Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Phong chân phước tại Roma: Cha Jordan, sáng lập dòng Chúa Cứu Độ
Thứ Bảy, 15/5/2021 tới đây, Đức Hồng y Angelo De Donatis, Giám quản Roma, sẽ đại diện Đức Thánh cha Phanxicô chủ sự lễ phong chân phước cho cha Phanxicô Thánh giá Jordan, sáng lập dòng Chúa Cứu Độ (Salvatoriani hay Salvatorian).
Thánh lễ bắt đầu lúc 10 giờ sáng, tại Đền thờ thánh Gioan Laterano và sẽ được trực tiếp truyền đi qua các mạng xã hội.
Cha Jordan sinh ngày 16/6/1848 tại Gurtweil miền nam Đức, gia nhập chủng viện và thụ phong linh mục ngày 21/7/1878, rồi được gửi tới Roma để học các ngôn ngữ đông phương, và sau đó học tiếp tại Trung tâm học vấn của Giáo hội Công giáo Maronit, ở Ain Warqa bên Liban.
Ngày 9/12/1881, tại nhà nguyện thánh Brigida ở Roma, cha thành lập Tu hội Chúa Cứu Độ (S.D.S), quen gọi là dòng Salvatoriani, chuyên về giáo dục. Bảy năm sau đó, tại Tivoli gần Roma, với sự cộng tác của nữ chân phước Maria Các Thiên Thần, tục danh là Teresa von Wuellenweber, cha thành lập ngành nữ của dòng này.
Ngày 13/12/1893, khi được 45 tuổi, cha Jordan được Bộ Truyền giáo ủy thác cho các tu sĩ dòng Chúa Cứu Độ coi sóc Phủ doãn Tông tòa Assam ở Ấn Độ. Trong tổng tu nghị đầu tiên hồi năm 1902, cha Jordan được bầu làm Bề trên Tổng quyền trọn đời. Khi xảy ra thế chiến thứ I, cha Jordan di chuyển về làng Tafers, bang Fribourg Thụy Sĩ và qua đời tại đây ngày 8/9/1918, thọ 70 tuổi. Năm 1956 di hài cha Jordan được chuyển về nhà nguyện trụ sở tổng quyền của dòng ở Roma.
Án phong chân phước cho cha Jordan bắt đầu từ năm 1942 và ngày 19/6 năm ngoái (2020), Đức Thánh cha đã cho phép bộ Phong thánh công bố sắc lệnh nhìn nhận một phép lạ nhờ lời chuyển cầu của Vị Tôi tớ Chúa Phanxicô Thánh giá Jordan. Người được phép lạ là một thai nhi được khỏi bệnh đầu gối một cách lạ lùng khi sinh ra ngày 8/9/2014, đúng ngày giỗ của cha sáng lập dòng. Trước đó, các bác sĩ đã chẩn đoán sự tật nguyền của thai nhi, và các giáo dân dòng Ba của dòng đã nguyện cầu cha Jordan cứu chữa.
Hiện nay, dòng Chúa Cứu Độ có khoảng 1.150 tu sĩ, trong đó có hơn 830 linh mục, hoạt động tại 163 nhà thuộc 40 quốc gia trong lãnh vực mục vụ, giáo dục và đào tạo. Ngành nữ của dòng có khoảng hơn 700 chị.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Các tu sĩ bị bắt cóc ở Haiti đã được trả tự do
Các tu sĩ cuối cùng được trả tự do vào rạng sáng ngày 21/4/2021 và đã được hội linh mục thánh Gia-cô-bê thông báo.
Tâm tình tạ ơn
Hội linh mục thánh Gia-cô-bê cho biết những người bị bắt cóc đều khỏe mạnh. Hội bày tỏ tâm tình tạ ơn Thiên Chúa và cảm ơn tất cả những người và tổ chức đã tham gia để giải thoát các anh em và bạn bè của hội.
Hội cảm ơn các đại sứ của Pháp và Hoa Kỳ đã nỗ lực trong việc giải quyết vụ việc, cũng như cảm ơn chính quyền địa phương đã hỗ trợ họ.
Nhóm 10 người, gồm năm linh mục Công giáo, hai nữ tu và ba giáo dân, đã bị bắt cóc ở Croix-des-Bouquets, gần thủ đô Port-au-Prince khi đang trên đường đến giáo xứ Galette Chambon, ở Ganthier, để tham dự lễ nhận xứ của cha Jean Arnel Joseph. Nhóm bắt cóc đã đòi một triệu đô la tiền chuộc.
Tình trạng bất an tại Haiti
Vụ bắt cóc đã gây ảnh hưởng lớn đến dư luận và cho thấy rõ tình trạng mất an ninh nghiêm trọng ở Haiti. 11 năm sau trận động đất kinh hoàng Haiti không ngừng hứng chịu các thảm kịch thiên nhiên, dẫn đến khủng hoảng xã hội, kinh tế và chính trị, tạo điều kiện cho các băng nhóm có vũ trang gây bạo lực.
Trong một tuyên bố cách đây vài tuần, Đức cha Max Leroy Mésidor, tố cáo xã hội Haiti đang trở thành địa ngục.
Hồng Thủy - Vatican News
Thách đố Giáo Hội và xã hội Nam Sudan đang phải đương đầu
Một tình trạng khác thường
Thực vậy, việc bổ nhiệm Cha Christian Carlassare làm Giám Mục giáo phận Rumbek là một điều khác thường: mãi 10 năm sau khi giáo phận Rumbeck trống tòa, Tòa Thánh mới bổ nhiệm được một chủ chăn mới cho giáo phận, và đó không phải là một Giám Mục bản xứ như tại 6 giáo phận khác.
Giáo phận Rumbek có 200 ngàn tín hữu Công Giáo, trên tổng số 1 triệu 800 ngàn dân cư, đa số thuộc bộ tộc Dinka, cũng là bộ tộc chiếm đa số tại Nam Sudan, Giáo phận chỉ có 13 giáo xứ, 170 nhà thờ, 11 linh mục giáo phận và 20 linh mục dòng, 40 nữ tu. Tại miền này có 800 ngàn tín hữu Tin Lành và Anh giáo.
Đức Cha Carlassare 43 tuổi, người Ý, thuộc dòng thánh Comboni, được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm Giám Mục giáo phận Rumbek hôm 8/3 vừa qua, và dự kiến sẽ thụ phong Giám Mục vào ngày 23/5 tới đây. Giáo phận này bị trống tòa từ năm 2011 sau khi Đức Cha thừa sai Cesare Mazzolari đột ngột qua đời.
Cách đây hơn 2 tuần, ngày 16/4, dân chúng đã đón tiếp Đức Cha Carlassare, nhưng có lẽ cũng có những người không chấp nhận một Giám Mục trẻ từ nơi xa tới và đã từng làm việc 15 năm với một sắc dân khác là bộ tộc Nuer.
Mưu sát hay hăm dọa
Cha Andrea Osman, thuộc giáo phận Rumbek, ngủ gần phòng của Đức Cha, kể lại: đêm 27/4, có 2 tên mang vũ khí tới. Cha ra gặp và hỏi họ, nhưng cha bị họ bắn dọa và yêu cầu tránh sang một bên. Rồi họ vào phòng Đức Cha và yêu cầu ngài phải đi theo họ. Trước sự từ chối của Đức Cha, họ bắn 4 phát đạn vào hai chân ngài trước khi tẩu thoát. Đức Cha được tổ chức y tế Cuamm trợ giúp Phi châu chở tới Nairobi, thủ đô Kenya, để cứu cấp. Rất may, 4 phát đạn không trúng vào xương ống chân hoặc thần kinh, nhưng ngài bị mất nhiều máu.
Hãng tin Công Giáo ACI Phi châu cho biết 1 trong 2 kẻ bắn Đức Cha đã làm rơi điện thoại di động và Đức Cha ngã trên điện thoại ấy. Các nhân viên an ninh điều tra đã dựa vào đó và truy tầm những kẻ dính líu trong vụ này. Nhà chức trách điều tra đã bắt giữ 12 nghi can có dính líu tới vụ bắn Đức Giám Mục, trong đó có 3 linh mục, đứng đầu là Cha John Mathiang, điều hợp viên của giáo phận Rumbek.
Phản ứng của Đức Cha Carlassare
Tại bệnh viện, Đức Cha đã liên lạc với thân nhân và các bề trên dòng thánh Comboni ở Ý và nói rằng: ”Xin hãy cầu nguyện nhiều, không phải cho tôi, nhưng cho dân chúng tại Rumbek là những người chịu đau khổ nhiều hơn tôi.”
Rồi trong cuộc phỏng vấn ngắn bằng điện thoại dành cho báo ”Người đưa tin chiều” (Corriere della sera) ở Ý, số ra ngày 28/4, Đức Cha kể lại: ”Lúc đó tôi chắc chắn là sẽ bị giết, tôi chỉ nghĩ: Amen, tôi sẵn sàng”.
Đức cha cũng nói rằng: ”Tôi là một người Ý - Nam Sudan, chịu cùng cảnh bạo lực như các nạn nhân khác từ những thập niên qua. Nếu họ muốn hăm dọa tôi, thì họ đã nhận hậu quả ngược lại”.
Tuyên bố trong cùng ngày 28/4 với đài truyền hình TV-2000 của Hội đồng Giám Mục Ý, Đức Cha Carlassare cho biết ngài sẽ tiếp tục công việc thừa sai như cho đến nay, và tha thứ cho những kẻ gây hại cho ngài. Đức Cha nói: ”Sứ điệp tha thứ là điều duy nhất trong tình trạng này có thể mang lại công lý đích thực. Người ta luôn tìm kiếm chân lý, nhưng luôn quên lòng thương xót. Trong lúc này, chúng ta hy vọng sự thật sẽ được làm sáng tỏ để những biến cố như thế này sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Chúng ta biết rằng từ sự tha thứ có thể xảy sinh một sự biến đổi”.
Đức Cha Carlassare cũng nói rằng: ”Tôi kêu gọi chính phủ và cộng đoàn giáo phận, cũng như mọi người dân tại Rumbek hãy tha thứ: tha thứ cho những người đã phạm những hành động như vậy, sự tha thứ này không phải là thơ ngây hoặc bỏ sang một bên những sai lầm, nhưng là sửa chữa các sai lầm không phải bằng bạo lực, nhưng bằng đối thoại và tha thứ. Tôi cảm thấy rằng Cộng đoàn giáo phận Rumbeck rất cần sự tha thứ để có thể đối thoại và tiến bước với nhau”.
Hiểm họa xung đột bộ tộc
Những chi tiết quanh vụ đả thương Đức tân Giám Mục Rumbek gợi lại biến cố diệt chủng kéo dài 100 ngày hồi năm 1994 tại Ruanda với cuộc xung đột giữa bộ tộc Hutu và Tutsi. Người Tutsi thiểu số nhưng nắm giữ quân đội và các chức vụ quan trọng, trong khi người Hutu đông nhưng bị cai trị. Sau khi tổng thống người Hutu bị bắn chết, người Hutu đã bùng lên và lùng giết người Tutsi, tạo nên cuộc thảm sát toàn quốc làm cho 800 ngàn người chết, trong đó có 4 Giám Mục và hàng trăm Linh Mục người Tutsi bị giết. Tham gia vào cuộc diệt chủng ấy có cả cả linh mục.
Trong cuộc tiếp kiến tổng thống Kagame của Ruanda ngày 20/3/2017, Đức Thánh Cha Phanxicô đã xin Chúa tha thứ vì có những Linh Mục Công Giáo đã can dự vào cuộc diệt chủng thảm khốc đó tại nước này.
Hiểm họa tái diễn xung đột tại Nam Sudan
Thách đố mà Giáo Hội Công Giáo tại Nam Sudan phải đương đầu cần được hiểu trong bối cảnh xung đột bộ tộc đang tàn phá Nam Sudan. Quốc gia này được khai sinh sau cuộc chiến dài 22 năm, từ năm 1983 đến 2005, giữa chính quyền Sudan ở miền bắc theo đuổi chính sách Hồi giáo hóa và Arập hóa cả miền nam, gồm đa số dân theo Kitô giáo và đạo thờ vật linh, và chống lại chủ trương của chính quyền trung ương. Cuộc trưng cầu dân ý sau đó đã đưa tới việc chính thức thành lập nước Nam Sudan từ ngày 9/7/2011 với dân cư là 11 triệu người.
Nhưng chỉ gần 2 năm sau đó, tháng 12/1983, xảy ra nội chiến giữa phe của tổng thống Salva Kiir thuộc bộ độc Dinka và phe của Phó tổng thống Machar thuộc bộ tộc Nuer, không kể nhiều nhóm bộ tộc khác.
Phúc trình của Liên hiệp Quốc
Ngày 26-4 vừa qua, các chuyên gia của LHQ đã công bố một phúc trình dài 81 trang báo động rằng những chia rẽ về chính trị, quân sự và bộ tộc tại Nam Sudan ngày càng sâu rộng hơn, đưa tới nhiều vụ bạo lực giữa các phe đã ký hiệp định ngưng bắn hồi năm ngoái, và chiến tranh có thể tái diễn, trong khi gần 100 ngàn người Nam Sudan đang bị nạn đói đe dọa.
Tranh giành giữa các phe
Phúc trình cho biết bước tiến chậm chạp trong cuộc cải tổ của chính phủ do Tổng thống Salva Kiir điều khiển và tranh luận từ hơn 1 năm nay về chính trị và những bất đồng về cách thức thi hành hiệp định ngưng bắn ký hồi tháng 2 năm ngoái và hiệp định hòa bình ký năm 2018 đã dẫn tới những tương quan rạn nứt giữa tổng thống Salva Kiir và đệ nhất phó tổng thống Riek Machar.
Các tin mật từ phe tổng thống Kiir cho biết những chia rẽ vừa nói liên quan đến sự phân chia các chức vụ trong chính phủ. Tiếp đến là toan tính của tổng thống lèo lái những căng thẳng nội bộ giữa những người ủng hộ ông đã không thành công và kết quả là đã xảy ra những đụng độ về an ninh ở ngoài thủ đô.
Về phần Phó tổng thống Machar, phúc trình của LHQ cho biết sự việc ông không có khả năng ảnh hưởng tới những quyết định quan trọng của chính phủ hoặc không thúc đẩy được việc thi hành hiệp định ngưng bắn đã khiến cho Phong trào giải phóng nhân dân Sudan do ông thành lập và lãnh đạo bắt đầu tan rã. Một số người lãnh đạo trong phe của ông Machar đã phản đối ông và một số sĩ quan nhảy sang phe của chính phủ.
Khi được thành lập năm 2011, Nam Sudan vốn có nhiều dầu hỏa và có triển vọng tốt, nhưng rồi chiến tranh bùng nổ từ tháng 12/2013 khi các lực lượng trung thành với tổng thống Kiir bắt đầu chiến đấu chống những người theo phe của Machar, nhóm này thuộc bộ tộc Nuer. Nội chiến đã làm cho gần 400 ngàn người chết và hàng triệu người phải di tản. Và tuy đã có nhiều hiệp định được ký kết, nhưng viễn tượng hòa bình thực sự vẫn còn xa vời.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần hứa sẽ viếng thăm Nam Sudan khi hòa bình được vãn hồi, nhưng chắc ngài còn phải chờ đợi lâu.
Giuse Trần Đức Anh OP
ĐTC Phanxicô: Đời sống Ki-tô hữu đích thực có thể làm chứng cho Chúa Ki-tô
Vào lúc 12 giờ trưa Chúa Nhật 2/5/2021 Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên đàng với các tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phê-rô.
Huấn dụ của Đức Thánh Cha
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ V mùa Phục Sinh (Ga 15,1-8), Chúa Giê-su giới thiệu Người là cây nho thật và gọi chúng ta là những cành nho mà nếu không kết hiệp với Người sẽ không sống được: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (c. 5). Sẽ không có cây nho nếu không có các cành nho, và ngược lại. Các cành không tự nó sống nhưng hoàn toàn dựa vào cây nho, nguồn sống của chúng. Và Chúa cần chúng ta để chúng ta làm chứng cho Người
Sự ở lại tích cực và hỗ tương
Chúa Giê-su nhấn mạnh đến động từ “ở lại”. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa lặp lại động từ này bảy lần. Trước khi từ giã thế giới này và trở về với Chúa Cha, Chúa Giê-su muốn trấn an các môn đệ rằng họ có thể tiếp tục được kết hiệp với Người. Chúa nói: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em” (c. 4). Đây không phải là ở lại cách thụ động, “ngủ yên” trong Chúa, để chính mình bị cuộc đời ru ngủ. Không phải như thế. Chúa Giêsu đề nghị ở lại cách tích cực và hỗ tương. Tại sao? Bởi vì những cành nho không có cây nho thì không thể làm gì được, chúng cần nhựa sống để sinh trưởng và kết trái; nhưng cây nho cũng cần cành, vì quả không mọc trên thân cây. Đó là sự cần thiết lẫn nhau, là vấn đề ở lại trong nhau để sinh hoa kết trái.
Chúng ta cần Chúa
Đức Thánh Cha giải thích: Trước hết, chúng ta cần Chúa. Chúa muốn nói với chúng rằng trước khi tuân giữ các điều răn của Người, trước các mối phúc thật, trước các hoạt động thương xót, cần kết hiệp với Người, ở lại trong Người. Chúng ta không thể là Ki-tô hữu tốt nếu chúng ta không ở lại trong Chúa Giê-su. Nhưng với Người, chúng ta có thể chịu được mọi sự (xem Pl 4,13).
Chúa cần chúng ta: một ý tưởng táo bạo?
Nhưng Chúa Giê-su, giống như cây nho cần cành nho, cũng cần chúng ta. Đối với chúng ta, có vẻ táo bạo khi nói điều này, và vì vậy chúng ta tự hỏi: Chúa Giê-su cần chúng ta theo nghĩa nào? Người cần chứng tá của chúng ta. Giống như cành nho, hoa trái mà chúng ta cần mang lại chính là làm chứng về đời sống của Ki-tô hữu. Sau khi Chúa Giê-su trở về với Chúa Cha, nhiệm vụ của các môn đệ, cũng là nhiệm vụ của chúng ta, là tiếp tục loan báo Tin mừng, bằng lời nói và việc làm, về Vương quốc của thế giới. Và họ làm việc này bằng cách làm chứng cho tình yêu của Chúa: hoa trái được sinh ra chính là tình yêu. Được gắn kết với Chúa Ki-tô, chúng ta nhận các ơn Chúa Thánh Thần, và bằng cách này chúng ta có thể làm điều tốt cho tha nhân và xã hội, cho Giáo hội. Chúng ta nhận ra cây nhờ trái của nó. Một đời sống Ki-tô hữu thật sự có thể làm chứng cho Chúa Ki-tô.
Hoa trái tốt của cuộc sống nhờ vào cầu nguyện
Chúng ta có thể làm điều này bằng cách nào? Chúa Giê-su nói với chúng ta: “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý” (c. 7). Cuộc sống của chúng ta mang lại hoa trái tốt là nhờ vào cầu nguyện. Chúng ta có thể xin được suy nghĩ như Chúa, hành động như Người, nhìn thế giới và mọi thứ bằng đôi mắt của Chúa Giê-su. Và như thế, yêu thương anh chị em của chúng ta, bắt đầu từ những người nghèo nhất và những người đau khổ nhất, như Chúa đã làm, và yêu thương họ bằng cả trái tim và mang đến cho thế giới những hoa trái của sự tốt lành, bác ái và hòa bình.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha mời gọi hãy phó thác cho sự chuyển cầu của Đức Trinh nữ Maria. Mẹ luôn luôn kết hợp hoàn toàn với Chúa Giê-su và Mẹ đã mang lại nhiều kết quả. Xin Mẹ giúp chúng ta ở lại trong Chúa Ki-tô, trong tình yêu và trong lời của Người, để làm chứng cho Chúa Phục Sinh trong thế giới.
Chân phước bác sĩ José Gregorio Hernández Cisneros: tấm gương chăm sóc người đau khổ
Sau khi đọc kinh, Đức Thánh Cha nhắc đến lễ phong chân phước cho bác sĩ José Gregorio Hernández Cisneros hôm thứ Sáu 30/4 vừa qua tại Venezuela. Đức Thánh Cha nhận xét đây là một bác sĩ “có kiến thức rộng rãi và đức tin mạnh mẽ, biết nhận ra gương mặt của Chúa Ki-tô nơi các bệnh nhân; giống như người Samaria nhân hậu, ngài giúp đỡ các bệnh nhân với lòng bác ái của Tin Mừng. Tấm gương của ngài giúp chúng ta chăm sóc cho những người đau khổ về thể xác và tâm hồn.
Một kinh Kính Mừng cho Myanmar
Tiếp đến Đức Thánh Cha nhắc rằng chúng ta đã bước vào tháng Năm mà lòng đạo đức bình dân diễn tả lòng sùng kính Đức Mẹ bằng nhiều hình thức. Đặc biệt, năm nay, tháng 5 được cử hành với sự kiện “Marathon cầu nguyện” tại các đền thánh kính Đức Mẹ quan trọng trên toàn thế giới, cầu xin cho đại dịch sớm chấm dứt. Chiều thứ Bảy 1/5/2021 sự kiện đã bắt đầu với chặng thứ nhất tại Vatican.
Đức Thánh Cha cũng nói đến một sáng kiến đánh động ngài rất nhiều trong bối cảnh này. Đó là Giáo hội Myanmar mời gọi cầu nguyện cho hòa bình và dành một kinh Kính Mừng trong chuỗi Mân Côi hàng ngày cầu nguyện cho nước này. Ngài nói: “Mỗi chúng ta đều hướng về mẹ khi gặp khó khăn, hoạn nạn; trong tháng này, chúng ta cầu xin Mẹ của chúng ta nói với trái tim của tất cả những người có trách nhiệm ở Myanmar để họ có thể tìm thấy can đảm để bước đi trên con đường gặp gỡ, hòa giải và hòa bình.
Chia buồn và cầu nguyện cho các nạn nhân tai nạn ở Núi Meron, Israel
Và Đức Thánh Cha bày tỏ sự gần gũi với dân tộc Israel về tai nạn tại Núi Meron hôm thứ Sáu 30/4/2021, khiến cho 45 người chết và nhiều người bị thương. Đức Thánh Cha đoan chắc nhớ cầu nguyện cho các nạn nhân và người thân.
Hồng Thủy - Vatican News
Đức Thánh Cha Phanxicô xác nhận với ĐHY D. António Marto ý định đến hành hương Fátima vào năm 2023, nhân dịp Ngày Giới Trẻ Thế Giới tại thủ đô Lisboa
Đức Giám mục Leiria-Fátima đã được tiếp kiến riêng bởi Đức Thánh Cha Phanxicô, tại Vatican. Lưu trữ ảnh của SF Fatima
ĐHY D. António Marto kể lại: “Đó là một cuộc gặp rất thân mật, trong đó tôi bày tỏ lời cảm ơn tới Đức Giáo hoàng vì lời chứng của ngài về niềm hy vọng và sự khích lệ trong giai đoạn khó khăn này mà thế giới đang trải qua”.
Fatima – Theo tin của Trung Tâm Thánh Mẫu Fatima, sáng ngày 29.4.2021 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã xác nhận với Đức Hồng Y D. António Marto ý định đến hành hương Fátima vào năm 2023, nhân Ngày Giới trẻ Thế giới, sẽ diễn ra tại Lisboa.
“Trong suốt cuộc trò chuyện của chúng tôi, kéo dài khoảng ba mươi phút, Đức Thánh Cha giải thích cho tôi ước nguyện của ngài mong được hành hương đến Fatima nhân dịp này”. ĐHY D. António Marto khẳng định như trên trong một thông báo gửi đến Phòng Báo chí của Trung Tâm Thánh Mẫu Fátima.
ĐHY D. António Marto kể tiếp: “Đó là một cuộc gặp gỡ rất thân tình, trong đó tôi bày tỏ lời cảm ơn tới Đức Giáo hoàng vì lời chứng của ngài về niềm hy vọng và sự khích lệ trong giai đoạn khó khăn này mà thế giới đang trải qua”.
“Tôi cũng bày tỏ lòng kính trọng sâu sắc nhất đối với ĐTC và sự hiệp thông của tôi với chức vụ Phêro của Ngài”, ĐHY đã xác nhận khi nhấn mạnh rằng, trong cuộc tiếp kiến, cả hai đã “trao đổi quan điểm sâu sắc” về đại dịch ở Bồ Đào Nha và “về những ảnh hưởng mà đại dịch đã gây ra trong sinh hoạt của Giáo phận và Thánh địa Fátima ”.
Chính ĐHY D. António Marto giám mục Leiria, là một thành viên của hồng y đoàn của Giáo triều Roma từ năm 2018, đã xin được tiếp kiến ĐTC, Ngài mang theo “lời chào và phép lành đặc biệt cho những người hành hương của Thánh địa Fátima” của chính Đức Thánh Cha khi nhắc nhở “rằng chúng con luôn nhớ đến ĐTC trong lời cầu nguyện của chúng con với Đức Mẹ”.
Người ta nhớ lại rằng vào ngày 12 tháng 3 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã công bố ý định này với Tổng thống Cộng hòa Marcelo Rebelo de Sousa. Phát biểu với báo chí tại Roma, vào cuối buổi tiếp kiến, vị nguyên thủ quốc gia Bồ Đào Nha tuyên bố rằng cuộc tiếp kiến đã diễn ra “như cách đây 5 năm” và đây là “một cơ hội cho thấy Đức giáo hoàng luôn quan tâm đến mọi điều. […] Tất nhiên, vị nguyên thủ quốc gia Bồ Đào Nha đã phát biểu thêm rằng, ĐTC đã nói về việc đến Bồ Đào Nha vào năm 2023, đến Lisbon và Fátima ĐTC đã nhắc ngay rằng – „vào Ngày Giới trẻ Thế giới ”...
ĐTC Phanxicô đã đến Fatima với tư cách là một người hành hương cách đây đúng bốn năm, vào thời điểm đó, Ngài đã phong thánh cho hai vị thánh đầu tiên của Fatima, Francisco và Jacinta Marto.
Lm. Stephanô Bùi Thượng Lưu
Nguồn: https://www.noticiasdefatima.pt/religiao/papa-francisco-confirma-a-d-antonio-marto-a-sua-intencao-de-vir-a-fatima-em-2023
Cuộc sống thầm lặng của các tín hữu ở Somalia
Trên đây là nhận định của Đức cha Giorgio Bertin, Giám mục Gibuti, Giám Quản Tông Tòa Mogadiscio. Đức cha là người biết rõ điều kiện sống của các Kitô hữu cũng như tình hình kinh tế và chính trị của đất nước Sừng Phi Châu.
Cộng đoàn Công giáo Somali rất nhỏ: cả nước chỉ có khoảng vài chục Kitô hữu sống đức tin âm thầm. Trong số này tính cả các tín hữu là thành viên của các tổ chức quốc tế và lực lượng quân sự đang hiện diện trong khu vực.
Đức cha Bertin cho biết, người Somalia luôn bày tỏ Hồi giáo khoan dung. Họ luôn cởi mở trong việc đối thoại và không bao giờ có sự căng thẳng với các Kitô hữu. Người Somalia chưa bao giờ chống lại Kitô giáo. Trước đây, họ nhìn các Kitô hữu một cách thiện cảm. Nhưng từ khi Siad Barre sụp đổ, cùng với sự ra đời của một chủ nghĩa Hồi giáo tìm cách tái xây dựng xã hội xuất phát từ luật Hồi giáo, các Kitô hữu dần dần bị gạt ra bên lề. Mặc dù, hiện nay các chính trị gia không thù ghét Giáo hội, nhưng họ có khuynh hướng không bảo đảm không gian cho các Kitô hữu, bởi vì sợ bị buộc tội ủng hộ “thập tự chinh”.
Người Công giáo hiện hiện trong khu vực qua Caritas Somalia, hoạt động trên bình diện xã hội bằng cách giúp người dân gặp khó khăn, đặc biệt những nhóm người dễ bị tổn thương như phụ nữ và trẻ em.
Hoạt động ở Somalia không đơn giản. Tình hình chính trị rất phức tạp. Theo Giám mục Gibuti, chính quyền đang tìm cách tái khẳng định quyền lực, và phải đối phó với các đảng phái. Tình hình này làm cho đất nước bị bất ổn. Tình hình chính trị của Somalia bị ảnh hưởng bởi lợi ích của các nước thứ ba, các tác nhân khu vực và quốc tế. Và hậu quả là thường dân phải gánh chịu sự bất ổn này.
Đức cha Bertin kết luận: “Trong tình hình phức tạp của chính trị, mọi người phải đối mặt với chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan Al-Shabaab. Họ hiện diện trên lãnh thổ trung nam Somalia, và cả ở các thành phố lớn. Ngoài Al-Shabaab, còn có sự hiện diện của các nhóm theo trào lưu Hồi giáo. Các nhóm này, ngoài việc áp đặt một tầm nhìn hoàn toàn về Hồi giáo, còn gieo rắc hận thù và khủng bố trong lãnh thổ.
Ba mươi năm sau khi chế độ Siad Barre sụp đổ, bối cảnh rất khó khăn. Có những thể chế yếu kém, đôi khi vắng mặt và thường xuyên xung đột. Đất nước cần một chương trình xây dựng nhà nước có khả năng cung cấp cho công dân những dịch vụ cơ bản. Nhưng điều vô lý là trong các vùng do Al-Shabaab kiểm soát, lực lượng dân quân lại liên kết với tổ chức khủng bố al-Qaeda, làm hạn chế mọi hình thức tự do.
Ngọc Yến - Vatican News
Giáo hội Canada kêu gọi tôn trọng và hợp tác với người bản địa
Ngày 3/12/2020, chính phủ Canada đã đệ trình dự luật C-15 liên quan đến Tuyên bố của Liên Hiệp Quốc về Quyền của Người bản địa (UNDRIP). Nếu được thông qua, dự luật sẽ khẳng định Tuyên bố về quyền của người bản địa là một công cụ nhân quyền quốc tế được áp dụng trong luật pháp Canada, điều này sẽ thể hiện một sự phát triển mạnh mẽ cho quyền của người bản địa ở nước này.
Dự luật C-15 hiện đang được Nghị viện xem xét và vì lý do này, Hội đồng Giám mục đã ra tuyên bố kêu gọi các chính trị gia tham vấn với người bản địa trong việc thảo luận đưa Tuyên bố của Liên Hiệp Quốc về Quyền của Người bản địa vào luật quốc gia.
Về phần mình, Hội đồng Giám mục cam kết “thực hiện các bước quan trọng với người dân và cộng đồng bản địa, nhằm hướng tới một tương lai tôn trọng và hợp tác đầy đủ hơn”. Hội đồng Giám mục cũng nhắc lại rằng vào năm 2016, cùng với các tu sĩ và và giáo dân của đất nước, các Giám mục đã đưa ra một tuyên bố công khai ủng hộ việc áp dụng quyền của người bản địa, điều vẫn “tiếp tục được hiểu là một công cụ chính để hòa giải và củng cố quan hệ giữa người bản địa và các thành phần khác ở Canada”. Do đó, việc tiếp nhận nó trong luật pháp quốc gia “là một bước tiến quan trọng và cơ bản trên con đường này”. Vì lý do đó, Giáo hội Công giáo “tiếp tục ủng hộ ý định của chính phủ Canada trong việc ban hành luật thực hiện Tuyên bố về quyền của người bản địa trong khuôn khổ luật pháp quốc gia”.
Tuyên bố về Quyền của Người bản địa đã được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua trong kỳ họp thứ 62, tổ chức tại New York vào ngày 13/9/2007. Cụ thể, văn kiện thiết lập các quyền cá nhân và tập thể của người bản địa, bao gồm quyền không bị trục xuất khỏi lãnh thổ của họ và được hưởng các tài nguyên thiên nhiên ở đó. Các quyền khác liên quan đến văn hóa, bản sắc, ngôn ngữ, công việc, sức khỏe và giáo dục. Ngoài ra, trọng tâm là cấm phân biệt đối xử với người bản địa và thúc đẩy sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của họ vào tất cả các vấn đề liên quan đến họ. (CSR_3113_2021)
Ngọc Yến - Vatican News
Ba Lan nới lỏng các hạn chế vì đại dịch
Từ ngày 4/5/2021 tới đây, chính phủ Ba Lan sẽ nới lỏng các biện pháp hạn chế vì đại dịch.
Hôm 28/4/2021, chính phủ Ba Lan thông báo rằng các bảo tàng viện, các tiệm bán tranh và đồ nghệ thuật, các siêu thị sẽ được mở lại, nhưng phải giữ các biện pháp an ninh vệ sinh. Các thánh đường và nơi thờ phượng khác sẽ được đón nhận nhiều người hơn. Cho đến nay, cứ 20 mét vuông trong thánh đường mới được một người vào dự lễ. Từ ngày 4/5, tiêu chuẩn này được mở rộng hơn, nghĩa là cứ 15 mét vuông thì được một người. Điều này cũng được áp dụng cho các cửa tiệm, siêu thị và bảo tàng viện.
Ngoài ra, từ ngày 15/5 tới đây, các lễ cưới, rước lễ lần đầu và các buổi lễ khác sẽ được 25 người tham dự. Sau đó, từ ngày 29/05, số người dự sẽ được nâng lên 50 người. Các khách sạn được mở lại từ ngày 8/5 sắp tới.
Chính phủ Ba Lan đưa ra các biện pháp nới lỏng trên đây, trước tỷ lệ lây nhiễm Covid-19 giảm bớt. Trong bảy ngày qua, cứ 100.000 người dân thì chỉ còn 168 người bị lây nhiễm virus, thay vì 500 người như trước đây.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Cộng hòa Ailen là nước Âu châu duy nhất còn cấm lễ
Cộng hòa Ailen là nước duy nhất ở Âu châu còn cấm các buổi lễ công cộng nhân danh việc phòng người lan lây Coronavirus.
Những người phản đối các biện pháp ngặt nghèo của chính phủ Ailen càng gia tăng yêu cầu chính phủ tháo gỡ các biện pháp cấm đoán, sau khi hai nước Âu châu khác là Cộng hòa Slovak và Sloveni cho mở lại các thánh lễ có giáo dân tham dự.
Trong thời gian trước đây, những người ủng hộ biện pháp cấm lễ của chính phủ Ailen thường nêu ví dụ hai nước Slovak và Sloveni để biện minh cho lập trường của mình. Nhưng sau nhiều tháng trời bị đóng cửa ngặt nghèo vì đại dịch Covid-19, cộng hòa Slovak đã mở lại các buổi lễ tôn giáo có giáo dân tham dự, từ ngày thứ Hai 19/4/2021 vừa qua.
Trong thời gian bị cấm đoán, các tín hữu Công giáo Ailen thường tụ họp bên ngoài thánh đường để cầu nguyện. Hồi cuối tuần 24 và 25/4 vừa qua, hàng trăm tín hữu đã tụ tập như vậy trước nhiều nhà thờ. Cuối tuần này, mùng 1 và 2/5 họ cũng sẽ tiếp tục làm như vậy.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức giám mục Công giáo: Dân Ucraina vùng biên giới sống trong lo sợ quân Nga
Một giám mục Công giáo ở miền đông Ucraina, Đức cha Stanislav Shyrokoradiuk, cho biết căng thẳng vẫn ở cao độ mặc dù Nga tuyên bố rút quân khỏi vùng biên giới với Ucraina.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Công giáo Hoa Kỳ CNS, truyền đi hôm 28/4/2021 vừa qua, Đức cha Stanislav, Giám mục giáo phận Odessa-Simferopol, nói rằng tuy có lời tuyên bố của Nga, nhưng cho đến nay vẫn không có gì thay đổi; phần lớn quân đội Nga vẫn còn ở vùng biên giới với Ucraina, và thỉnh thoảng xảy ra vụ chạm súng, và dân chúng vẫn còn chết. “Miền đông và nam Ucraina là những vùng bị Nga hóa nhiều nhất tại nước này. Tình trạng vẫn bất an, không ai biết điều gì sẽ xảy ra”.
Hiện nay có những nỗ lực ngoại giao nhắm thuyết phục Nga giảm bớt sự tập trung quân đội ở vùng biên giới Ucraina. Người ta ước lượng Nga đã dồn hơn 100.000 quân tới vùng biên giới. Hình ảnh các tàu chiến Nga và quân đội Nga di chuyển tạo nên sự sợ hãi lớn nơi các tín hữu Công giáo, nhất là tại thành phố Odessa và Kharkiv. “Sự sợ hãi như thế là chiến lược đầu tiên để xâm lăng. Theo Đức cha Stanilav, có lẽ mục đích chính là gây sợ hãi cho người Ucraina, hoặc chứng tỏ sự biểu dương võ lực này có thể bất ngờ trở nên bi thảm. Nhưng điều mà chúng tôi thực sự cần bây giờ là hòa bình, để giáo phận Công giáo bé nhỏ và bị cô lập của chúng tôi có thể phát triển như thành phần của Giáo hội hoàn vũ”.
Đức cha Stanislav cho biết các tín hữu Kitô không thuộc Chính Thống giáo gặp nhiều khó khăn ở vùng Donetsk và Luhansk. Tại đây, chỉ có một linh mục Công giáo duy nhất, thỉnh thoảng được phép tới một trong hai giáo xứ thuộc các vùng này. Giáo phận Odessa-Simferopol hiện có hơn 70 linh mục và giáo xứ, so với một linh mục cách đây 30 năm. Nhiều tín hữu Công giáo tại đây không thể làm việc vì Covid-19, trong khi giá thực phẩm tăng vọt và thường bị ngưng. Vì thế - Đức cha nói - “nếu không có sự trợ giúp lớn của các giám mục và cơ quan bác ái Công giáo ở Âu Mỹ, chúng tôi thật khó duy trì hàng giáo sĩ và các hoạt động bác ái”.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu