Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
ĐTC chủ sự Công nghị tuyên thánh cho chân phước Charles de Foucauld và 6 chân phước khác
7 chân phước là những người hiến dâng mạng sống đến mức tử vì đạo, là những người anh dũng thực thi đức ái và nhân đức Kitô giáo, mỗi người đã góp phần mang chứng tá Tin Mừng cho thế giới. Các ngài sẽ được tuyên thánh trong thời gian tới, theo chương trình sẽ được ấn định sau.
Đức Hồng y Semerraro, Tổng trưởng Bộ Phong thánh đã nhận định: “Những vị chân phước này không chỉ được dân Chúa ngưỡng mộ vì sự rạng ngời các nhân đức của các ngài, nhưng còn được cầu khẩn như những người chuyển cầu cho các ân sủng và phép lạ.”
Chân phước Charles de Foucauld
Chân phước Charles de Foucauld là một quân nhân người Pháp. Ngài đã rời xa đức tin từ thời niên thiếu nhưng trong một chuyến thám hiểm đầy nguy hiểm ở Maroc, vào những năm 1883-84, một câu hỏi nảy sinh trong ngài: “Có Thiên Chúa không?”. “Lạy Chúa của con, nếu Ngài hiện hữu, hãy cho con biết Ngài.”
Trở lại Pháp, De Foucauld tìm kiếm và xin một linh mục hướng dẫn. Sau đó, ngài hành hương đến Đất Thánh và ở đó, tại những nơi Chúa Kitô đã sống, ngài tìm thấy ơn gọi của mình: dâng mình hoàn toàn cho Thiên Chúa, noi gương Chúa Giêsu trong cuộc sống ẩn dật và âm thầm.
Ngài được thụ phong linh mục năm 43 tuổi và sau đó trở về sa mạc Sahara ở Algeria sống một cuộc đời chiêm niệm, cầu nguyện và học hỏi Kinh Thánh, với ước muốn trở thành “người anh em đại đồng” của mọi người. Ngài bị một băng cướp sát hại vào ngày 1/12/1916. Đức Biển Đức XVI đã tuyên phong ngài lên bậc chân phước vào năm 2005.
Chân phước tử đạo Lazarus
Chân phước tử đạo Lazarus, được gọi là Devasahayam, là giáo dân Ấn Độ đầu tiên được phong chân phước. Ngài là một Bà-la-môn thuộc giai cấp chiến binh. Ngài theo Công giáo và được một linh mục Dòng Tên rửa tội vào năm 33 tuổi, và đã lấy tên là Lazarus khi trở thành một Ki-tô hữu.
Trong các lần giảng dạy, ngài đặc biệt nhấn mạnh đến sự bình đẳng của tất cả mọi người, bất chấp sự khác biệt về đẳng cấp. Điều này khiến các tầng lớp cao hơn thù ghét ngài và đã bắt ngài vào năm 1749. Sau khi chịu đựng những khổ cực ngày càng tăng, ngài nhận được triều thiên tử đạo khi bị bắn vào ngày 14/1/1752.
Trong số 7 chân phước sẽ được tuyên thánh, còn có 3 linh mục và hai nữ tu là các đấng sáng lập các dòng tu. (CSR_3185)
Hồng Thủy - Vatican News
Sứ điệp gửi người Muslim nhân Tháng Ramadan và Đại lễ ‘Id al-Fitr 1442 H. / 2021 A.D.
Hội đồng Toà thánh về Đối thoại Liên tôn
SỨ ĐIỆP GỬI NGƯỜI MUSLIM
nhân Tháng Ramadan và Đại lễ ‘Id al-Fitr 1442 H. / 2021 A.D.,
Nhân dịp tháng Ramadan – năm nay bắt đầu từ ngày 13 tháng Tư – và nhân dịp Đại lễ ‘Id al-Fitr 1442 H. / 2021 A.D., Hội đồng Toà thánh về Đối thoại Liên tôn đã gửi một Sứ điệp chúc mừng người Muslim trên toàn thế giới, với nhan đề “Kitô hữu và người Muslim: Chứng nhân của hy vọng”.
Sứ điệp mang chữ ký của Đức Hồng y Chủ tịch Miguel Ángel Ayuso Guixot, M.C.C.J., và Đức ông Thư ký Indunil Kodithuwakku Janakaratne Kankanamalage.
Sau đây là nội dung Sứ điệp:
KITÔ HỮU VÀ NGƯỜI MUSLIM: CHỨNG NHÂN CỦA HY VỌNG
Anh chị em Muslim thân mến,
Hội đồng Toà thánh về Đối thoại Liên tôn chúng tôi rất vui mừng gửi đến các bạn những lời chúc tốt đẹp của tình huynh đệ; chúc các bạn một tháng dồi dào ân phúc thiêng liêng và thăng tiến tâm linh. Ăn chay, cùng với cầu nguyện, bố thí và các thực hành đạo đức khác, đưa chúng ta đến gần hơn với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng chúng ta và với tất cả những người chúng ta đang cùng sống và làm việc với họ, đồng thời giúp chúng ta cùng nhau tiếp bước trên con đường huynh đệ.
Trong những tháng dài đau khổ và buồn bã này, đặc biệt là trong những giai đoạn cách ly, chúng ta thấy mình cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa, nhưng cũng cần cả những bày tỏ và nghĩa cử của tình liên đới huynh đệ: một cuộc điện thoại, một tin nhắn nâng đỡ và an ủi, một lời cầu nguyện, giúp đỡ trong việc mua thuốc hoặc thực phẩm, lời khuyên, và nói một cách đơn giản là sự an tâm khi biết rằng ai đó luôn ở bên chúng ta trong những lúc cần thiết.
