Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bắt đầu án phong chân phước cho nữ tu được mang dấu thánh, bị Liên Xô tra tấn và giam tù
Sơ Boniszewska sinh năm 1907 tại Kamionka, gần thành phố Novogrudok, ngày nay thuộc Belarus. Năm 16 tuổi, chị gia nhập dòng các Nữ tu Thiên thần ở Vilnius, ngày nay là thủ đô của Lithuania. Sau khi khấn lần đầu, sơ nói rằng Chúa Giê-su đã yêu cầu sơ dâng những đau khổ để đền tội của “các linh hồn đã thánh hiến cho Chúa”. Sơ khấn trọn đời năm 1933 và sau đó được nhận các dấu thánh – các vết thương giống như các vết thương của Chúa Giê-su bị đóng đinh.
Ngày 11/4/1950, sơ Boniszewska bị bắt và bị cảnh sát mật vụ Xô Viết tra tấn. Một năm sau sơ bị đày đi Siberia. Chính quyền Xô Viết trả tự do cho sơ vào năm 1956 và sơ được trở về Ba Lan. Sơ qua đời ngày 2/3/2003 tại một thị trấn ở miền nam Vác-sa-va, hưởng thọ 96 tuổi và khấn dòng 76 năm.
“Nhật ký Tâm linh” của sơ Boniszewska được xuất bản năm 2016, ghi lại những trải nghiệm thần bí của sơ từ năm 1921 đến năm 1980. Các nhà bình luận đã rút ra những điểm tương đồng giữa tác phẩm của sơ và “Nhật ký” của thánh Faustina Kowalska. Linh đạo của sơ Boniszewska tập trung vào việc dâng những đau khổ để đền bù tội lỗi, đặc biệt là cầu nguyện cho các linh mục.
Phát biểu trong lễ khai mạc án phong chân phước cho sơ Boniszewska, cha Michał Siennick, thỉnh nguyện viên án phong chân phước, nói rằng “Quá trình mà chúng ta đang bắt đầu hôm nay nhằm mục đích chứng tỏ rằng lòng can đảm anh hùng có thể thực hiện được ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất của cuộc sống. Sơ Wanda Boniszewska, mặc dù bị kết án oan uổng, chịu tù đày nhiều năm dưới chế độ Xô Viết, vẫn anh dũng trước Chúa Kitô, làm chứng cho Người, mang những vết thương của Chúa Kitô trên cơ thể, và dâng những đau khổ của mình cầu nguyện cho các linh mục.” (CNA 09/11/2020)
Hồng Thủy - Vatican News
Hội Nhi đồng Giáo hoàng Truyền giáo khuyến khích các gia đình trở thành Giáo hội tại gia, Giáo hội truyền giáo
Trích dẫn các tài liệu của Huấn quyền về đề tài này, sơ Roberta Tremarelli, Tổng thư ký Hội Nhi đồng Giáo hoàng Truyền giáo ghi chú trong bài xã luận: “Ngày nay, nhiều gia đình sống trong tình yêu thương, trong đức tin và thực hành ơn gọi của họ của Giáo hội tại gia, Giáo hội truyền giáo. Vì điều này, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa, xin Ngài tiếp tục trợ giúp và nâng đỡ các gia đình trong việc tìm kiếm các phương thế mới để sống ơn gọi này”.
Cha Dieu Béni Nicaise Yassigao, thành viên của Hội Nhi đồng Giáo hoàng Truyền giáo, ở Cộng hòa Trung Phi đưa ra một suy tư về Chúa Giêsu khi còn là một cậu bé và kinh nghiệm của Ngài trong gia đình nhân loại: “Hài Nhi Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể, cần một môi trường thuận tiện để phát triển trọn vẹn sứ vụ trên mặt đất. Như mọi trẻ em cần môi trường gia đình, Chúa đã tìm thấy trong ngôi nhà Nadarét một tổ ấm thích hợp cho sự phát triển trọn vẹn của Ngài”.
Bài viết trung tâm của bản tin nói về việc “Huấn luyện đức tin của trẻ em trong các gia đình Công giáo”. Cha Linson K. Aradan, thuộc giáo phận Quilon, Ấn Độ là tác giả của bài viết này. Cha viết: “Ở châu Á, gia đình giữ vị trí trung tâm trong mạng lưới các mối quan hệ, và trẻ em trong thời thơ ấu được học các giá trị và cấu trúc gia đình. Các nhu cầu của trẻ em được đáp ứng trong gia đình, mang lại cho các em sự an toàn và cảm giác thân thuộc. Các em học trong gia đình những giá trị của sự hiệp nhất, tình huynh đệ, sự hợp tác, cộng tác và cảm thông. Trong gia đình, các thành viên gắn bó với nhau không những bằng tình huyết thống, nhưng còn bằng tình thương yêu, sự quan tâm lẫn nhau”.
Bản tin của Hội Nhi đồng Giáo hoàng Truyền giáo cũng dành không gian cho những kinh nghiệm dấn thân truyền giáo của những người trẻ. Mặc dù đại dịch, nhưng các hoạt động dưới những hình thức và phương thức khác nhau vẫn tiếp tục được thực hiện.
Bên cạnh đó, bản tin còn trình bày một số dự án được hỗ trợ bởi Hội Nhi đồng Giáo hoàng Truyền giáo: giúp đỡ trẻ em khuyết tật ở Shimoga, Ấn Độ; hỗ trợ trẻ em và gia đình các em ở Giáo phận Paramaribo, Suriname; tổ chức mục vụ chăm sóc trẻ em và giới trẻ tại giáo phận Tshumbe, Congo; trường mẫu giáo cho trẻ em khuyết tật ở đông bắc Kenya.
Cuối cùng là một ấn phẩm do Các Hội Giáo hoàng Truyền giáo Argentina thực hiện được đề xuất thu hút sự chú ý của độc giả, tập hợp các văn bản, câu chuyện, suy tư, trò chơi ... về chủ đề sự thánh thiện, với chứng tá của trẻ em và thanh thiếu niên châu Mỹ, các vị Thánh được Giáo hội chính thức công nhận.
Ngọc Yến - Vatican News
"Cố lên!”. ĐTC khích lệ ĐHY Bassetti đang được điều trị Covid-19 tại bệnh viện
Đức Hồng y Gualtiero Bassetti là Chủ tịch Hội đồng giám mục Ý và giám mục của giáo phận Perugia-Città della Pieve. Ngài được đưa vào khoa chăm sóc đặc biệt từ ngày 3/11 và tình trạng sức khỏe vẫn ở mức nghiêm trọng.
Tối ngày 10/11 vừa qua, Đức Thánh Cha đã điện thoại nói chuyện với Đức cha Marco Salvi, giám mục phụ tá của giáo phận, để hỏi thăm về tình hình sức khỏe của Đức Hồng y.
Trước hết Đức Thánh Cha đã hỏi thăm sức khỏe của Đức cha Salvi, vì chính Đức cha cũng bị dương tính với Covid-19. Sau đó ngài đã hỏi thăm về các thông tin y tế của Đức Hồng y Bassetti. Đức Thánh Cha đã yêu cầu Đức cha Salvi gửi đến Đức Hồng y thông điệp của ngài. Ngài đã nói với Đức cha Salvi 3 lần: “Cố lên, cố lên, cố lên!” và yêu cầu lập lại với Đức Hồng y. Đồng thời Đức Thánh Cha cũng bảo đảm cầu nguyện cho Đức Hồng y và gửi lời cảm ơn các nhân viên y tế đang chăm sóc cho Đức Hồng y.
Giáo phận Perugia cũng có hai linh mục cao niên qua đời trong vòng một tuần vì virus corona. Qua cuộc điện thoại của Đức Thánh Cha, đối với Đức cha Salvi, ngài cảm thấy có một sự quan tâm. Ngài nói: “Bởi vì ngay cả trong những thời điểm này, Thiên Chúa không để chúng ta đơn độc và Đức Giáo Hoàng là sự quan tâm của Thiên Chúa đối với chúng ta. Cuộc điện thoại đó là một minh chứng rằng có một Thiên Chúa luôn cảm thương mỗi người chúng ta, và Đức Giáo Hoàng đã trở nên khí cụ của Chúa”. (Cath.ch 11/11/2020)
Hồng Thủy - Vatican News
Đề nghị nâng Lộ Đức lên hàng Đền thánh quốc gia
Theo báo Công giáo Pháp La Croix, số ra ngày 6/11/2020 vừa qua, Hội đồng Giám mục Pháp bỏ phiếu về đề nghị nâng Đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức, tại miền nam nước này lên hàng “Đền thánh quốc gia”.
Hội đồng Giám mục Pháp đang nhóm họp dưới dạng trực tuyến vì đại dịch, từ ngày 3 đến 8/11 này. Việc bỏ phiếu liên quan đến qui chế Trung tâm Thánh Mẫu Lộ Đức dự kiến diễn ra vào ngày thứ Bảy, ngày 7/11.
Đức cha Antoine Heouard, giám mục Phụ tá giáo phận Lille, bắc Pháp, Đặc ủy của Tòa Thánh về Đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức, từ tháng Sáu năm ngoái (2019), nhận định rằng: “Tại Lộ Đức, cần có những qui luật rõ ràng, để ý đến các chiều kích khác nhau của trung tâm hành hương này: chiều kích địa phương, quốc gia và quốc tế.. Sự khác biệt hệ tại điều này, là các qui chế của Đền thánh được Hội đồng Giám mục Pháp thông qua, trong khi Tòa Thánh trực tiếp can thiệp vào Đền thánh Lộ Đức, vì đây là trung tâm hành hương quốc tế.”
Theo dự thảo qui chế mới, Giám đốc Đền thánh Lộ Đức sẽ được Ban thường vụ Hội đồng Giám mục Pháp bổ nhiệm, dựa trên đề nghị của Đức giám mục sở tại. Ngoài ra, có một ban tư vấn giám mục về Đền thánh, làm sao để Đền thánh này không mất đặc tính của miền Pyrénées. Nếu Hội đồng Giám mục Pháp thông qua, thì qui chế mới sẽ được gửi về Tòa Thánh để phê chuẩn. Việc soạn dự thảo qui chế này đã tiến hành, với sự cộng tác của các cơ quan liên hệ của Tòa Thánh, cụ thể là Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin mừng. Theo Đức cha Herouad, qui chế mới có thể bắt đầu có hiệu lực từ đầu năm tới và nhiệm vụ Đặc ủy của Đức cha sẽ chấm dứt.
