Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Giáo hội Pakistan mạnh mẽ chống cưỡng ép từ bỏ tôn giáo
Thực tế, ở Pakistan, các vụ bắt cóc nhằm mục đích cưỡng ép cải đạo và kết hôn của các cô gái trẻ thuộc các cộng đoàn thiểu số, đặc biệt là các thiếu nữ thuộc các cộng đoàn Kitô và Ấn Độ giáo, ngày càng gia tăng. Cưỡng bức cải đạo đã trở thành một công cụ quan trọng của hoạt động bách hại các nhóm thiểu số trong nước.
Cha Saleh Diego, giám đốc Ủy ban Quốc gia về Công lý và Hòa bình, Tổng Đại diện của Tổng Giáo phận Karachi nói: “Chúng tôi sẽ trình bày một đơn kiến nghị để giải quyết vấn đề một lần cho tất cả. Chúng tôi, Tổng Giáo phận Karachi, tất cả các Giáo hội khác của Pakistan, toàn thể cộng đoàn Kitô, là một. Chúng tôi sẽ đấu tranh cho công lý”.
Cha giải thích: “Ở Pakistan, trẻ em dưới 18 tuổi theo hoặc thực hành tôn giáo của cha mẹ mình. Vì thế, theo Giáo hội và luật quốc tế, không một tín đồ thiếu niên nào có thể bị ép thay đổi tôn giáo của mình”.
Trong một tuyên bố hôm 8/11, Ủy ban Điều phối mới về Luật pháp và Công lý, do Đức Hồng y Joseph Coutts đứng đầu, cũng đã lên án mạnh mẽ hiện tượng bắt cóc nhằm mục đích cưỡng bức cải đạo và kết hôn của các cô gái trẻ thuộc các nhóm tôn giáo thiểu số.
Ở Pakistan, các nhóm thiểu số phải đối diện với sự phân biệt đối xử ở mức độ cao và có nhiều trường hợp bị ngược đãi vì tôn giáo của họ. Một báo cáo năm 2014 của Phong trào Liên đới và Hòa bình khẳng định, mỗi năm, có khoảng 1.000 phụ nữ ở nước này, chủ yếu là các Kitô hữu và tín đồ Ấn Độ giáo buộc phải theo Hồi giáo. Trong một nghiên cứu chi tiết, được công bố vào năm ngoái, Ủy ban Nhân dân về Quyền của Người thiểu số và Trung tâm Công bằng Xã hội đã ghi nhận: từ năm 2013 đến năm 2019, có 156 trường hợp cưỡng bức cải đạo. Ngoài ra, theo Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ, Pakistan nằm trong số những nước vi phạm tự do tôn giáo tồi tệ nhất trên thế giới. (CSR_8230_2020)
Ngọc Yến - Vatican News
Giáo phận Sibolga ở Indonesia: Một Giám mục và ba linh mục chết vì Covid-19
Ngày 20/10/2020, Đức cha Sinaga đã có kết quả xét nghiệm dương tính với Covid-19. Ngài được các bác sĩ chăm sóc cẩn thận nhưng đã qua đời vào tối thứ Bảy tại bệnh viện Thánh Elisabeth ở Medan sau hai tuần nhập viện.
Đức cha Sinaga là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Sibolga, được Thánh Gioan Phaolô II tấn phong tại Roma vào ngày 6/01/1981. Trước khi qua đời, Đức cha là nguyên Tổng Giám mục của Tổng Giáo phận Medan và là Giám quản Tông tòa của Giáo phận Sibolga, cả hai đều thuộc tỉnh phía bắc Sumatra.
Trách vụ của Đức cha tại Giáo phận Sibolga kết thúc vào năm 2004 khi ngài được chọn trở thành Giám mục Phó của Tổng Giáo phận Medan, sau đó vào năm 2009 trở thành Tổng Giám mục, thay thế Giám mục mãn nhiệm Đức cha Alfred Gonti Pius Datubara (OFMCap).
Do tới tuổi, Đức cha Sinaga đã xin từ chức và 08/12/2018, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chấp thuận. Nhưng vài tuần sau, Giám mục Sibolga, Đức cha Ludovicus Simanullang qua đời đột ngột và Tòa Thánh lại bổ nhiệm ngài làm Giám quản Tông tòa.
Trước đó, thứ Sáu 06/11, cha Barnabas Johan Winkler, linh mục dòng Phanxicô (OFMCap) cũng chết vì Covid-19 ở tuổi 89. Nhà truyền giáo người Đức này đã phục vụ tại Giáo phận Sibolga từ năm 2003 đến 2007. Ngoài cha Winkler còn có hai linh mục khác của Giáo phận cũng đã qua đời vì Covid-19
Đức cha Kornelius Sipayung (OFMCap), Giám mục Medan là giám chức Indonesia đầu tiên đã phục hồi thành công từ Covid-19. Vào tháng 7, Đức cha có kết quả xét nghiệm dương tính với corona virus nhưng hồi phục rất nhanh.
Ngọc Yến - Vatican News
Nhà thờ trở thành bệnh viện dã chiến
Với quyết định của linh mục tuyên úy, vào chiều thứ Sáu vừa qua, các băng ghế của nhà thờ nằm trong khu vực bệnh viện Thánh Luigi ở Turin thuộc Nam Tirol đã được thay thế bằng 30 giường nhỏ dành cho bệnh nhân Covid với các triệu chứng nhẹ.
Cha Luciano Gambino chia sẻ: “Có một số người không đồng ý với quyết định này. Nhưng nhà thờ dành cho dân Chúa, cho mọi người, nên nếu cần thiết thì có thể dùng để đón tiếp bệnh nhân, chắc chắn tôi không làm điều gì xấu”.
Cha cũng cho biết, ý tưởng là vậy, nhưng khi thực hiện không đơn giản vì phải sắp xếp làm sao để có thể phục vụ tốt nhất cho các bệnh nhân. Cho tới nay mọi sự đã tương đối ổn định và nhà thờ bệnh viện đã sẵn sàng đón tiếp phục vụ bệnh nhân.
Cha nói: “Tôi thấy mọi người rất sợ, họ đau khổ, họ không biết đi đâu, cả những người bệnh, những người còn rất trẻ và các bác sĩ. Theo tôi, trong đợt lây nhiễm thứ hai này, nhu cầu tinh thần của mọi người gia tăng. Họ cần được trợ giúp, động viên với niềm hy vọng Kitô giáo. Chính vì thế chúng tôi, những linh mục tuyên úy cần phải làm việc tích cực hơn. Chúng ta phải nghĩ rằng mọi người cần bác sĩ, y tá, và siêu thị. Nhưng người ta không thể sống chỉ bằng việc được khám bệnh. Người bệnh cần có Chúa, ít nhất là để chia sẻ những câu hỏi lớn. Chúng tôi là những người nâng đỡ đời sống tâm linh đang chạm tay vào điều đó. Tôi hy vọng mọi sự sẽ mang lại kết quả tốt đẹp. Ân sủng Chúa hành động, nhất là trong những thời khắc khó khăn”.
“Tôi tin rằng, từ đại dịch này, tất cả mọi người có thể học được điều quan trọng của cuộc sống. Đó không phải là vẻ bên ngoài, nhưng là sức khỏe thể chất không tách rời sức khỏe tinh thần. Người ta nói nhiều về việc cách ly xã hội, đó là điều cần thiết, nhưng chúng ta cần tương quan xã hội, như Đức Thánh Cha nói ‘chúng ta không thể tự cứu mình’”.
Ngọc Yến - Vatican News
ĐTC Phanxicô: Phải luôn cầu nguyện, ngay cả khi dường như Chúa không nghe lời chúng ta
Trong bài giáo lý tại buổi tiếp chung trực tuyến sáng thứ Tư 11/11, Đức Thánh Cha đã suy tư về mẫu gương cầu nguyện không ngừng và kiên trì của Chúa Giê-su. Ngài giải thích về 3 dụ ngôn trong Tin Mừng thánh Luca: người đàn ông đến nhà bạn vào lúc nửa đêm để xin bánh; người đàn bà góa cầu xin thẩm phán tìm lại công lý cho bà; và dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện.
Qua ba dụ ngôn trên, Đức Thánh Cha nhắc các tín hữu phải phải kiên trì, kiên định và khiêm tốn khi cầu nguyện. Đây chính là những đặc tính nổi bật trong đời sống cầu nguyện của các thánh, trong những giây phút tăm tối của cuộc đời, khi Thiên Chúa dường như im lặng và vắng mặt. Đức Thánh Cha khuyến khích các tín hữu tiếp tục kiên trì cầu nguyện với nhận thức rằng mình không cầu nguyện một mình, nhưng với Chúa Ki-tô và với sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Đức Thánh Cha bắt đầu bài giáo lý: Chúa Giê-su đã nêu gương cầu nguyện không ngừng, được thực hành với sự kiên trì. Đối thoại liên tục với Chúa Cha, trong thinh lặng và suy tư, là điểm tựa của toàn bộ sứ mạng của Người. Các sách Tin Mừng cũng thuật lại với chúng ta những lời Chúa khuyên nhủ các môn đệ, để các ông cầu nguyện một cách kiên trì, không mệt mỏi.