Sự trợ giúp của Thiên Chúa mà chúng ta cần và tìm kiếm, đặc biệt là trong những hoàn cảnh như đại dịch hiện nay, rất đa dạng: lòng thương xót, sự tha thứ, sự quan phòng của Chúa cùng những ơn huệ tinh thần và vật chất khác. Tuy nhiên, điều chúng ta cần nhất vào lúc này là niềm hy vọng. Cho nên chúng tôi nghĩ rằng bây giờ thật là thích hợp để chia sẻ với các bạn một vài suy tư về đức tính này.
Như chúng ta đã biết, hy vọng, dù bao hàm sự lạc quan, còn vượt xa hơn lạc quan. Trong khi lạc quan là một thái độ của con người, hy vọng lại có nền tảng mang tính tôn giáo: Thiên Chúa yêu thương chúng ta, và vì thế Ngài chăm sóc chúng ta qua sự quan phòng của Ngài. Ngài làm điều ấy cách mầu nhiệm, mà không phải lúc nào chúng ta cũng có thể hiểu được. Trong những hoàn cảnh này, chúng ta giống như những đứa con biết chắc cha mẹ yêu thương chăm sóc mình, nhưng chưa thể thấu hiểu hết tầm quan trọng của tình thương ấy.
Niềm hy vọng nảy sinh từ xác tín rằng tất cả các vấn đề và thử thách của chúng ta đều có một ý nghĩa, một giá trị và một mục đích, dù chúng ta cảm thấy khó khăn hay không thể hiểu được lý do hoặc tìm được cách giải quyết những vấn đề và thử thách đó.
Hy vọng cũng mang theo niềm tin vào những điều thiện hảo hiện hữu trong trái tim mỗi người. Nhiều khi, trong những hoàn cảnh khó khăn và tuyệt vọng, sự giúp đỡ và niềm hy vọng đi kèm theo có thể lại đến từ những người mà chúng ta ít mong đợi nhất.
Vì thế, tình huynh đệ nhân loại, dưới nhiều hình thức biểu hiện, có thể trở nên nguồn hy vọng cho mọi người, đặc biệt cho những ai đang cần đến. Cảm tạ Thiên Chúa, Đấng tạo dựng chúng ta và cảm ơn những người nam nữ đồng loại của chúng ta, về những đáp ứng nhanh chóng và tình liên đới quảng đại thể hiện nơi các tín hữu cũng như những người thiện chí không theo tôn giáo nào, khi xảy ra thảm hoạ, do thiên tai hay nhân tai, như xung đột và chiến tranh. Tất cả những con người ấy và lòng tốt của họ nhắc nhở các tín hữu chúng ta rằng tinh thần huynh đệ là phổ quát, vượt qua mọi ranh giới: sắc tộc, tôn giáo, xã hội và kinh tế. Khi sống tinh thần này, chúng ta noi gương Thiên Chúa, Đấng nhân từ nhìn đến nhân loại mà Ngài đã tạo dựng nên, nhìn đến tất cả các thụ tạo khác và toàn thể vũ trụ. Theo Đức Giáo hoàng Phanxicô, đó là lý do tại sao việc quan tâm và chăm sóc hơn nữa đối với hành tinh này, “ngôi nhà chung” của chúng ta, cũng là một dấu chỉ của hy vọng.
Chúng ta ý thức rằng hy vọng cũng có những kẻ thù: thiếu tin tưởng vào tình yêu và sự chăm sóc của Thiên Chúa; mất lòng tin vào anh chị em của mình; thái độ bi quan; nỗi tuyệt vọng và ngược lại là thói tự tin vô lối; thái độ vơ đũa cả nắm một cách bất công dựa trên những kinh nghiệm tiêu cực v.v… Phải chống lại những suy nghĩ, thái độ và phản ứng nguy hại ấy một cách hữu hiệu, để củng cố niềm trông cậy nơi Thiên Chúa và tin tưởng vào tất cả anh chị em của chúng ta.
Trong Thông điệp Fratelli tutti mới đây, Đức giáo hoàng Phanxicô thường xuyên bàn về hy vọng. Trong đó, ngài ngỏ lời với chúng ta: “Tôi mời gọi mọi người hãy canh tân niềm hy vọng, ‘vì hy vọng nói với chúng ta về một thực tại bám rễ sâu trong thâm tâm mỗi người, chứ không phụ thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện lịch sử ta đang sống. Hy vọng nói với chúng ta về lòng khát khao, về nguyện vọng, về nỗi ước ao có một cuộc sống viên mãn, về sự mong muốn đạt tới những điều vĩ đại, những gì lấp đầy trái tim và nâng cao tinh thần hướng tới những thực tại cao cả như chân, thiện, mỹ, công bằng và yêu thương... hy vọng mở ra cho chúng ta những lý tưởng cao cả khiến cuộc sống trở nên tươi đẹp và đáng giá hơn’ (cf. Gaudium et spes, 1). Vì thế, chúng ta hãy tiếp tục tiến bước trên các nẻo đường hy vọng” (số 55).
Các Kitô hữu và người Muslim chúng ta được kêu gọi trở thành những người mang niềm hy vọng cho cuộc sống hiện tại và cuộc sống mai sau, đồng thời trở thành các chứng nhân, những người tái thiết và xây dựng niềm hy vọng này, đặc biệt cho những ai đang gặp khó khăn và thất vọng.
Để bày tỏ tình huynh đệ thiêng liêng, chúng tôi bảo đảm sẽ cầu nguyện cho các bạn cùng xin chúc các bạn một tháng Ramadan an bình và nhiều hoa trái, cũng như một Đại lễ ‘Id al-Fitr vui tươi.