Cũng liên quan đến Giáo hội tại Pháp, nhiều giáo phận tại nước này đang gặp khó khăn lớn về tài chánh. Các giáo phận này vốn đã bị khó khăn trong lãnh vực này trước đại dịch, nhưng nay tình thế càng trầm trọng hơn.
Giáo hội Công giáo tại Pháp sống nhờ tiền dâng cúng của các tín hữu, nhất là tiền quyên trong thánh lễ. Trong số 61 triệu dân Pháp, có 47 triệu người Công giáo, tương đương với 77% dân số, và chỉ có khoảng một triệu tín hữu đóng góp cho Giáo hội ngân khoản gọi là “đồng tiền phụng tự”. Con số này cùng với số tiền quyên trong các thánh lễ, chiếm 99% nguồn tài chánh của Giáo hội tại Pháp, như cha Ambroise Laurent, Phó Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Pháp cho biết.
Từ ngày 3/11 vừa qua, các thánh lễ trực diện trong các thánh đường ở Pháp bị ngưng vì đại dịch, nên các giáo xứ bị mất đi ngân khoản lạc quyên trong thánh lễ. Cha Laurent nói rằng: “Việc quyên tiền trong thánh lễ, trước tiên là một hành vi phụng vụ lúc dâng lễ, mang lao công của con người lên bàn tiệc Thánh Thể. Khi việc lạc quyên này bị tách khỏi việc cử hành thánh lễ, thì việc đóng góp giảm bớt nhiều”. Trên toàn nước Pháp, với 100 giáo phận, có khoảng một phần ba gặp khó khăn lớn trong lãnh vực tài chánh. Trong bối cảnh trên đây, Hội đồng Giám mục cổ võ tăng cường việc quyên góp trực tuyến.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: vietnamese.rvasia.org
Thư của Đức Bênêđictô XVI nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ĐGH Gioan Phaolô II
WHĐ (10.11.2020) – Nhân kỷ niệm một trăm năm ngày sinh của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô XVI viết một bức thư cho Đức Hồng Y Stanislaw Dziwisz, nguyên là Tổng giám mục Tổng giáo phận Kraków. Hiển nhiên là không ai có thể nói về Đức Gioan Phaolô II cách sâu sắc và đúng đắn cho bằng Đức Bênêđictô XVI.
Sinh nhật thứ một trăm của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (18.05.2020)
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chào đời ngày 18 tháng Năm, 100 năm trước, tại thị trấn Wadowice nhỏ bé thuộc Ba Lan. Sau hơn một thế kỷ bị ba cường quốc láng giềng là Phổ, Nga và Áo chia cắt, cuối Thế chiến thứ nhất Ba Lan đã giành lại được độc lập. Sự kiện lịch sử này làm nảy sinh niềm hy vọng lớn lao nhưng cũng đòi hỏi nhiều hy sinh gian khổ khi chính quyền mới trong quá trình xây dựng lại đất nước vẫn luôn cảm thấy áp lực từ hai cường quốc Đức và Nga. Chính trong bối cảnh tuy bị áp bức nhưng trên hết được ghi dấu bởi niềm hy vọng như thế, chàng trai trẻ Karol Wojtyla đã lớn lên. Anh sớm mất mẹ, mất anh trai và cuối cùng mất cả cha nữa, người cha mà nhờ đó anh có được lòng đạo đức sâu xa và sốt mến. Chàng trai trẻ Karol đặc biệt ham thích văn học và kịch nghệ. Sau khi tốt nghiệp trung học, anh đã chọn học những môn này.
“Để tránh bị trục xuất, mùa thu 1940 anh vào làm việc tại mỏ đá của nhà máy hóa chất Solvay” (x. Ân sủng và Mầu nhiệm). “Mùa thu 1942, anh quyết định dứt khoát vào Chủng viện Kraków, đây là Chủng viện được Đức Tổng Giám mục Sapieha của Kraków bí mật thành lập tại Tòa Giám Mục của ngài. Với vỏ bọc là một công nhân nhà máy, Karol bắt đầu học thần học từ những giáo trình cũ và cứ thế, đến mùng 1 tháng 11 năm 1946, anh đã được thụ phong linh mục”. (x. sđd.). Dĩ nhiên Karol không chỉ nghiên cứu thần học nơi sách vở nhưng còn qua kinh nghiệm bản thân về những tình huống khó khăn mà anh và đất nước anh đã trải qua. Đây phần nào là đặc điểm của cả đời sống và công việc của anh. Anh nghiên cứu sách vở, nhưng những vấn đề sách vở đặt ra lại trở thành thực tại mà anh trải nghiệm cách sâu xa và sống động. Với tư cách một Giám mục trẻ – là Giám mục phụ tá từ năm 1958 và sau đó là Tổng Giám mục Kraków từ năm 1964 – Công đồng Vaticanô II trở thành trường học cho toàn bộ cuộc đời và công việc của ngài. Các vấn đề quan trọng xuất hiện, đặc biệt liên quan đến tài liệu gọi là phác thảo số 13 mà sau này sẽ trở thành Hiến Chế Gaudium et Spes (Giáo Hội trong Thế Giới ngày nay), cũng là những vấn đề của chính ngài. Những lời giải đáp được Công đồng khai triển sẽ dọn đường cho sứ vụ Giám mục và sau này là sứ vụ Giáo Hoàng của ngài.
Khi Đức Hồng Y Wojtyla được chọn là Đấng kế vị thánh Phêrô vào ngày 16.10.1978, Giáo Hội đang trong tình hình bi đát. Các ý kiến bàn cãi về Công đồng được trình bày trước công chúng như sự tranh luận về chính Đức tin, khiến dường như tước mất tính chắc chắn không thể sai lầm và kiên định của Công đồng. Chẳng hạn, tình hình này được một linh mục quản xứ vùng Bavaria nhận xét như sau: “Rốt cuộc, chúng ta rơi vào một niềm tin sai lầm”. Cảm giác chẳng có gì là chắc chắn nữa, mọi chuyện đều có vấn đề, đều bị xới lên thậm chí còn trầm trọng hơn bởi phương cách thực hiện cải tổ phụng vụ. Cuối cùng, dường như chính phụng vụ tạo ra phụng vụ. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI với lòng nhiệt thành và quyết tâm đã bế mạc Công đồng nhưng ngay sau đó ngài đã phải đương đầu với những vấn đề còn thúc bách hơn mà chung cuộc là chất vấn về sự tồn tại của chính Giáo Hội. Các nhà xã hội học đã so sánh tình hình của Giáo Hội vào thời điểm đó với tình hình của Liên bang Xô Viết thời Gorbachev, thời kỳ cơ cấu quyền lực của Nhà nước Xô Viết sụp đổ trong quá trình cải cách.
Do đó, về bản chất, một nhiệm vụ hầu như bất khả thi đang chờ đợi vị Giáo hoàng mới. Tuy nhiên, ngay từ giây phút đầu tiên, Đức Gioan Phaolô II đã khơi dậy lòng nhiệt tình mới mẻ dành cho Đức Kitô và Giáo hội của Người. Trong bài giảng tại buổi lễ đón nhận sứ vụ Giáo hoàng, ngài nói: “Đừng sợ ! Hãy mở ra, hãy mở rộng cánh cửa cho Đức Kitô !” Lời mời gọi và cung bậc này sẽ là nét đặc trưng cho cả triều đại giáo hoàng của ngài và khiến ngài trở thành người khôi phục sự tự do cho Giáo hội. Điều kiện đủ để chuyện này xảy ra đến từ thực tế là vị tân Giáo hoàng xuất thân từ một quốc gia đã tích cực tiếp nhận Công đồng: hân hoan đón nhận sự đổi mới về mọi mặt chứ không phải là thái độ ngờ vực và không chắc chắn về mọi thứ.
Đức Giáo hoàng đã đi khắp thế giới, thực hiện 104 chuyến tông du mục vụ. Bất cứ nơi nào ngài đến, Tin Mừng được loan báo như thông điệp của niềm vui. Bằng cách này ngài giải thích nghĩa vụ bảo vệ những gì là Thiện hảo và phải dành cho Đức Kitô.
Trong 14 Thông điệp của mình, ngài đã trình bày thấu đáo đức tin và giáo huấn của Giáo hội một cách nhân văn. Việc này không khỏi gây ra những tranh cãi trong Giáo hội Tây phương vốn đang bị che phủ bởi sự ngờ vực và không chắc chắn.
Việc quan trọng lúc này dường như là xác định cho được điều gì thực sự là cốt lõi, để từ đây nhìn tới, chúng ta có thể đọc được thông điệp chứa đựng trong các văn bản khác. Chúng ta có thể nhận thấy điều đó vào giờ sinh thì của ngài. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II qua đời vào giây phút đầu tiên của lễ kính Lòng Chúa thương xót mới được thiết lập. Trước tiên tôi xin thêm một nhận xét cá nhân ngắn gọn, nhưng xem ra là khía cạnh quan trọng trong con người và công việc của Đức Giáo hoàng. Ngay từ đầu, Đức Gioan Phaolô II đã được đánh động sâu xa bởi thông điệp của nữ tu Faustina Kowalska thuộc Kraków. Chị đề cao Lòng Chúa Thương Xót và xem đó là điều cốt lõi thiết yếu của đức tin Kitô giáo. Chị hy vọng ngày lễ kính Lòng Chúa Thương Xót sẽ được thiết lập. Sau khi tra cứu, Đức Giáo hoàng chọn ngày Chúa Nhật thứ hai mùa Phục sinh. Tuy nhiên, trước khi quyết định dứt khoát, ngài đã xin ý kiến của Bộ Giáo lý Đức tin để xem ngày đó có phù hợp hay không. Chúng tôi trả lời là không thể bởi lẽ với một ngày lễ truyền thống cổ xưa và đầy ý nghĩa như Chúa Nhật “in Albis”, là Chúa Nhật kết thúc Tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh, thì không nên chồng chất thêm các ý tưởng mới. Chắc chắn chẳng dễ dàng gì để Đức Thánh Cha chấp nhận câu trả lời của chúng tôi. Tuy nhiên, ngài đã hết sức khiêm tốn chấp nhận lần đầu và còn chấp nhận lần thứ hai câu trả lời phủ định của chúng tôi. Cuối cùng, ngài đề nghị giữ nguyên Chúa Nhật thứ hai mùa Phục sinh với dạng thức lịch sử của ngày lễ nhưng bao gồm Lòng thương xót của Thiên Chúa vào ý nghĩa nguyên thủy của ngày lễ này. Những trường hợp tương tự như vậy thường xảy ra và tôi thật sự ấn tượng trước sự khiêm tốn của vị Giáo hoàng vĩ đại này, ngài từ bỏ những ý tưởng đã ấp ủ khi không được sự đồng thuận của các cơ quan chính thức phải được hỏi ý kiến theo các chuẩn mực đã được quy định.
Khi Đức Gioan Phaolô II trút hơi thở cuối cùng lìa đời, Giờ Kinh Chiều I của lễ kính Lòng Thương Xót cũng vừa kết thúc. Sự việc này làm sáng tỏ giờ sinh thì của ngài: ánh sáng lòng thương xót của Chúa chiếu tỏa như một thông điệp an ủi trước cái chết của ngài. Trong cuốn sách cuối cùng của ngài nhan đề “Ký ức và Căn tính”, được xuất bản trước khi ngài qua đời, Đức Giáo Hoàng một lần nữa tóm tắt thông điệp về Lòng Chúa thương xót. Ngài cho thấy mặc dù nữ tu Faustina đã chết trước khi cuộc đại chiến khủng khiếp lần thứ hai bùng nổ nhưng đã đưa ra câu trả lời của Chúa cho cuộc xung đột không thể chịu đựng nổi này. Như thể qua nữ tu Faustina, Đức Kitô muốn nói rằng: “Cái ác sẽ không đạt được chiến thắng chung cuộc. Mầu nhiệm Phục Sinh khẳng định rằng cuối cùng sự thiện sẽ khải hoàn, sự sống sẽ chiến thắng cái chết và tình yêu sẽ đánh bại hận thù”.
Trong suốt cuộc đời, Đức Giáo hoàng đã tìm cách thủ đắc cho mình điều cốt lõi khách quan của đức tin Kitô giáo, là giáo lý về ơn cứu độ, và giúp người khác thủ đắc điều đó. Qua Chúa Kitô phục sinh, lòng thương xót của Chúa được dành cho mỗi cá nhân. Mặc dù điều cốt lõi này của đời Kitô hữu chỉ được trao ban cho chúng ta trong đức tin, nhưng nó cũng có ý nghĩa triết học, bởi lẽ nếu lòng thương xót của Chúa không có thật, chúng ta sẽ phải lần mò tìm lối trong một thế giới ở đó người ta không thể nhận ra sức mạnh tối thượng của sự thiện chống lại cái ác. Vượt lên trên ý nghĩa lịch sử khách quan này, nói cho cùng, điều thiết yếu đối với mỗi người là phải nhận ra rằng chung cuộc lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn mạnh hơn sự yếu đuối của chúng ta. Hơn nữa, tại điểm này, chúng ta cũng có thể thấy được sự hiệp nhất nội tại giữa sứ điệp của Đức Gioan Phaolô II và những ý tưởng căn bản của Đức Thánh Cha Phanxicô: Đức Gioan Phaolô II không phải là người khắt khe về mặt luân lý theo như cách mô tả phiến diện của một số người. Khi đặt trọng tâm nơi lòng Chúa thương xót, ngài mang đến cho chúng ta cơ hội chấp nhận những đòi hỏi luân lý đối với con người, ngay cả khi chúng ta không thể nào đáp ứng đầy đủ những đòi hỏi ấy. Bên cạnh đó, những nỗ lực đạo đức, do chúng ta thực hiện dưới ánh sáng của lòng Chúa thương xót, chứng tỏ có một sức mạnh có thể chữa lành những yếu đuối của chúng ta.
Trong khi Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II hấp hối, quảng trường Thánh Phêrô đông nghẹt người, đặc biệt là giới trẻ, họ muốn gặp Đức Thánh Cha của họ lần cuối. Tôi không thể quên khoảnh khắc Đức Tổng Giám Mục Sandri thông báo cho biết Đức Giáo hoàng đã ra đi. Nhớ nhất là thời khắc khi hồi chuông báo tử của Đền Thờ Thánh Phêrô ngân vang. Trong ngày ngài được an táng, có rất nhiều biểu ngữ với dòng chữ “Santo subito!” Tứ phía vang dội tiếng kêu đó khi [linh cữu] Đức Gioan Phaolô II được rước ngang qua. Không chỉ từ quảng trường mà cả trong giới trí thức người ta cũng thảo luận về ý tưởng dành danh hiệu “The Great” – “Vĩ Đại” cho Đức Gioan Phaolô II.
Từ “thánh” biểu thị lãnh vực thuộc Thiên Chúa, còn từ “vĩ đại” liên quan đến chiều kích nhân loại. Theo tiêu chuẩn của Giáo hội, có thể công nhận một vị thánh bởi hai tiêu chí: các nhân đức anh hùng và một phép lạ. Hai tiêu chí này có liên quan chặt chẽ. Vì thuật ngữ “nhân đức anh hùng” không hiểu theo nghĩa một thành tích Olympic nhưng đúng hơn là điều gì đó trở nên hữu hình nơi và qua một người nên đây không phải là công việc của người ấy, nhưng là công việc của Thiên Chúa; nơi người ấy và qua người ấy công việc của Thiên Chúa được dễ dàng nhận ra. Đây không phải là kiểu đua tranh xem ai đạo đức hơn, nhưng là kết quả của việc từ bỏ sự cao cả của chính mình. Vấn đề là người ấy để Thiên Chúa hoạt động trên mình, và vì vậy công việc và quyền năng của Thiên Chúa trở nên hữu hình qua người ấy.
Điều tương tự cũng thích hợp với tiêu chí phép lạ: ở đây cũng vậy, điều đáng quan tâm không phải là xảy ra việc gì đó giật gân lạ thường mà là sự mặc khải hữu hình về lòng nhân từ chữa lành của Thiên Chúa, vượt khỏi mọi khả năng thuần túy con người. Người mở lòng ra với Chúa và được Chúa ngập tràn, đó là một vị thánh. Người ra khỏi chính mình, cho chúng ta thấy và nhận ra Chúa, đó là một con người thánh thiện. Kiểm tra điều này hết sức có thể theo các thủ tục pháp lý là mục đích của hai tiến trình tuyên chân phước và phong thánh. Trong trường hợp của Đức Gioan Phaolô II, cả hai tiến trình đều được thực hiện nghiêm túc theo các quy định thích đáng. Vì vậy giờ đây, ngài đứng trước chúng ta như người Cha, làm cho chúng ta thấy được lòng thương xót và nhân lành của Thiên Chúa.
Có khó khăn hơn để định nghĩa cho đúng thuật ngữ “vĩ đại”. Trong quá trình lịch sử kéo dài gần 2.000 năm của các triều giáo hoàng, danh hiệu “vĩ đại” đã chỉ được dành cho hai vị Giáo hoàng: Đức Lêô I (440 – 461) và Đức Grêgôriô I (590 – 604). Trong trường hợp của cả hai vị, từ “vĩ đại” có thêm nghĩa chính trị, nhưng thêm nghĩa đó là vì có gì đó trong mầu nhiệm của Thiên Chúa đã trở nên hữu hình thông qua thành công chính trị của các ngài. Bằng đối thoại, Đức Lêô Cả đã có thể thuyết phục Attila, Hoàng tử của xứ Huns, tha cho Rôma – thành phố của các Hoàng tử Tông đồ Phêrô và Phaolô. Không có vũ khí, không có sức mạnh quân sự hay chính trị, nhưng với sức mạnh đức tin kiên vững của mình, ngài đã thuyết phục được tên bạo chúa đáng sợ tha cho Rôma. Trong cuộc đấu tranh giữa tinh thần và quyền lực trần thế, tinh thần tỏ ra mạnh mẽ hơn. Thành công của Đức Grêgôriô I không ngoạn mục bằng, nhưng đã nhiều lần có thể bảo vệ Rôma chống lại người Lombardia –trong trường hợp này cũng vậy, có sự đối lập giữa tinh thần và quyền lực trần thế, để rồi tinh thần giành được chiến thắng.
Nếu so sánh cả hai câu chuyện với trường hợp của Đức Gioan Phaolô II, chúng ta sẽ thấy rõ mười mươi là có sự tương đồng. Đức Gioan Phaolô II cũng chẳng có quyền lực quân sự hay chính trị. Trong cuộc thảo luận về tình trạng tương lai của Châu Âu và nước Đức vào tháng 2 năm 1945, người ta nói rằng cần phải xét đến ý kiến của Đức Giáo hoàng. Stalin liền hỏi: “Giáo hoàng thì có được bao nhiêu sư đoàn?” Đúng vậy, Đức Giáo hoàng chẳng có sư đoàn nào cả. Tuy nhiên, sức mạnh của đức tin hóa ra lại là lực lượng rốt cuộc đã giật sập được hệ thống quyền lực của Liên Xô vào năm 1989 và tạo ra một khởi đầu mới khả dĩ. Không thể chối cãi rằng đức tin của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II là một yếu tố thiết yếu trong sự sụp đổ của các thế lực. Và vì vậy, sự vĩ đại xuất hiện nơi Đức Lêô I và Đức Grêgôriô I chắc chắn cũng được nhìn thấy ở đây, nơi Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Chúng ta hãy mở ngỏ cho câu hỏi liệu tính ngữ “vĩ đại” hay “cả” sẽ thịnh hành hay không. Đúng là đối với tất cả chúng ta, sức mạnh và lòng nhân lành của Thiên Chúa đã trở nên hữu hình nơi Đức Gioan Phaolô II. Trong khi Giáo hội một lần nữa phải chịu sự áp bức của cái ác, đối với chúng ta ngài là dấu chỉ của niềm hy vọng và lòng cậy tin.
Lạy thánh Gioan Phaolô II yêu dấu, xin cầu cho chúng con!
Chuyển ngữ: Lm. Phaolô Nguyễn Quốc Hưng
Từ: catholicnewsagency.com
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 119 (Tháng 7 & 8 năm 2020)
60 vị lãnh đạo tôn giáo kêu gọi thủ tướng Anh về hội nghị COP-26
60 vị lãnh đạo tôn giáo gồm Kitô, Do thái, Hồi giáo, Ấn giáo và đạo Sikh tại Anh quốc, đã gửi thư kêu gọi thủ tướng Boris Johnson của Anh, ngay từ bây giờ, chuẩn bị một kế hoạch toàn quốc về khí hậu, chống nạn hâm nóng trái đất.