Kiên trì
Sách Giáo lý nhắc lại ba dụ ngôn trong Phúc âm thánh Lu-ca, nhấn mạnh đặc điểm này của việc cầu nguyện (x. GLCG, 2613). Trước hết, cầu nguyện phải kiên trì, giống như nhân vật trong dụ ngôn thứ nhất, phải đón một vị khách đến bất ngờ, nửa đêm đến gõ cửa một người bạn và xin bánh. Người bạn trả lời “không!”, vì anh đã lên giường rồi, nhưng người bạn nài nỉ và nài nỉ mãi cho đến khi anh buộc phải thức dậy và cho người bạn bánh (x. Lc 11,5-8). Nhưng Thiên Chúa kiên nhẫn hơn chúng ta, và những ai tin tưởng và kiên trì gõ cửa trái tim của Người sẽ không bị thất vọng. Chúa Cha của chúng ta biết rõ chúng ta cần gì; sự kiên trì không phải để báo với Người hoặc thuyết phục Người, nhưng nó nuôi dưỡng mong muốn và kỳ vọng trong chúng ta.
Kiên định
Dụ ngôn thứ hai nói về người đàn bà góa tìm đến với quan tòa để ông giúp bà có được công lý. Vị thẩm phán này tham nhũng, là một người bất lương, nhưng cuối cùng, bị quấy rầy bởi sự kiên định, can đảm của bà góa, ông quyết định chiều lòng bà (x. Lc 18,1-8). Dụ ngôn này giúp chúng ta hiểu rằng đức tin không phải là động lực trong chốc lát, mà là sự can đảm cầu khẩn Thiên Chúa, thậm chí “tranh luận” với Người, không chịu đầu hàng trước sự dữ và bất công.
Khiêm tốn
Dụ ngôn thứ ba kể về một người Pharisêu và một người thu thuế đến Đền thờ để cầu nguyện. Người đầu tiên hướng về Thiên Chúa và khoe khoang công trạng của mình; còn người kia cảm thấy không xứng đáng ngay cả khi bước vào đền thờ. Tuy nhiên, Thiên Chúa không lắng nghe lời cầu nguyện của người thứ nhất, nghĩa là của người kiêu ngạo, trong khi Người đáp lại lời của người khiêm tốn (x. Lc 18, 9-14). Lời cầu nguyện sẽ không chân thật nếu không có tinh thần khiêm tốn. Chính sự khiêm nhường khiến chúng ta cầu xin, cầu nguyện..
Phải luôn cầu nguyện
Đức Thánh Cha nhận định: Giáo huấn của Phúc Âm rất rõ ràng: chúng ta phải luôn cầu nguyện, ngay cả khi mọi sự dường như vô ích, khi Thiên Chúa dường như im lặng, không nghe, và chúng ta dường như lãng phí thời gian. Ngay cả khi bầu trời tối sầm, Ki-tô hữu vẫn không ngừng cầu nguyện. Lời cầu nguyện của Ki-tô hữu đi đôi với đức tin. Và niềm tin, trong rất nhiều ngày của cuộc đời chúng ta, có thể giống như là một ảo tưởng, một nỗ lực không kết quả: có những khoảnh khắc tăm tối trong cuộc đời chúng ta. Và ở đó, đức tin như là một ảo tưởng. Nhưng thực hành cầu nguyện cũng có nghĩa là chấp nhận nỗ lực này.
Có người nói: “Thưa cha, con đi cầu nguyện mà con không có cảm giác gì… Con cảm thấy như thế này, trái tim khô cằn, trái tim khô héo, con không biết…”. Ngài nói: Nhưng chúng ta phải tiếp tục, với sự mệt mỏi của những khoảnh khắc tồi tệ, những khoảnh khắc mà chúng ta không cảm thấy gì. Nhiều vị thánh nam nữ đã trải qua đêm tối của đức tin và sự im lặng của Thiên Chúa - khi chúng ta gõ, gõ và Chúa không trả lời - và những vị thánh này đã kiên trì.
Chúng ta không bao giờ đơn độc khi cầu nguyện
Trong những đêm tối đức tin này, người cầu nguyện không bao giờ đơn độc. Thực tế, Chúa Giê-su không chỉ là nhân chứng và thầy dạy cầu nguyện, nhưng còn hơn thế nữa. Người đón nhận chúng ta trong lời cầu nguyện của Người, để chúng ta có thể cầu nguyện trong Người và qua Người. Và đây là công việc của Chúa Thánh Thần. Chính vì lý do đó Tin Mừng mời gọi chúng ta nhân danh Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha. Thánh Gioan thuật lại những lời Chúa dạy: “Bất cứ ai cầu xin nhân danh Thầy, Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi Chúa Con” (14,13) . Và Sách Giáo Lý giải thích rằng "sự tin tưởng chắc chắn rằng những lời khẩn cầu của chúng ta được Chúa nghe thấy dựa trên lời cầu nguyện của Chúa Giê-su" (n. 2614). Nó mang lại đôi cánh mà lời cầu nguyện của con người luôn muốn có được.