Vatican, ngày 29 tháng 3 năm 2021
Hồng y Miguel Ángel Ayuso Guixot, MCCJ
Chủ tịch
Indunil Kodithuwakku Janakaratne Kankanamalage
Thư ký
Chuyển ngữ theo bản tiếng Anh và Pháp: Minh Đức
Nguồn: Văn Phòng Đối thoại liên tôn và Đại kết/HĐGMVN
Các Giám mục Colombia và Venezuela kêu gọi bảo vệ người di cư
Trong một lưu ý chung, Hội đồng Giám mục Venezuela và Hội đồng Giám mục Colombia bày tỏ sự lo ngại mạnh mẽ về những gì đang xảy ra ở các bang Apure, Venezuela và Arauca, ở Colombia. Các Giám mục nhấn mạnh rằng, hậu quả của các cuộc giao tranh giữa quân đội Venezuela và Lực lượng vũ trang cách mạng Colombia gây nguy hiểm cho sự chung sống hòa bình giữa các công dân, cho các nhóm dân cư dễ bị tổn thương nhất. Do đó, các Giám mục kêu gọi chính quyền Caracas và Bogota tìm kiếm “các giải pháp hữu hiệu, đối thoại và phối hợp cho các vấn đề biên giới, luôn đặt sự tôn trọng nhân phẩm và quyền con người trên tất cả các lợi ích khác”. Bày tỏ sự “liên đới, gần gũi và đồng hành” đối với tất cả những ai phải vượt biên, các Giám mục yêu cầu chính quyền hai bên “tạo các điều kiện cho phép mọi người ở lại lãnh thổ hoặc quay trở lại lãnh thổ của họ”.
Các Giám mục cũng không quên nhắn gửi đặc biệt đến các giáo phận địa phương, mời gọi các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân “làm chứng về tình huynh đệ, đồng hành và bảo vệ những người đau khổ nhất”. Qua đó, mọi người có thể chứng tỏ rằng “Giáo hội không có biên giới và là mẹ của tất cả”. Hội đồng Giám mục lặp lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha đối với toàn thể nhân loại sẵn sàng “chào đón, bảo vệ, thúc đẩy và hòa nhập những người di cư và những người phải di dời, như một dấu hiệu cụ thể về sự dấn thân của mọi người nhằm đạt được tình huynh đệ, hòa bình và sự phát triển toàn diện của các dân tộc”.
Hai Hội đồng Giám mục còn tỏ lòng biết ơn tới các tổ chức, cộng đoàn tôn giáo, cũng như các cá nhân vì những nỗ lực của họ hỗ trợ người di cư. Các giám mục viết: “Đây là những biểu hiện hàng ngày của tình liên đới giữa các dân tộc của chúng ta, là chứng tá về tương quan chặt chẽ đã gắn kết chúng ta trong suốt dòng lịch sử”.
Các Giám mục cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế “hợp lực và hành động ủng hộ người di cư và những người phải di dời”. Hai Hội đồng Giám mục kết thúc bằng lời cầu xin Đức Trinh Nữ Maria để “tất cả, đặc biệt là những người di cư và những người phải di dời, có thể tìm được những điều kiện sống xứng nhân phẩm và phát triển con người cách toàn diện”.
Ngọc Yến - Vatican News
Các Giám mục Nhật Bản kêu gọi tôn trọng các nạn nhân chiến tranh
76 năm sau trận chiến Okinawa, nơi đã diễn ra sự đối đầu giữa lực lượng vũ trang Mỹ và Nhật, hòn đảo này của Nhật Bản đang là tâm điểm của những căng thẳng gần đây: một căn cứ quân sự mới của Mỹ đang được xây dựng ở Henoko, trên bờ biển phía đông bắc lãnh thổ.
Vấn đề gây phản ứng về mặt đạo đức là công trường được xây dựng trên hài cốt của hơn 200 ngàn nạn nhân của trận chiến diễn ra năm 1945. Hài cốt không chỉ là lính Nhật, nhưng còn lính Mỹ, Hàn Quốc và rất nhiều thường dân, trong đó có nhiều trẻ em. Từ lâu, người dân trên đảo cùng với chính quyền địa phương đã yêu cầu chính quyền Tokyo dừng hoạt động xây dựng, để bày tỏ sự tôn trọng đối với các nạn nhân.
Hội đồng Giám mục Nhật Bản cũng đã lên tiếng phản đối việc xây dựng này. Qua Ủy ban Công lý và Hòa bình, do các Đức cha Bernard Taiji Katsuya và Đức cha Wayne Francis Berndt phụ trách, Hội đồng Giám mục cho công bố một ghi chú, trong đó các Giám mục viết: “Hài cốt của những người đã thiệt mạng trong trận chiến Okinawa là dấu hiệu của hy vọng hòa bình. Các gia đình của các nạn nhân sẽ không thể chịu đựng được khi chứng kiến hài cốt của người thân bị đối xử cách khinh miệt”.
Sau đó, các Giám mục nhắc đến một hoạt động tình nguyện đã được thực hiện trên đảo trong thời gian qua. Đó là việc di dời các hài cốt của nạn nhân chiến tranh và đưa họ về với gia đình. Các Giám mục giải thích, đây là một cử chỉ quan trọng, vì nó thể hiện cảm xúc chung trong việc bảo vệ phẩm giá con người, và đặc biệt đối với người Công giáo, đó là việc bảo vệ “sự thánh thiêng của thân xác”. Trái lại, theo các Giám mục, việc thiết lập một căn cứ quân sự “với giá phải trả trên các nạn nhân chiến tranh cho thấy một sự khinh miệt khủng khiếp đối với phẩm giá con người và tính chất thánh thiêng của sự sống”.
Các Giám mục nhận xét rằng, do chiến tranh thế giới thứ hai, Okinawa đã chứng kiến nhiều người chết. Và bây giờ, một lần nữa vùng đất này buộc phải hy sinh do các chính sách an ninh của Nhật Bản và Hoa Kỳ. Vì vậy, Ủy ban Công lý và Hòa bình Giám mục kêu gọi chính phủ Nhật Bản dừng việc xây dựng căn cứ quân sự, đồng thời, mời gọi người Công giáo “quan tâm sâu sắc” đến vấn đề này. (CSR_3171_2021)
Ngọc Yến - Vatican News
HĐGM Ba Lan nhóm họp Hội nghị thường niên
Đức cha Artur G. Miziński, Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục cho biết, trong chương trình nghị sự, trước hết, các Giám mục bàn về việc chăm sóc mục vụ trong và sau đại dịch. Cụ thể, các vị mục tử tổng hợp tất cả những gì Giáo hội đã làm trong những tháng gần đây.
Đề tài thảo luận tiếp theo của các Giám mục liên quan đến việc cử hành 100 năm ngày sinh của Thánh Gioan Phaolô II. Thực tế, nhiều sáng kiến đã được lên kế hoạch cho năm 2020, trong đó có các cuộc hành hương quốc gia đến mộ Thánh Giáo hoàng tại Đền thờ Thánh Phêrô ở Roma, đã không thể thực hiện được do đại dịch. Vì vậy, các Giám mục tập trung suy tư về cách sống cho những tháng cuối của năm thánh, “không chỉ liên quan đến việc tưởng nhớ, nhưng là những suy tư sâu sắc hơn về những lời giảng dạy của Thánh Gioan Phaolô II”.
Ngoài ra, trong các giờ thảo luận, các Giám mục còn chuẩn bị cho cuộc họp tiếp theo dự kiến diễn ra trong hai ngày 11 và 12/6 tại đền thánh Kalwaria Zebrzydowska ở Krakow. Đức cha Miziński nhấn mạnh rằng, cử hành phụng vụ, trung tâm của buổi gặp gỡ này, sẽ là Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Tại Thánh lễ trọng thể này sẽ có cử hành việc tái dâng hiến quốc gia Ba Lan cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, nhân dịp 100 năm sự kiện. Thực vậy, vào năm 1920, trước sự tấn công của Hồng quân, các Giám mục Ba Lan đã tập trung tại Jasna Góra để thánh hiến quốc gia cho Thánh Tâm.
Sau cùng, cũng vào ngày 03/5, tại đền thánh Czestochowa, Đức cha Stanisław Gądeck, Chủ tịch Hội đồng Giám mục, chủ sự Thánh lễ kính Đức Mẹ Jasna Góra, Nữ Vương Ba Lan, trong sự hiệp thông với Đức Thánh Cha và toàn thể các tín hữu trên thế giới cùng cầu nguyện cho đại dịch chấm dứt. Và tinh thần hiệp thông được tiếp tục vào lúc 18 giờ bằng giờ cầu nguyện với Kinh Mân Côi.
Ngọc Yến - Vatican News
Chiến dịch đọc kinh Mân Côi và chầu Mình Thánh trong tháng 5 cầu nguyện cho Myanmar
Đức Hồng y Bo khuyến khích các linh mục và giáo dân tham gia chiến dịch thiêng liêng trong tháng kính Đức Mẹ, với một ý nguyện đặc biệt trong mỗi tuần. Tuần đầu tiên cầu nguyện cho hòa bình, tuần thứ hai cho công lý, tuần thứ ba cho hiệp nhất và tuần cuối cho nhân quyền.
Trong thư mục vụ, Đức Hồng y nói rằng các tín hữu có thể tham dự chiến dịch cầu nguyện ở nhà, tại giáo xứ hay các dòng tu thuận tiện đối với họ. Ngài yêu cầu các linh mục giải thích mục đích của chiến dịch trước Thánh lễ hàng ngày và tổ chức chầu Minh Thánh từ 2giờ30 đến 3giờ30 chiều mỗi ngày, và đọc kinh Mân Côi hàng ngày từ 7 đến 8 giờ tối.
Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện cho Myanmar
Khủng hoảng tại Myanmar đã thu hút sự chú ý của các lãnh đạo thế giới, trong đó có Đức Giáo hoàng Phanxicô. Ngài đã nhiều lần kêu gọi cầu nguyện cho Myanmar. Mới đây nhất, vào trưa Chúa Nhật 2/5, trong lời kêu gọi sau khi đọc kinh Lạy Nữ vương Thiên đàng, Đức Thánh Cha kêu gọi dành một kinh Kính Mừng trong chuỗi Mân Côi hàng ngày để cầu nguyện cho Myanmar.
Khủng hoảng kinh tế và xã hội
Cho đến ngày 30/4, 759 người tại Myanmar đã bị quân đội giết chết và 3.485 người bị bắt. Tình hình kinh tế tại nước này có nguy cơ bị sụp đổ do tình trạng đói nghèo chưa từng thấy ở nước này kể từ năm 2005.
Một báo cáo của Chương trình Phát triển của Liên Hiệp quốc về ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và cuộc đảo chính đối với tình trạng nghèo đói của đất nước, đã chỉ ra rằng trong 12 năm, từ năm 2005 đến 2017, quốc gia này đã giảm được gần một nửa số người sống trong cảnh nghèo đói. Tuy nhiên, những thách thức trong 12 tháng qua đã khiến tất cả những thành tựu phát triển khó giành được này gặp rủi ro. Ông Achim Steiner, Quản trị viên của Chương trình Phát triển của Liên Hiệp quốc, cảnh báo: “Nếu các thể chế dân chủ không hoạt động, Myanmar phải đối mặt với một thảm họa với mức độ nghèo đói chưa từng thấy trong một thế hệ.”
Hồng Thủy - Vatican News
ĐTC Phanxicô phê chuẩn 7 lời cầu mới cho kinh cầu thánh Giuse
Trong thư gửi các Chủ tịch các Hội đồng Giám mục trên thế giới, Đức tổng giám mục Arthur Roche, Tổng Thư ký của Bộ Phụng tự, và cha Corrado Maggioni, Phó Tổng Thư ký, đã giải thích lý do việc thêm các lời cầu mới vào kinh cầu thánh Giuse.