Trong số các vị ký tên vào lá thư chung, có Đức cha John Arnold, đặc trách trong Hội đồng Giám mục Anh về vấn đề môi trường.
Các vị lãnh đạo tôn giáo lên tiếng, nhân dịp hội nghị quốc tế tới đây về khí hậu, quen gọi là COP-26, nhóm tại thành phố Glasgow, Ecosse, trong tháng Mười Một này. Thư của các vị lãnh đạo tôn giáo có đoạn viết: “Trong tư cách là chủ tịch theo lượt của hội nghị COP-26, nghĩa vụ quan trọng nhất của Anh quốc là liên kết tất cả các nước qua những mục tiêu về khí hậu quan trọng nhất. Hiệp định ký kết tại Paris, trong hội nghị COP-21, đã ấn định mục tiêu làm sao để khí hậu trái đất chỉ tăng 1,5 độ C vào cuối thế kỷ XXI này, và yêu cầu các quốc gia đã ký kết hãy xác định và thông báo sự đóng góp của quốc gia sau năm 2020, để đạt tới mục tiêu vừa nói.”
Trong thư, các vị lãnh đạo tôn giáo khẳng định rằng Anh quốc phải nêu gương về vấn đề này, giảm bớt số lượng thán khí thải ra: “Đây là thời điểm lịch sử để Anh quốc chứng tỏ vai trò lãnh đạo trên thế giới, đề nghị sự đóng góp nhiều hơn trên lãnh vực quốc tế, khích lệ các nước khác cũng làm như vậy, đầu tư nhiều hơn về chống nạn hâm nóng trái đất”.
Các vị lãnh đạo tôn giáo ở Anh cũng nhắc lại lời kêu gọi tha thiết của Đức Giáo hoàng Phanxicô gửi các chính phủ, kêu gọi đề ra những mục tiêu rộng lớn hơn trước hội nghị COP-26 và những hoạt động của Đức Thượng phụ Bartolomaios của Chính thống Constantinople nhắm gây ý thức và động viên dư luận thế giới về đề tài này.
(Vatican News 7-11-2020)
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Bệnh trạng của Đức Hồng y Chủ tịch Hội đồng Giám mục Italia trầm trọng hơn
Bệnh trạng của Đức Hồng y Gualtiero Bassetti, Tổng giám mục giáo phận Perugia, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Italia, trở nên trầm trọng hơn
Đức Hồng y Bassetti năm nay 78 tuổi, bị nhiễm Coronavirus và được đưa vào nhà thương “Đức Mẹ Từ Bi” (Santa Maria della Misericordia) ở địa phương chữa trị. Trong đêm mùng 2 rạng ngày 3/11 vừa qua, ngài được đưa vào khu vực điều trị khẩn trương. Nhưng sau một tuần, tình trạng của Đức Hồng y trầm trọng thêm.
Đức cha Stefano Russo, Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Italia nói rằng: “Chúng ta hãy đồng hành Đức Hồng y Chủ tịch trong tình thương mến và gần gũi. Chúng tôi xin các giáo xứ cầu nguyện cho Đức Hồng y trong giờ thử thách này. Chúng ta chắc chắn rằng Chúa sẽ không để Đức Hồng y và những người bị cam go vì bệnh tật bị thiếu tình thương xót và ơn an ủi. Chúng ta cũng hãy nhớ đến các bác sĩ, các nhân viên y tế và những người đang săn sóc những người đau khổ. Chúng tôi xin tất cả mọi người hãy chia sẻ những ý nguyện này trong những lúc cầu nguyện hằng ngày”.
Đại dịch Covid-19 tại Italia đang gia tăng cường độ: cho đến nay đã có khoảng 950.000 người bị lây nhiễm và gần 42.000 người chết. Nhiều nhà thương bị quá tải.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Họp báo về Ngày Thế giới Người nghèo lần thứ IV
Sáng thứ Năm, 12/11/2020 tới đây, Đức Tổng giám mục Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin mừng, sẽ mở cuộc họp báo trực tuyến từ Phòng Báo chí Tòa Thánh, về trình bày những sáng kiến nhân Ngày Thế giới Người nghèo lần thứ IV sẽ được cử hành vào Chúa nhật 15/11 tới đây, về chủ đề: “Hãy giơ tay ra cho người nghèo”, Sách Huấn ca, đoạn 7 câu 32.
Hiện diện trên bàn chủ tọa cuộc họp báo, cũng có Đức ông Graham Bell, Phó Tổng thư ký của cùng Hội đồng Tòa Thánh.
Những năm trước đây, tại Vatican và Roma, nhân Ngày Thế giới Người nghèo, ngoài thánh lễ được Đức Thánh cha cử hành, còn có những bữa ăn chung cho hàng ngàn người nghèo, tổ chức tại Đại thính đường Phaolô VI ở nội thành Vatican và các địa điểm khác.
(Sala Stampa 9-11-2020)
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Dân quân tàn phá nhà thờ ở Patagonia, Argentina
Các dân quân là các những nhà hoạt động Mapuche, một sắc dân bản địa ngày nay đang sinh sống ở trung nam Chile và tây nam Argentina, bao gồm các phần của miền Patagonia. Trong những năm gần đây, các dân quân đã sử dụng bạo lực để tranh chấp đất đai, đặc biệt là nhắm vào các nhà thờ Công giáo.
Những kẻ phá hoại đã đánh đập cha Ricardo Cittadini dòng Phanxicô, cha sở của giáo xứ, và bắt một tu sĩ Phanxicô khác làm con tin, phá vỡ các tượng ảnh thánh và lật đổ các băng ghế. Theo hãng tin AICA, hai phụ nữ đã vào nhà thờ và sau đó mở cửa cho một số dân quân khác tràn vào. Trước khi bỏ đi, các dân quân treo một lá cờ Argentina bị phủ sơn đỏ trên một cửa sổ nhà thờ.
Liên quan đến vụ chiếm khu đất thuộc giáo phận San Isidro
Hãng tin AICA báo cáo rằng vụ tấn công có liên quan đến một phán quyết trục xuất nhóm Mapuche Winkul Lafken Mapu khỏi đất mà họ đã chiếm đóng tại thị trấn Villa Mascardi, nằm khoảng 20 dặm về phía tây nam của Bariloche. Khu đất thuộc sở hữu của giáo phận San Isidro. Việc thi hành lệnh trục xuất đã bị hoãn lại theo yêu cầu của giáo phận, cho đến khi các biện pháp an ninh có thể được áp dụng đối với những người bị trục xuất và cảnh sát có trách nhiệm thực hiện lệnh này.
Phản đối của giáo phận Bariloche
Giáo phận Bariloche đã ra tuyên bố than phiền về sự xúc phạm nhà thờ, và bày tỏ tình liên đới với những tu sĩ Phanxicô và với cộng đồng tín hữu Công giáo của giáo xứ Đức Mẹ Luján. Đức cha Juan José Chaparro của Bariloche nói sau vụ tấn công: “Bạo lực dưới bất kỳ hình thức nào, cho dù là về yêu sách (đất đai) hay trong các phản ứng, không bao giờ, cũng như sẽ không bao giờ là một giải pháp, nhưng làm trầm trọng thêm các xung đột hiện có. Nạn nhân đầu tiên của bạo lực là hòa bình và hòa hợp giữa mọi người.” (CNA 09/11/2020)
Hồng Thủy - Vatican News
Giáo hội Pakistan mạnh mẽ chống cưỡng ép từ bỏ tôn giáo
Thực tế, ở Pakistan, các vụ bắt cóc nhằm mục đích cưỡng ép cải đạo và kết hôn của các cô gái trẻ thuộc các cộng đoàn thiểu số, đặc biệt là các thiếu nữ thuộc các cộng đoàn Kitô và Ấn Độ giáo, ngày càng gia tăng. Cưỡng bức cải đạo đã trở thành một công cụ quan trọng của hoạt động bách hại các nhóm thiểu số trong nước.
Cha Saleh Diego, giám đốc Ủy ban Quốc gia về Công lý và Hòa bình, Tổng Đại diện của Tổng Giáo phận Karachi nói: “Chúng tôi sẽ trình bày một đơn kiến nghị để giải quyết vấn đề một lần cho tất cả. Chúng tôi, Tổng Giáo phận Karachi, tất cả các Giáo hội khác của Pakistan, toàn thể cộng đoàn Kitô, là một. Chúng tôi sẽ đấu tranh cho công lý”.
Cha giải thích: “Ở Pakistan, trẻ em dưới 18 tuổi theo hoặc thực hành tôn giáo của cha mẹ mình. Vì thế, theo Giáo hội và luật quốc tế, không một tín đồ thiếu niên nào có thể bị ép thay đổi tôn giáo của mình”.
Trong một tuyên bố hôm 8/11, Ủy ban Điều phối mới về Luật pháp và Công lý, do Đức Hồng y Joseph Coutts đứng đầu, cũng đã lên án mạnh mẽ hiện tượng bắt cóc nhằm mục đích cưỡng bức cải đạo và kết hôn của các cô gái trẻ thuộc các nhóm tôn giáo thiểu số.
Ở Pakistan, các nhóm thiểu số phải đối diện với sự phân biệt đối xử ở mức độ cao và có nhiều trường hợp bị ngược đãi vì tôn giáo của họ. Một báo cáo năm 2014 của Phong trào Liên đới và Hòa bình khẳng định, mỗi năm, có khoảng 1.000 phụ nữ ở nước này, chủ yếu là các Kitô hữu và tín đồ Ấn Độ giáo buộc phải theo Hồi giáo. Trong một nghiên cứu chi tiết, được công bố vào năm ngoái, Ủy ban Nhân dân về Quyền của Người thiểu số và Trung tâm Công bằng Xã hội đã ghi nhận: từ năm 2013 đến năm 2019, có 156 trường hợp cưỡng bức cải đạo. Ngoài ra, theo Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ, Pakistan nằm trong số những nước vi phạm tự do tôn giáo tồi tệ nhất trên thế giới. (CSR_8230_2020)
Ngọc Yến - Vatican News