Chúa Giê-su nhận lấy mọi lời cầu nguyện của chúng ta
Tiếp tục bài giáo lý Đức Thánh Cha nhắc lại những lời trong Thánh Vịnh 91, đầy tin tưởng, phát xuất từ một trái tim hy vọng hoàn toàn vào Thiên Chúa: “Chúa phù trì che chở, dưới cánh Người, bạn có chỗ ẩn thân: lòng Chúa tín trung là khiên che thuẫn đỡ. Bạn không sợ cảnh hãi hùng đêm vắng hay mũi tên bay giữa ban ngày, cả dịch khí hoành hành trong đêm tối, cả ôn thần sát hại lúc ban trưa”(cc. 4-6).
Ngài giải thích: Lời cầu nguyện tuyệt vời này được hoàn thành nơi chính Chúa Ki-tô; chính trong Người mà nó hoàn toàn trở thành sự thật. Nếu không có Chúa Giê-su, những lời cầu nguyện của chúng ta có nguy cơ bị thu hẹp thành nỗ lực của con người, hầu hết đều có kết cục thất bại. Nhưng Chúa đã tự mang lấy trên mình mọi tiếng kêu than, mọi tiếng rên rỉ, mọi hân hoan, mọi khẩn cầu ... mọi lời cầu nguyện của con người.
Chúa Thánh Thần dẫn chúng ta đến gặp Chúa Cha và Chúa Con
Và Đức Thánh Cha nhắc nhở: Chúng ta đừng quên Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cầu nguyện trong chúng ta. Đó là Đấng dẫn chúng ta đến cầu nguyện, dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu: đó là Quà tặng. Đó là món quà mà Chúa Cha và Chúa Con đã ban cho chúng ta để tiến tới cuộc gặp gỡ Thiên Chúa. Và Chúa Thánh Thần, khi chúng ta cầu nguyện, là Chúa Thánh Thần cầu nguyện trong lòng chúng ta.
Ki-tô hữu không sợ hãi khi cầu nguyện
Khẳng định rằng Chúa Ki-tô là tất cả đối với chúng ta, ngay cả trong đời sống cầu nguyện của chúng ta, Đức Thánh Cha nhắc lại lời thánh Augustinô đã nói về điều này bằng một cách diễn đạt soi sáng mà chúng ta cũng tìm thấy trong Sách Giáo Lý: Chúa Giêsu “cầu nguyện cho chúng ta với tư cách là tư tế của chúng ta; Người cầu nguyện trong chúng ta với tư cách là Thủ lãnh của chúng ta; Người được chúng ta kêu cầu với tư cách là Thiên Chúa. Vậy chúng ta phải nhận biết tiếng của chúng ta trong Người, và tiếng của Người ở trong chúng ta" (n. 2616).
Đức Thánh Cha kết luận: Và chính đó là lý do mà người Kitô hữu khi cầu nguyện không sợ hãi điều gì. Chúng ta phó thác chính mình cho Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho chúng ta như một món quà, Đấng cầu nguyện trong chúng ta và dẫn chúng ta đến sự cầu nguyện. Xin chính Chúa Thánh Thần, Thầy dạy cầu nguyện, dạy chúng ta cách cầu nguyện.
Tòa Thánh nhận định về Hoa Kỳ sau bầu cử
Hai ngày sau khi chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, Tổng Giám Mục Gomez của Los Angeles, chính thức thừa nhận chiến thắng của liên danh Biden-Harris, Tòa Thánh, qua ngòi bút xã luận của Gisotti, một cách mặc nhiên, cũng đã thừa nhận chiến thắng ấy nhưng nhấn mạnh tới nhu cầu phải lặp lại sự hợp nhất quốc gia.
Theo CNA, Tổng Giám Mục Gomez viết như sau: “Chúng tôi nhìn nhận rằng Joseph R. Biden, Jr. đã nhận đủ số phiếu để được bầu làm Tổng thống thứ 46 của Hiệp Chúng Quốc. Chúng tôi chúc mừng Ông Biden và nhìn nhận rằng ông tham gia với cố Tổng Thống John F. Kennedy như là tổng thống thứ hai của Hiệp Chúng Quốc trong việc tuyên xưng đức tin Công Giáo”.
Sau đó, Tổng Giám Mục Gomez nhận định rằng “nay là lúc để các nhà lãnh đạo của chúng ta đến với nhau trong tinh thẩn hợp nhất quốc gia và dấn thân vào đối thoại và thỏa hiệp vì thiện ích chung”.
Phần nào dựa vào nhận định ấy, Alessandro Gisotti, có lúc là giám đốc lâm thời của Phòng Báo Chí Tòa Thánh, và nay ở trong ban biên tập xã luận của Bộ Truyền Thông, có bài tựa là “Hiệp Chúng Quốc: thách đố hợp nhất sau cuộc bỏ phiếu”, với nội dung như sau, dựa và ấn bản tiếng Anh của VaticanNews:
“Một nhà tự chia rẽ không thể đứng vững”. Vào ngày 16 tháng 6 năm 1858, Abraham Lincoln, một ứng cử viên Thượng viện vào thời điểm đó, đã phát biểu như thế, lấy cảm hứng từ Tin Mừng của Thánh Máccô (3:25), trong một bài diễn văn nhằm nhấn mạnh rằng nền dân chủ non trẻ của Mỹ không thể chịu đựng được việc một nửa các tiểu bang cho phép chế độ nô lệ. Bài diễn văn đó của vị tổng thống tương lai của Hoa Kỳ, được trích dẫn không biết bao nhiêu lần trong một thế kỷ rưỡi qua, vẫn là một huấn thị mãi mãi hiện diện với người dân Hoa Kỳ, được ghi khắc ngay trên con dấu của nó với những hạn từ được các Quốc phụ sáng lập chọn để nhắc nhớ nguyên tắc hợp nhất: E pluribus unum (từ nhiều thành một).
Đó chính là sự hợp nhất, một sự hợp nhất luôn "lớn hơn sự xung đột" như Evangelii Gaudium đã nói, được khơi dậy một cách mạnh mẽ vào thời điểm này sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ gây chia rẽ và phân cực nhất trong lịch sử gần đây của đất nước. “Nay là lúc để các nhà lãnh đạo của chúng ta đến với nhau trong tinh thẩn hợp nhất quốc gia”, chủ tịch của các giám mục Hoa Kỳ, Tổng giám mục của Los Angeles, José H. Gomez, nói như thế trong thông điệp chúc mừng Tổng thống đắc cử Joe Biden và Phó Tổng thống đắc cử, Kamala Harris. Hơn nữa, các phương tiện truyền thông Mỹ, gần như nhất trí, đặt chủ đề hòa giải dân tộc như thách thức cấp bách nhất (cùng với Covid-19 và hậu quả là cuộc khủng hoảng kinh tế) mà, kể từ ngày 20/1 tới, cư dân tiếp theo của Nhà Trắng sẽ phải đối diện.
Một cách có ý nghĩa, ngày 30 tháng 6 vừa qua, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tập chú vào vấn đề hợp nhất trong một thông điệp gửi cho Hiệp hội Báo chí Công Giáo, mà các tổ chức truyền thông Công Giáo ở Bắc Mỹ vốn thuộc về. Đức Giáo Hoàng nhận xét: “E pluribus unum, lý tưởng hợp nhất giữa sự đa dạng, được phản ảnh trong huy hiệu của Hoa Kỳ, cũng phải truyền cảm hứng cho việc phục vụ mà anh chị em cung ứng vì lợi ích chung. Ngày nay, điều này càng cấp thiết biết bao, trong một thời đại bị đánh dấu bởi các xung đột và phân cực mà chính cộng đồng Công Giáo cũng không miễn nhiễm. Chúng ta cần những phương tiện truyền thông có khả năng xây dựng những nhịp cầu, bảo vệ sự sống và phá đổ những bức tường, hữu hình và vô hình, vốn ngăn cản đối thoại chân thành và giao tiếp trung thực giữa các cá nhân và cộng đồng”. Những lời lẽ ấy được dành cho giới truyền thông, nhưng cũng có thể áp dụng cho các lĩnh vực khác của xã hội Hoa Kỳ.
Chắc chắn, đối với Đức Giáo Hoàng, sự hợp nhất không có nghĩa là sự độc dạng. Ngay cả trong bối cảnh đặc thù này, chúng ta được hỗ trợ bởi hình ảnh khối đa diện, mà trong viễn ảnh của Đức Phanxicô, vốn “phản ảnh sự hội tụ của mọi bộ phận của nó, mỗi bộ phận đều bảo tồn được tính khác biệt của nó”. Mô hình này càng có giá trị đối với một quốc gia, ngay từ khi ra đời, đã tự trình bày mình như đa diện: đa sắc tộc, đa văn hóa và đa tôn giáo. Tuy nhiên, việc tìm kiếm sự hợp nhất này - được chứng thực bởi tình bạn xã hội, nói theo Thông điệp Fratelli tutti - không phải là một mục đích ngay trong nó, nhưng nó hướng tới việc cổ vũ thiện ích của con người và cộng đồng. Hai chủ thể này vốn là trọng tâm trong bài diễn văn của Đức Phanxicô trước Quốc hội Hoa Kỳ (lần đầu tiên dành cho một vị Giáo hoàng trên Đồi Capitol), diễn ra vào ngày 24 tháng 9 năm 2015.
Huấn dụ của ngài vào dịp đó là “Nếu chính trị thực sự phải phục vụ con người, thì điều tất nhiên là nó không thể làm nô lệ cho kinh tế và tài chính. Thay vào đó, chính trị nói lên nhu cầu bắt buộc chúng ta phải sống như một, để như một chúng ta xây dựng thiện ích chung lớn nhất: tức thiện ích của một cộng đồng biết hy sinh các lợi ích riêng để chia sẻ các hàng hóa, các lợi ích, đời sống xã hội của mình, một cách hợp công lý và hòa bình”. Phát biểu trực tiếp với các thành viên Quốc hội Hoa Kỳ, Đức Giáo Hoàng nói: “Tôi không đánh giá thấp sự khó khăn mà việc này bao gồm, nhưng tôi khuyến khích qúy vị trong nỗ lực này”. Một lời huấn dụ mà ngày nay, trong một thời khắc rất tế nhị trong lịch sử của Hoa Kỳ, càng vang vọng một cách mạnh mẽ hơn.
Vũ Văn An
Công giáo Chile kỷ niệm 500 năm thánh lễ đầu tiên
Photo: agensir.it
10/11/2020
Chúa nhật 8/11/2020 vừa qua, Giáo hội Công giáo tại Chile đã kỷ niệm 500 năm thánh lễ đầu tiên được cử hành tại Punta Arenas, ở miền cực nam nước này, và Đức Thánh cha cũng gửi sứ điệp chúc mừng và khích lệ.
- Trần Đức Anh, O.P.
Thánh lễ đầu tiên được cha Pedro de Valderrama, tuyên úy tàu thám hiểm của Hernando Magallanes, cử hành ngày 11/11/1520. Đức cha Bernardo Bastres, giám mục Giáo phận Punta Arenas, đã cử hành thánh lễ kỷ niệm được truyền đi trên toàn quốc qua các phương tiện truyền thông, và mở đầu năm kỷ niệm 500 năm thánh lễ đầu tiên tại địa phương. Vì đại dịch Covid-19, nên số tín hữu dự lễ trực tiếp bị giới hạn.
Trong buổi lễ, có công bố sứ điệp của Đức Thánh cha gửi cộng đoàn giáo phận Punta Arenas và toàn thể Giáo hội Công giáo tại Chile nhân biến cố kỷ niệm này. Ngài nhắc nhở về tầm quan trọng của thánh lễ trong đời sống Giáo hội, và khẳng định rằng: “Tôi khích lệ anh chị em hãy sống mầu nhiệm Thánh Thể liên kết chúng ta với Chúa Giêsu, trong tinh thần thờ lạy và cảm tạ Chúa, vì thánh lễ chính là nguyên lý sự sống mới và sự hiệp nhất, thúc đẩy chúng ta tăng trưởng trong việc phục vụ huynh đệ dành cho những người nghèo và kém may mắn nhất trong xã hội chúng ta”.
Đức Thánh cha nói thêm rằng: “Đức Mẹ Mân côi, mẫu gương của Giáo hội và là Đấng phù trợ các tín hữu Kitô, dạy chúng ta tín thác nơi Chúa và chu toàn thánh ý Chúa trong tình thương và công lý, để làm chứng cho thế giới về niềm vui Tin mừng”.
Nhân dịp mở đầu chương trình kỷ niệm 500 năm, Đức cha Bastres thông báo giáo phận Punta Arenas đảm trách nhà dưỡng lão Gioan Phaolô II, đón tiếp và săn sóc những người già trong miền này, qua tổ chức Fide XII. Trước đây, nhà dưỡng lão này do tổ chức “Mái ấm của Chúa Kitô” đảm trách.
(Rei 09-11-2020)
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ chúc mừng tổng thống đắc cử Joe Biden
Đức cha José Gomez | Vatican News
10/11/2020
Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ chúc mừng tổng thống đắc cử Joe Biden và cổ võ việc bảo vệ sự sống con người, tự do lương tâm và tôn giáo.
- Trần Đức Anh, O.P.
Trong tuyên ngôn công bố hôm 7/11/2020 vừa qua, Đức cha José Gomez, Tổng giám mục giáo phận Los Angeles, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ khẳng định rằng: “Chúng tôi cảm tạ Thiên Chúa vì phúc lành tự do. Nhân dân Hoa Kỳ đã lên tiếng trong cuộc bầu cử này. Nay là lúc các vị lãnh đạo của chúng ta cùng nhau, trong tinh thần đoàn kết quốc gia, dấn thân đối thoại và phục vụ công ích.
“Trong tư cách là tín hữu Công giáo và là người Mỹ, ưu tiên và sứ mạng của chúng ta thật rõ ràng. Chúng ta ở đây để theo Chúa Giêsu Kitô, để làm chứng về tình thương của Chúa trong đời sống chúng ta và để xây dựng Nước Chúa trên trái đất này. Tôi tin rằng lúc này trong lịch sử Hoa Kỳ, các tín hữu Công giáo có một nghĩa vụ đặc biệt là những người kiến tạo hòa bình, thăng tiến tình huynh đệ và tín nhiệm nhau, cầu nguyện cho một tinh thần yêu nước đích thực được đổi mới trong đất nước chúng ta.
“Dân chủ đòi mọi người chúng ta cư xử như những người đức độ và có kỷ luật. Nó đòi hòi chúng ta tôn trọng tự do biểu lộ ý kiến và đối xử với nhau trong tình bác ái và văn minh, dù chúng ta có thể bất đồng sâu rộng trong các cuộc thảo luận của chúng ta về các vấn đề luật pháp và chính sách công cộng.
Trong khi chúng ta làm điều ấy, chúng tôi nhìn nhận rằng ông Joseph Biden Jr đã được đủ số phiếu để đắc cử tổng thống thứ 46 của Hoa Kỳ. Chúng tôi chúc mừng ông Biden và nhìn nhận ông theo Cố tổng thống John Kennedy, trở thành tổng thống thứ hai của Mỹ tuyên xưng đức tin Công giáo. Chúng tôi cũng chúc mừng thượng nghị sĩ Harris của bang California, trở thành phụ nữ đầu tiên được bầu làm phó tổng thống.
Chúng tôi nguyện cầu Đức Trinh Nữ Maria, bổn mạng của đại quốc này, chuyển cầu cho chúng ta. Xin Mẹ giúp chúng ta cộng tác với nhau để hoàn thành viễn tượng đẹp đẽ của các thừa sai và những vị sáng lập Hoa Kỳ - một quốc gia dưới Thiên Chúa, trong đó sự thánh thiêng của mỗi nhân mạng được bảo vệ và tự do tương tâm và tôn giáo được bảo đảm.”
(HĐGM USA 7-11-2020)
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Cơ quan cứu trợ Công giáo Hoa Kỳ cứu trợ Trung Mỹ
Sturmopfer in Honduras | AFP or licensors
10/11/2020
Cơ quan cứu trợ Công giáo Hoa Kỳ đang tích cực góp phần cứu trợ các nạn nhân bị cuồng phong Eta thổi qua các nước Trung Mỹ trong tuần qua làm cho hàng trăm người chết và hàng chục ngàn người tản cử.
- Trần Đức Anh, O.P.
Bão Eta được xếp loại cuồng phong cấp 4 đã đổ vào Honduras và miền đông bắc Nicaragua hôm 3/11/2020, với sức gió 240 cây số giờ, trước khi đi tới Guatemala, tạo nên mưa lũ, đất lở và lụt lội, gây thiệt hại trầm trọng cho các gia cư và hạ tầng cơ cấu. Eta được coi là cuồng phong trong mùa bão năm nay tại Trung Mỹ.
Trong thông cáo công bố hôm 6/11, Cơ quan bác ái này cho biết đang phối hợp các hoạt động với Caritas Nicaragua và tổ chức từ thiện Trocaire của Công giáo Ailen, để cung cấp lương thực, nước uống và các vật dụng chống lan lây Coronavirus cho 600 người di tản và đang ở trong các trại tạm trú.
Cơ quan cứu trợ Công giáo Hoa Kỳ cũng đang hoạt động tương tự tại Guatemala và Honduras.
Trong buổi đọc kinh Truyền tin, trưa Chúa nhật 8/11 vừa qua, Đức Thánh cha cũng nhắc đến Trung Mỹ bị cuồng phong vũ bão trong những ngày qua làm cho nhiều người thiệt mạng và thiệt hại lớn lao, gây trầm trọng hơn tình trạng vốn đã khó khăn vì đại dịch. Ngài nói: “Xin Chúa đón nhận những người quá cố, an ủi gia đình họ và nâng đỡ những người bị thử thách nặng nề, cũng như tất cả những người đang xả thân giúp đỡ các nạn nhân.”
(CNA 6-11, Rei 8-11-2020)
Nguồn: Đài Chân LÝ Á Châu
Tham chính viện Pháp bác đơn khiếu nại của Hội đồng Giám mục Pháp
Hình minh hoạ | AFP or licensors
10/11/2020
Tham chính viện, tức là tòa án tối cao về hành chánh của Pháp, đã bác đơn khiếu nại của Hội đồng Giám mục nước này về những biện pháp do nhà nước ban hành, cấm các buổi lễ tôn giáo tại nhà thờ, để ngăn chặn sự lan lây của Coronavirus.
- Trần Đức Anh, O.P.
Các giám mục Pháp cùng với nhiều tổ chức tôn giáo khác cho rằng các biện pháp của chính phủ là vi phạm tự do tôn giáo và yêu cầu bãi bỏ lệnh cấm các buổi lễ tôn giáo trong thời kỳ giới nghiêm hiện nay.
Trong phán quyết công bố hôm thứ Bảy, 7/11/2020 vừa qua, các thẩm phán của Tham chính viện Pháp cho rằng việc cấm các lễ nghi tôn giáo trước đe dọa của đại dịch là điều tương ứng với sự cần thiết theo hiến pháp phải bảo vệ sức khỏe của dân chúng, và với tự do phụng tự.
Tuy nhiên, Tham chính viện cho biết sẽ xét lại vụ này vào ngày 16/11 tới đây, là ngày mà chính phủ Pháp phải kiểm điểm lại lần đầu tiên về lệnh giới nghiêm. Tòa án hành chánh này cũng yêu cầu chính phủ thỏa thuận với các đại diện tôn giáo về tình trạng cấp thiết y tế cũng như những hạn chế nếu phải kéo dài sau ngày 16/11 tới đây.
Như vậy, trong giai đoạn giới nghiêm hiện nay tại Pháp, chỉ được cử hành các lễ an táng, với sự hiện diện tối đa 30 người, và lễ cưới được tối đa 6 người tham dự; các tín hữu được đến nhà thờ cầu nguyện riêng. Tòa án cũng yêu cầu chính phủ minh định giấy chứng nhận để các tín hữu có thể lui tới các nhà thờ dễ dàng hơn với mục đích cầu nguyện riêng.
(Le Figaro 8-11-2020)
Đức Thánh Cha kêu gọi hòa bình cho Ethiopia và Libya Thanh Quảng sdb
Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi các nhà chức trách Ethiopia và Libya hãy chọn con đường hòa bình và Đối thoại tại các cuộc hòa đàm đang diễn ra tại Tunis hầu mang lại hòa bình và ổn định cho Libya.
(Tin Vatican - Linda Bordoni)
Đức Thánh Cha Phanxicô cho hay ngài lo ngại khi hay tin những giao chiến đang leo thang tại Ethiopia và ĐTC kêu gọi các nhà chức trách hãy “từ khước tham vọng leo thang thêm các cuộc xung đột vũ trang”.
Phát biểu sau khi đọc Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha mời gọi tất cả mọi người dân Ethiopia hãy “cầu nguyện và tôn trọng tình huynh đệ để đối thoại và giải quyết các mối bất hòa trong hòa bình”.
Lời kêu gọi của Đức Thánh Cha được đưa ra lúc Liên hiệp quốc cảnh báo rằng chín triệu người có nguy cơ phải di dời để tránh các cuộc xung đột đang leo thang ở vùng Tigray ở Ethiopia. Các quan sát viên của LHQ hôm nay cũng cho biết việc chính phủ ban bố tình trạng khẩn cấp đã ngăn chặn thực phẩm và các khoản viện trợ khác không đến được dân chúng!
Thủ tướng Abiy Ahmed đang thôi thúc một cuộc chiến quân sự mà ông đã công bố vào hôm thứ Tư (4/11/2020), bất chấp lời kêu gọi đối thoại với Mặt trận Giải phóng Nhân dân Tigray (TPLF) của Liên hiệp Quốc thay cho các cuộc nội chiến. Người Tigrayans đã thống trị nền chính trị Ethiopia trong nhiều thập kỷ cho đến khi ông Abiy nhậm chức vào năm 2018 và gây nên một làn sóng chống đối mạnh mẽ chống lại sự kìm kẹp độc quyền của ông.
Diễn đàn Đối thoại Chính trị cho Lybia
Sau đó, Đức Thánh Cha Phanxicô đề cập đến niềm hy vọng ổn định cho Libya và ĐTC lưu ý rằng cuộc hòa đàm đầu tiên cho nền Chính trị tại Lybia đang diễn ra, bao gồm các bên giao chiến, đang nhóm họp tại thủ đô Tunis của Tunisia.
ĐTC mô tả cuộc hòa đàm này là một sự kiện quan trọng, ĐTC cho hay: "Tôi thực sự hy vọng rằng trong thời điểm mong manh này, một giải pháp hòa bình hầu chấm dứt những đau khổ triền miên cho người dân Libya là điều quan yếu."
ĐTC bày tỏ hy vọng rằng “mong cho cuộc Thỏa thuận ngừng bắn vĩnh viễn gần đây được tôn trọng và cụ thể hóa, Đức Thánh Cha mời gọi hãy cầu nguyện cho các đại biểu của cuộc hòa đàm này”.
Cuộc hòa đàm tìm giải pháp chính trị cho Libya (LPDF), một cuộc hòa đàm chính trị nội bộ cho Libya, được tiếp nối những thành quả cuả cuộc hòa đàm Berlin, vào tháng 1 năm ngoái, được Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc bảo đảm...
Những thỏa thuận của cuộc hòa đàm này là những đường hướng giải quyết cho các cuộc bầu cử khác nhau tại nhiều nơi trong khu vực, dựa trên các nguyên tắc hội nhập, những giao kèo về địa lý, chủng tộc, chính trị, các bộ lạc sắc tộc và văn hóa xã hội.
Thanh Quảng, SDB