“Vào dịp kỷ niệm 150 năm việc tuyên bố Thánh Giuse là Đấng Bảo trợ của Giáo hội Hoàn vũ, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố Tông thư Patris corde, với mục đích ‘tăng cường lòng yêu mến của chúng ta đối với vị thánh vĩ đại này, để khuyến khích chúng ta khẩn cầu sự cầu bầu của ngài và noi gương các nhân đức và lòng nhiệt thành của ngài. Với ý nghĩa này, đây có vẻ là cơ hội thích hợp để cập nhật Kinh cầu thánh Giuse, đã được Tòa thánh phê chuẩn vào năm 1909, bằng cách thêm bảy lời khẩn cầu mới rút ra từ các diễn văn của các Đức Giáo hoàng, những người đã suy tư về các khía cạnh của Đấng Bảo trợ của Giáo hội Hoàn vũ.”
7 lời cầu mới
Các lời cầu được thêm vào, nguyên ngữ bằng tiếng Latinh, là: Đấng Gìn giữ Đấng Cứu Thế, Đấng phục vụ Chúa Ki-tô, Thừa tác viên của Ơn Cứu độ, Đấng Hỗ trợ trong những lúc gian nan, Đấng Bảo trợ người lưu đầy, Đấng Bảo trợ người đau khổ và Đấng Bảo trợ người nghèo.
Với 7 lời cầu mới này, kinh cầu thánh Giuse sẽ có 31 lời cầu.
Trách nhiệm dịch và phổ biến của các Hội đồng giám mục
Bộ Phụng tự nói rằng các Hội đồng giám mục có trách nhiệm xem xét và ban hành bản dịch Kinh cầu bằng ngôn ngữ thuộc thẩm quyền của họ. Những bản dịch này không cần sự xác nhận của Tòa Thánh. Bộ Phụng tự nói thêm rằng các Hội đồng giám mục cũng có thể thêm vào những lời khẩn cầu khác mà thánh Giuse được tôn vinh tại các quốc gia của họ, và lưu ý rằng những bổ sung này cần được đưa vào vị trí thích hợp trong kinh cầu và giữ nguyên thể loại văn chương của Kinh cầu. (CSR_3164_2021)
Hồng Thủy - Vatican News
Giáo huấn mới nhất của Đức Thánh Cha về Phong trào Công giáo Tiến hành
Tiến hành
Trước hết là tiến hành hay còn gọi là hoạt động. Đức Thánh Cha giải thích rằng, chúng ta có thể tự hỏi cụm từ “tiến hành” có nghĩa là gì, và trước hết đó là hành động của ai. Trong chương cuối của Tin Mừng Maccô, sau khi thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ và sai các ông đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo, Tin Mừng kết thúc bằng lời khẳng định này: “Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16,20).
“Đó là hoạt động của ai?”, Đức Thánh Cha đặt câu hỏi và trả lời: “Tin Mừng đảm bảo với chúng ta rằng hoạt động thuộc về Thiên Chúa. Chính Người với quyền đặc biệt, bước đi một cánh ẩn mình trong lịch sử chúng ta đang sống”.
Theo Đức Thánh Cha, nhắc lại điều này, sự ẩn mình của Thiên Chúa không có nghĩa là chúng ta không có trách nhiệm, nhưng đưa chúng ta trở lại căn tính của chúng ta là môn đệ truyền giáo. Thực tế, Tin Mừng cho biết thêm rằng, ngay sau đó các môn đệ ra đi rao giảng khắp nơi.
Tuy nhiên, việc ghi nhớ hoạt động thuộc về Thiên Chúa cho phép chúng ta không bao giờ đánh mất cái nhìn rằng chính Thánh Thần là suối nguồn của sứ vụ: sự hiện diện của Thánh Thần là nguyên nhân chứ không phải là kết quả của sứ vụ. Điều này làm cho chúng ta luôn nhớ rằng “khả năng của chúng ta là do ơn Thiên Chúa” (2Cr 3, 5); và lịch sử được hướng dẫn bởi tình yêu Thiên Chúa và chúng ta là những người cộng tác với người nắm giữ vai chính. Vì thế, các chương trình của Phong trào Công giáo Tiến hành cũng nhằm tìm lại và tái loan báo trong lịch sử các dấu hiệu tốt lành của Thiên Chúa.
Đi vào cụ thể của thời điểm hiện nay, Đức Thánh Cha nhận xét rằng, đại dịch đã làm thay đổi nhiều dự án, đòi hỏi mỗi người phải đối diện với điều không ngờ đến. Thay vì phớt lờ hoặc từ chối, chúng ta đón nhận điều không dự kiến có nghĩa là ngoan ngùy trước Thánh Thần.
Các đặc điểm của Phong trào Công giáo Tiến hành
Tới đây, Đức Thánh Cha nói về các đặc điểm của Phong trào Công giáo Tiến hành. Trước hết, đó là hoạt động cách nhưng không. Về đặc điểm này, Đức Thánh Cha nói: “Điều thúc đẩy sứ vụ không theo lý luận của sự chinh phục nhưng theo hồng ân. Hoạt động cách nhưng không là kết quả của ý thức về hồng ân đã lãnh nhận. Điều này đòi hỏi anh chị em trao ban chính mình cho cộng đoàn địa phương, đảm nhận trách nhiệm loan báo; đòi hỏi anh chị em lắng nghe nhu cầu của những người dân địa phương, dệt nên các tương quan huynh đệ. Lịch sử của Phong trào được tạo nên bởi nhiều vị thánh ở bên cạnh, và lịch sử này phải được tiếp tục: sự thánh thiện là một di sản cần được gìn giữ và là một ơn gọi được đón nhận”.
Đức Thánh Cha nói tiếp đặc điểm thứ hai: “Đặc điểm thứ hai mà tôi muốn nhấn mạnh đó là khiêm nhường và hiền lành. Giáo hội biết ơn Hiệp hội của anh chị em. Vì sự hiện diện của anh chị em thường không ồn ào, nhưng là một sự hiện diện trung thành, quảng đại và trách nhiệm. Hiền lành và khiêm nhường là chìa khóa để sống phục vụ, không phải để chiếm chỗ, nhưng để khởi động các quy trình. Tôi rất vui, vì trong những năm gần đây, anh chị em đã nghiêm túc thực hiện con đường mà Tông huấn Evangelii Gaudium-Niềm vui Tin Mừng đã chỉ ra. Anh chị em hãy tiếp tục như thế với chặng đường dài ở phía trước”.
Công giáo
Đức Thánh Cha nói tiếp về cụm từ Công giáo: “Công giáo là đặc tính của Phong trào, có nghĩa là sứ vụ của Giáo hội không có biên giới. Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ có một trải nghiệm cuộc sống với Người, Chúa đã đưa họ đến nơi họ sống và làm việc. Và ngày nay Chúa cũng làm như thế, Người yêu cầu anh chị em ý thức trở nên ‘với mọi người và vì mọi người’, điều này có nghĩa là liên kết sứ vụ với cuộc sống cụ thể, với những người anh em trong môi trường sống của anh chị em”.
“Vì thế, Công giáo có thể được hiểu là làm cho mình trở thành người thân cận. Đại dịch đòi hỏi mọi người phải sống xa cách nhau, điều này làm cho giá trị của sự gần gũi huynh đệ càng trở nên rõ ràng nơi các thế hệ, các vùng lãnh thổ. Là một hiệp hội, chính xác đó là một cách để thể hiện mong muốn sống với và tin tưởng nhau. Ngày nay, qua việc trở thành một hiệp hội, anh chị em làm chứng rằng khoảng cách không bao giờ có thể trở thành sự thờ ơ, sự xa lạ”.
Về khía cạnh này, theo Đức Thánh Cha, các thành viên của Phong trào Công giáo Tiến hành có thể làm được nhiều điều trong chính lĩnh vực này bởi vì đây là một hiệp hội giáo dân. Thực tế, ngày nay vẫn còn phổ biến một cám dỗ cho rằng thăng tiến giáo dân có nghĩa là thực hiện các bước để giáo dân có thể tham gia nhiều hơn “những việc của linh mục” để rồi giáo sĩ hóa giáo dân. Nhưng đối với các thành viên của Phong trào Công giáo Tiến hành, để có giá trị hơn, các thành viên không cần phải trở nên cái gì khác với thực tại của chính mình nhờ bí tích Thánh Tẩy. Đặc tính của các thành viên, trong tư cách là giáo dân, là điều làm cho đặc tính công giáo của Giáo hội được phong phú; Giáo hội muốn là men, là muối đất và là ánh sáng thế gian.
Tới đây, Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Đặc biệt, anh chị em là những giáo dân của Phong trào Công giáo Tiến hành, anh chị em có thể giúp toàn thể Giáo hội và xã hội cùng nhau tái suy nghĩ về một kiểu mẫu của nhân loại cho một vùng đất chúng ta đang sống, cho một thế giới chúng ta muốn xây dựng. Anh chị em cũng được kêu gọi đóng góp ban đầu vào việc thực hiện một ‘hệ sinh thái toàn diện’, bằng kỹ năng, say mê và trách nhiệm của anh chị em”.
Tiếp tục áp dụng cho hoàn cảnh thực tế, Đức Thánh Cha nói: “Đau khổ của nhân loại và xã hội do đại dịch có nguy cơ trở thành một thảm họa giáo dục và tình trạng khẩn cấp về kinh tế. Chúng ta hãy vun trồng một thái độ khôn ngoan, như Chúa Giêsu, ‘Đấng đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục’ (Dt 5, 8). Chúng ta cũng phải tự hỏi: Chúng ta có thể học được gì trong giai đoạn đau khổ này? Thư gửi tín hữu Do Thái nói Đức Kitô đã học vâng lời, nghĩa là Người đã học được cách lắng nghe với một đòi hỏi cao, có thể hiểu rõ qua hành động. Lắng nghe tại thời điểm này là một thực hành của sự trung thành mà chúng ta không thể chối bỏ. Tôi giao phó cho anh chị em những người bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi đại dịch và những người có nguy cơ phải trả giá cao nhất: những người bé nhỏ, người trẻ, người già, những người đã phải trải qua sự yếu đuối và cô đơn. Và không được quên rằng kinh nghiệm liên kết của anh chị em là ‘Công giáo’ vì nó liên hệ đến thiếu nhi, thanh niên, người trưởng thành, người già, sinh viên, công nhân: một kinh nghiệm bình dân. Không bao giờ đánh mất đặc điểm bình dân của anh chị em”.
Hoạt động trong môi trường địa phương
Về đặc điểm cuối cùng của Phong trào Công giáo Tiến hành, Đức Thánh Cha nói về sự hiện diện của hiệp hội trong môi trường địa phương. Ở đây, Đức Thánh Cha nói cụ thể về hoạt động của Phong trào này tại Ý.
Đức Thánh Cha nhận xét rằng, sự hiện diện của Hiệp hội này tại Ý luôn được lồng vào trong lịch sử của quốc gia và trợ giúp Giáo hội Ý, trở thành nơi phát sinh niềm hy vọng cho tất cả đất nước. Điều này được thể hiện qua việc Hiệp hội giúp cộng đoàn Giáo hội trở thành men đối thoại trong xã hội, theo phong cách mà Đức Thánh Cha đã chỉ ra tại Công ước Firenze.
Một Giáo hội đối thoại là một Giáo hội công nghị, cùng nhau lắng nghe Thánh Thần và tiếng Chúa, Đấng đến với chúng ta qua tiếng kêu của người nghèo và của trái đất. Thực tế, khi nói về công nghị tính, có nghĩa là không quá chú trọng đến một kế hoạch được lập trình và được thực hiện, nhưng trước hết là một cách để nhập thế. Trong nghĩa này, Công giáo Tiến hành tạo thành một ‘nơi luyện tập’ công nghị tính, và khuynh hướng này đã và sẽ có thể tiếp tục là một nguồn lực quan trọng cho Giáo hội địa phương.
Từ cái nhìn này, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng: “Đóng góp của Phong trào Công giáo Tiến hành ở Ý, một lần nữa là một đóng góp quý báu sẽ có thể đến từ đời sống của người giáo dân. Đây là một phương thuốc cho sự trừu tượng.
Kết thúc bài nói chuyện, Đức Thánh khuyến khích các thành viên của Phong trào Công giáo Tiến hành hãy hoạt động theo những nhu cầu thực tế, để biến đổi mọi sự theo kế hoạch của Nước Chúa. Ngài cũng ước mong trong Giáo hội, tiếng nói của người giáo dân được lắng nghe không phải “để nhượng bộ”, nhưng bằng sự xác tín, bởi vì tất cả dân Chúa là “không thể sai lầm về đức tin”.
Ngọc Yến - Vatican News
Đức Thánh cha nhóm công nghị phong thánh
Lúc 10 giờ sáng thứ Hai, 3/5/2021, Đức Thánh cha Phanxicô đã nhóm công nghị Hồng y để ấn định ngày phong hiển thánh cho bảy vị chân phước, gồm năm thánh nam và hai thánh nữ. Ngoại trừ một giáo dân tử đạo, sáu vị còn lại đều là những vị đã gợi hứng hoặc đích thân thành lập các dòng tu.
Tham dự công nghị, có các Hồng y hiện diện tại Roma. Công nghị bắt đầu với Kinh Giờ Ba và Đức Thánh cha tuyên bố ngày phong hiển thánh cho các vị chân phước:
- Đứng đầu danh sách là chân phước Lazaro Devasahayam, giáo dân tử đạo năm 1752, tại Ấn Độ. Ông sinh năm 1712 và phục vụ trong hoàng gia của Vương quốc Ấn giáo ở Travancore, ngày nay thuộc bang Kerala miền nam Ấn. Năm 1745, khi được 32 tuổi, ông trở lại Công giáo và nhận tên thánh là Lazaro và trong tiếng địa phương Devasaharam có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi”. Cuộc trở lại của Lazaro Devasaharam gây bất mãn nơi các thủ lãnh tôn giáo địa phương. Họ vu khống ông về tội làm gián điệp, phản bội và sa thải ông. Ông bị cầm tù và bị bắn chết trong rừng ngày 14/1 năm 1752, lúc mới 40 tuổi, bảy năm sau khi theo đạo. Lazaro được phong chân phước năm 2012, 300 năm sau khi sinh ra.
- Vị thứ hai là chân phước linh mục Cesare de Bus, sáng lập dòng các Linh mục đạo lý đức tin, sinh tại Cavaillon, bên Pháp năm 1544 và qua đời tại Avignon năm 1607, thọ 63 tuổi.
- Vị thứ ba là chân phước linh mục Luigi Maria Palazzolo, vị sáng lập dòng các nữ tu người nghèo. Cha sinh năm 1827 tại Bergamo, bắc Italia, con út trong tám người con của ông bà Ottavio Palazzo và Teresa Antoine, cả hai đều thuộc gia đình khá giả. Hầu hết trong số tám người con đều qua đời sớm và Luigi mồ côi cha năm lên 10 tuổi. Luigi được mẹ giáo dục chu đáo, đặc biệt về lòng bác ái đối với người nghèo và các bệnh nhân.
Thầy Luigi Palazzolo thụ phong linh mục trong giáo phận Bergamo năm 1850, lúc mới được 23 tuổi, và được giao phó nhiệm vụ giáo dục các trẻ em bị bỏ rơi. Với thời gian, cha cũng săn sóc cả các trẻ nữ và khởi sự Hội thánh nữ Dorotea, ở khu phố thánh Bernardino đông dân và nghèo khổ. Cha xác tín cần phải có các nữ giáo chức chuyên nghiệp trong việc săn sóc các trẻ nữ, nên năm 1869, cùng với chị Teresa Gabrielli, cha Luigi thành lập dòng các nữ tu người nghèo. Cha cũng lập một dòng nam tên là dòng Các Tu huynh Thánh gia, nhưng dòng này chỉ tồn tại đến năm 1928. Cha qua đời năm 1886 tại nhà mẹ của dòng ở Bergamo ở tuổi 59. Cha được Đức Giáo hoàng Gioan XXIII phong chân phước năm 1963.
- Vị thứ tư là chân phước linh mục Giustino Maria Russolillo (1891-1955), sáng lập tu hội cầu cho ơn thiên triệu ngành nam và ngành nữ. Cha sinh năm 1891, con thứ ba trong một gia đình khiêm hạ có mười người con ở tỉnh Napoli, nam Italia, làm cha sở tại giáo phận này, nổi tiếng về các hoạt động linh hướng và giảng thuyết. Cha qua đời năm 1955, thọ 64 tuổi.
Phép lạ được Bộ Phong thánh nhìn nhận nhờ sự chuyển cầu của chân phước Russolillo, là cuộc khỏi bệnh lạ lùng của một tu huynh dòng cầu cho ơn thiên triệu, người Madagascar, xảy ra tại thành phố Pozzuoli ngày 21/4 năm 2016. Hôm đó, người ta tìm thấy thầy nằm trên mặt đất trong phòng, mình đầy máu, bộ máy hô hấp của thầy bị tổn thương trầm trọng, và thầy được đưa vào nhà thương cứu cấp.
Cha giám tỉnh dòng cầu cho ơn thiên triệu mời gọi tất cả anh em cầu nguyện với chân phước Giustino Russolillo, xin cứu chữa cho tu huynh bị thương. Ngày 18/4, một tu huynh mang ảnh chân phước có gắn thánh tích và đặt trên mình thầy bị bệnh. Hôm đó, bệnh trạng của thầy vẫn còn rất nặng, nhưng đến ngày 21/4 sau đó, bệnh của thầy được cải tiến đột ngột và tu huynh ra khỏi tình trạng hôn mê, rồi được xuất viện, hơn mười ngày sau đó, hôm 3/5. Phép lạ này mở đường cho việc phong hiển thánh cho chân phước Russolillo.
- Vị thứ năm là chân phước linh mục Charles de Foucauld, người Pháp, sinh tại Strasbourg năm 1858 và qua đời tại Tamarasset, bên Algérie năm 1916. Sau 30 năm đầu đời sống trong tháo thứ, nhưng sau đó, Charles đã trở lại, say mê tìm Chúa, thụ phong linh mục và sống 13 năm trong một làng người Tuareg, ở Tamarasset bên Algérie, cầu nguyện 11 giờ mỗi ngày, chìm đắm trong mầu nhiệm Thánh Thể. Cha tử nạn khi nhà của cha bị cướp phá. Cha được phong chân phước ngày 13/11 năm 2005. Từ linh đạo của cha Charles de Foucauld đã nảy sinh một gia đình thiêng liêng mang tên của cha, gồm các tiểu đệ và tiểu muội Chúa Giêsu.
- Thứ sáu là nữ chân Phước Maria Francesca Chúa Giêsu, tục danh Anna Maria Rubatto, người Italia, sáng lập dòng các nữ tu dòng Ba Capuxin, sinh năm 1844 và qua đời năm 1904 tại Montevideo, thủ đô Paraguay, thọ 60 tuổi.
- Sau cùng là chân phước Maria Domenica Mantovani (1862-1934), đồng sáng lập dòng tiểu muội Thánh gia, cùng với chân phước Giuseppe Nascimbeni, cha sở giáo xứ Castelletto ở Brenzone. Luật dòng lấy hứng tu luật dòng Ba Phanxicô tại viện. Trước khi qua đời, dòng của chị có 1.200 nữ tu tại 150 nhà. Chị Domenica Mantovani được phong chân phước năm 2003.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Đức cha Chủ tịch cơ quan APSA chào mừng luật mới của Đức Thánh cha
Đức cha Nunzio Galantino, Chủ tịch Cơ quan Quản trị tài sản của Tòa Thánh, gọi tắt là APSA, chào mừng luật mới do Đức Thánh cha Phanxicô ban hành hôm 29/4/2021 vừa qua, nhắm chống mọi hành vi tham ô, tham nhũng tại Vatican.
Trong luật này, Đức Thánh cha yêu cầu các vị lãnh đạo, các quan chức hành chánh, quản trị của Tòa Thánh và các cơ quan khác của Vatican phải tuyên bố mình không hề bị kết án, hoặc bị điều tra về tội khủng bố, rửa tiền, trốn thuế, không có tài sản tại các “thiên đường tài chánh, thuế khóa” và không đầu tư vào các xí nghiệp hoạt động chống lại đạo lý của Giáo hội. Bộ kinh tế của Tòa Thánh có thể kiểm soát hoặc kiểm chứng về sự khai báo của các quan chức đó. Trong trường hợp khai gian, đương sự có thể bị sa thải và Bộ có thể đòi bồi thường những thiệt hại do đương sự gây ra.
Ngoài ra, luật cấm tất cả mọi nhân viên các cấp của giáo triều Roma và Quốc gia thành Vatican, hay các cơ quan có liên hệ với Vatican, không được nhận quà cáp quá 40 Euro, có liên hệ tới chức vụ hoặc công việc của mình.
Tuyên bố với báo Công giáo Tương Lai (Avvenire) ở Italia, số ra ngày 30/4/2021 vừa qua, Đức cha Galantino chào mừng luật mới và nói rằng: “Không phải tình cờ mà Đức Thánh cha, trong phần dẫn vào qui luật, đã nhấn mạnh rằng “theo Kinh thánh, sự trung thành trong những việc nhỏ có liên hệ tới sự trung thành trong những việc quan trọng”... Sau những can thiệp trong những tháng qua (...), nay chúng ta đứng trước một bước tiến thêm, quan trọng, trong đó có mô tả những nghĩa vụ đặc thù về sự minh bạch mà những người nắm giữ các vị trí chủ chốt phải tuân giữ, với mục đích phòng ngừa và chống lại mọi xung đột quyền lợi trong mọi lãnh vực, những thể thức thiên vị và tham nhũng nói chung”.
Đức cha Galantino cũng nói rằng các biện pháp mới nằm trong một tiến trình thanh tẩy, điều chỉnh, đã bắt đầu từ lâu tại Tòa Thánh.
Hôm 30/4 vừa qua, Đức Thánh cha đã ban hành thêm một tự sắc thay đổi hệ thống tư pháp của Quốc gia thành Vatican. Từ nay các hồng y, giám mục cũng có thể bị tòa án dân sự do giáo dân xét xử về hình sự thường phạm. Trong những vụ ngoài những trường hợp nói ở khoản giáo luật số 1405, triệt 1, tòa án sẽ xét xử các hồng y, giám mục, sau khi được sự đồng ý của Đức Thánh cha. Cho đến nay, việc xét xử các hồng y, giám mục thuộc thẩm quyền của Tòa án tối cao của Tòa Thánh.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu