gửi tiền vào ngân hàng để áp dụng biện pháp hành chính thực hiện thu hồi đất đối với cơ sở thờ tự chùa Liên Trì trong khu đô thị mới Thủ Thiêm”.
Trong thông báo này, nhà cầm quyền CS quận 2 cho biết đã gởi vào Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam số tiền trên 784 triệu đồng VN, cùng với lời hứa hẹn tái bố trí chùa Liên Trì trên nền đất số 17 và một phần nền đất số 16, 18 lô C2-05 tại khu dân cư 50ha phường Cát Lái, quận 2 với diện tích là 609,75 m2. Đây là thái độ cường quyền lần thứ hai sau thái độ cường quyền thứ nhất vốn đã biểu lộ ngày 18-08-2014, khi nhà cầm quyền phường An Khánh, quận 2, gởi đến Hòa thượng một “Thư mời” mang tính triệu tập cùng bản “Phụ lục” với lời lẽ đe doạ sẽ “thực hiện biện pháp hành chính để thu hồi chùa” bằng số tiền giải tỏa đền bù là 5.418.076.120 đồng(xin xem Tuyên bố của HĐLTVN ngày 30-08-2014).
Tiếp tục lập trường của mình là bảo vệ tự do tôn giáo cũng như cơ sở tài sản của Giáo hội do các vị tiền bối để lại, Hòa thượng Thích Không Tánh quyết không di dời chùa Liên Trì và không nhận số tiền bồi thường mà nhà cầm quyền -qua việc tự ý chuyển vào ngân hàng như biện pháp hành chánh- đã áp lực Hòa thượng phải nhận để cướp lấy rồi phá hủy chùa.
Trước sự kiện này, trong tinh thần hiệp thông các giáo hội và ý thức bảo vệ lẽ phải cũng như tự do tôn giáo, Hội đồng Liên tôn Việt Nam tuyên bố:
1- Vì đã hiện diện tại Thủ Thiêm hơn 70 năm nay, như một nơi chiếu rọi ánh đạo vàng và đức từ bi của Phật giáo cho nhân dân trong vùng, Chùa Liên Trì phải có quyền tồn tại ở khu đô thị mới này, mà theo quy hoạch là một khu dân sinh. Mà người dân thì dù ít dù nhiều vẫn có niềm tin tôn giáo và cũng cần cơ sở tôn giáo để phục vụ cho các nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng, phượng thờ của họ (như truyền thống ngàn đời của Dân tộc).
Việc xóa bỏ sự hiện diện của chùa Liên Trì (cũng như mọi cơ sở tôn giáo khác) tại Thủ Thiêm trước hết là bất biết nhu cầu tôn giáo chính đáng của nhân dân! Thứ đến là tạo điều kiện để những kẻ vô thần có thể ung dung làm chuyện tội lỗi, thậm chí tội ác, vì thiếu sự hiện diện mang tính nhắc nhở lẫn quấy rầy của tôn giáo, và như thế là tiếp tục việc phá hủy truyền thống đạo đức văn hóa dân tộc mà chế độ CS đã và đang làm hơn 70 năm nay trên đất Việt.
2- Ngoài mục đích tạo lợi nhuận cho các nhóm lợi ích thân cận với đảng viên và quan chức địa phương tại vùng đất vàng này (dẫn tới việc di dời cách bất công hơn 15 ngàn hộ dân), việc xóa sổ Chùa Liên Trì còn nhằm chấm dứt vĩnh viễn những hoạt động tại đây mà nhà cầm quyền CS đã luôn coi là một nguy cơ cho chế độ.
Đó là việc cho các dân oan mất đất được đến tá túc trên hành trình khiếu kiện của họ, một hành trình vừa đầy ắp những đau khổ tuyệt vọng của dân lành vừa ngập tràn những tố cáo lên án đối với chế độ bất công và tàn nhẫn. Đó là việc quy tụ để săn sóc, an ủi, cứu trợ các Thương binh Việt Nam Cộng Hòa, một thành phần bất hạnh mà đến tận hôm nay, đảng CS vẫn tiếp tục căm thù và coi như bằng chứng tố cáo cuộc xâm lăng trắng trợn của họ. Đó là việc mở rộng cửa cho sinh hoạt thường kỳ của các tổ chức xã hội dân sự độc lập mới bắt đầu hình thành nhưng đã bị nhà cẩm quyền cho là bất hợp pháp, gây nguy hiểm cho chính sách độc tài toàn trị. Đó cũng là việc tổ chức những hoạt động từ thiện như giúp đỡ kẻ nghèo, cứu trợ bệnh nhi trong một tinh thần nhân đạo làm cảm động lòng người nhưng lại gây khó chịu cho những kẻ thực thi việc cứu tế cách máy móc, vô cảm.
3- Chúng tôi tự hỏi luật lệ chính đáng nào cho phép nhà cầm quyền độc đoán nhét vào tay người dân (ở đây là qua ngân hàng) một số tiền để cưỡng bức họ phải ra đi để lại tài sản (đất đai, nhà cửa) với lý do là để nhà nước thực hiện kế hoạch phát triển dân sinh, trong khi thực chất chỉ là kinh doanh trên mồ hôi xương máu của họ và tổ tiên họ kể kiếm lợi nhuận kếch sù. Điều này có vô vàn bằng chứng kể từ khi đảng Cộng sản tự cho mình là sở hữu chủ mọi tài nguyên đất đai của nước Việt và kể từ khi đảng tống cổ hàng vạn tập thể và hàng triệu cá nhân (nông dân lẫn thị dân) ra khỏi nơi sinh sống và sinh hoạt lâu đời của họ.
4- Cùng với Tăng đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất quốc nội lẫn hải ngoại, cùng với bao tiếng nói của cá nhân và tập thể trong nước lẫn ngoài nước, người Việt lẫn người ngoại quốc, Hội đồng Liên tôn cực lực phản đối kế hoạch cưỡng chiếm Chùa Liên Trì của nhà cầm quyền Cộng sản, cũng như hoàn toàn ủng hộ lập trường của Hòa thượng Viện chủ. Đây lại thêm một bằng chứng nữa về chính sách đàn áp tôn giáo của Nhà cầm quyền độc tài vô thần cộng sản, một chính sách sắp được hợp pháp hóa qua Luật Tín ngưỡng Tôn giáo mà Quốc hội –dưới sự chỉ đạo của đảng- đã biên soạn bất chấp ý kiến, nguyện vọng và quyền lợi của các tôn giáo.
5- Chúng tôi cũng kính mong các chính phủ dân chủ, các tổ chức nhân quyền, các cơ quan báo chí, các cộng đồng người Việt khắp nơi, nhất là vị Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hợp Quốc về tự tôn giáo, hãy lên tiếng phản đối, tìm cách ngăn chặn việc làm phi tôn giáo, phi nhân quyền của Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam giữa lúc VN đang mong muốn gia nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).Sự tồn tại của Chùa Liên Trì tại Thủ Thiêm cũng là sự tồn tại của tự do tôn giáo, sự tồn tại của những giá trị tâm linh, sức mạnh tinh thần vốn rất cần thiết cho một Việt Nam đang từng ngày bị băng hoại bởi chủ nghĩa và chế độ duy vật vô thần, độc tài toàn trị.
Làm tại Việt Nam ngày 31 tháng 5 năm 2015, nhân Đại lễ Phật đản.
Các chức sắc trong Hội đồng Liên tôn VN đồng ký tên.
Công Giáo:
– Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi (điện thoại: 0984.236.371)
– Linh mục Giu-se Đinh Hữu Thoại (điện thoại: 0935.569.205)
– Linh mục An-tôn Lê Ngọc Thanh (điện thoại: 0993.598.820)
– Linh mục Phao-lô Lê Xuân Lộc (điện thoại: 0122.596.9335)
Phật Giáo:
– Hòa thượng Thích Không Tánh (điện thoại: 0165.6789.881)
– Thượng tọa Thích Viên Hỷ (điện thoại: 0937.777.312)
Tin Lành:
– Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa (điện thoại: 0121.9460.045)
– Mục sư Đinh Uỷ (điện thoại: 0163.5847.464)
– Mục sư Đinh Thanh Trường (điện thoại: 0120.2352.348)
– Mục sư Nguyễn Trung Tôn (điện thoại: 0162.838.7716)
– Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng (điện thoại: 0906.342.908)
– Mục sư Lê Quang Du (điện thoại: 0121.2002.001)
– Mục sư Đinh Diêm (điện thoại: 0169.237.4741)
Cao Đài Giáo:
– Chánh trị sự Hứa Phi (điện thoại: 0163.3273.240)
– Chánh trị sự Nguyễn Kim Lân (điện thoại: 0988.971.117)
– Chánh trị sự Nguyễn Bạch Phụng (điện thoại: 0988.477.719)
Phật Giáo Hoà Hảo:
– Cụ Lê Quang Liêm, Hội trưởng (điện thoại: 0199.2432.593)
– Ông Lê Văn Sóc (điện thoại: 096.4199.039)
– Ông Phan Tấn Hòa (điện thoại: 0162.6301.082)
– Ông Tống Văn Chính (điện thoại: 0163.574.5430)
Nguồn: Trích từ GNsP
- Viết bởi Long Điền
GNsP (27.05.2015) – Sài Gòn – Nhiều người Việt trong và ngoài nước thắc mắc trước tin đồn CSVN sẽ có những đổi thay căn bản. Chúng ta sẽ phân tích những sự kiện nầy như thế nào???
Trong tương lai CSVN sẽ đổi tên nước, đổi tên đảng , đổi Hiến Pháp do áp lực từ đâu và chúng thay đổi với mục đích gì?
CSVN phải thay đổi cơ bản: Tên Nước, tên đảng và Hiến Pháp do áp lực từ đâu? Tuỳ theo áp lực mạnh yếu, CSVN sẽ thực hiện từng bước theo tình hình các thế lực chống lại chủ nghĩa CSVN.
1- Với áp lực ngày càng tăng trước thềm TPP (Hiệp ước Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương) do Hoa Kỳ đòi hỏi, CSVN phải cải thiện Nhân Quyền, vì nhân dân Hoa Kỳ không chấp nhận nhượng bộ của chính phủ Mỹ với CSVN do quyền lợi kinh tế.
2- Dưới áp lực ngày càng tăng của toàn dân Việt Nam do bùng nổ thông tin toàn cầu (Internet), mọi sự dối trá, gian dối của CSVN để cướp chính quyền từ 1945 đến 1975 đã lộ liễu: CSVN không có chính danh, họ đã gian manh lường gạt toàn thể đồng bào Việt Nam. Họ còn định lừa cả Hoa Kỳ năm 1945 xin Hoa Kỳ viện trợ chống phe Trục và xác nhận Việt Minh không phải là cộng sản. Nhưng từ năm 1945 Hoa Kỳ đã biết rõ ông Hồ là điệp viên của Cộng Sản Quốc Tế (CSQT) và các tay sai chỉ hoạt động theo chỉ thị của CSQT mà thôi nên từ chối trả lời thư ông HCM gởi tổng thống Hoa Kỳ Truman, đồng thời cuối tháng 9 năm 1946, Mỹ rút tất cả các nhân viên tình báo tại Việt Nam về nước, chấm dứt liên hệ với chính phủ Hồ Chí Minh.
Báo chí trong nước đã đang tải những sự chống đối chủ nghĩa CSVN và nhà cầm quyền CSVN ngày càng mạnh mẽ. Nhiều trí thức, nhà văn từ bỏ các tổ chức bù nhìn phục vụ đánh bóng chế độ. Nhiều đảng viên lảo thành phản tỉnh chống đối chế độ rộ lên từ đầu năm 2015.
Hiện nay thực trạng CSVN chỉ còn cái tên nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, bên trong thì từ đảng viên cấp thấp đến Ban Chấp Hành Trung Ương thảy đều theo đường lối Tư Bản từ kinh doanh đến cách điều hành kinh tế. Chủ thuyết Tư Bản được các đảng viên CSVN áp dụng là kiểu “Tư Bản Rừng Rú” dùng để áp bức bóc lột công nhân, trả luơng chết đói và đứng về phía chủ nhân đè nén công nhân của những tên “Tư Bản Đỏ”.
Chuyện đổi tên nước sao cho phù hợp với thực tế là chuyện cần phàỉ làm để tránh cảnh “Trống đánh xuội, kèn thổi ngược” nhưng đảng CSVN rất sợ sự chống đối, mất tinh thần từ các đảng viên nên còn chần chừ, nay tình thế chín mùi không đổi không được. Tuy nhiên nếu đổi thỉ đảng CSVN dễ tiếp tục lường gạt người dân vì bên trong ngành Giáo Dục, đảng vẫn còn dạy Chủ Nghĩa Cộng Sản và phần lớn cán bộ cấp cao vẫn tôn thờ CNCS là chỗ dựa duy nhất cho chúng tồn tại.
3- Kế tiếp, khi áp lực Quốc Tế gia tăng, quốc nội chống đối đảng CSVN ngày càng nhiều thì đảng CSVN sẽ thay tên đổi họ nhưng thực tế cốt lỏi vẫn là con người và tổ chức Cộng Sản vẫn nắm quyền điều hành đất nước. Các quyền lợi bất hợp pháp, các tổ chức kềm kẹp toàn dân như Mặt Trận Tổ Quốc, sự đục khoét công quỹ, tham nhũng vẫn giữ nguyên vì đó là bầu sửa nuôi đảng, nuôi cán bộ. Dù cho chế độ đặt ra 5, hay 10 đảng, nhưng toàn bộ các thành viên các đảng phái cuội vẫn là đảng CSVN trá hình núp bóng như thời kỳ 1945 để tiếp tục vơ vét tài nguyên và đục khoét ngân sách Quốc Gia.
4- Để hoàn chỉnh công cuộc đổi mới gian trá ngõ hầu tiếp tục cai trị, đàn áp các thế lực chính nghĩa muốn thay đổi cơ chế Quốc Gia. Đảng CSVN sẽ phải thay đổi Hiến Pháp CHXHCNVN bằng một Hiến Pháp Mới, thực tế là chỉ mới cái vỏ còn bên trong cái ruột vẫn là phục vụ cho đảng CSVN. Bởi vì thực tâm thay đổi Hiến Pháp thì phải có Hội Đồng Lập Hiến và Lập Pháp do toàn dân bầu ra. phải dẹp các cơ chế đảng CSVN từ xả ấp đến Trung Ương.
Như vậy nói chung các hình thức thay đổi theo kiểu CSVN là hoàn toàn gian trá và không được chính danh, không đáp ứng nguyện vọng thiết thực của toàn dân Việt Nam. Chỉ có CSVN sụp đổ toàn diện mới có Dân Chủ thật sự. Sự Giải Thể CSVN phải được thực hiện dưới sự giám sát quốc tế và của toàn dân Việt Nam. Các hình thức “thay áo không thay người” không còn lường gạt được ai trong thời đại Thông Tin Toàn Cầu!!!
Long Điền
Nguồn: Trích từ GNsP
- Viết bởi Bảo Giang
Hôm rồi, khi vào mạng VN express, một trang thuộc biên chế của nhà nước Việt cộng, tôi đọc thấy một số bản tin trong mục pháp luật như sau:
1. Ghen tức vì người "trong mộng" chuẩn bị lấy chồng, Tuấn Anh cầm dao đến nhà đoạt mạng cô gái rồi bỏ trốn. Ngày 17/5, Công an tỉnh Nam Định đã khởi tố,tạm giam Phạm Tuấn Anh, 23 tuổi, để điều tra về hành vi giết người. Tuấn Anh có cảm tình với Thi nhưng bị cô gái từ chối, Đêm 15/5, Anh đâm Thi nhiều nhát rồi bỏ trốn, Thi tử vong.
2. "Sát hại bạn gái vì bị từ chối yêu. Bị nói lời chia tay, Long vác dao đến nhà sát hại bạn gái. Công an huyện An Lão (Hải Phòng) đang điều tra vụ sát hại bạn gái ở xã An Tiến. Kẻ gây án là Nguyễn Văn Long ,18 tuổi.( 5/5/15)
3. Trước đó 6/4 có bản tin hãi hơn: "Nghịch tử hại bố trong đêm. Sau chầu nhậu, Mạnh về nhà hỗn hào với bố, cầm chày đánh và khống chế, ép bố viết giấy chuyển nhượng nhà đất khiến đấng sinh thành tử vong".
Nhớ lại, những ngày sống dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, không phải là không có kẻ thất tình, không phải là không có kẻ bất hiếu. Nhưng cung cách hành động theo kiểu côn đồ, vô giáo dục này hầu như không thấy có ở trên các trang báo tại miền nam trước ngăy 30-4-1975. Nếu có thì cũng là một con số qúa nhỏ không làm cho người người kinh hãi, khủng hoảng. Hoặc không thấy là bởi vì, ở đó có một nền giáo dục đặt nền tảng trên khuôn mẫu đạo đức, luân lý của xã hội và tôn giáo. Ở đó, trẻ đến trường được học về Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín Trung, được học về lòng bao dung, tôn trọng lẫn nhau. Được học yêu thương trong nghĩa đồng bào, bảo vệ tổ quốc và giống nòi. Không một trường học, lớp nào mà không có khẩu hiệu " Tiên học lễ hậu học văn" hay "Ngày nay học tập ngày mai giúp đời".
Nhưng sau khi cướp được chính quyền tại miền nam vào 30-4-1975 và trước đó ở ngoài bắc vào sau 2-9-1945, Cộng sản đã triệt tiêu nền giáo dục nhân bản, đạo đức và luân lý của xã hội, rồi thay thế vào đó là nền văn hóa vô gia đình, vô tôn giáo, rập khuôn theo kiểu "đạo đức" Hồ chí Minh, một thứ đạo đức vô luân giết vợ đợ con. Một thứ "đạo đức" phải " căm thù và đoạn tuyệt với bố mẹ" phải thoát ly cuộc sống của gia đình. Một thứ đạo đức vô tổ quốc, bán rẻ giang sơn và nòi giống cho kẻ thù phương bắc vì quyền lợi của đảng phái. Kết qủa, sau 40 năm áp đặt nền giáo dục vô đạo này cho hai thế hệ, loại " hỏi ý" côn đồ như những bản tin trên đã xuất hiện nhan nhản trên các loại báo chí, truyền thông từ tỉnh, thành đến trung ương của nhà nước Việt cộng. Sự xuất hiện này xem ra đã làm cho đời sống của người dân bất an, nhưng có lẽ lại là tín hiệu reo vui của nhà nước và băng đảng Việt cộng.?
Thứ nhất, nó báo cho nhà nước biết việc áp bức người dân học tập và làm theo gương "đạo đức" HCM đã nở hoa. Vì các loại tội phạm và tệ nạn đã tràn lan và đang tàn phá xã hội. Thứ hai: Nó ngầm thông báo đến người dân là phải tiếp tục đáp ứng những yêu cầu, hỏi ý còn bá đạo hơn thế do chính nhà nước đưa ra. Muốn từ chối, chống đối là đồng nghĩa với tai họa.
Về điểm một. Hãy nhìn con số thống kê về những tệ nạn xã hội hôm nay như: thanh thiếu nữ phá thai, học sinh nam cũng như nữ, đánh đấm, lột quần áo nhau ra, đâm chém giết nhau ngay trước cổng trường. Rồi nạn đĩ điếm, hộ lý, trộm cướp lan tràn khắp phố phường, khắp mọi cơ quan, lan đến đường quê. Hay những loại tội đại ác, đại nghịch giết cha mẹ, ông, bà, chú bác... thì thấy thành qủa của cái lối giáo dục đào tạo theo gương "đạo đức" của HCM ra sao. Đến nay, mới có khoảng 5 đến 7% dân số đi theo cái lối giáo dục này, nó đã gây tác động vào xã hội, đã tạo ra các tệ nạn kinh hoảng đến như thế. Nếu chẳng may, có khoảng từ 10- 15% dân số trung thành với "đạo đức" HCM, không biết gian trá và tội ác sẽ tàn phá xã hội ta ra sao? Có nhiều phân tích cho thấy rằng, cộng sản chỉ có thể tồn tại trong một xã hội vô văn hóa, nhưng đầy gian dối do chính chúng tạo ra để " người ta phải nói dối nhau mà sống" (TQT). CS tuyệt đối không thể tồn tại trong một xã hội có đủ văn hóa nhân bản, luân lý và đạo đức. Đó là lý do tại sao, CSVN ngày đêm tuyên truyền và áp đặt cái lối giáo dục bá đạo, theo gương Hồ chí Minh vào mọi tầng lớp dân chúng.
Về điểm hai: Nhìn chung, cả ba bản tin trên đều có một chủ đích: Kẻ thủ ác, đưa ra những đòi hỏi, những yêu cầu hay là hỏi ý mang tính cưỡng đoạt, khống chế đối tác. Kết quả, vì không nhận được câu trả lời đáp ứng, thuận tình theo ý muốn, chúng liền tặng cho đối tác mà trước đó năm bảy giây, một phút có thể còn được coi là người chúng thương yêu, qúy trọng nhất, bỗng trở thành nạn nhân, lãnh trọn những nhát dao "đạo đức" Hồ chí Minh, mất mạng. Điều này thật ra không lạ. Bởi vì, chính bản thân Hồ chí Minh cũng đã từng đưa ra những yêu cầu bá đạo, đầy tính cưỡng đoạt, khống chế tồi tệ như thế. Rồi sau khi được thỏa mãn, HCM còn bất nhân, bất nghĩa lên án những đối tác đã bị cưỡng đoạt tài sản, hay tình cảm kia như là những tội phạm ghê gớm để tặng cho họ những con dao, nhát búa. Nạn nhân thời mất mạng sống, phần gia đình của họ thì dở sống dở chết. Trong số có hai trường hợp điển hình. Đó là trường hợp của bà Nguyễn thị Năm và cô Nông thị Xuân!
Thực tế, nếu đem trường hợp của Hồ chí Minh ra so sánh với trường hợp của Nguyễn đức Nghĩa, ( tử từ vì tội giết người tình với hành vi côn đồ) hay bất cứ một tử tù nào phạm cùng một loại tội tương tự, thì hành động của Hồ chí Minh còn man rợ, tàn độc, đáng nguyền rủa hơn gấp nhiều lần. Bởi lẽ, các tội phạm có thể thủ ác trong nhất thời, mất lý trí. Y còn sợ tội nên chạy trốn. Kế đến, đối tác của y đã trưởng thành, có tự do giao du và cũng chưa có con với tội phạm. Trong khi đó, Xuân còn ở tuổi vị thành niên, không được tự do chọn lựa, hẳn nhiên là đã bị bắt, bị cưỡng hiếp trong một thời gian dài, đã có con với Hồ, nhưng vẫn bị HCM tặng cho một cái búa và quăng xác của Xuân ra đường để gỉa tai nạn lưu thông. Lúc đó, nếu chẳng may có chiếc xe nào chạy qua, dù có gây ra tai nạn hay không thì cũng bị buộc vào cái tội gây tai nạn chết người và lĩnh án thay cho HCM. Phần y ngồi cười! Nhưng trời cao có mắt, đã chẳng có một chiếc xe ma nào chạy trên quãng đường đó để gánh tội cho HCM. Nếu xét trên dấu tích và căn bản gây tội ác. Hồ chí Minh, bá đạo gấp nhiều lần những tử tội trên. Ở trường hợp giết bà Nguyễn thị Năm cũng thế, Y đã quyết tâm, viết ra một bản cáo trạng vu khống cho bà phạm nhiều tội ác để giết bà và theo đó mà giết những người khác. Rõ ràng y có một tâm địa cực độc ác thuộc loại không thể nào có thể cải tạo được. Kết qủa, theo Luật của kẻ bá đạo, HCM đã không bị đưa ra pháp trường, còn được bầy đoàn đảng cộng sản ca tụng và thi đua, quyết tâm học tập theo gương "đạo đức" của "bác". Hãi chưa!
Trở lại việc hỏi ý kiến, và sự trả lời. Tôi cho rằng, bắt nguồn từ việc tìm kiếm những điều hay, điều tốt đẹp, điều khôn ngoan, điều bổ túc mà người đi hỏi không có, hay không đủ thì ai cũng có thể làm. Làm trong sự tôn trọng đối tác, chấp nhận nguyên tăc bình đẳng, tự do của đối tác. Với tập thể, chuyện hỏi ý dần biến thành một nguyên tắc dân chủ, là đi tìm lấy quyết định chung tốt nhất cho một vấn đề đã bàn thảo. Rộng rãi hơn, biến thành một cuộc trưng cầu dân ý về một quyết định trọng đại cho đất nước, hay một cuộc bầu cử trên toàn diện lãnh thổ.... Tiếc rằng phương cách, hay quy lệ hỏi ý kiến này không hề được tôn trọng trong chế độ cộng sản, nơi mà đảng cộng sản đã tự viết ra mệnh lệnh "đảng cộng sản...là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội" (điều 4). Điều 4 này, tự nó trở thành căn nguyên, đầu mối cho mọi loại tội ác phát sinh. Từ sự cưỡng đoạt vô đạo lý này, CS đã tự cho mình là kẻ lãnh đạo tuyệt đối trên tất cả mọi sự kiện, kể cả việc đứng trên luật pháp và dân tộc. Nó hủy bỏ công quyền và quyền bình đẳng của con người. Từ đó, những việc CS gọi là hỏi ý kiến, nó chỉ là một trò hề, mang tính chất thông báo phô trương.Trong thực tế, nó là sự cưỡng đoạt, đòi buộc mọi đối tác phải tuyệt đối thi hành những điều mà CS đã viết ra trong bản dự thảo. Điển hình:
a. Dự thảo gọi là hiến pháp 2013.
Có lẽ độc gỉa chưa quên câu chuyện nhà nước Việt cộng " kêu gọi" nhân dân đóng góp ý kiến về việc sửa đổi hiến pháp vào năm 2013? Kết quả, một nhóm có 72 người, được mô tả là bao gồm thành phần trí thức, nhân sỹ, các cựu đảng viên, cựu viên chức cộng sản, cựu " trí thức" ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, cùng hồ hởi ký tên viết kiến nghị và giao cho một ủy ban do một cựu viên chức nhà nước, nghe nói là đồng chí cựu bộ trưởng tư pháp VC đứng đầu phái đoàn đem đến tận nhà... quốc hội để trình bản kiến nghị này. Chuyện buồn cười để đời là, ngay khi Việt cộng chưa hề nhắc gì đến bản góp ý kiến ấy, mới chỉ nghe Nguyễn phú Trọng nói xa xa là " bỏ điều 4 hp là tự sát". Nghe thế, viên trưởng phái đoàn tự nhiên bị ướt quần, vội vàng xin rút tên ra khỏi cái danh sách những ngươì ký tên gởi kiến nghị! Đến đây, ai cũng biết, nó là một trò hề được đạo diễn từ cả hai phía. Phía "kêu gọi" đóng góp ý kiến và phía " quyết tâm làm trò" gởi kiến nghị!
Tuy nhiên, cũng trong thời gian đó, dù biết rất rõ trò hề của nhà nưóc Việt cộng trong việc họ kêu gọi công dân đóng góp ý kiến về việc sửa đổi HP. Hội Đồng GMVN trong tinh thần nhân bản, vẫn gởi đi một Lá Thư góp ý. Phải thành thực mà nói rằng, Lá Thư góp Ý của HĐGMVN như một làn Gío Mới, một chuyển bến tốt lành, không phải cho riêng ai, mà cho tất cả mọi người Việt Nam. Nội dung Lá Thư có khả năng làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt của xã hội và mở ra một hướng đi chung cho mọi người cùng bước tới trong tin yêu, cùng chia xẻ với nhau mọi thao thức trong tự tình dân tộc và cùng xây dựng một niềm tin mới cho đất nước. Lá Thư góp ý này đã nói lên tâm huyết của những người Việt Nam thiết tha đến tương lai của đất nước và hạnh phúc của dân tộc. Những điểm chính được ghi nhận như:
Về hình thức, Lá Thư đề gửi cho " ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến Pháp năm 1992" là một ủy ban đặc biệt nghiên cứu về tiến trình sửa đổi HP 2013, nhưng nó không gò bó, không mang một hình thức trình diễn, không có hàng chữ dài vô cảm mang nhãn hiệu " CHXHCNVN" đi kèm với khẩu hiệu rêu rao của nó ở trên phần đầu trang. Trái lại, phong cách Lá Thư ngắn gọn, trực diện, nhân văn, trí tuệ. Viết những điều cần viết. Nói những diều cần nói. Tuy là ngắn, nhưng chứa đựng hầu như tất cả tâm nguyện, khát vọng, không phải chỉ của người viết, hay của hơn tám triệu thành viên trong tôn giáo mà họ là đại diện, nhưng có thể là của tất cả mọi ngưòi, không trừ ai. Bởi vì, suy cho cùng, xét cho tận, tất cả mọi người đều muốn nói lên một tiếng nói chung, quang minh chính trực là: Chẳng còn một ai thiết tha quan tâm đến cái hàng chữ quảng cáo vô nghĩa CHXHCHVN nữa. Nên quẳng nó đi thì hơn. Kết qủa, khi không có hàng chữ đó, mọi người thấy thoải mái, riêng Lá Thư thì thêm nét đẹp trong sáng, đáng trân trọng hơn.
Về nội dung. Lá Thư mang những lời giảng giải ý nghĩa đích thực của những ngôn từ, lý lẽ trong cuộc sống nhân bản, mà không ai có thể phủ nhận, hay có thể tước đoạt được. Trái lại, những quyền thuộc về con người, làm nên phẩm gía con người như sự tự do, chính trị, đoàn thể, tôn giáo, ngôn luận, tư tưởng là bất khả xâm phạm. Theo đó, không ai có đặc quyền chính trị, cũng chẳng ai có quyền từ khước, tước đoạt quyền làm ngưòi của con người mà xã hội tiến bộ đã công nhận. Kế đến, phải trả quân đội, các lực lượng võ trang, công an, an ninh, tình báo về với chức năng của họ. Hai tổ chức này không thể thuộc một lực lượng chính trị nào, nhưng là của toàn dân với nhiệm vụ giữ an ninh, bảo vệ cương vực và lãnh thổ. Dĩ nhiên những điều tâm huyết, dù có khả năng làm thay đổi cả bộ mặt và cơ chế của đất nước như thế, cộng sản sẽ không bao giờ biết lắng nghe. Họ không nghe vì đã có điều số 4 và " dạo đức" HCM dẫn đường!
b. Dự thảo 4, luật tín ngưỡng, tôn giáo.
Mới đây, HDGMVN, và các tôn giáo bạn lại nhận được một bản hỏi ý kiến khác từ nhà nước Việt cộng gởi đến. Vừa đọc qua cái tên " Dự thảo 4- Luật Tín Ngưỡng, Tôn Giáo" ký ngày 10-4 là rớt mồ hôi hột. Trước tiên, không biết gởi đi là ngày nào, nhưng phải gởi trả lời trước ngày 05-5-2015. Kế đến, Tôn Giáo nào thì cũng đã có luật lệ riêng cho người theo tôn giáo ây giữ gìn. Nghĩa là, luật lệ về tôn giáo thì do các chức sắc có thẩm quyền trong tôn giáo đưa ra, quy định cho phù hợp với đời sống tìn ngưỡng và sinh hoạt của tôn giáo trong xã hội cho các tín đồ, bổn đạo của họ đi theo. Nay Việt cộng, những Kẻ Vô Đạo, vô thần, chuyên nghề đập phá đền chùa, tôn miếu, cướp của, cướp tài sản của nhà thờ lại đứng ra làm luật cho người Có Đạo thì họ sẽ làm ra những thứ luật lệ gì? Có phải chăng là để cấm cách, để quy hoạch và đáp ứng cho nhu cầu vô thần, vô đạo của CS?
Đặt ra câu hỏi vậy thôi, chứ thực ra chẳng cần tìm hiểu làm gì. Bởi lẽ, chỉ cần đọc đến cái thời hạn gởi trả lời (5/5/15) và kèm theo câu rất ấu trĩ, nếu như không muốn nói là không có lễ giáo, văn hóa: " hết thời hạn trên nếu không nhận được văn bản góp ý của qúy vị, xin được hiểu là đã đồng ý với dự thảo" là biết cái luật lệ ấy " gía trị" như thế nào. Theo đó, chả nên để mất thờ giờ, cứ vò và ném cả thư ngỏ cũng như cái bản dự thảo kia vào đống.... rác, mọi người đều đoán biết trong cái bản dự thảo ấy đã viết ra những gì, và với những mục đích gì?" Chắc chắn nó không đi ra ngoài những điểm sau:
1. Cấm cản, kiểm soát. Việt cộng sẽ đặt ra nhiều cái bẫy, nhiều hình thức để cấm cản và kiểm soát những sinh hoạt của các tôn giáo.
2. Áp đặt hiệu ứng vô thần vào tôn giáo. Để phá hoại đời sống linh thánh của các tôn giáo, Việt cộng sẽ tìm cách kiểm soát và áp đặt giáo án thuộc hệ vô tôn giáo, vô thần thánh vào trong việc đào tạo các chức sắc của tôn giáo.
3. Cài cắm, gài người vào trong các tôn giáo với mưu đồ phá họai niềm tin và đời sống linh thiêng, hợp nhất của các tôn giáo. Để từ đó Việt cộng sẽ cơ cấu những kẻ vì dảng vì lợi danh để phá hoại đời sống của người dân như Phạm văn Bồng tức Thích trí Quang. Làm dâm ô, bại họai cửa Phật, hay nhà thờ như Thích nhuận Tiến (Đồng Nai), Thích thông Anh,( Khánh Hoà) như Phan khắc Từ ( họ đạo Vườn Soài) Rồi từ những kẻ bất giáo này, CS sẽ dồn ép tôn giáo, làm ô uế cửa phật, nơi tôn nghiêm, phỉ báng tôn giáo, phỉ báng thần thánh bằng cách đưa cái đầu lâu của HCM vào chùa, đền miếu, ngồi ngang hàng với Thần Phật.
4. Và sau cùng, cướp đoạt tài sản của nhà thờ, của các chùa chiền theo diện quy hoạch để lấy tiền chia nhau hành lạc.
Ngoài những mục đích này ra, có thể còn có những chủ trương mờ ám khác nữa. Nhưng tuyệt đối không có một điểm đứng đắn nào, tử tế nào, khả dĩ được gọi là tốt đẹp hay bảo đảm quyền tự do tôn giáo của người dân sẽ được viết ra trong cái bản dự thảo này. Đã tệ hại như thế, "dự thảo 4, luật về tín ngưỡng, tôn giáo" là một thứ luật hoàn toàn khác với các luật lệ khi được áp dụng. Khác vì nó chỉ chế tài phía các tôn giáo, là đối tác buộc phải thi hành luật. Nó không bao giờ chế tài phía làm ra luật.
Ai cũng biết, luật lệ đều phải áp dụng cho mọi người. Thi dụ, luật hình sự, dân sự. Luật về gian dâm, trộm cướp, phản quốc thì từ Hồ chí Minh, các viên chức, hoặc thường phạm đều có thể vi phạm và đều bị chế tài. Riêng luật về tôn giáo thì chỉ có những " tội phạm" là người trực thuộc trong các tôn giao mà thôi. Riêng bộ phận của phía người làm luật ( phía nhà nước) thì sẽ không bao giớ có thể bị kết tội vi phạm vào luật tôn giáo. Bởi lẻ, toàn là những kẻ vô đạo thì làm sao có thể vi phạm luật tín ngưỡng và tôn giáo được? Ấy là chưa kể đến trường hợp, chỉ một giới chức nhỏ nhoi tại địa phương như phường khóm thôn, cũng có quyền giải thích về những điều khoản ghi trong bản dự thảo này tùy theo sinh hoạt trong khu xóm của mình! Như thế, nó khác gì cái thòng lọng buộc vào cổ các tôn giáo, cộng sản muốn xiết chặt lại lúc nào tùy thích. Nếu địa phương muốn được dễ thở thì lại phải Xin và dĩ nhiên là phải chi tiền để được Cho!
Tóm lại, không một người nào mà không nhăn mặt, khó chịu, bực mình nếu như không muốn nói là muốn nổi giận, phẫn uất vì những hành động côn đồ của những tên sát thủ trong những bản tin nhỏ tôi trích dẫn ở trên. Tuy nhiên, theo tôi, những bản tin này chỉ như một cái gai qúa nhỏ bé, lỡ đâm trúng da thịt chúng ta mà thôi. Nó thực sự không đáng để đem ra so sánh với những đòi hỏi cưỡng đoạt côn đồ của HCM với Nông thị Xuân, hoặc những luật lệ bá đạo của chúng với dân ta. Sự cưỡng đoạt khống chế này không phải chỉ có trong thời cải cách ruộng đất, thời chiến, nhưng còn là đòi hỏi cưỡng đoạt trong mọi giây, mọi phút trong đời của chúng ta hôm nay nữa. Đó là những đòi hỏi lộng quyền, bá đạo, côn đồ gấp trăm lần những đòi hỏỉ mang tính cá nhân trong những bản tin như cái gai nhỏ ở trên. Nó là một con dao cực bén đã thọc vào cổ, vào trái tim, vào buồng phổi của tất cả mọi ngườì. Hoặc gỉa, nó là cái búa tạ đã đập vào đầu vào cổ toàn dân tộc Việt Nam ta. Đó là cái điều số 4 ghi trong bản văn gọi là HP tự biên tự diễn của nhà nước Việt cộng. Từ khởi điểm cưỡng đoạt bá đạo này, người dân Việt Nam đã mất tất cả. Mất từ quyền sống đến công quyền.
Thật vậy. Nếu không có cái điều cưỡng đoạt này, không có gương "đạo đức" HCM, nền luân lý đạo hạnh và văn hóa của dân tộc ta không thể bị phá sản, sẽ không có nhiều những loại tội đại ác côn đồ như trên xảy ra. Chưa chắc gì những thanh niên trên xa đà vào tội ác để bị kết án. Sẽ không có nhiều những tệ nạn trộm cướp, đĩ điếm, ma tuý, đâm chém nhau như hôm nay. Nếu không có "đạo đức" HCM, tài sản của nhà thờ, của chùa chiên không bị vi phạm, tôn giáo không thể bị phỉ báng vì Kẻ Vô đạo làm luật cho Người Có Đạo. Nếu không có điều cưởng đoạt số 4, tập đoàn Cs không thể bám vào cái đầu lâu của HCM để từ đó thêu dệt, vẽ vời ra, và thay nhau đánh bóng tội ác để tiếp tục trấn lột máu xương của nhân dân và phục vụ cho mưu đồ bành trướng Bắc Kinh. Nếu không có cái điều cưỡng đoạt số 4 này, đất đai của ngưòi dân không thể bị quy hoạch tùy tiện, đất nước không có những dân oan. Không có cái điều 4 này, những người hy sinh bảo vệ quê hương sẽ có một vị trí sứng đáng trong lòng dân tộc. Không phải hẩm hiu, bia tàn, nhang lạnh và nằm dưói chân những nghĩa trang, những ngôi mộ hoành tráng mang tên " Liệt Sỹ Trung Quốc" ngay trên đất nước mình. Không có điều số 4 này, Việt Nam đã không bị mất biển đảo, không thể bị bất cứ kẻ nào vẽ lại đường biên giới. Dân ta sẽ không gặp đại họa, không bị bất hạnh như hôm nay.
Như thế, điều số 4 này có phải là con dao đã thọc sâu vào trong tim vào buồng phổi, vào lá gan của từng người, hay như cái búa đã đập vào đầu, vào cổ toàn thể dân ta hay không?
Điều số 4 này có phải là một thứ luật lệ của kẻ bá đạo, đang từng giờ, từng phút giết chết cuộc sống của cả dân tộc ta, hay nó phục vụ cho Việt Nam ta đây?
Hơn lúc nào hết, chúng ta nên nhớ rằng, Nhân quyền, công quyền của ta đã mất, ta đã như một kẻ nô lệ. Việc ta còn sống hay chết. Việc ta có bị tập đoàn cộng sản phanh thây, giam cầm, hay tôn giáo, tín ngưỡng của ta có có bị phỉ báng hay không, không phải là vấn đề để CS quan tâm. Với CS, dân ta đã bị coi là nô lệ, thì tên nô lệ ấy mang tên Việt Nam hay Trung quốc cũng chẳng có gì khác biệt. Có chăng là khi đất đai biển đảo và các công trình kinh tế của ta sau khi đã lọt vào tay Trung cộng thì quan cán CS được hưởng hàm thái thú, còn ta thêm một cái tròng mới vào cổ mà thôi.
Hỡi thanh niên, học sinh Việt Nam. Hãy tránh xa những trò bá đạo của HCM, đừng bao giờ dại dột theo gương y để tự gây họa cho mình và cho xã hội.
Hỡi người dân nô lệ, chúng ta chỉ có một con đường duy nhất để đi. Hãy cùng nhau đứng dậy, đập tan xích xiềng, xé nát tất cả những luật lệ bá đạo của chúng đi. Chúng ta và con cháu chúng ta phải lấy lại quyền làm người. Lấy lại Tự Do, Công Lý. Lấy lại quyền sống của một chủng tộc bất khuất trong dòng máu Độc Lập Việt Nam mà Tạo Hóa đã trao cho chúng ta.
Bảo Giang
5/2015
- Viết bởi Phạm Trần
Lời người viết: Cường độ xung khích bằng lời nói giữa Việt Nam, Phi Luật Tân và Hoa Kỳ với quyết tâm bành trướng lãnh thổ mau chóng của Trung Quốc ở Biển Đông trong năm 2014 và 6 tháng đầu năm 2015 đã gia tăng hiểm họa chiến tranh có thể xẩy ra bất cứ lúc nào.
Lý do vì Trung Quốc đã đặt Hoa Kỳ vá các nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc ở Biển Đông, đặc biệt Việt Nam và Phi Luật Tân, vào "tình trạng đã rồi" qua việc họ tấp nập ngày đêm tân tạo các bãi đá ngầm thành đảo có phòng tuyến quân sự ở khu vực Trường Sa. Trung Quốc còn dự tính thiết lập mạng lưới "nhận diện phòng không" để kiểm soát không lưu ở Biển Đông, sau khi dựng 2 ngọn Hải Đăng ở Gạc Ma và Châu Viên.
Việc làm của Trung Quốc không chỉ nhằm chặn đường tiến của Việt Nam ra Biển Đông mà còn đe dọa an ninh hàng hải huyết mạch của Thế giới.
Vậy Việt Nam phải làm gì để bảo vệ chủ quyền ?
Theo quan điểm của Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, một chuyên gia về Chính trị và Bang giao Quốc tế của Đại học George Mason thì "không ai, kể cả Mỹ, có thể đảo ngược tình thế trừ khi sẵn sàng chấp nhận chiến tranh với TQ".
Trong cuộc Phỏng vấn riêng với chúng tôi (Phạm Trần), Giáo sư Hùng, một Học gỉa không thường trú của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và quan hệ Quốc tế nổi tiếng ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn (CSIS, Center for Strategic&International Studies) còn thảo luận về mối quan hệ tay ba phức tạp trước tình hình Biển Đông giữa Việt Nam-Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Cuộc Phỏng vấn này được đài Truyền hình SBTN phát sóng trên toàn Bắc Mỹ vào lúc 11:00 PM tối Thứ Sáu, 29/05/2015, giờ miền Đông Hoa Kỳ, hay 8:00 PM giờ California.
Sau đây là toàn văn cuộc Phỏng vấn:
BIỂN ĐÔNG CĂNG THẲNG
Hỏi: Thưa Giáo sư, là Nhà nghiên cứu, ông thấy sự gia tăng cường độ hiềm khích giữa Việt Nam và Trung Quốc về tình hình Biển Đông trong thời gian gần đây như thế nào ?
Đáp: Rất căng thẳng và khó chịu, khởi đầu bằng việc Trung Quốc tuyên bố đường lưỡi bò năm 2009 đòi chủ quyển trên 80 phần 100 Biển Đông, và cao điểm là việc họ đem dàn khoang khổng lồ HD 981 vào thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của VN mùa Hè năm ngoái (từ ngày 02/05 đến 15/07/2014) dẫn đến các cuộc biểu tình bạo động chống các cơ sở thương mại của Trung Quốc tại Việt Nam.
Gần đây, họ gấp rút lấp biển, biến các đá ngầm thành các đảo nhân tạo có tiềm năng quân sự, tăng cường khả năng khống chế và kiểm soát của TQ trong một vùng quan yếu tại Biển Đông và chặn đường tiến của VN ra biển. Có người gọi việc làm này của TQ là việc xây dựng một "trường thành trên biển."
Hỏi:Trong bối cảnh dân chúng Việt Nam nói với Quốc hội rằng họ rất bất bình trước việc Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo trên 7 bãi đá mà họ chiếm được của Việt Nam trong khu vực Trường Sa năm 1988, và đề nghị Chính phủ có biện pháp hữu hiệu để bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông. Theo ông thì Việt Nam có thể làm được gì vào lúc này ?
Đáp: TQ biến các đá chìm thành đảo là việc đã rồi, không ai, kể cả Mỹ, có thể đảo ngược tình thế trừ khi sẵn sàng chấp nhận chiến tranh với TQ.
Riêng đối với Việt Nam, việc cần làm là cố giữ các đảo đã có, làm áp lực để TQ ngưng xây thêm, và ngăn cản không cho TQ độc quyền kiểm soát, tuần tra, và khai thác trong vùng biển tranh chấp.
Tất cà những việc này, Việt Nam không thể làm một mình có hiệu quả, mà cần có thêm sự phối hợp với các nước ASEAN có cùng quyền lợi, nhất là sự trơ giúp của các nước lớn như Mỹ, Nhật, Ấn. v.v...
Hỏi: Đại sứ Mỹ ở Hà Nội Ted Osius nói rằng chiến lược bành trướng lãnh thổ ở Biển Đông của Bắc Kinh trong thời gian gần đây đã khiến cho Hoa Thịnh Đốn và Hà Nội xích lại gần nhau hơn, tiêu biểu là Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Ashton (Ash) Carter sẽ thăm Việt Nam nay mai và sẽ có tới 5 Ủy viên Bộ Chính trị đảng CSVN sẽ thăm Hoa Kỳ trong thời gian tới.
Tôi biết Giáo sư là người theo dõi các biến chuyển này rất chặt chẽ, vậy ông đánh giá các chuyến thăm cao cấp của hai nước Việt-Mỹ như thế nào và liệu Bắc Kinh có quan tâm không ?
Đáp: Các nhà lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, thường kêu gọi hai bên phải xây dựng niềm tin chiến lược. Những hoạt đông mà ông vừa kể là cốt để gia tăng niềm tin ấy, đặt căn bản cho sự hợp tác quốc phòng chặt chẽ hơn giữa hai nước.
Chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ sau hội nghị Đối thoại Sanghri-La (tại Tân Gia Ba từ ngày 29 đến 31/5/2015), và của một phái đoàn các nhà lãnh đạo ủy ban quốc phòng của Thượng Viện Mỹ trước khi họ đi Sanghri-La chắc chắn là để chuẩn bị cho nội dung hợp tác quốc phòng Việt-Mỹ trong chuyến thăm Mỹ sắp tới của Tổng Bí Thư (Nguyễn Phú)Trọng.
Tiến trình này chắc chắn buộc TQ phải quan tâm.
(Chú thích: Trước khi đến dự Hội nghị Sanghri-La, Phái đòan Nghị sỹ Cộng hòa John McCain (Arizona), Chủ tịch Ủy ban Quân viện Thượng nghị Viện và thành viên cao cấp của Ủy ban, Nghị sỹ Dân chủ Jack Reed (Rhode Island) và 2 Nghĩ sỹ Cộng Hòa Joni Earnst (Iowa) và Dan Sullivan (Alska) đã gặp Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội ngày 27/5/2015.
Đài Tiếng nói Việt Nam ( VOV,Voice of Vietnam,) viết tại cuộc họp này: "Thượng Nghị sỹ John McCain và Đoàn bày tỏ quan tâm đặc biệt đến vấn đề an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở khu vực nói chung và những diễn biến gần đây ở Biển Đông nói riêng; khẳng định ủng hộ việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp ngoại giao, hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982."
Về phía ông Trọng, VOV cho biết: " Về tình hình Biển Đông, Tổng Bí thư khẳng định lập trường kiên định của Việt Nam bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, trước hết bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc, luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước về Luật biển năm 1982; Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), tiến tới Bộ Quy tắc về ứng xử của các bên ở biển Đông (COC); phản đối mọi hành vi coi thường luật pháp quốc tế, phá vỡ hiện trạng, đe dọa hòa bình và ổn định trong khu vực."
DOC hay Declaration of Conduct là Thoả hiệp không có tính ràng buộc pháp lý giữa Trung Quốc với Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) ký tại Nam Vang (Kampuchia) năm 2002. Trung Quốc đã công khai vi phạn để dành phần thắng về cho mình ở Biển Đông. Và từ năm 2012, ASEAN và Trung Quốc đã họp nhiều lần để thảo luận đi đến ký kết Thỏa hiệp COC (Code of Conduct) có ràng buộc pháp lý, nước nào vi phạm sẽ bị trừng phạt. Nhưng Trung Quốc đã tìm mọi lý do để trì hõan, kể cả thi hành mánh khoé gây chia rẽ trong nội bộ ASEAN và lập luận rằng tranh chấp trên Biển Đông là chuyện riêng giữa Trung Quốc với các nước có tranh chấp mà không liên hệ đến cả tập thể 10 nước ASEAN, hay các nước ngoài khu vực, ám chỉ Hoa Kỳ.
CHIẾN TRANH-NGUYỄN PHÚ TRỌNG
Hỏi:Thưa Giáo sư, phần trên ông có nói đến tình hình "căng thẳng rất khó chịu" do những họat động xây dựng đảo của Trung Quốc ở Biển Đông và vị thế khó xử của Việt Nam và Hoa Kỳ, vậy ông có lo ngại sẽ xẩy một cuộc chiến tranh không ?"
Đáp: "Những đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang xây cất một cách gấp rút ở cách bờ biển TQ 600 hải lý (trên 1,000 cây số), nằm giữa Việt Nam, Phi Luật Tân, Brunei, Mã Lai Á, và Nam Dương. Hoa Kỳ quan tâm đến việc Trung Quốc xây dựng căn cứ quân sự trên các đảo nhân tạo ở đây sẽ tăng cường mạnh mẽ khả năng của Trung Quốc kiểm soát và chế ngự một tuyến giao thông quan trọng ngay giữa Biển Đông, đe dọa trầm trọng tư do hang hải và quyền lợi của Mỹ.
Hơn nữa, theo luật quốc tế, không nước nào có chủ quyền trên đá chìm khi thủy triều lên, nếu chúng nằm ngoài lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế. Những đảo nhân tạo mà TQ đang xây nằm rất xa ngoài vùng đặc quyền kinh tế của TQ. Khi biến đá ngầm thành đảo, TQ đã thay đổi nguyên trạng một cách trầm trọng, áp đặt chủ quyền và nới rộng vùng kiểm soát của mình trên vùng biển tranh chấp. Nếu không bị chặn lại, TQ có thể dần dần biến toàn thể vùng biển ở trong khu vực đương lưỡi bò thành vùng biển của riêng mình.
Vì thế, Mỹ phản ứng bằng cách nêu rõ quan tâm của mình với TQ trong chuyến thăm TQ của Ngoại trương John Kerry, đồng thời cho phi cơ tuần thám hải quân P-8A Poseidon bay qua đảo nhân tạo của TQ, bất kể cảnh báo của TQ, để chứng tỏ Mỹ không công nhận chủ quyền của TQ trên những đảo ấy. Mặt khác, Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ còn tuyên bố Mỹ dự tính gửi tầu hải quân đi sâu vào trong vùng 12 hải lý quanh đảo để xác định lập trường của mình.
Trước thái độ ấy, TQ đã chính thức đưa văn thư phản đối đòi Mỹ phải tôn trọng chủ quyền của TQ và tránh những hành động "khiêu khich." Ngoại trương TQ Vương Nghị còn xác quyết "Quyết tâm bảo vệ chủ quyền và vẹn toàn lãnh thổ của TQ vững như đá và không thể lay chuyển."
Hai lập trường đối nghịch này khi còn trong trạng thái các tuyên bố và cảnh báo cũng đủ gây căng thẳng, nhưng nếu được thực hiên bằng hành động nó sẽ tạo ra thế đối đầu quân sự ở trên không cũng như trên biển với rất nhiều rủi ro đi quá đà và dẫn đến xung đột. Chính vì thê mà Cựu Phó Giám Đốc Trung Ương Tinh Báo Mỹ, ông Mike Morell, cho rằng tình trạng đôi đầu này rất nguy hiểm và có thể dẫn đến chiến tranh Trung-Mỹ trong tương lai.
Hỏi: Cũng nhân tiện nói về các cuộc thăm nhau hữu nghị giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, tôi muốn biết sự thẩm định của Giáo sư về chuyến thăm lịch sử lần đầu tiên đến Hoa Kỳ sắp tới của Tổng Bí thư CSVN Nguyễn Phú Trọng có thể nào được coi như "một canh bạc ngọai giao và an ninh chính trị" của đảng CSVN, sau khi ông Trọng đã gặp Chủ tịch Nhà nước-Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình hồi đầu tháng 4 vừa qua hay không ?
Đáp: Chuyến thăm Mỹ sắp tới của Tổng Bí Thư Đảng CSVN có tính cách lịch sử vì đây là lần đầu tiên một TBT ĐCSVN, công du Mỹ. Nó càng có tính cách lịch sử hơn nếu ông Trọng được ông Obama tiếp như lời nói úp mở của Thứ Trưởng Ngoại Giao Mỹ hôm 19/5 tại Hà Nội rằng "TT Obama mong được tiếp TBT Trọng" ở Washington, DC, vì đây sẽ là lần đầu tiên người lãnh đạo quốc gia Mỹ tiếp người lãnh đạo một đảng cùa nước nhỏ, một biệt lệ trong nghi lễ ngoại giao của Mỹ.
Trong bối cảnh hiện nay tại Biển Đông và những cuộc viếng thăm Việt Nam dồn dập của các nhà lãnh đạo quốc phòng Mỹ --cả hành pháp lẫn lập pháp-- chuyến đi của ông Trọng sẽ bị coi là một thất bại nếu ông không tạo được bước tiến quyết liệt trong quan hệ quốc phòng Việt-Mỹ.
Nếu ông thành công, thì việc mà Việt Nam rất mong muốn là chuyến công du Việt Nam của TT Obama cuối năm nay sẽ dễ thành sự thật.
TPP VÀ NHÂN QUYỀN-CÔNG ĐÒAN
Hỏi: Thưa Giáo sư, như ông biết là 12 nước, kể cả Hoa Kỳ và Việt Nam, đang cố gắng kết thúc đàm phán về Hiệp ước Thương mại xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership, TPP), nhưng có một số Dân biểu và Nghị sỹ trong Quốc hội Mỹ cho biết họ chưa sẵn sàng bỏ phiếu tán thành chừng nào Việt Nam còn tiếp tục đàn áp phi pháp người dân, chưa thả tù chính trị và chưa đồng ý cho phép công nhân được thành lập nghiệp đòan để bảo vệ quyền lợi.
Ông có nghĩ rằng Hiệp ước TPP đang gặp những khó khăn chính trị khó vượt qua giữa Mỹ và Việt Nam không ?
Đáp: Tình trạng nhân quyền ở VN là một nguyên nhân chống đối, nhưng nguyên nhân ấy không quan trọng bằng quyền lơi kinh tế của nghiệp đoàn lao động, một nguồn phiếu và tài chính quan trọng của các chính trị gia thuộc đảng Dân chủ.
TPP không phải chỉ là một vấn đề thuần kinh tế mà nó có tầm quan trọng chiến lược lơn đối với Mỹ. Thất bại trong việc hoàn tất hiệp ước TPP sẽ là một thất bại của nước Mỹ trong cuộc tranh giành ảnh hưởng kinh tế và chính trị giữa Mỹ và Trung Quốc ở Á châu-Thái binh dương với hậu quả biến Mỹ thành một cường quốc hạng hai ở một khu vực có tầm quan trọng kinh tế và chiến lược bậc nhất thế giơi hiện nay và trong tương lai.
Tôi nghĩ rằng cuối cùng các chính trị gia Mỹ dù thiển cận, ích kỷ, và chịu áp lực cùa nhóm lơi ích đến đâu cũng nhận ra đâu là quyền lợi quốc gia quan trọng của nước Mỹ mà bỏ phiếu thông qua thủ tục phê chuẩn nhanh TPA (Trade Promotion Authority) và hiệp ước TPP.
Hỏi: Câu hỏi cuối cùng của chúng tôi với Giáo sư là vào tháng 9 tới đây, Chủ tịch Nhà nước Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ thăm Hoa Kỳ, vậy ông kỳ vọng gì về chuyến đi này trong bối cảnh Hoa Kỳ đã công khai khó chịu trước kế họach trang bị quân sự mới và bành trướng Quốc phòng của Bắc Kinh ở Á Châu và Thái Bình Dương ?
Đáp: Nếu không có biến cố gì làm chuyến đi bị hủy hay trì hoãn, TQ sẽ tìm cách xoa dịu và ru ngủ Mỹ và hai bên sẽ tìm cách đạt được môt số thỏa thuận trong khung cảnh xây dựng một "quan hệ đại cường kiểu mới."
Quốc hội CSVN sẽ họp phiên đặc biệt vào ngày 5/6/2015 để nghe Chính phủ tường trình về tình hình Biển Đông. Tuy nhiên, nếu chỉ nói để cho Quốc hội nghe mà không có thảo luận và không công khai thì có họp cũng như không.
Chuyện họp kín về tình hình Biển Đông đã xẩy ra vài lần tại Quốc hội trong qúa khứ, cũng như chuyện Quốc hội không dám đưa ra Nghị quyết lên án Trung Quốc khi nước này đặt giàn khoan Hải Dương 981 vào bên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam tháng 5/2014 đã gây bất bình trong số đông Đại biểu Quốc hội và người dân.
Vậy liệu người dân có nên kỳ vọng gì vào phiên họp ngày 5/6 sắp tới của Quốc hội hay cứ tiếp tục cắn răng mà nghe Bộ Trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị nói rằng: "Trung Quốc đang tiến hành xây dựng đảo nhân tạo cần thiết trong khu vực chủ quyền và điều này không gây ảnh hưởng đến ai ...Chúng tôi không giống như một số quốc gia khác tiến hành xây dựng trái phép trong khu vực của người khác. Chúng tôi chỉ xây dựng đảo ngay trên sân nhà của chúng tôi" ?
(Trích phát biểu ngày 08/03/1015 tại Bắc Kinh)
VÀO CUỘC BẰNG NƯỚC BỌT
Chính phủ CSVN đã không có "ăn miếng trả miếng" với tuyên bố của Vương Nghị mà để cho một số báo và cá nhân lên tiếng chống lại quan điểm tiếm nhận chủ quyền trắng trợn của họ Vương.
Mãi cho đến chiều ngày 27/5/ (2015), trong cuộc họp báo thường kỳ của Chính phủ, mới thấy Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn lên tiếng xác nhận: " Hiện nay Trung Quốc đang công khai và ráo riết triển khai các hoạt động lấn biển, thi công các công trình với quy mô rất lớn trên tất cả các cấu trúc mà Trung Quốc đang chiếm đóng bất hợp pháp ở Trường Sa của Việt Nam."
Theo ông Tuấn: " Đặc biệt hiện nay các hoạt động này diễn ra nhiều tại 5 địa điểm, cụ thể là Gaven khoảng 15 héc-ta, Gạc Ma khoảng 13,2 héc-ta, Châu Viên khoảng 24 héc-ta; Huy Gơ khoảng 9,2 héc-ta và lớn nhất là chữ Thập khoảng 180 héc-ta.
"Tất cả các đoàn đi Trường Sa thì đều phát hiện điều đó. Ba cấu trúc mà Trung Quốc xây dựng thành đảo là Gaven, Huy Gơ và GạcMa. Hiện nay hầu hết ở các điểm đó hầu hết họ tạo các luồng lạch để cho tàu đi vào.
Ở một số đảo họ xây công trình cao tầng, thí dụ như ở Huy Gơ và Gạc Ma có công trình cao bảy, tám tầng. Ngoài ra, họ xây dựng các công trình cao như đèn biển hoặc trung tâm hướng dẫn bay".
Những tiết lộ của ông Tuấn không mới vì đã được một số báo chuyên về Quốc phòng của nước ngoài tiết lộ rồi.
Có khác chăng là Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam đã vào cuộc lên án việc làm của Trung Quốc mà đảng và nhà nước CSVN từ lâu vẫn ca ngợi "vừa là đồng chí vừa là anh em", hay "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt" !
Thứ trưởng Tuấn nói: "Các hành vi xâm lấn trái phép biển đảo của Việt Nam do phía Trung Quốc thực hiện đã diễn ra trong nhiều năm nay. Thứ trưởng Trương Minh Tuấn khắng định: "Việc làm của Trung Quốc là bất chấp phản ứng của ta và cộng đồng quốc tế.
Có thể nói tình hình Biển Đông chưa có xảy ra đụng độ, nhưng việc làm đó là một bước đi chiến lược của Trung Quốc để nhằm hiện thực hóa yêu sách đường lưỡi bò, không loại trừ khống chế và kiểm soát toàn bộ phía Nam của Biển Đông. Thí dụ như vừa rồi họ ra lệnh cấm đánh bắt cá và cũng không loại trừ trường hợp họ tuyên bố vùng nhận dạng phòng không".
(Trích báo Giáo dục Việt Nam, 27/05/2015)
Vậy Việt Nam sẽ làm gì để lấy lại niềm tin trong dân và sự tin cậy của các nước trong khu vực hay Hà Nội cứ tiếp tục "nói cho qua cầu" với hy vọng áp lực của Quốc tế sẽ ngăn chận các bước đi tiếp theo của Bắc Kinh ?
Nên biết Trung Cộng đã chiếm Hòang Sa của Việt Nam từ năm 1974 và đánh chiếm 8 bãi đã ỡ Trường Sa từ năm 1988 mà đảng CSVN chưa làm gì để chiếm lại hay ít ra ngăn chận Trung Cộng không thể biến bãi thành đảo như đang diễn ra ở vùng Trường Sa.
Vì lãnh đạo Việt Nam đã không làm gì cả nên biển đảo Việt Nam cứ mất dần vào tay Trung Quốc như ai cũng đã thấy.
Bằng chứng, như chuyên gia Nguyễn Mạnh Hùng cảnh giác về việc Trung Quốc hình thành các đảo nhân tạo "không ai, kể cả Mỹ, có thể đảo ngược tình thế trừ khi sẵn sàng chấp nhận chiến tranh với TQ, mà Thứ trưởng Trương Minh Tuấn vẫn cứ đề nghị hoang tưởng: "Trong thời gian tới chúng tôi rất mong muốn các cơ quan báo chí tiếp tục tuyên truyền về chiến lược biển của Việt Nam đến năm 2020, tuyên truyền về mô hình phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền trên biển."
Ông nói: " Tôi rất mong các cơ quan báo chí có những tin bài sắc bén, có lý lẽ và thuyết phục để đấu tranh với Trung Quốc trước những hoạt động lấn biển vi phạm DOC và Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển 1982". (trích báo Giáo dục Việt Nam, 27/05/2015)
Đề nghị của ông Tuấn sẽ như khua trống thùng rỗng chỉ đủ nghe cho Bộ Thông tin và Truyền Thông và Ban Tuyên giáo đảng. Nhà nước "bành trướng và bá quyền" Bắc Kinh ở cách xa thủ đô Hà Nội tới 2,322 cây số, và phải mất 4 giờ bay thẳng mới tới nơi thì làm sao Lãnh tụ Tập Cận Bình nghe thấu ?
Rõ là chuyện chỉ biết "nói cho xong chuyện" mà quên rằng kẻ thù đã đến sau lưng. -/-
Phạm Trần
- Viết bởi Lê Minh Nguyên
GNsP (29.05.2015) – Sài Gòn – Ngày 19/5/2015, Bộ Chính Trị (BCT) ra Chỉ thị số 45 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết 36 về công tác với người Việt Nam ở nước ngoài. Họ kêu gọi người VN ở nước ngoài “xoá bỏ mặc cảm, định kiến”.
Câu hỏi được đặt ra là ai, bên nào, mới thực sự là còn mang “mặc cảm” của bạo lực khủng bố và “định kiến” rằng ta là kẻ chiến thắng nên chính nghĩa thuộc về ta. Sau 40 năm ta vẫn muốn ăn mày dĩ vãng, bởi vì ta tuy có sức mạnh tức thời của bạo lực nhưng không có sức mạnh nội lực lâu dài của văn minh nhân loại. Cho nên kẻ cần “xoá bỏ mặc cảm, định kiến” là lãnh đạo và đảng viên của đảng CSVN, chứ không phải người Việt hải ngoại, vì họ đã rất thành công và được đất nước mới của họ trân trọng, đến độ Tổng Thống Obama hồi tháng Sáu năm 2013 khi cùng ông Chủ Tịch Nuớc CSVN Truơng Tấn Sang công khai gặp gỡ báo chí đã khuyên ông Sang nên liên hệ tốt với người Mỹ gốc Việt nếu muốn quan hệ hai nước tiến lên tầm cao chiến lược.
CSVN nói rằng “…mọi người Việt Nam… mong muốn góp phần… đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.”
Cho đến hôm nay, CSVN vẫn chưa có một lãnh tụ nào, hay một chính sách nào có chủ trương HOÀ GIẢI (ngồi ngang tầm trong một môi trường hoàn toàn tự do, không ràng buộc, để đối diện với sự thật lịch sử mà nói chuyện phải quấy, trước khi đi xa hơn để có thể nói hay giải quyết những bế tắc của đất nước) với bên phía thua cuộc, tức người Việt trong nước và ngoài nước của phía Việt Nam Cộng Hoà. CSVN mang mặc cảm bất an và cao ngạo, họ chỉ chủ trương HOÀ HỢP, ĐẠI ĐOÀN KẾT, tức muốn người ta chung vào cái rọ độc tài, chim có hót thì hót trong chiếc lồng sắt của chế độ CS.
Có lẽ ông Tổng Bí Thư CSVN Nguyễn Phú Trọng sắp đi Mỹ (dư luận là tháng Sáu 2015) nên CS có nhu cầu xoa dịu theo lối cha chú và trịch thượng với người Việt hải ngoại, BCT viết “BCT cũng khẳng định người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời… Mọi người VN ở nước ngoài đều được khuyến khích… Các vấn đề còn tồn đọng sẽ được giải quyết trên tinh thần cởi mở, chân thành, khép lại quá khứ, hướng tới tương lai…”
Ai là kẻ không khép lại quá khứ mà tối ngày cứ đi ăn mày dĩ vãng, nào chống Mỹ cứu nuớc, nào chị du kích bắn rớt máy bay, nào chiến thắng Nguỵ nơi này nơi kia, nào ca ngợi và lải nhải các hành động bạo lực, khủng bố, ám sát, đấp mô, ném bom vào dân chúng…?
Nguời CS dối trá trong thế kỷ 20 thì bùa này của họ có linh do thiếu thông tin đa chiều và đại chúng lúc bấy giờ, ngày nay là thế kỷ 21 của Thời Đại Thông Tin rồi, bùa tuyên truyền và dối trá không còn linh thiêng nữa đâu, tiếc là CS không có khả năng thay đổi qua chân thật, cho nên là sinh vật sắp tuyệt chủng vì không tự điều chỉnh được qua môi trường sống hoàn toàn mới và khác xưa.
Lê Minh Nguyên
Nguồn: Trích từ GNsP
- Viết bởi Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi
GNsP (25.05.2015) – Sài Gòn – Cách đây đúng 40 năm, ngày 30-04-1975, đoàn quân Cộng sản từ Việt Nam Dân chủ đã hoàn toàn thôn tính Việt Nam Cộng Hòa, kết thúc một cuộc chiến tranh xâm lược dài gần 20 năm với bao tang thương đổ vỡ cho cả hai miền đất nước. Chiến thắng này đạt được nhờ nhiều yếu tố: sự thay đổi bàn cờ quốc tế của các đại cường, đặc biệt là Hoa Kỳ và Trung Quốc; sự bỏ cuộc của chính quyền Mỹ trước áp lực của giới phản chiến ngây thơ bị Cộng sản quốc tế tuyên truyền; sự quyết tâm của Nga và Tầu muốn mở rộng đế quốc đỏ xuống Đông Nam Á bằng vũ lực; sự tiếp tay của những thành phần thân Hà Nội chẳng hiểu gì về chế độ Cộng sản ngay trong lòng VN Cộng hòa; sự bó tay của chính quyền và quân lực miền Nam do không còn được Đồng minh viện trợ vũ khí nữa.
Nay đã đến lúc nhìn lại những gì xẩy ra tại Việt Nam do bàn tay Việt cộng (VC) từ sau cái ngày bi thảm và tang thương đó đến thời điểm hiện tại. Có thể quy về 2 điểm: 40 năm áp đặt chế độ toàn trị và 40 năm tiêu diệt ý thức con người.
1- 40 năm áp đặt chế độ toàn trị.
Khác hẳn mọi chế độ độc tài trong lịch sử nhân loại (phát xít, quốc xã, tài phiệt, giáo phiệt…) vốn chỉ chú trọng tới một hai khía cạnh trong đời sống quốc gia xã hội, các chế độ độc tài CS từ xưa tới nay đều mang tính cách toàn trị, nghĩa là muốn quản lý hết mọi khía cạnh trong đời sống xã hội lẫn cá nhân, từ vật chất đến tinh thần. VC không ngoài thông lệ đó.
a- Toàn trị chính trị:
Đảng Việt cộng luôn muốn chỉ duy mình cai trị đất nước, không chấp nhận đảng phái. Chính vì thế, sau khi chiến thắng hoàn toàn VNCH, việc đầu tiên của Hà Nội là giam nhốt mọi quân, cán, chính của chế độ cũ và đảng viên các đảng phi Cộng sản như Đại Việt, Dân chủ, VN Quốc Dân Đảng v.v… nhiều năm đằng đẵng trong những nhà tù phần lớn ở chốn rừng thiêng nước độc mang mỹ từ “trại cải tạo”. Tiếp đến là tấn công tiêu diệt gọn các nhóm phục quốc vốn bắt đầu xuất hiện rải rác sau năm 1975 tại miền Nam; rồi còn tạo ra những tổ chức kháng chiến giả để chiêu dụ các thanh niên yêu nước hòng đưa họ vào bẫy. Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền nam vốn là công cụ của Hà Nội cũng bị giải tán năm 1977. Để chính danh hóa và hợp hiến hóa quyền cai trị độc hữu của mình, trong Hiến pháp 1980, qua điều 4 (và các HP sau đó cũng vậy), đảng VC khẳng định mình là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội. Theo đà này, hai đảng bù nhìn là Dân chủ VN (thành lập 1944) và Xã hội VN (thành lập 1946) đều cùng bị khai tử năm 1988. Từ 1975 đến nay, các cá nhân hay tổ chức đòi đa nguyên đa đảng đều bị trấn áp tàn bạo, như bác sĩ Nguyễn Đan Quế bị tù 18 năm (1978-1988; 1990-1998) vì thành lập Tổ chức Theo dõi Nhân quyền và Cao trào Nhân bản, giáo sư Đoàn Viết Hoạt bị tù 17 năm (1976-1988; 1993-1998) vì tham gia tổ chức Diễn đàn tự do. Tam quyền phân lập bị VC biến thành tam quyền phân công nằm dưới sự chỉ đạo của đảng. Nhưng để tránh mang tiếng đàn áp chính trị, VC gọi các “tội chính trị” là tội hình sự, và đặc biệt dùng các điều 79, 88 và 258 Bộ luật Hình sự để trừng phạt “tội” này.
Hậu quả là toàn dân (trừ đảng viên VC) mất hết mọi quyền chính trị và dân sự, không thể chọn người đại diện cho mình lãnh đạo đất nước, cũng không thể tham gia vào quốc sự qua việc ứng cử vào quốc hội hay các hội đồng nhân dân tỉnh, quận, huyện (vốn chỉ dành cho các đảng viên VC). Bầu khí chính trị ngột ngạt, tù nhân chính trị đông đảo (theo thống kê mới nhất, hiện còn 105 tù nhân lương tâm). Điều quan trọng nữa là sự toàn trị chính trị này chính là nguyên nhân gây nên các hậu quả tiếp theo bên dưới.
b- Toàn trị kinh tế:
Trung thành với học thuyết kinh tế Mác-Lênin không chấp nhận tư hữu tư liệu sản xuất (công ty, xí nghiệp, nhà máy, phương tiện vận tải…) cũng như chấp nhận giai cấp tư sản và tiểu tư sản, tháng 7-1976, Bộ Chính trị đảng Lao động ra Nghị quyết 254/NQ/TW về xoá bỏ giai cấp tư sản mại bản, tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Tiếp theo, tháng 03-1977, Bộ Chính trị đảng Cộng sản ra quyết định hoàn tất kế hoạch gọi là “cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh miền Nam”. Song song đó, họ đuổi hàng vạn thị dân ở miền Nam đi kinh tế mới để cướp đất cướp nhà. Lãnh đạo chiến dịch này là hai kẻ vừa mù quáng, vừa ngu dốt vừa tàn bạo: Đỗ Mười và Lê Duẩn. Hậu quả là đất nước đứng bên bờ vực thẳm phá sản và kiệt quệ, nên năm 1986, VC phải đề ra chính sách “Đổi mới”, một chương trình cải cách kinh tế theo phương thức thị trường. Đời sống vật chất của nhân dân phần nào dễ thở hơn, nhưng đảng CS lại nhân cơ hội này biến mình thành địa chủ mới và tư bản đỏ. Nên bản Hiến pháp năm 1992, điều 17-18 đưa ra khái niệm mỵ dân, lường gạt và quái đản: “Mọi tài nguyên đất nước đều thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý”. Luật Đất đai ra đời năm tiếp đó tái khẳng định chuyện này (ở ngay điều 1). Quyền tư hữu đất đai có từ xưa đến nay bị hoàn toàn bãi bỏ; người dân chỉ còn quyền sử dụng, nghĩa là trở thành kẻ đi thuê của nhà nước, đang khi nhiều đảng viên sở hữu hàng trăm héc-ta ruộng vườn. Nhà nước (thực chất là đảng) muốn nắm hết đất đai để bóp nghẹt tự do của người dân và có phương tiện duy trì quyền thống trị của đảng. Song song đó, VC còn đưa thêm khái niệm quái đản thứ hai là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” với kinh tế nhà nước làm chủ đạo (HP 1992, đ. 15 và HP 2013, điều 51). Trên thực tế, đó là việc thành lập nhiều tổng công ty và đại tập đoàn quốc doanh, đặc biệt từ thời Nguyễn Tấn Dũng, do đảng viên và thân thuộc nắm giữ với rất nhiều ưu đãi, nhưng rốt cuộc các doanh nghiệp nhà nước này chỉ có ăn và phá (tham nhũng và thua lỗ), làm thiệt hại nặng nề cho ngân quỹ quốc gia tới hàng tỷ tỷ đồng.
Hậu quả là sau gần 4 thập niên có hòa bình để phát triển, lợi tức đầu người năm 2014 của VN chỉ là 1.028 mỹ kim (đang lúc Singapore có cùng khởi điểm thoát khỏi chế độ thuộc địa, lại tới 36.897 mỹ kim). Năng suất lao động của VN chỉ bằng 1/18 của Singapore, 1/6 của Malaysia, 1/3 của Thái Lan và Trung Quốc (theo Tổng cục Thống kê ngày 27-12-2014), và năng lực cạnh tranh của VN thì đứng chót ASEAN (theo Thủ tướng VC ngày 25-03-2015). Mấy năm gần đây, hàng trăm ngàn doanh nghiệp tư phá sản. Nợ công, nợ xấu chồng chất, nhà nước phải đi “vay để trả nợ” 3 tháng một tỷ đô, mỗi người VN gánh gần 1.000 đô nợ… Thê thảm nhất là nạn dân oan (nông dân bị cướp đất và thị dân bị cướp nhà với lý do phát triển kinh tế) lên tới hàng triệu người sống dở chết dở.
c- Toàn trị văn hóa:
Văn hóa –có thể nói– quy định cách ứng xử của con người trong xã hội, thái độ đối với kẻ khác và đối với nhà cầm quyền. Chính vì thế, để dễ khuất phục lòng dân, VC cũng chủ trương phải toàn trị về văn hóa. Nên ngay sau khi chiếm được miền Nam, để hoàn toàn xóa bỏ cái gọi là “văn hóa đồi trụy Mỹ-Ngụy”, VC tịch thu phá hủy mọi sách văn học, nghệ thuật, lịch sử của VNCH, bỏ tù rất nhiều văn nhân nghệ sĩ. Song song đó, như hồi Nhân văn Giai phẩm, VC đọa đày các nhà văn phản kháng từng có thời phục vụ chế độ như Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Khải, Trần Đĩnh, Trần Mạnh Hảo… Tất cả mọi ngành văn học nghệ thuật đều phải phục vụ chính trị, nghĩa là đề cao chủ nghĩa, chế độ và chính đảng Cộng sản.
Chủ trương toàn trị văn hóa được đặc biệt thực thi trên lãnh vực giáo dục: giáo dục đại chúng và giáo dục học đường. Để giáo dục đại chúng, VC cấm hẳn báo chí tư nhân, nắm hết báo chí các loại (Theo Bộ Thông tin Truyền thông, tính đến ngày 26-12-2013, toàn quốc có 838 cơ quan báo chí in với 1.111 ấn phẩm, trong đó Trung ương có 86 báo, 507 tạp chí; địa phương có 113 báo, 132 tạp chí; ngoài ra có 70 báo điện tử, 19 tạp chí điện tử và 265 trang thông tin điện tử tổng hợp). VC dùng chúng không phải như những phương tiện thông tin đơn thuần mà như những công cụ tuyên truyền nhồi sọ công chúng, hướng dẫn lèo lái công luận. Thành thử cơ quan đứng đầu việc này được gọi là Ban Tuyên giáo trung ương! Tất cả chỉ nhằm cho nhân dân thấy đảng là thần công lý và nguồn sự thật.
Về giáo dục học đường, VC chủ trương độc quyền và kỳ thị. Ngay sau 1975 thì kỳ thị đối với “con Ngụy” một thời gian dài (không cho học lên cao) và cho đến nay thì kỳ thị các tôn giáo (không cho mở trường từ tiểu học đến đại học). Độc quyền ở chỗ mọi hiệu trưởng đều là đảng viên, triết lý giáo dục là học thuyết Mác Lê và tư tưởng Hồ, không đào tạo giới trẻ thành công dân tự do và trách nhiệm cho đất nước nhưng thành thần dân tùng phục đảng và công cụ phục vụ đảng.
Toàn trị văn hóa còn thực hiện qua chủ trương đàn áp tôn giáo bằng bạo lực vũ khí (cướp bóc chiếm đoạt cơ sở, cầm tù thủ tiêu nhân sự) và bằng bạo lực hành chánh (ra pháp lệnh, nghị định và tới đây là luật về tôn giáo) nhằm ngăn chận các giáo hội đưa vào quần chúng giáo lý đầy tính giải thoát và văn hóa đậm chất nhân bản của mình, ngõ hầu thuyết duy vật vô thần độc tôn thống trị.
Hậu quả là Việt Nam hiện nay không có những tác phẩm văn chương, nghệ thuật giá trị; thành tựu khoa học (phát minh sáng kiến) thì hiếm hoi và ít được quốc tế công nhận; trình độ học sinh, sinh viên, chuyên gia thấp kém (nhiều bằng cấp cao nhưng đa phần dổm giả). Cơ sở giáo dục thiếu thốn và bệ rạc; đạo đức học đường sa sút từ thầy đến trò, theo tôn chỉ “tiên học chữ, hậu học chạy”, đầy dẫy bạo hành và gian dối; đạo đức xã hội xuống cấp trầm trọng: con người sống dửng dưng, bóc lột, giành giật, lừa đảo nhau; nạn hối lộ tham nhũng, mua quan bán chức thành chuyện bình thường; mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh, lễ hội nhếch nhác xuất hiện khắp nơi; người ta tự ru ngủ với những kỷ lục lớn, thành tích ảo (như đài tưởng niệm lớn nhất, tô hủ tíu to nhất, tháp truyền hình cao nhất…)
d- Toàn trị xã hội:
Não trạng độc tài chuyên chế không chấp nhận để lọt thành phần nào, giai tầng nào trong xã hội. Vì thế VC đã tạo ra một cái rọ mang tên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để quy tụ trong đó mọi tổ chức chính trị, kinh tế, dân sự vốn luôn tìm đủ cách chiêu nạp thành viên cho mình, dù có thể bằng cưỡng buộc. Hiện Mặt trận Tổ quốc này có 44 thành viên, tiêu biểu là Đảng cộng sản, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Liệp hội các hội văn học – nghệ thuật Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam, Hội Phật giáo Việt Nam, Uỷ ban đoàn kết Công giáo Việt Nam v.v… Tất cả đều ở dưới sự chỉ đạo của đảng, thành phần lãnh đạo đều là người của đảng, với mục đích tối cao là bảo vệ sự cai trị độc đoán và lâu dài của đảng, bằng việc kiểm soát tư tưởng tình cảm lẫn khống chế hành vi cuộc sống các thành viên thuộc những tổ chức nhốt trong rọ Mặt trận này.
Và để việc toàn trị cả xã hội được bảo đảm hơn nữa, VC biến các lực lượng trong đất nước thành công cụ cho mình, kể từ Quốc hội (lập pháp), Tòa án (tư pháp), chính quyền (hành pháp), công an tay sai, tôn giáo quốc doanh, báo chí nhà nước. Quốc hội biến ý đảng thành lòng dân, xây dựng luật để cưỡng bức dân theo ý đảng. Chính quyền làm thành một mạng lưới phủ khắp đất nước, dùng nền hành chánh buộc dân tuân theo các chính sách và đường lối của đảng. Tòa án xét xử cấu kết với kiểm sát công tố và công an điều tra để luôn làm cho công lý đứng về phía đảng hơn phía dân. Còn công an chính là thanh gươm bảo vệ, lá chắn che chở đảng, không để một thằng dân nào động tới được quyền lực của đảng. Tôn giáo quốc doanh ru ngủ tín đồ hãy luôn vâng lời đảng.
Hậu quả là toàn thể xã hội luôn sống co ro dưới sự dòm ngó, theo dõi, kiểm soát của tai mắt đảng (thành viên MTTQ), chẳng còn ai dám bày tỏ ý kiến và tình cảm cách chân thật. Dân đáo tụng đình thì nắm chắc phần thua về mình, khi nguyên cáo hay bị cáo là người của đảng. Công an, dân phòng, lấy lý do bảo vệ đảng, ung dung đối xử với dân hết sức phi pháp: triệu tập cách vô luật, sách nhiễu cách ngang nhiên, hành hung cách bình thản, trấn áp cách tàn bạo, đặc biệt khi dân đứng lên đòi nhà đất hay xuống đường đòi yêu nước. Ba năm nay, hơn 260 người chết trong tù mà công an chẳng hề phải chịu trách nhiệm! Thói hành xử bạo lực của họ như thế gieo giữa người dân thói quen bạo lực mà ngày càng đến mức báo động. Xã hội và người dân hiện chẳng được luật pháp che chở!
2- 40 năm tiêu diệt ý thức con người
Hồ Chí Minh từng nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Trong thực tế, câu đó chỉ có nghĩa: “Đảng muốn xây dựng thể chế độc tài toàn trị, phải có những con người bị tiêu diệt ý thức về tự do, lương tâm về chức nghiệp mà đang có vai trò trong xã hội trước đã”. Và đó là điều mà VC đã miệt mài thực hiện 40 năm qua.
a- Tiêu diệt ý thức đại diện quốc dân nơi thành viên Quốc hội.
Được ngồi vào cơ quan quyền lực cao nhất nước trên danh nghĩa này không do dân bầu nhưng do đảng cử, các thành viên Quốc hội, qua 12 khóa, đã chỉ làm một việc là «vỗ tay», «nhất trí cao, phấn khởi lớn» trước ý muốn của đảng và Bộ chính trị. Những cuộc gặp gỡ, lấy ý cử tri địa phương chỉ là trò mỵ dân ; những cuộc chất vấn các thành viên chính phủ thuần là màn trình diễn. Từ công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, qua hai hiệp định lãnh thổ và lãnh hải năm 1999 rồi 2000, vụ khai thác Bauxite Tây Nguyên 2008, cuộc xây dựng Hiến pháp mới 2013 (chỉ kể những việc nổi cộm), Quốc hội chẳng hề đứng về phía nhân dân để tìm hiểu, chất vấn, phản biện và hành động, một để cho Bộ chính trị và Trung ương đảng mặc sức tung hoành, dù bất lợi cho dân và hiểm nguy cho nước.
b- Tiêu diệt ý thức phục vụ công chúng nơi nhân viên công quyền.
Ý thức này đã bị tiêu diệt ngay từ đầu, qua việc họ là những người đã được đảng bộ trung ương hay địa phương tuyển chọn đặt để, nghĩa là không được nhân dân trao quyền, nhưng là cướp quyền từ tay nhân dân (các cuộc bầu cử hội đồng nhân dân mọi cấp chỉ là trò xạo). Thành thử họ luôn cư xử như trời con lãnh chúa, hung thần thổ địa, hống hách khinh người, chỉ lo tích lũy của cải hơn là phục vụ nhân dân. Những lối nói mai mỉa «hành là chính», “quan chức là cha mẹ dân”, những cơ ngơi đồ sộ của các «đầy tớ nhân dân» bị phơi bày trên mạng, những màn «cướp cơm chim» của thảo dân bần cùng và nạn nhân bão lụt, những cuộc biểu tình vô vọng của dân oan mất đất trước các trụ sở ủy ban xã huyện tỉnh, những màn đánh phá của lãnh đạo chính quyền trung ương hoặc địa phương nhắm vào Cao Đài, Công Giáo, Hòa Hảo, Phật Giáo, Tin Lành khắp mọi miền Tổ quốc… và thập niên gần đây là việc các tỉnh cho Tàu cộng thuê rừng quốc phòng để khai thác, thuê những vùng đất chiến lược làm cảng thương mại, khu du lịch, phố thị thôn làng là những bằng cớ không thể chối cãi.
c- Tiêu diệt ý thức tôn trọng và bảo vệ nhân dân nơi lực lượng công an cảnh sát.
Bị nhồi sọ bởi tư tưởng : được đảng gầy dựng, lãnh đạo, trả lương, coi như lực lượng bảo vệ đảng, chỉ biết còn đảng còn mình, thấm nhuần «lời thề danh dự: Tuyệt đối trung thành với Đảng CSVN, với Nhà nước CHXHCNVN… Nghiêm chỉnh và triệt để chấp hành mọi chủ trương đường lối, chính sách của Đảng… » (trích từ 5 lời thề của CAND), giới này đã trở thành công cụ đàn áp dân oan và giáo oan (thường là với cung cách côn đồ) khi họ đứng lên đòi công lý trong các vụ biểu tình, phản kháng, khiếu kiện đơn lẻ hay tập thể ; thành «lực lượng đối thọi» với các nhà dân chủ cất tiếng đòi dân chủ tự do; thành kẻ hỗ trợ cho công tố và thẩm phán trong các phiên tòa chính trị; và thập niên đây là thành nỗi kinh hoàng cho bất cứ ai bị bắt về đồn công an cảnh sát với bất cứ lý do «vi phạm» lớn nhỏ: bị đánh đập dã man, tra tấn đến chết rồi bị vu cáo là “tự tử”!
d- Tiêu diệt ý thức bảo vệ Tổ quốc nơi hàng ngũ quân đội.
Luôn khắc ghi lời thề «dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN, phấn đấu thực hiện một nước VN xã hội chủ nghĩa… Gương mẫu chấp hành và vận động nhân dân thực hiện mọi đường lối, chủ trương của Đảng…» (trích 10 lời thề của QĐND), nhất là từ khi thay thế khẩu hiệu «Trung với nước hiếu với dân» bằng khẩu hiệu «Trung với đảng…», rồi được cho làm kinh tế tự do, quân đội đã thực sự trở thành công cụ của đảng, chỉ lo làm giàu (nhất là hàng lãnh đạo vốn nắm vô số công ty lớn nhỏ), quên lãng bổn phận bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt trên lãnh hải, bỏ mặc ngư dân cho sự sách nhiễu, cướp bóc, tàn sát của Tàu cộng (vì chủ trương của đảng hiện thời là thần phục TC và xây dựng XHCN theo tấm gương và trong sự liên kết với TC). Dĩ nhiên từng có những chiến sĩ oai hùng trong cuộc xâm lăng của «Đại Hán» năm 1979 (Việt Bắc) và năm 1988 (Trường Sa), cũng như có một số tướng lĩnh sĩ quan và nhiều quân nhân còn ưu tư vận nước, nhưng quân đội xét chung nay hoàn toàn bị khống chế bởi những tay sai Bắc triều trong Bộ chính trị hay Bộ quốc phòng.
e- Tiêu diệt ý thức bảo vệ luật pháp và công lý nơi giới luật sư, công tố, quan tòa.
Do việc các Đại học luật khoa và các luật sư đoàn độc lập ở miền Nam bị xóa sổ ngay sau năm 1975 và chỉ mới được tái lập gần đây nhưng dưới sự cầm trịch của VC, giới luật sư, công tố, thẩm phán hiện giờ (và kể cả công an điều tra) đều bị biến thành công cụ của đảng, theo cơ chế tam quyền phân công hay tam quyền nhất lập. Rất nhiều công an dùng lối lường gạt hoặc tra tấn để thẩm vấn bị can, công tố (viện kiểm sát) thì với bên điều tra một dạ một lòng, nhiều luật sư từng than phiền bị công an cản trở tiếp xúc với thân chủ trong các vụ án, nhất là vụ án chính trị. Tại những phiên tòa loại này, các thẩm phán thường có những «bản án bỏ túi» do trên định sẵn nên ý kiến của các luật sư công tâm bị xem thường. Báo chí cũng hay nói đến việc nguyên đơn hay bị đơn chạy án, việc quan tòa và công tố ăn hối lộ, việc đào tạo luật sư hay thẩm phán cách sơ sài, nhiều án oan thậm chí án oan tử hình (như Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng) được thản nhiên đưa ra… Ngoài những luật gia hay luật sư có tinh thần dân chủ (nay xuất hiện ngày càng nhiều nhưng bị đàn áp cũng không ít), vô số luật sư vẫn sẵn sàng loại trừ các đồng nghiệp «có vấn đề» với đảng, sẵn sàng bênh vực hay ngậm miệng trước nhiều luật lệ chỉ có lợi cho đảng!
f- Tiêu diệt ý thức thương xót bệnh nhân nơi giới y sĩ.
Nền y tế VN từ lâu nổi tiếng thế giới với những bệnh viện quá tải, trang bị lỗi thời, vệ sinh tồi tệ, nhân viên kém cỏi; với cảnh đối xử ngược châm ngôn «lương y như từ mẫu»: bỏ mặc những ca cấp cứu chưa nộp tiền, khám bệnh một cách chớp nhoáng qua loa, đòi bệnh nhân hối lộ mới săn sóc tốt, cung cấp thuốc quá hạn hay dổm giả, dùng một kết quả xét nghiệm cho cả trăm bệnh nhân, ăn hoa hồng quá độ khiến giá y dược bị đẩy lên tận trời, ưu tiên săn sóc cho đảng viên cán bộ, coi rẻ những ai dùng thẻ bảo hiểm y tế, và dân nghèo vào bệnh viện chỉ có nước tử vong… Nhân dân chua chát bảo rằng từ ngữ «nhà thương» nay hoàn toàn vô nghĩa, vì ở đó chỉ có sự khai thác nỗi khổ đau của con người. Đã xảy ra nhiều cảnh người nhà bệnh nhân hành hung y bác sĩ vì thân nhân của họ đã chết do thói vô trách nhiệm của bệnh viện.
g- Tiêu diệt ý thức làm chứng cho sự thật và lẽ phải nơi giới tu hành.
Cộng sản từng phỉ báng tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ nhân dân, nhưng nay lại muốn tôn giáo trở thành thuốc phiện thực sự. Và họ đang làm được điều đó với những chức sắc chỉ còn biết ý nghĩa cuộc sống và hoạt động tu hành của mình là xây dựng điện thờ nguy nga, tổ chức lễ hội rầm rộ, ra ngoại quốc quyên tiền, mà hoàn toàn dửng dưng trước cảnh đồng bào bị đàn áp, xã hội bị băng hoại, tổ quốc bị lâm nguy… Những vị này còn lý luận mình không muốn dính vào chính trị, chỉ lên tiếng về các nguyên tắc luân lý chung chung (an toàn hơn) chứ không can thiệp vào những trường hợp cụ thể (dễ gặp nguy hiểm), sẵn sàng đặt tượng tội đồ dân tộc từng bách hại tôn giáo bên cạnh Phật Chúa trên điện thờ hay lấy tên của y làm danh hiệu cho giáo phận… Có vị còn tham gia Mặt trận Tổ quốc để chung tay ủng hộ đảng, bảo vệ đảng.
h- Tiêu diệt ý thức lương sư hưng quốc nơi giới thầy giáo.
Như nói trên, nền giáo dục của VC là nền giáo dục đã bị đảng hữu hóa, chính trị hóa. Chính vì thế VC đã nỗ lực đào tạo ra những thầy cô “hồng hơn chuyên”, bó buộc hiệu trưởng mọi loại trường (trừ một số trường mẫu giáo của các giáo hội) phải là đảng viên để nắm chắc đường lối chủ trương của đảng, để theo dõi tư tưởng lập trường của mọi giáo viên và học sinh. Thành ra nền giáo dục VN ngày càng sa sút với vô số giáo viên thiếu tư cách, thiếu khả năng (“đứng nhầm lớp”), với vô số vụ việc thầy bạo hành trò, đổi tình lấy điểm, bắt học sinh làm điếm (như tại tỉnh Hà Giang), bỏ mặc công an dân quân hành hạ học trò (vụ sinh viên Vũ Hoàng Quang), với việc giáo sư cấm sinh viên biểu tình chống Trung Quốc để bày tỏ lòng yêu nước… Từ đó, sinh ra hậu quả khủng khiếp là sự ngây thơ, trong sáng, chân thật, hiền lành nơi học sinh cũng bị tiêu tùng. Dễ nhận thấy điều này qua việc tệ nạn học đường ngày càng gia tăng với vô số vụ học sinh đánh lộn nhau (ngay cả trẻ nữ), hành hung thầy, học tập kiểu gian dối hay kiểu đối phó, dùng tiền hay tình để mua điểm, thậm chí trở nên “đoàn viên thanh niên” côn đồ hay “dư luận viên” mất dạy.
Kết luận: Chưa thời nào trong lịch sử Đất nước, lại có một “chính quyền”, “chính đảng” hành xử như một lực lượng ngoại nhập đến thế, chỉ biết kiểm soát, khống chế mọi lãnh vực của đời sống xã hội và con người cách tinh vi và chặt chẽ, với gian dối và bạo hành, để củng cố quyền lực và thâu tóm quyền lợi. “Chính quyền” và “chính đảng” này -do điều hành thất bại mọi mặt và bị Tàu cộng khống chế mọi bề- đang rắp tâm bán nước, sáp nhập VN vào Trung Hoa như một tỉnh lẻ. Chưa thời nào trong lịch sử Đất nước, lại có một dân tộc, một xã hội bị lãnh đạo chính trị coi như con cái để dạy dỗ, con ở để bóc lột, con tin để đem mặc cả đến thế; bị lực lượng cầm quyền không những gây khốn đốn cho cuộc sống về mặt kinh tế, an ninh, môi trường, mà còn gây băng hoại cho nhân cách về mặt ý thức, ý chí và lương tâm. Tuy nhiên, hồn thiêng sông núi vẫn còn đó, tinh thần dân tộc vẫn trường tồn, ý chí bất khuất của giống nòi vẫn hiện hữu. Tất cả đang khiến cho hàng triệu con dân Việt trong nước, thuộc đủ mọi giới lớp giai tầng, sáng ngời ý thức, khao khát tự do, nung nấu ý chí và quyết tâm hành động để bằng mọi cách tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản đầu độc tâm trí, giải thể chế độ cộng sản tàn hại xã hội và tống cổ chính đảng cộng sản bất nhân và bất tài khỏi ghế quyền lực, hầu xây dựng lại một đất nước tràn ngập chân lý, công bình, tình thương và tự do.
Việt Nam ngày 14-04-2015
Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi,
ban điều hành Khối 8406 và Hội Cựu tù nhân lương tâm
Nguồn: Trích từ GNsP
- Viết bởi Tổ chức Xã hội dân sự độc lập tại Việt Nam
Kính gởi: Đại tướng Trần Đại Quang, bộ trưởng Công an nước CHXHCN Việt Nam.
Đồng kính gởi: Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước và các tổ chức nhân quyền quốc tế.
Thưa ông Bộ trưởng
Kể từ khi lên chức Bộ trưởng bộ Công an khoảng giữa năm 2011 đến nay, quả thật ông đã để lại dấu ấn lớn lao trên sự an sinh của Đồng bào và đặc biệt trên những con người bị ông lẫn ngành công an coi là “xâm phạm an ninh quốc gia”, “gây rối trật tự xã hội”.
Hôm nay, nhân vụ các anh Nguyễn Chí Tuyến và Đinh Quang Tuyến, hai người đấu tranh dân chủ ôn hòa bị nhiều thuộc hạ của ông, giả dạng côn đồ, hành hung tàn bạo tại Hà Nộisáng ngày 11-05-2015 (anh Chí Tuyến) và tại Sài Gòn sáng ngày 19-05-2015 (anh Quang Tuyến), chúng tôi thấy cần gởi đến ông thư ngỏ này, trước là để cảnh tỉnh ông, sau là để cho toàn thể đồng bào và thế giới thấy được phong cách lãnh đạo công an cảnh sát, đường lối “bảo đảm an ninh đất nước” của ông và kiểu cách thực thi vai trò “giữ gìn trật tự xã hội” của thuộc hạ ông.
1- Duy trì khẩu hiệu “Chỉ biết còn Đảng thì còn mình”.
Cùng với lời thề công an “trung thành tuyệt đối với đảng Cộng sản”, với danh xưng công an là “thanh gươm, lá chắn” của đảng, khẩu hiệu trên đây, có từ thời Trần Quốc Hoàn, là một sự vô ơn trắng trợn đối với nhân dân, tập thể cao quý sản sinh và nuôi dưỡng công an, đồng thời là sự phỉ báng tàn tệ đối với chức năng và danh dự của ngành là chỉ phụng sự Tổ quốc và Nhân dân (như ở mọi quốc gia văn minh dân chủ). Khẩu hiệu có tính nguyên tắc ấy ngoài ra còn giết chết lương tâm của những con người đang làm một nghề tự bản chất là cao quý lẫn cần thiết, và do đó mở đường cho bao thái độ kiêu căng hống hách, tham nhũng tống tiền, ứng xử vô luật (sử dụng côn đồ), hành động ám muội (giả dạng côn đồ), tàn bạo đối với nhân dân.
2- Chà đạp văn hóa đạo đức Dân tộc:
Đó là phá đám tang của các đảng viên phản tỉnh như Trần Độ, Lê Hiếu Đằng, Trần Lâm, Hoàng Thị Ái Hoát…, thậm chí đám tang dân thường như của bàHồ Nhu (Đặng Thị Tân) tại giáo xứ Cồn Dầu năm 2010. Công an cũng nhiều lần đốt phá nhà tang lễ của Đồng bào H’Mông tại Cao Bằng (tháng 3-2013, 10-2014, 2-2015). Đạo lý truyền thống “nghĩa tử là nghĩa tận” lần đầu tiên trong lịch sử Dân tộc, đã bị lực lượng này ngang nhiên phá nát.
Ngoài ra, công an còn nhiều lần xâm phạm lễ tưởng niệm các liệt sĩ chống Trung Quốc, tổ chức tại Hà Nội chẳng hạn, bằng cách tự mình hay dùng tay sai cản phá buổi lễ, chửi bới hành hung những người đi tưởng niệm. Những cuộc cướp bóc hỗn loạn tại các lễ hội như Khai ấn Đền Trần ở Nam Định năm 2014, Tưởng niệm Thánh Gióng ở Hà Nội năm 2015 (toàn những anh hùng chống Trung Quốc)… đã không thể xảy ra nếu không có sự dung túng của công an.
3- Đàn áp nhân dân đứng lên đòi quyền sống.
Các cuộc biểu tình đòi đất đai ruộng vườn của dân oan từ bắc chí nam như Văn Giang, Bắc Giang, Dương Nội, Tiên Lãng, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Thủ Thiêm, Thủ Đức, Long An… đã mau chóng bị dẹp tan trong máu và nước mắt, trong đánh đập và bỏ tù nhờ bàn tay của những công an cảnh sát dân phòng lạnh lùng tàn nhẫn, mù quáng tuân theo lệnh trên hay mờ mắt vì món tiền thưởng. Cuộc xuống đường củahàng ngàn dân Bình Thuận tháng 4-2015 phản đối nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân gây ô nhiễm môi trường đã bị cảnh sát cơ động đối phó bằng dùi cui, súng chỉ thiên và lựu đạn cay. Những ai hỗ trợ công nhân đình công đòi quyền lợi cũng bị giam cầm, xử án như Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, Đỗ Thị Minh Hạnh (10-2010). Ngay những thiện nguyện viên cứu giúp dân oan như hai ông Hà Thanh và Tiến Sơn cũng bị hành hung (03-2015).
Người dân Hà Nội biểu tình bảo vệ cây xanh bị thóa mạ, tống lên xe đưa về đồn tra hỏi (04-2015). Nhiều biểu tình viên như Tiến Sơn, Trịnh Anh Tuấn, Nguyễn Chí Tuyến còn bị công an giả dạng côn đồ hành hung thô bạo. Thậm chí trong những cuộc xuống đường chống quân xâm lăng, đòi quyền sống cho dân tộc, công an cũng không để yên cho người dân thể hiện lòng yêu nước.
4- Tra tấn, giết chết người bị tạm giam.
Từ nhiều năm nay, công an và đồn công an trở thành nỗi kinh hoàng khiếp đảm của dân lành. Theo báo cáo của chính Quốc hội ngày 10-04-2015, trong 3 năm qua, đã có hơn 260 người chết (thực tế hẳn cao hơn nhiều, trong đó có cả học sinh trung học) đang khi bị công an tạm giữ. Phần lớn họ bị bắt vào đồn vì những vi phạm nhỏ nhặt, nhưng rồi đã bị tra tấn đến chết để lấy khẩu cung. Điều đáng nói là nhiều người bị vu khống tự tử và ít có viên công an nào phải chịu trách nhiệm và bị xử lý đúng pháp luật.
5- Bạo hành đối với những người hoạt động nhân quyền:
Trước hết, đó là hăm dọa, cấm hành nghề hoặc áp lực đuổi khỏi ngành những luật sư bênh vực nhân quyền như Lê Trần Luật, Huỳnh Văn Đông, Võ An Đôn, Nguyễn Thanh Lương… Thứ đến, gây rối cuộc sống những ai hoạt động nhân quyền, như đối với bà Dương Thị Tân, anh Huỳnh Trọng Hiếu, không cho họ xuất cảnh (như linh mục Lê Ngọc Thanh, cô Huyền Trang, nhà báo Phạm Chí Dũng, giáo sư Nguyễn Huệ Chi)… Tiếp nữa, khóa cổng chặn đường những công dân muốn tham dự các cuộc gặp gỡ, hội họp về nhân quyền, thậm chí do chính khách hay tổ chức quốc tế tổ chức; rồi bao vây, hành hung, cướp giật điện thoại, máy ảnh của những ai đến tham dự các phiên tòa chính trị như vụ Lấp Vò, Đồng Tháp (8-2014), hay đến thăm các tù nhân lương tâm, như bạn bè ông Phạm Văn Trội (01-2014), ông Trần Anh Kim (01-2015). Ngang nhiên và tàn bạo hơn nữa là truy sát, đánh trọng thương như trường hợp các ôngJB Nguyễn Hữu Vinh,Nguyễn Bắc Truyển, Trương Minh Đức,Trương Văn Dũng, Hoàng Dũng, Nguyễn Văn Thạnh, cácbà Trần Thị Nga, Nguyễn Hoàng Vi,gia đình ông Huỳnh Ngọc Tuấn….
Phục kích để bắt giam vô cớ rồi xử án vô luật như đối với Bùi Minh Hằng, Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh, Phạm Minh Vũ, Đỗ Nam Trung, Lê Thị Phương Anh…
Các nhà hoạt động cho quyền tôn giáo cũng bị công an và tay chân côn đồ chặn đường gây sự như Hội đồng Liên tôn VN, nhiều chức sắc và tín đồ Công giáo, Tin lành, Phật giáo, Cao đài, Hòa Hảo. Đặc biệt công an kết hợp với côn đồ nhiều lần bạo hành đối với cộng đoàn Mennonite Bình Dương (2014-2015) hay các Hội thánh Tin lành tại gia.
Những nhà báo viết bài tố cáo công an tham nhũng, hối lộ, bạo hành, mua quan bán chức… rốt cục đã phải nếm cảnh lao tù như phóng viên Hoàng Khương và mới đây là chủ bút Kim Quốc Hoa báo Người Cao Tuổi.
6- Hành hạ các tù nhân lương tâm.
Thái độ đầu tiên của công an khi thẩm vấn dạng tù nhân này là dùng những biện pháp hèn hạ như lường gạt, tra tấn thể xác và bức bách tinh thần để họ phải nhận tội (chứng từ của Ls Lê Công Định và bà Lê Thị Phương Anh mới đây). Hai trường hợp bức cung nổi tiếng nhất là buộc Nguyễn Văn Chưởng và Hồ Duy Hải vào tội giết người để nay bị tuyên án tử.
Một khi họ đã thụ án, công an tiếp tục cưỡng buộc nhận tội những tù nhân bất khuất, bằng nhiều biện pháp bất nhân bẩn thỉu như bỏ đói (Đặng Xuân Diệu), nhờ tù nhân hình sự đánh đập (Hồ Thị Bích Khương), biệt giam kỷ luật (Nguyễn Đặng Minh Mẫn), cắt thăm nuôi (Đinh Nguyên Kha), không chăm sóc y tế đầy đủ (Nguyễn Xuân Nghĩa), đày đi thật xa gia đình (Mai Thị Dung, Tạ Phong Tần). Đặc biệt là đầu độc cho chết trong tù (như Huỳnh Anh Trí, Đinh Đăng Định).
Công an trại tù còn bóc lột tù nhân (chính trị lẫn hình sự) bằng cách bán hàng cantine với giá cắt cổ, đòi hối lộ để được chút thoải mái, nhất là cưỡng bức lao động khổ sai đến kiệt lực. Thành viên các trại cai nghiện, “trung tâm giáo dục” và “trường phục hồi nhân phẩm” cũng không thoát khỏi số phận bi thảm này.
Thưa ông bộ trưởng
Trên đây chỉ là liệt kê một số “thành tích” của ông và của ngành công an Cộng sản. Sự gia tăng con số khổng lồ của họ -trong đó phải kể đến sự gia tăng nhanh chóng số tướng công an trong thời bình và sự phân bổ các tướng lãnh này vào nhiều bộ ngành và địa phương- điều đó tạo một áp lực thường xuyên và khủng khiếp lên bộ máy nhà nước, lên cuộc sống người dân vốn không thể an bình để làm việc, đóng góp xây dựng xã hội.
Việc dùng công an để “đối thoại” bằng nắm đấm, dùi cui, nhà tạm giữ, đòn tra khảo với những người khác chính kiến và tiên thiên coi họ như kẻ thù chỉ làm suy giảm nguyên khí quốc gia, gây chán nản cho những công dân thiện chí, và dĩ nhiên chẳng thể nào làm Đất nước phát triển. Rõ ràng ông đang bôi tro trét trấu vào mặt chế độ mà ông phục vụ, đồng thời cho thấy công an chính là kẻ thù tàn hại Tổ quốc Dân tộc.
Tụt hậu toàn diện của đất nước, thất bại mọi mặt của các chính sách, sai lầm đủ thứ của nhà cầm quyền, tội ác tràn lan trong dân chúng và bất ổn triền miên trong xã hội, ông bộ trưởng và ngành công an gánh trách nhiệm không phải nhỏ về thảm trạng và tệ nạn đó.
Gieo gió gặt bão!Nhân nào quả ấy. Ông đừng tưởng bạo lực và dối trá có thể bình định được lòng dân đang phẫn uất và củng cố được chế độ đang suy tàn. Hãy nghĩ đến biết bao kẻ bá đạotrong lịch sử đã phải trả giá như thế nào để tự răn mình và dạy dỗ các thuộc cấp của ông. Bằng không thì thư ngỏ này sẽ trở thành một trong những bản cáo trạng cho chính ông!
Viết tại Việt Nam ngày 22 tháng 05 năm 2015.
Các tổ chức xã hội dân sự độc lập đồng ký tên:
1- Bạch Đằng Giang Foundation. Đại diện: Thạc sĩ Phạm Bá Hải.
2- Con Đường Việt Nam. Đại diện: Ông Nguyễn Công Huân
3- Diễn đàn Xã hội dân sự. Đại diện: Ts Nguyễn Quang A
4- Giáo hội Liên hữu Lutheran VN-HK. Đại diện: Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa
5- Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo Thuần túy. Đại diện: Hội trưởng Lê Quang Liêm.
6- Giáo hội Tin lành Mennonite VN Độc lập. Đại diện: MS. Nguyễn Hồng Quang.
7- Hội Ái hữu tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam. Nguyễn Bắc Truyển
8- Hội Anh em Dân chủ. Đại diện: Kỹ sư Phạm Văn Trội.
9- Hội Bảo vệ Quyền Tự do tôn giáo. Đại diện: Cô Hà Thị Vân
10- Hội Bầu bí Tương thân. Đại diện: Nhà báo Nguyễn Tường Thụy
11- Hội Cựu Tù nhân Lương tâm. Đại diện: Bác sĩ Nguyến Đan Quế.
12- Hội Nhà báo độc lập VN. Đại diện: Tiến sĩ Phạm Chí Dũng
13- Hội Phụ nữ Nhân quyền. Đại diện: Bà Trần Thị Nga
14- Hội thánh Tin lành Chuồng Bò. Đại diện: Ms. Nguyễn Mạnh Hùng.
15- Khối Tự do Dân chủ 8406. Đại diện: Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa
16- Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền. Đại diện: Linh mục Phan Văn Lợi.
17- Phong trào Dân oan Liên kết đấu tranh. Đại diện: Bà Trần Ngọc Anh.
18- Phòng Công lý Hòa bình Dòng Chúa Cứu Thế. Đại diện: Lm Đinh Hữu Thoại.
19- Tăng đoàn Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất. Đại diện: HT Thích Không Tánh.
- Viết bởi Điền Phương Thảo
GNsP (21.5.2015) – Mới khánh thành nhưng gạch nền dưới chân công trình tượng đài Mẹ Việt Nam Anh hùng ở tỉnh Quảng Nam lại bị bong tróc, bể nát. Người dân vừa chưa hết bức xúc, quan ngại về chất lượng công trình được đầu tư 441 tỉ này thì mấy ngày qua, nhân dân cả nước lại xót ruột khi hay thêm tin chóp tượng đài 25 tỉ đồng ở Quãng Ninh bị sét đánh vỡ vào ngày 17-05 vừa qua.
-Hiện tượng và nguyên nhân
Khi được hỏi vì sao tượng đài mới khánh thành lại xuất hiện tình trạng gạch nền dưới chân tượng đài bị bong tróc, bể nát thì ông Nguyễn Như Công, giám đốc Ban quản lý Dự án đầu tư xây dựng tỉnh Quảng Nam lý giải : “Theo thiết kế, đây là một hồ nước có hình bán nguyệt gắn kết với chân tượng đài. Vào ngày tổ chức lễ khánh thành, ban tổ chức đã tiến hành hút nước để làm sân khấu. Trong quá trình làm, xe chở vật liệu chạy vào cũng như do lượng người quá đông đã gây co giãn ở khe nhiệt dẫn đến việc gạch bị bong tróc, chứ không phải do chất lượng công trình kém, cũng không có chuyện nền bị sụt lún”.
Vậy thì nguyên nhân là do lượng người đi lại quá đông, xe cộ chở vật liệu ra vào để chuẩn bị cho ngày lễ khánh thành ( ? ). Nếu vật liệu có thể chuyển tới bằng … máy bay ( ? ) hay người có thể luyện khinh không thêm sức bật cho đôi chân để việc di chuyển bớt nặng nề, hay nếu có đi thì đi…từng nhóm nhỏ ( ? ) thì làm gì có chuyện ông Công phải thanh minh là “không phải do chất lượng công trình kém, cũng không có chuyện nền bị sụt lún”.
Rằng-thì-mà-là vụ gạch nền dưới chân tượng đài tượng đài Mẹ Việt Nam Anh hùng ở tỉnh Quảng Nam bị bong tróc, bể nát đã có nguyên nhân “thỏa đáng” rồi nhé. Chung cuộc là không có chuyện “chất lượng công trình kém”. Giờ chúng ta xem chất lượng công trình của “chóp tượng Đài 24 tỉ bị sét đánh”.
Sau khi bị sét đánh vào sáng 16/5 thì “lõi thép để liên kết các khối đá phần thân với phần chóp tượng lộ rõ. Ông Nguyễn Hải Triều, Giám đốc Ban quản lý dự án thị xã Đông Triều cho biết, công trình có mức đầu tư 25 tỷ đồng này không được thiết kế hệ thống chống sét” . (vn express .net- Thứ tư, 20/5/2015 ). Một công trình cao tới 18m mà “trong bản thiết kế lại hoàn toàn không có hệ thống chống sét”, và cũng theo lời ông Trần Văn Vinh Phó Chủ tịch thị xã Đông Triều thì “lúc phê duyệt cũng không ai để ý” ( ? ). Một sự vô trách nhiệm đến mức khó hiểu! Và cũng theo vn.express.net cho biết sau khi bị sét đánh, chất lượng của tượng đài 25 tỉ đồng phô bày ra nhiều thực trạng đáng quan ngại như sau:
“Hiện ngoài phần chóp rơi ra thì mặt trước của đỉnh tháp đã bị nứt toác, tiềm ẩn nguy cơ đá rơi xuống… Phần chóp đá nặng hàng tạ trên đỉnh tháp, biểu tượng của ngọn bút, đã nghiêng hẳn sang một bên. Thân tượng đài xuất hiện vết nứt ngang dọc. Chân tượng đài có hiện tượng lún sụt với các khe hở lớn. Một phần thân tượng đài lộ rõ phiến đá kém chất lượng, với nhiều lỗ. Phần chân gò đất dựng tượng đài bị sụt tạo thành hào nhỏ”. ( Sét làm lộ nhiều khiếm khuyết của tượng đài 25 tỷ đồng. Đăng ngày 20-05-2015 ).
Nhưng mà, một công trình “sơ ý” không thiết kế hệ thống chống sét mà Thiên Lôi “cố ý làm sai nguyên tắc” không chừa ra lại cứ đánh vào thì nguyên nhân rõ ràng là do Thiên Lôi. Chưa kể việc làm “thiếu trách nhiệm” của Thiên Lôi lại “gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng” là làm lộ ra nhiều khiếm khuyết khác chứng tỏ chất lượng làm ăn gian dối của tượng đài 25 tỷ đồng. Tất cả là tại Thiên Lôi! Thiên Lôi cần phải bị “kiểm điểm rút kinh nghiệm sâu sắc!”
-Đâu là sự thật ?
Trong tham luận : “Rút ruột công trình xây dựng” được đăng trên trang webketoan.com vào ngày 10-11-2005 có nêu rõ :
“Tình trạng rút ruột công trình được Hiệp hội Xây dựng Việt Nam nhiều lần cảnh báo và cho rằng đã đến lúc đánh lên một hồi chuông báo động vì nó xảy ra ở cả dự án trong nước lẫn dự án có phía nước ngoài tham gia”. Tham luận cũng cho biết :
“Theo kinh nghiệm, có 3 “mánh” để rút ruột công trình:
– Một là lập dự toán khống, trong đó đưa ra mức giá cao, kê khai nhiều đầu việc, áp dụng tiêu chuẩn an toàn tối đa; khi đi vào thi công, sẽ rút bớt xuống.
– “Kỹ xảo” thứ hai là ăn bớt chất lượng, tức là đưa các nguyên vật liệu phẩm cấp kém hơn thiết kế vào công trường.
– Phương thức thứ ba không kém phần phổ biến đó là ăn bớt khối lượng. Thường thì thiết kế một công trình phải tính thêm cả phần hệ số an toàn để đề phòng những biến cố bất thường. Tuy nhiên, bên thi công thường cắt tối đa hệ số an toàn đó để rút bớt nguyên vật liệu, thậm chí, có nơi còn ăn bớt tới mức làm nguy hại tới độ an toàn của công trình.”
(Xem thêm http://webketoan.com/…/10851-tham-luan-rut-ruot-cong-trinh…/)
Có lẽ đây cũng là những điều mà người dân ai cũng biết nhưng không còn muốn nói ra vì nó đã trở thành một “luật bất thành văn”, đồng thời nếu sự việc có bị phơi bày đi nữa thì người dân cũng quá mệt mỏi và chán nản với cái kiểu xử lý “chịu trách nhiệm tập thể”, đồng thời cũng không còn muốn nghe những điệp khúc “rút kinh nghiệm, kiểm điểm sâu sắc” . Đã 40 năm trôi qua nhưng sợi dây kinh nghiệm rút hoài mà vẫn còn như dài vô tận?
-Ở đâu có ý chí, ở đó sẽ có con đường dẫn đến việc thực hiện. Vậy tại sao ?
Chế độ Cộng Sản có một đặc tính rất ưu việt đó là bảo vệ thể chế chính trị của mình một cách triệt để. Đến nỗi “so sánh với quốc tế, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Đình Quyền cho rằng, cơ quan điều tra Việt Nam là một trong những cơ quan giỏi nhất thế giới, phá án rất nhanh” thì liệu những vụ án kinh tế có là một thách thức khiến họ không thể hoàn thành hay không? Vậy tại sao tệ nạn “rút ruột công trình” đã trở thành quốc nạn, thành căn bệnh trầm kha dường như không có thuốc chữa trong xã hội hiện nay?
Hẳn chúng ta chưa quên vở hài kịch Phiên Tòa Không Tội Nhân do ba nghệ sĩ Thanh Bạch-Xuân Hương và Thành Lộc thủ diễn một cách xuất sắc vào năm 2007. Nội dung vở kịch này diễn tả lại buổi xét xử phạm nhân Tham Văn Nhũng và đồng bọn. Khi tên Tham Văn Nhũng khai ra đồng bọn của mình là Thờ Văn Ơ và Vô Văn Trách Nhiệm thì Tòa lúng túng không thể xử. Bởi lẽ các tội phạm này “không mặt mũi, không tay chân, không hình thù “khiến Tòa khó nghĩ quá” và cuối cùng Tòa phải tuyên bố rằng “không có trách nhiệm để xử một tội nhân không phải là con người”. Vâng ! Chức năng của văn hóa, nghệ thuật là phản ánh thực tế xã hội, vậy khi xã hội còn chưa dám nhận diện những phạm nhân tên Tham Văn Nhũng thì làm sao trên sân khấu Phiên Tòa Không Tội Nhân, phạm nhân Tham Văn Nhũng có được hình thù cách cụ thể ? Vở kịch chấm dứt với cảnh tượng bát nháo và thái độ lúng túng của những người có trách nhiệm cầm giữ cán cân Công Lý của xã hội gieo vào lòng người xem một dư vị đắng đót, chua chát về một thực trạng đau lòng …
-Đừng để tham những biến đất nước thành một cái “ xác chết đang thối rửa”.
Trong chuyến tông du tại Philippines hôm tháng Giêng vừa qua, ngày 16/01/2015, trong bài diễn văn chính thức đầu tiên, ngỏ lời với các lãnh đạo chính trị và ngoại giao đoàn tại dinh tổng thống Philippines, Đức Thánh Cha Phanxico đã nói : “Mỗi người trong chúng ta phải thẳng thừng bác bỏ mọi hình thức tham nhũng, cướp đi những nguồn lợi dành cho người nghèo.” (http://vi.rfi.fr/…/20150116-philippines-giao-hoang-len-an-…/)
Và nói tự phát trong chuyến thăm 1 ngày đến thành phố Napoli vào ngày 21-03-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng bừng bừng lên án nạn tham nhũng. Ngài nhân xét một cách thẳng thắn rằng : “Một xã hội tham nhũng thì như một xác chết đang thối rửa” http://phanxico.vn/…/giao-hoang-phanxico-bung-bung-len-an-…/).
Chúng ta cũng khiêm tốn thừa nhận cùng với Đức Thánh Cha Phanxico rằng : “Bản chất con người luôn luôn phải đấu tranh với một lực hút rất mạnh kéo người ta ngã về kiểu làm ăn dễ có tiền, ngã về những việc làm sai trái, về tội ác, về việc bóc lột người khác.” Vậy ước gì lãnh đạo các quốc gia và đặc biệt là tại nước Việt Nam thân yêu của chúng ta biết lướt thắng sự cám dỗ của tham nhũng để đừng biến đất nước mình thành một cái “xác chết đang thối rửa”. Đồng thời là người tín hữu Kitô sống trong một đất nước mà “cơ chế đã sản sinh ra tham nhũng”, ra ngõ đã thấy tham nhũng vì nó đã “như con rắn 100 đầu, đập đầu này nó có đầu kia, vì giờ nó liên quan đến hầu hết mọi người làm việc cho nhà nước” ( Giáo sư Hoàng Tụy ) thì xin cho chúng ta được sức mạnh của Ơn Chúa để miễn trừ khỏi cơn cám dỗ này, bởi chúng ta nên nhớ lời ĐTC Phanxico dạy rằng “tất cả chúng ta đều là di dân trên đường đời, không một ai trong chúng ta ở mãi trên mặt địa cầu này … tất cả chúng ta đều sẽ đến gặp Thiên Chúa!” Lúc bấy giờ chúng ta sẽ hiểu ra rằng “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích gì” (Mt 16:26).
Điền Phương Thảo
Nguồn: Trích từ GNsP
- Viết bởi Bảo Giang
II. Có thể hòa giải với cộng sản không?
Theo nguyên tắc là có. Có, với những điều kiện pháp lý công bằng và bình đẳng. (hay như tôi viết ở phần trên). Sự đồng thuận này bắt nguồn từ sự bao dung, tha thứ bởi dòng máu của dân tộc. Nó bắt nguồn từ sự hy sinh vô bờ bến của người Việt Nam, muốn “chín bổ làm mười” để cùng nhau bảo vệ giống nòi, bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của cha ông. Để từ đó, người dân có cơ hội xây dựng lại một đất nước đã bị tan hoang bởi cộng sản, bởi lớp Cù thị HCM, hơn là nhu cầu phải làm cuộc hoà giải và sống chung với cộng sản. Nghĩa là, vì yêu quê hương, quốc dân Việt Nam sẵn sàng bao dung mở đường cho cộng sản biết xám hối và quay về với cộng đồng dân tộc. Như thế, những điều kiện Công Bằng, Bình Đẳng trước pháp luật và công quyền phải được coi là những bậc thang êm ái, như một cái cầu nối yêu thương nhằm giúp cho tập đoàn cộng sản bớt mặc cảm tội lỗi khi quay về để cho cuộc Hòa Giải bắt đầu. Phần Hoà Hợp sẽ là những bước tiến sau,
Không, Không bao giờ. Không bao giờ như nhiều ý kiến khác cho rằng: Nó phải chết. Phải chết bởi vì những tội ác diệt chủng của nó. Nó phải chết vì hai bên luôn có hai hướng đi nghịch chiều nhau. Đồng bào Việt Nam yêu quê hương và yêu dân tộc của mình. Cộng sản thì theo Hồ chí Minh người Tàu, gốc Hẹ, chọn con đường phản bội dân tộc, yêu chủ nghĩa vô Gia Đình, vô Tổ Quốc, vô Tôn Gíao. Chúng đã tạo ra một xã hội hỗn loạn, mất gốc, đã bán rẻ giang sơn và dân tộc Việt Nam cho Tàu cộng. Theo đó, chuyện Hoà Giải, Hoà Hợp với CS sẽ là không bao giờ. “Đừng nghe những gì CS nói, hãy nhìn những gì chúng làm” Phương ngôn ấy còn nguyên gía trị và những bài học đắng cay!
Dĩ nhiên, là không ai trách ai cả, dù họ nói có thể, hoặc là không bao giờ. Bởi lẽ, đó là những lý do tích cực, chủ quan mà mỗi người đã trải qua. Trải qua bằng chính kinh nghiệm của mỗi người từ hai đối tác là Quốc dân Việt Nam và tập đoàn Cộng sản. Nhưng dù có, dù không, cả hai đối tác này đều có chung một nhận định:
1. Những kẻ trộm cướp khó bỏ nghề.
Trộm, cướp, dĩ nhiên, không phải là một cái ngành hay nghề chuyên nghiệp. Nhưng kẻ đã quen tay, coi việc chôm chỉa, ăn trộm, ăn cướp là một cách sinh nhai chính thì hầu như không bỏ được cái “ nghề” này. Nó vào tù ra khám, rồi lại vào tù, nên cha ông ta đã bảo: “ trẻ bắt trộm gà, già dắt trộm trâu” là vậy. Tuy thế, kẻ trộm cướp không thể khống chế xã hội. Nó có thể làm xỉ nhục cho quốc gia như trường hợp các chiêu đãi viên hàng không và phi công của Việt cộng kiêm nghề chôm chỉa, ăn trộm ở Nhật, Úc, hay đại Hàn. Hoặc làm băng hoại xã hội như ở Việt Nam hiện nay. Nhưng khi cộng sản là kẻ cướp, nó trở thành vấn nạn nghiêm trọng phá hủy toàn diện mặt đời sống cũng như luật lệ, pháp quyền của xã hội. Tại sao?
a. Tại cách nhìn từ phía đảng cộng sản.
Ngày nay, mọi đảng viên đảng cộng sản đều tâm niệm rằng: Họ là người khác người. Khác từ việc được đào tạo đến lối sống. Họ được đào tạo để gian dối, để “căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ” (Đèn Cù), được đào tạo để tiêu diệt, xỉ nhục nhân bản tính của con người (như trường hợp Nguyễn tấn Dũng công khai chửi Mỹ, xỉ nhục con gái theo Mỹ, lấy Mỹ, xin vào quốc tịch Mỹ?). Trong khi người dân Việt học giáo huấn yêu thương đồng loại và bao bọc đồng bào của mình. Từ đó là một khác biệt. Đến khi đi theo bước chân vô đạo, bất nhân, bất nghĩa của HCM, CS cướp được chính quyền vào ngày 2-9-1945. Rồi trải qua một cuộc chiến với súng đạn do Tàu, Nga cung cấp, và lòng yêu nước nhiệt tình của nhiều tầng lớp nhân dân Việt Nam góp sức, CS đã chiếm được nửa phần lãnh thổ theo hiệp định Geneve 20-7-1954, sự khác biệt càng lớn hơn.
Từ đây, đảng CS ta tách ra khỏi nhân dân Việt Nam, lệ thuộc vào Trung cộng mà thành lập nhà nước VNDCCH. Đảng CS tự cho mình thế đứng trên cả đất nước và dân tộc Việt, tự cho các đảng viên CS nắm giữ quyền lực, quyền lợi tuyệt đối. Theo kế sách của Trung quốc, Ta đã có chiến thắng vĩ đại đầu tiên sau khi thành lập nhà nước cộng sản là cuộc tắm máu nhân dân Việt Nam rùng rợn chưa từng có trong lịch sử. Với cái chết của hơn 172000 người vào những năm 1953-56, mà đá cũng phải nát gan, ta đã thành công trong việc tạo ra sự sợ hãi toàn diện. Cái búa, cái liềm của “bác” trở thành thánh vật, có uy quyền tuyệt đối của đảng trong việc chỉ huy toàn thể mọi lực lượng trong xã hội. Từ đó, sự chết, cuộc bạo tàn và man rợ bám lấy mọi người trong từng hơi thở, câu nói, ánh mắt. Dĩ nhiên, mục đích chính của cuộc tắm máu là muốn đánh gục mọi đối kháng của mọi tầng lớp dân tộc Việt Nam, kể cả những ngưòi đã hy sinh xương máu cho đảng ta trong cuộc kháng chiến cướp chính quyền. Cuộc tắm máu này đến nay vẫn chưa chấm dứt, nó chỉ biến sang một hình thức khác tinh vi hơn. Kết qủa, đảng ta đã hoàn toàn thành công trong việc chế ngự đời sống người dân đất bắc, đưa đảng viên lên một vị thế khác biệt với người đồng chủng. Sau khi đã tắm máu đồng bào, đảng ta đã lùa người dân vào cuộc chiến đầy máu và nước mắt với dân miền nam để bảo vệ biên giới cho Trung quốc mà không có một ai dám hé răng kêu than nửa lời.
Cuối cùng, cuộc chiến mở rộng đường cho CS tràn về phương nam ta đã thi hành đúng kế hoạch. Sau ngày 30-4-1975, Mỹ cút, Tàu vào, đảng ta nhờ đó đứng trên đỉnh cao của chiến thắng và nhân dân cả nước được làm nô lệ. Từ đó tất cả đảng viên đã tiến nhanh trên mọi trận tuyến và không gặp bất cứ một trở ngại nào: Muốn nhà, có nhà. Muốn đất, có đất. Muốn có tiền, ta đổi tiền, biến một đồng đô la của thằng Mỹ từ hơn 500 bạc ngụy lên đến 20,000. oo tiền hồ, cả nước thành triệu phú mà đói rách! Riêng quyền lực và luật lệ do ta điều hành đã hoàn toàn làm chủ mọi cơ chế, mọi tổ chức. Đảng đã đứng trên đỉnh cao, đạt tới những thành tích chưa từng có trong lịch sử. “Hoàng Sa, Trường Sa ta để cho người anh em Trung quốc giữ hộ, khi nào ta cần, thì anh em trả lại”! (đèn Cù). Đường biên giới có từ nghìn năm trước, nay đảng ta kế hoạch vẽ lại, để Nam Quan, Bản Giốc, Lão Sơn, bờ biểnTục Lãm, quá nửa vịnh bắc bộ thành đất của Trung quốc làm cho tình hữu nghị thêm bền chặt! Riêng phần đất trong nội địa thì … rộng quá, dân ở không hết nên đảng phải ký giấy sang nhượng, hay cho ngoại bang thuê mướn dài hạn không thuế. Đó là sách lược, là quyền lực của đảng, cứ đời đời tiến lên!
Tóm lại, Đảng ta đã chiếm vị thế độc tôn, không một kẻ nào dám cản con dao của bác, cần gì phải hòa giải, hòa hợp với ai? Có nói là nói cho có chuyện vậy. Mọi đảng viên đều nhất quán. Còn đảng còn mình, còn quyền lợi, còn gian trá. Phần chúng còn bị lừa và bị lừa cho đến chết! Theo đó, chuyện “Trâu buộc thường ghét trâu ăn” thời nào chẳng có. Đảng ta bị nhân dân đánh gía là bọn cướp. Nhưng ta cướp có chính quyền, có quốc hội, có toà án, có đủ mọi quyền lực từ trên xuống dưới. Thực dân phong kiến không thể đem ra so sánh với ta. Ta là chủ thể dân tộc, chống ta là chống đất nước. Ta có lý luận cơ bản vững chắc như thế. Ai dám cản đường, phài không? Phải, đồng chí nói gì cũng phải!
b. Từ cách nhìn của người dân.
Chúng ta không lạ gì những chuyện CS tự bốc nhau giống con vẹt như thế. Bởi vì, chưa lúc nào cộng sản sợ cuộc tan vỡ của đảng cộng sản hơn lúc này. Nói toạc ra, đây là lúc cộng sản lo sợ cuộc tắm máu sẽ tái diễn. Dĩ nhiên, cuộc tắm máu này không phải là nhân dân, hay của những ngưòi chống cộng sản. Trái lại, chính là những kẻ đã gây ta tội ác với nhân dân Việt Nam trong mấy chục năm qua. Nên từ trên xuống dưới vì quyền lợi, vì mộng mồ to mả đẹp chúng phải co cụm lại với nhau để bảo vệ đảng, và dùng tập thể công an, côn đồ với trên 200 viên tướng, ra tay bạo lực với nhân dân, với những cá nhân hay các đoàn thể, tôn giáo là để khoả lấp sự sợ hãi đang bám lấy chúng từng ngày, từng giờ. Bởi lẽ, nếu cuộc vỡ bờ xảy ra, mà động lực chính là nhân dân, không ai dám bảo đảm sự an toàn cho chúng.
Ở một chiều khác, người dân Việt Nam cũng có kinh nghiệm của chính mình. Họ biết CS không được đào tạo theo khuôn mẫu con người. Nên mọi lý lẽ, giao tiếp dành cho con người với con người, xem ra, không thể thực hiện được vời cộng sản. Theo đó, họ phải trực diện với sự thật, CS đồng nghĩa như bọn cướp nước. Nên đi đến bất cứ nơi đâu, người dân đều nhắc nhở nhau về tệ nam này. Khi thì trên báo chí truyền thông, khi qua câu chuyện. Khi thì ở giữa hội trường của cộng sản như TGM Kiệt đã nói trước mặt những cán bộ cao cấp tại Hà Nội vào ngày 20-9-2008 là: ” có thể nói việc quản lý của cơ quan ( nhà nước) nào đó là chưa có hợp pháp. Trên cái căn bản là chúng ta phải có giấy tờ, chứ bây giờ kẻ cướp vào nhà chúng tôi rồi ngang nhiên ở đó, rồi không có giấy tờ gì hết và họ mạnh chúng tôi không đuổi ra được thì đương nhiên họ chiếm hay sao?! Phải có giấy tờ, cần có văn bản pháp lý.”. Chữ văn bản, pháp lý ở đây phải được hiểu là sự thể hiện ý chí Công Bình, Văn Hóa và Công Lý của luật pháp theo ý của toàn dân, nó không phải là thứ luật tự biên tự diễn của tập đoàn cộng sản đặt nền tảng trên hai chữ đấu tố, hoặc là quy hoạch! Tiếc rằng, chỉ có những đôi mắt ếch trơ ra nhìn nhau và nhìn đến con dao mã tấu của đảng.
Thật ra, chuyện “đạo đức Hồ chí Minh” là con dao mã tấu không phải tới bây giờ người dân mới biết. Trái lạ, họ đã biết từ mấy chục năm qua. Hơn thế, biết rõ tập đoàn cộng sản phải nhờ vào nó mà sống! Mất con dao, cộng sản sẽ bị tiêu diệt tức khắc. Theo đó, TGM Kiệt khi nói lên sự thật, con dao mã tấu của CS đã đè vào cổ ông. Ông bị chém văng khỏi Hà Nội, riêng “ khu đất số 42 Phố Nhà Chung là tài sản của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, không phải của Tàu, cũng không phải của Tây” (NQK) với đầy đủ những văn bản hợp pháp từ trước khi Việt cộng xuất hiện ở Việt Nam vẫn bị Nguyễn thế Thảo, chủ tịch cái gọi là UBNDTP/Hà Nội, dùng dao cướp đoạt công khai theo kiểu quy hoạch! Tự do… làm cướp như thế, đứng trên cả luật lệ và công lý, nay bảo chúng từ bỏ tội ác và quyền lực thì quả là chuyện trời xa xuống đất! Trộm cướp vặt còn không bỏ nghề, làm sao đảng CS bỏ gian trá, tội ác! Nên chuyện hoà giải chỉ là con số không! Người dân muốn có ngày mai, tuyệt đối không thể ngồi chờ chúng tự giải thể, tự từ bỏ quyền lực, quyền lợi. Trái lại phải tựa vào nhau và vào thái độ của chính mình để làm cuộc hóa giải..
2. Thái độ của chúng ta về chuyện hòa giải.
Hôm rồi, tôi xem một đoạn phim buồn, thật buồn. Chuyện phim trên cánh đồng hoang, có 5 con sư tử, hai con lớn, ba con nhỏ hơn đứng đối diện với một đàn trâu rừng ước tính gấp cả trăm lần đàn sư tử. Nếu đem lên bàn cân, tôi dám chắc là chỉ cần hai con trâu đứng hàng đầu kia đã nặng hơn cả năm con sư tử cộng lại. Tuy thế, cuộc chiến lại diễn biến một cách khác thường.
Khởi đầu, con sư tử già há mồm, vươn cổ gầm lên vài tiếng, hai con nhỏ hơn, chạy tới chạy lui phụ họa. Đàn trâu với những cặp sừng nom cứng hơn cả thép đánh vòng trên đầu, ngừng gặm cỏ, đứng như xếp hàng, ngẩng cao đầu, quay nhìn về phía mấy con sư tử như chờ như đợi, như thách thức. Thêm vài tiếng gầm rú nữa, đàn trâu đứng xát nhau như đã vào thế trận. Tất cả những cặp sừng đều hướng về phía trước, chẳng một con nào lùi bước. Cho đến lúc ấy, đôi bên án binh bất động. Bât ngờ, con sư tử cái ( tôi đoán thế) nhảy chồm về phía trước mặt con trâu đứng gần nhất. Trâu rừng cúi xuống làm một quả thật đẹp. Nó né sang một bên để tránh cú vồ của sư tử, đồng thời bước tới, dùng cái đầu với cặp sừng hất văng con sư tử té lộn ngược về phía sau. Trong lúc con sư tử bị húc té chưa kịp chồm dậy, trâu rừng tiến thêm vài bước. Hai ba con sư tử nhỏ hơn phóng ngay lại phía con trâu, cứu bồ. Một con nhử phía đầu, một con chồm lên phía hậu, ngoạm chặt lấy cái đuôi con trâu đầu đàn. Theo phản ứng, trâu dậm chân, đánh một vòng tròn hất văng con sử tử bám ở phía đuôi ra. Đợt đầu, nó thành công, nhưng bày sư tử lúc này như hung dữ hơn khi con sư tử bị hất văng lúc trước trở lại vòng chiến.
Trong lúc, con trâu đang phải đối phó với vài con sư tử bám phía sau và bên hông. Con sư tử kia nhanh như chớp, rùn thân mình xuống và phóng nhanh đến ngoạm chặt vào lườn họng con trâu và cố ghì nó xuống. Con trâu chồm chân lên, lắc mạnh cái đầu, nhưng con sư tử không nhả mồi. Cùng lúc với những bước trong thế giằng co, trâu rời xa đàn thêm vài bước, đủ có khoảng trống cho hai con khác nhảy vào tiếp sức. Một con nhào đến cắn phía dưới bụng , một con nhảy lên lưng và con khác ghì phía đuôi. Con trâu bị dáng đòn nặng, không còn ham chiến. Nó như cố vùng vẫy để thoát thân. Thời đã muộn, con sư tử đầu đàn chồm về phía đàn trâu, rống lên những tiếng đinh tai nhức óc. Thắng thế, con sư tử trên lưng trâu phóng theo tiếng gầm của sư tử bố, chạy thẳng về phía đàn trâu đang đứng trơ mắt ra nhìn “ anh hùng” bị nạn. Thay vì một hai ba, cả ngàn con cùng tiến lên phía trước. Khi ấy, không phải chỉ cứu được đồng bạn mà cả đàn sư tử hống hách kia, nếu chậm chân có thể sẽ bị đạp nát dưới hàng ngàn móng trâu. Tiếc rằng, con trâu to lớn đứng gẫn nhất, sau khi nhìn bạn đồng hành ăn đòn nặng và nghe tiếng gầm rú với vài ba con sư tử con nhảy múa. Nó hoa mắt, rẽ sang một bên và ba chân bốn cẳng chạy bỏ hiện trường. Cảnh chiến trường tan vỡ nhanh. Đàn trâu hàng ngàn con vội vã quay đầu, tháo chạy…
Thấy đàn bỏ chạy, con trâu lực lưỡng kia mắt nhìn ngơ ngác. Nó cố vùng vẫy để thoát thân. Chì là tuyệt vọng. Chạy được mấy buớc, nó qụy xuống khi con sư tử đầu đàn phóng đến ngoạm vào dưới cổ họng nó và ghì xuống. Cùng lúc hai con khác liên tiếp tấn công vào phần hiểm dưới bụng. Sức tàn, nó ngã vật xuống đất, mắt nó úa lệ nhìn theo bóng đàn dần khuất trong bão đất mịt mù. Lúc này chen lẫn giữa những tiếng móng chân rầm rập trên mặt đất là tiếng rống bi thương thoát ra từ cái cuống họng bị cắn chặt từ hai bên. Nó khóc, nó kêu gào đau thương cho nó, hay cho số phận của loài trâu? Lũ sư tử kéo nó nằm ngửa bốn chân chổng lên trời. Nó vẫn từng chập nghé… ngọ… trong lúc những cái chân vẫy đạp vào khoảng trống…
Vâng, bạn bảo tôi, đây là hai loài thú khác nhau. Một bên tìm mồi, một bên được coi là miếng thịt, nên khó tránh cảnh nát gan này. Chỉ tội cho “ anh hùng” phải hy sinh cho cả đàn được thoát. Phải chi, vâng phải chi cả đàn trâu đừng quay đầu, cứ nhắm phía trước mà chạy tràn, trâu “ anh hùng” có chết thì lũ sư tử cũng nát dưới nghìn móng đạp. Lẽ nào bạn mình chết bi thương, lẻ loi!
Liệu người Việt Nam ta có phải nhận chịu số phận bị làm thịt như thế này mãi hay không? Bạn bảo là không. Không, bởi vì cộng sản không phải là loài sư tử, dù chúng man rợ bạo ác, từng cắn xé, giết dân ta để máu loang đỏ phố, hay chảy thành dòng trên những cánh đồng. Không vì dân ta cũng không bị trời đày làm miếng thịt. Trái lại, là một chủng tộc có đầy đủ nhân sinh quan và lý lẽ để sống. Theo đó, nếu ta đứng lên, rồi cùng tiến về phía trước. Bầy đoàn kia chắc chắn phải chết dưới gót chân của hơn 90 triệu con người phải không? Tiếc rằng, ta đã sợ hãi chúng một cách quá mức bình thường, chưa vào cuộc đã mắt trước mắt sau bỏ chạy. Hoặc gỉa, tự kỷ lấy thân. Đã thế, còn bị những kẻ tà tâm, sống với ta, nhưng hại ta vì những luận điệu rỉ tai có lợi cho chúng. Nay thì bảo là nó đã chết rồi, để ta không phòng bị. Mai lại cho rằng nó có thể hòa hợp hòa giải, làm cho lòng người thêm ly tán, thêm bất đồng, thành bất động. Rồi vô cảm đứng nhìn nó tiếp tục cắn xé dân ta ra từng mảnh vụn.
Chuyện cuốn phim buồn chưa nguôi, bạn tôi kể: Căn nhà của ông Việt, nằm giữa hai người hàng xóm lạ đời. Người thứ nhất, giáo Vạn, quần áo ra chiều bảnh bao, mồm miệng thì không thua hàng tôm hàng cá. Lão được dân làng xếp vào diện “ấm ớ hội tề”. Chữ “ hội tề” theo tôi hiểu là để ám chỉ đến những người chống cộng theo kiểu “ vào tề”, lập đồn bót chống Việt Minh rất quyết liệt ở ngoài bắc trước khi di cư vào nam. Cha mẹ tôi cũng từng sống trong làng tề. Giáo Vạn diện “ vào tề” nhưng bụng không “tề” nên bị gọi là ấm ớ! Người thứ hai, bà ấm Dân, con cụ tú Bình. Cụ tú thuộc hàng tiên chỉ trong làng, sinh được một cô con gái, nên được gọi là ấm. Tuy tên của bà được lót chữ ấm, nhưng chắc cả đời chưa hề biết đến chữ đầm ấm yên vui là gì.
Sở dĩ có câu chuyện bi đát này là vì, thời còn trẻ, cô ấm Dân là người tài sắc, trai làng dù nhiều người muốn cầu thân, nhưng kém vai vế nên chẳng dám mon men đến đầu ngõ nhà cụ tú. Kịp đến lúc loạn lạc, Việt Minh về, cả làng phải chạy loạn, Cụ tú cũng gồng gánh ra đi. Trên đường chạy loạn, một chàng trai làng bên, nom thấy đôi quang của cụ tú nặng những của cải, nên đã ra tay nghĩa hiệp, ghé vai vào gánh đỡ cho cụ tú. Lúc đầu cụ e ngại, nhưng khi hỏi thăm biết chàng trai cùng chạy loạn thuộc diện con quan, nên mỉm cười. Sức trai trẻ, cậu ta còn gánh đỡ hàng cho cả bà tú và cô con gái! Vì cái nghĩa cử ấy, sau ngày trở về làng, Quang thành rể nhà cụ tú Bình!
Những tưởng rằng con gái tốt phận, ai ngờ cụ tú ngậm phải bồ hòn ngay sau ngày cưới rể cho con. Lý do, Quang không phải là con của ông quan mà cụ tú biết tên. Y chỉ là người ăn đậu làm công trong nhà viên quan này thôi. Tuy thế, cụ tú còn gặp may là gia đình viên quan đã bỏ làng, đi tây, nên chuyện lý lịch của Quang không bị đổ bể ra ngoài. Sau khi cộng về làng, cụ tú rồi bà buồn rầu, rủ nhau quy tiên. Có nhiều người bảo là do Quang đấu tố. Thế là sản nghiệp nhiều đời của cụ tú rơi vào tay chàng rể qúy. Quang dở thói xưa, rượu chè, cờ bạc với đám bất hảo nay là quan cán. Bán vườn, bán ruộng cờ bạc, rượu chè. Sau mỗi tuần rượu về là bà Dân và lũ con nhỏ thay nhau kêu khóc vì những đòn thượng cẳng tay, hạ cẳng chân của thằng chồng bất lương, bất nghĩa. Lối xóm có khuyên bảo cũng bằng không. Chỉ tội cho bà ấm Dân, vì lũ con dại và vì cái nếp nhà của ông tú để lại nên chưa bỏ ra đi. Kết quả, chuyện bà Dân và lũ con bị thằng chồng vũ phu đánh đập trở thành chuyện bình thường như cơm bữa. Nó không còn là nỗi thắc mắc, bận tâm của hàng xóm nữa:
- Lũ con bà ấy đã lớn chưa, không phản ứng gì à?
- Chẳng chờ bạn khuyên. Thấy cảnh thương tâm, hàng xóm có người đã xúi lũ con bà đã khá lớn, nên hợp với bà mà cho “ nó” một trận, hoặc đưa ra công an để cho “ thằng chả” chừa cái thói côn đồ đi. Lời khuyên này xem ra không tác dụng. Bởi lẽ, bà Dân không muốn gia đình tan nát. Kế đến, lũ con bà Dân đã ăn đòn từ nhỏ, cứ trông thấy mặt Quang là như thấy ông ba mươi (con cọp), nên đều lẩn trốn vào góc nhà cho yên chuyện. Phần hàng xóm mỗi ngày hai buổi sáng chiều, đều phải nghe cảnh khóc lóc, cảnh hò hét như thế riết rồi cũng.... quen! Hễ ngày nào thấy bà ấm không bị tím mặt, sưng mày lên là mừng cho bà. Ngoài ra, chẳng còn một cách nào khác.
Bỗng một hôm, sau một đêm dông bão trong nhà bà, cuồng phong lại nổi lên khi trời vừa sáng. Hàng xóm nghe rõ từng tiếng thét gào, chủi rủa, van lạy, khóc lóc và đổ vỡ. Láng giềng ái ngại, thở dài ngao ngán khi thấy bà Dân chạy thoát ra giữa sân tế sao, gào trời, trách đất. Lão giáo Vạn nhanh chân chạy sang nhỏ to với bà ấm. “ bà cứ nghe nhời tôi, vào xin lỗi ông ấy là xong, vợ chồng thì nên hòa giải với nhau bà ạ. Nói dại, ông ấy trúng gío chết bà ở với ai?”. Khi ấy, ông Việt cũng ra khỏi nhà. Vừa nhìn rõ mặt ông Việt, lão giáo Vạn bỏ đi. Vợ chồng ông Việt đến bên bà Dân mà chẳng biết mở lời ra sao. Chỉ tội bà Dân quỳ giữa sân, nước mắt chảy ròng trên khuôn mặt thất thần.
- Thôi bà ạ, số phận đã vậy, chắc ông giáo đã có lời khuyên can với bà. Đã không sống chung với nhau được thì nên dứt khoát mỗi người một nơi là hơn! Bà đã nhịn, nhưng còn lũ con cũng phải cho chúng sống nên người chứ!
- Vâng, bà nói phải. Chuyện cũng lỡ rồi, tôi xin cậy nhờ ông bà một việc.
- Chuyện gì thế hả bà?
- Các cháu tuy lớn, tôi có dạy dỗ bảo ban chúng nhiều điều nhân nghĩa ở đời. Tuy thế, còn nhiều dại dột, chưa hiểu biết. Ông bà nếu gặp các cháu, xin coi chúng như con cháu mà cho chúng đôi lời dạy bảo.
- Chỗ hàng xóm, tối lửa, tắt đèn có nhau, cần gì bà cứ cho biết.
- Chuyện đêm rồi chúng tôi làm phiền hàng xóm, thật là xấu hổ. Ông bà bỏ qúa cho. Lại đến sáng nay, ông ấy nổi điên đánh con cái tàn nhẩn quá. Tôi thương các cháu, nhời qua lại, rồi xô xát. Tôi nhỡ tay đâm ông ấy một dao… chết rồi.
- Bà bảo gì... ông ấy… chết rồi?
- Phải… ông ấy chết rồi… hy vọng không còn làm phiền hàng xóm nữa.
Thái độ nào của chúng ta cần có cho cuộc gọi là “ Hoà Giải” với tập đoàn Việt cộng? Chấp nhận số phận bị làm thịt dần như cuốn phim buồn, hay vùng dậy một lần. Hy sinh chính mình để cho lũ con cháu ta có ngày mai?
Bảo Giang.
5-2015
- Viết bởi Phạm Trần
Chính phủ không dám lên án Trung Quốc trước Quốc hội
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) đang vo đầu, bứt tóc đốt đuốc đi tìm nhân tài cho khoá đảng XII, dự trù được bầu tại Đại hội diễn ra đầu năm 2016, nhưng 8 “Đặc trưng” chỉ tiêu của Cương lĩnh đã vô hiệu hoá từ lâu thì đảng ngồi thêm có ích gì không ?
Những tiêu chuẩn tìm người Cộng sản tiêu biểu đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đưa ra trong diễn văn bế mạc Hội nghị Trung ương 11 ngày 7/5/2015.
Ông nói như đinh đóng cột : “ Kiên quyết không để lọt vào Ban Chấp hành Trung ương những người có một trong các khuyết điểm, như bản lĩnh chính trị không vững vàng, không kiên định đường lối, quan điểm của Đảng, có biểu hiện cơ hội chính trị, nói và làm trái Cương lĩnh, đường lối, nguyên tắc của Đảng tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, vận động cá nhân, tư tưởng cục bộ, phe cánh, lợi ích nhóm, không dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, mị dân, chuyên quyền, độc đoán, trù dập người thẳng thắn đấu tranh, phê bình để xảy ra tình trạng mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng, tham nhũng, tiêu cực lớn ở địa phương, đơn vị không chịu nghiên cứu học hỏi, bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói không đi đôi với làm ý thức kỷ luật kém, không chấp hành sự điều động, phân công của tổ chức kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc bản thân và vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính có vấn đề về lịch sử chính trị hoặc chính trị hiện nay.”
CÓ LÀM ĐƯỢC KHÔNG ?
Nhưng người dân không ngây thơ tin khóa đảng XII sẽ quy tụ được những con người gương mẫu nhất trong lịch sử đảng. Ai cũng hy vọng “nếu làm được như vậy thì vạn phúc cho đất nước”, nhưng lại băn khoăn hỏi nhau:”Làm sao mà chọn được người tốt như thế nếu người dân không được tham gia trong qúa trình chọn người ?”
Người dân cũng nghi vấn về phương pháp điều tra mà đảng sẽ áp dụng để tìm cho ra manh mối những kẻ “giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác” có nguồn gốc tài chính vượt qúa mức thu nhập từ đâu ?
Rồi việc chuyển nhượng tài sản cho vợ, con, dòng họ, để che giấu cũng đâu có dễ nếu không có tiếp tay “dưới gầm bàn” của các cơ quan nhà nước. Vậy phải điều tra từ đâu và ai điều tra ?
Chẳng nhẽ việc quan trọng này lại giao cho các Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và Công an phường xã là những nơi chưa bao giờ thành công trong công tác.
Chuyện này đã không dễ mà ông Trọng còn ỡm ờ nói : “Ban Chấp hành Trung ương khóa XII cần có 3 độ tuổi (dưới 50, 50-60 và từ 61 tuổi trở lên). Trường hợp đặc biệt nào cần phải cơ cấu vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ngoài độ tuổi theo quy định thì Bộ Chính trị cân nhắc, trình Ban Chấp hành Trung ương xem xét, quyết định việc đề cử với Đại hội Đảng.”
Như thế là đủ mọi lớp tuổi rồi, có hạn chế gì đâu ? Ngay ông Trọng, sẽ 72 tuổi vào năm Đại hội đảng 2016, cũng hội đủ điều kiện vì ông thuộc diện “61 tuổi trở lên” !
Ông lại nói kèm thêm: “Trường hợp đặc biệt nào cần phải cơ cấu vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ngoài độ tuổi theo quy định thì Bộ Chính trị cân nhắc, trình Ban Chấp hành Trung ương xem xét..”
Nhưng thế nào là “đặc biệt”, ai quyết định ? Mà làm gì có “ngoài độ tuổi” trong “3 độ tuổi “ mà trình với tâu ?
Không ai biết “dưới 50” là bằng nào và “trên 61” là bao nhiêu ? Chuyện lấp lửng con cá vàng này có vấn đề “du di” khó hiểu.
Vì vậy, tiêu chuẩn càng nhiều, càng có nhiều đường được vẽ ra cho hươu chạy chức chạy quyền. Tại sao ? Vì người dân đã có bằng chứng lãnh đạo nói nhiều hơn làm thật trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; trong cải tổ hành chính, giảm biên chế nhân viên nhà nước; tái cơ cấu kinh tế mà vẫn đi làm thuê cho nước ngoài; không cổ phần hoá nổi các Doanh nghiệp Nhà nước dù thua lỗ ; hay cải tổ nền giáo dục mà chưa làm nổi con ốc vít đến nỗi bây giờ thua cả Lào và Kampuchia thì đến bao giờ dân mới ngóc đầu lên được ?
BẰNG CHỨNG
Tình trạng này đã được Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc báo cáo tại Phiên khai mạc kỳ họp 9 của Quốc hội sáng 20/05/2015.
Ông Phúc nói : “ Sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng thấp hơn cùng kỳ.... Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giảm so cùng kỳ; kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước giảm . Khách quốc tế đến Việt Nam giảm 12,2%.... Sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp còn khó khăn. Số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động tăng 4,5% (so với cùng kỳ 2014).… Việc triển khai các đề án, chương trình, kế hoạch tái cơ cấu ở một số Bộ, ngành, địa phương còn chưa đạt yêu cầu. Việc sắp xếp, cổ phần hoá, thoái vốn đầu tư ngoài ngành, nâng cao hiệu quả hoạt động ở một số doanh nghiệp nhà nước và công ty nông lâm nghiệp còn chưa đạt yêu cầu.
Ông Phúc không nói vào chi tiết công tác phòng, chống tham nhũng nhưng chỉ cho biết Chính phủ sẽ : “ Đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí. Nâng cao hiệu quả kiểm tra, kiểm toán, thanh tra, điều tra, xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng; đẩy nhanh tiến độ xử lý các vụ tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm. Tăng cường tương trợ tư pháp, nhất là tư pháp hình sự để xử lý hành vi tham nhũng có yếu tố nước ngoài và thu hồi tài sản tham nhũng.”
Phó Thủ tướng Phúc không nói gì đến tình trạng suy đồi văn hoá và đạo đức nghiêm trọng trong xã hội. Học đường không thiếu trò đánh thầy, thầy đổi điểm cao để ngủ với nữ sinh. Số người chết vì tai nạn giao thông mỗi ngày nhiều hơn trong thời kỳ chiến tranh. Một bộ phận không nhỏ người dân cũng đã xa lánh đảng, ghét dơ cán bộ vì tiếp tục bị nhũng nhiễu, gặp khó khăn trong đời sống kinh tế, khó kiếm việc làm. Rất nhiều thành phần trong dân, nhất là ở vùng xa và vùng cao chưa ăn bữa sáng đã lo bữa tối. Ra đường gặp Công an còn hơn sợ cọp ! Cả xã hội không được tự do mở mồm, dù có bị trù dập giữa đường phố.
Ngay cả Trí thức cũng phải nín thinh trước những bất công xã hội và quyền con người bị tước bỏ, dù Hiến pháp đã công nhận. Dân oan, dân khiếu kiện đòi công lý cũng bị Công an giả dạng côn đồ chà đạp lên luật pháp tấn công giữa chốn đông người thì xã hội này có còn gì là của dân ?
Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng – Phó Giáo sư (PGS) Nguyễn Trọng Phúc đã chia sẻ với VnExpress, trong số báo ra ngày thứ Ba, 19/5/2015: “ Phải thẳng thắn nhìn nhận rằng nhiều bộ phận dân cư còn khó khăn, tình trạng đói nghèo khoảng 7%. Sự phân hoá giàu nghèo còn khá nặng. Nhà nước phải thu hẹp được khoảng cách này, thúc đẩy dân cư thoát nghèo bền vững.
Lãnh đạo và quản lý phát triển đất nước còn tình trạng quan liêu, tham nhũng của một bộ phận gây mất niềm tin của nhân dân. Nghị quyết trung ương 4 đã thẳng thắn nhìn nhận những sai lầm thì Đảng phải thẳng thắn khắc phục để lấy lại niềm tin.”
Nhưng đến bao giờ và phải cần thêm bao nhiêu năm nữa để đảng có thể “khắc phục để lấy lại niềm tin” trong dân và trong đảng ?
Ngày 16 tháng 01 năm 2012, Nghị quyết Trung ương 4 “Về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã nhìn nhận : “ Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”
Như vậy chuyện có nhiều cán bộ có chức có quyền “giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản” , mất tư cách không còn là chuyện lạ với dân, nhưng không ai dám đụng tới vì việc kê khai tài sản chưa bao giờ được dân giám sát hay được quyền kiểm chứng gian, ngay. Đảng cũng giấu kín những bản khai tài sản của lãnh đạo nên không ai biết lời khai có đúng như sự thật hay không.
Nhưng Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, trong buổi tiếp xúc với cử tri ở Sài Gòn hôm 16/5 (2015), đã “thừa nhận tình trạng bộ phận cán bộ hư hỏng, cán bộ “2Đ – đất và đô la” là một việc có thật.”
Ông nói: “Có một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên hư hỏng, gây mất niềm tin trong nhân dân. Vấn đề này đã được nói trong các văn kiện của Đảng. Thậm chí có cán bộ lão thành gửi thư đề nghị Trung ương không cơ cấu những cán bộ loại 2Đ vào Trung ương, tất nhiên trong Đại hội Đảng tới đây sẽ không cơ cấu những cán bộ đó vì chỉ hại dân, hại nước”.
Ông cũng cho biết : “Trong dự thảo văn kiện gửi đến cấp cơ sở, cấp quận huyện cũng giữ nhóm từ này xin ý kiến toàn Đảng và nhân dân. “Đây là một điều hết sức ray rứt, ai cũng bức xúc cả. Tôi cũng xin khẳng định lại những điều mà người dân nói là có thật.”
Nhưng ông Chủ tịch nước có làm được gì không, hay ông cũng chỉ biết “tâm tư” theo kiểu Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã đánh trống bỏ dùi nhiều lần trước mặt Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Tòan, mỗi khi đề cập đến chuyện Trung Quốc bành trướng lãnh thổ ở Trường Sa ?
8 ĐẶC TRƯNG LỪA DỐI
Với tình trạng đất nước không có lối thoát từ bên trong và bị lệ thuộc gần như hòan toàn vào Trung Quốc, đảng CSVN đã mở đường cho Bắc Kinh tự do lấn chiếm và kiểm soát Biển Đông.
Như vậy đảng và nhà nước CSVN còn hãnh diện gì với 8 Đặc trưng viết trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên Xã hội Chủ nghĩa” (Bổ sung, phát triển năm 2011) ?
Khi nói về “ Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, ông Lê Hữu Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh giải thích ngày 14/01/2011: “ Ở nước ta, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phải được biểu hiện cụ thể thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm Marx-Lenin về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh…là công bằng, hợp lý, mọi người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ, được sống cuộc đời hạnh phúc.” (Trích TTXVN, Thông tấn xã Việt Nam).
Trong thực tế đời sống ở Việt Nam ngày nay dân chưa giầu mà nước mỗi ngày lại yếu đi trước hiểm họa xâm lược của Trung Quốc. Nhân dân không có tự do, dân chủ là thứ xa xỉ chỉ dành riêng cho đảng viên và những ai chịu phục tùng quyền cai trị độc tôn và độc quyền của đảng.
- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ thì ông Nghĩa lý luận: “Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu việt chính trị của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin sự nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá trị trong tư tưởng truyền thống của dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức là dân là chủ, dân làm chủ.”
Nhưng dân đang làm chủ cái gì ở Việt Nam ngoài bản thân ? Ngay cả tương lai chính trị của đất nước cũng hòan toàn nằm trong tay đảng. Người dân không có quyền tham gia việc nước như Hiến pháp quy định.
- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
“Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác….Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân .”, theo lời ông Nghĩa.
Lý luận vòng vo của ông Nghĩa không làm sáng tỏ được chủ trương cốt lõi mập mờ giữa Cộng sản và Tư bản khi đảng theo đuổi nền kinh tế thị trường, nhưng lại có cái đuôi không giống ai gọi là “theo định hướng xã hội chủ nghĩa” .
Chả ai hiểu đảng muốn nói gì, ngoài tìm mọi cách kiểm soát kinh tế để chia chác cho nhau. Nhưng với Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), Tiến Sỹ Nguyễn Đình Cung và nhiều chuyên gia khác thì nếu Việt Nam “không chuyển sang kinh tế thị trường thì không giải quyết được gì cả”.
Theo Thời báo Kinh tế Việt Nam thì trong “báo cáo nghiên cứu dài tới trên 50 trang gửi đến Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân 2015, diễn ra trong hai ngày 21 và 22/4, ông Cung đặt vấn đề đổi mới khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.”
Bài báo viết tiếp : “Đổi mới tư duy và tháo bỏ nút thắt thể chế để chuyển mạnh nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại là tên của nghiên cứu này.
Tại đây, Viện trưởng CIEM đã phân tích cặn kẽ về các loại kinh tế thị trường, cũng như một số điểm nghẽn hay nút thắt thể chế chế ngăn cản chuyển đổi mạnh mẽ sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Nguyên nhân của các nút thắt nói trên, theo TS. Nguyễn Đình Cung, lại nằm ở phía Nhà nước.
Ông Cung nói: “Có thế nói, cải cách 30 năm qua ở Việt Nam mới chủ yếu tập trung vào giảm và thu hẹp vai trò và chức năng của Nhà nước, mà chưa có đổi mới căn bản cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước; chưa thay đổi cơ bản tư duy về kinh tế thị trường, về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường”.
Kiến nghị đầu tiên của chuyên gia này về cải cách thể chế, là đổi mới nhận thức và làm rõ nội hàm của một số khái niệm cơ bản của quá trình cải cách tiếp theo.
Mà xếp hàng đầu, theo ông, chính là khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đây là một khái niệm được sử dụng thường xuyên và liên tục, nhưng nội hàm của khái niệm chưa rõ, chưa thống nhất; và những gì được giải thích liên quan đến khái niệm này không còn phù hợp.”
- Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Theo giải thích của ông Lê Hữu Nghĩa thì : “Tính ưu việt về tiến tiến của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện khái quát, nhân văn của văn hóa nhân loại; ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự cường dân tộc...).
Ở điểm này không cần tranh luận mà cứ nhìn lên màn hình TV mỗi ngày để thấy sinh hoạt Văn hoá-Văn nghệ của Việt Nam đã đứng sau lưng các loại văn hóa lai căng đến từ Trung Quốc đang đe dọa mỗi gia đình Việt Nam.
- Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Một lần nữa, ông Nghĩa đã nói những điều không có thật như đảng tuyên truyền: “ Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ được thể hiện trong đặc trưng tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà còn được thể hiện qua đặc trưng về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Về phương diện con người, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển con người toàn diện.”
Nhưng ai đang ấm no, có tự do, hạnh phúc và được hưởng bổng lộc của chế độ ngoài những kẻ có chức, có quyền trong đảng ? Đại đa số nhân dân, đặc biệt ở miền núi và vùng sâu có đủ cơm no áo ấm không ? Quyền tự do cho mọi người ư ? Đây là một thứ “xin cho” phản dân chủ và vi phạm nghiêm trọng quyền con người mà ai cũng biết.
- Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
Đây là một phô trương không biết hổ thẹn của đảng CSVN khi nhà nước đối diện với những khó khăn trong đời sống của đồng bào các dân tộc.
Nhà nước nói bình đẳng nhưng đối xử chênh lệch và kỳ thị ra mặt đối với những dân cư không đồng chính kiến, kể cả người Việt gốc Việt Nam Cộng Hòa. Đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên, người Việt Khmer ở miền Tây Nam Bộ, người Hmong ở vùng Tây bắc giáp ranh Ai Lao, nhất là những người theo đạo Dương Văn Mình và Thiên Chúa giáo đang bị phá phách và bị “công an trị” ra sao thì cứ hỏi các Tổ chức đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo ở Việt Nam và các Tổ chức Quốc tế thì sẽ được trả lời đầy đủ.
- Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Về điểm này, ông Nghĩa lập luận chuyện chỉ có trên giấy tờ ở Việt Nam: “Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.”
Nếu của dân, sao dân không có quyền tự do ứng cử và tự do bầu của để lập chính phủ ? Quyền lập hội, quyền tự do ngôn luận của dân có được tôn trọng không ?
Nếu chính phủ là do nhân dân thì tại sao lại phải “đảng cử dân bầu” ?
Và vì dân thì tại sao đảng không phục vụ quyền lợi của dân mà lại dành quyền ban phát khi đảng muốn ?
- Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Chủ trương cùng có lợi là ưu điểm của chính sách ngọai giao đa dạng, nhưng đảng CSVN đã để mất chủ quyền ở Biển Đông vào tay Trung Quốc từ lâu rồi. Trước tình trạng Trung Quốc “làm chủ Hòang Sa” và tân tạo 8 bãi đá chiếm của Việt Nam ở Trường Sa năm 1988 thành các căn cứ quân sư, sân bay, bến cảng, đảng chỉ biết “hát đi hát lại” cá khúc tự an ủi rằng ta tiếp tục “đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình để duy trì ổn định phát triển” !
Ngoài những hành động lấn chiếm công khai và ngang ngược, Trung Quốc đã không ngừng ngăn cấm đánh bắt hàng năm từ tháng 5 đến tháng 8 và tấn công ngư phủ Việt Nam hành nghề ở Hòang Sa và Trường Sa
Đảng cũng sai lầm khi để cho Trung Quốc thống trị Việt Nam bằng kinh tế và kiểm soát lãnh thổ trên đất liền dưới dạng hợp tác kinh tế ở biên giới; khai thác Bauxite ở Tây Nguyên; lập nhà máy Thép ở Vũng Áng (Hà Tĩnh); để cho 10 tỉnh ở vùng chiến lược cho Tầu Bắc Kinh, Tầu Hồng Kông và Tầu Đài Loan thuê đất trồng rừng dài 50 năm. Rồi bây giờ lại đồng ý để cho Trung Quốc sử dụng cảng Hải Phòng cho kế họach xây dựng kinh tế, được gọi là “Con đường Tơ Lụa trên biển” chỉ có lợi cho Bắc Kinh.
BỨC XÚC BIỂN ĐÔNG
Cuộc diện Trung-Việt như thế nên buộc lòng người dân phải bức xúc, lo âu cho tiền đồ Tổ quốc.
Chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân đã báo cáo trước Quốc hội hôm 20/05/2015 rằng, trong số 3.854 ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân cả nước gửi tới Quốc hội, đã có những công dân “rất quan tâm, theo dõi tình hình an ninh chính trị trên thế giới và trong khu vực đang có nhiều biến động phức tạp.”
Ông Nguyễn Thiện Nhân, một trong số 16 Ủy viên Bộ Chính trị báo cáo với Quốc hội : “ Cử tri và nhân dân rất lo lắng, bất bình trước việc Trung Quốc tăng cường các hoạt động cải tạo, bồi đắp, xây dựng các công trình tại hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vi phạm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam và vi phạm Tuyên bố về ứng xử giữa các nước ASEAN và Trung Quốc (DOC)”.
DOC là chư viết tắt của Declaration of Conduct, một thỏa hiệp đạt được ở Nam Vang (Kampuchia) năm 2002 khuyến khích, nhưng không có tính pháp lý trừng phạt các nước của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc nếu vi phạm. Do đó Trung Quốc đã ngang nhiên xé rào tự tuyên bố có chủ quyền trên gần hết diện tích gần 4 triệu cây số vuông Biển Đông mà họ tự khoanh theo hình Lưỡi Bò, hay còn được gọi là Đường 9 đọan rồi sau đổi thánh 10 đọan. Bắc Kinh cũng đã tự do lấn chiếm, tân tạo bãi đá thành đảo để đóng quân kiểm soát lưu thông hàng hải và xâm phạm chủ quyền biển đảo của các nước trong khu vực, quan trọng nhất là Việt Nam và Phi Luật Tân.
Vậy Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có nói gì về họat động bành trướng và bá quyền của Trung Quốc ở Biển Đông ngày gần đây không ?
Ông Phúc chỉ nói “chung chung” như “nói cho xong chuyện” nhưng ông không dám nêu tên hay chỉ trích Trung Quốc.
Ông báo cáo với các Đại biểu rằng : “ Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động nhưng vẫn còn nhiều thách thức, rủi ro. Cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn trong khu vực và tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông diễn biến phức tạp, khó lường. .... Việc bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều khó khăn, thách thức.”
Và ông hứa chính phủ sẽ : ”Tiếp tục thực hiện hiệu quả Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu, ứng phó kịp thời, hiệu quả trong mọi tình huống.”
Ông Phúc nói vậy thì dân cũng chỉ biết đến thế thôi mà không biết đe dọa của Trung Quốc nguy hiểm cho Việt Nam đến mức nào ?
Vì vậy Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh thiếu niên và nhi đồng Lê Như Tiến nói: “Báo cáo của Chính phủ cũng chưa đáp ứng được nguyện vọng của cử tri, cũng như chưa thỏa mãn mong muốn của ĐBQH.”
Do đó một số đông Đại biểu Quốc hội và ông Tiến đã thuyết phục thành công Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đồng ý tổ chức một phiên họp riêng để nghe Chính phủ thuyết trình về tình hình Biển Đông.
Như vậy thì 8 điều được gọi là “Đặc trưng” của đảng CSVN ghi trong Cương lĩnh bổ sung năm 2011 có đem lại phúc lợi cho dân không hay chỉ giúp đảng có thêm đặc quyền và đặc lợi ?
Trong khi đó thì mặt trái hão huyền của 8 Đặc trưng cũng đã giúp Trung Quốc không cần đánh mà Việt Nam đã thua trên nhiều mặt. -/-
Phạm Trần
(05/015)