Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Phong chân phước ba vị tử đạo Dòng Capuchino Tây Ban Nha
Lúc 11 giờ sáng, thứ Bảy, ngày 06 tháng Mười Một vừa qua, tại thành phố Manresa, miền Catalugna, Đức Hồng y Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, đã đại diện Đức Thánh cha chủ sự lễ phong chân phước cho cha Benedetto di Santa Coloma de Gramenet và hai linh mục cùng dòng Capuchino tử đạo trong thời nội chiến tại Tây Ban Nha.
Bạo lực bùng nổ chống Giáo hội Công giáo tại nước này, từ ngày 18 tháng Bảy năm 1936 đến 01 tháng Tư năm 1939, đã làm cho 70% các nhà thờ bị tàn phá và giết hại gần 10.000 người.
Cha Benedetto di Santa Coloma sinh năm 1892 và gia nhập dòng Capuchino năm 1909, khi được 17 tuổi và thụ phong linh mục năm 1915 lúc 23 tuổi. Cha làm giáo tập, rồi cố vấn tỉnh dòng, sau cùng làm, bề trên tu viện tại Manresa. Ngày 22 tháng Bảy năm 1936, tu viện này bị các dân quân mác xít và vô chính phủ chiếm đóng và tàn phá. Cha Benedetto họp các tu sĩ và ra lệnh di tản, tìm nơi an toàn để lánh nạn. Cha đến một nhà ở miền quê gọi là Casajoana gần Menresa để trú ẩn. Tại đây, ngày 06 tháng Tám cùng năm 1936, cha bị một nhóm dân quân đột nhập, họ muốn buộc cha phải chửi thề và nói phạm thượng, nhưng cha quyết liệt từ chối. Cha bị bọn chúng dẫn đến nơi gọi là La Culla và sát hại tàn nhẫn.
Hai linh mục cùng dòng, cha Giuse Oriol và Domenec da Sant Pere cũng bị nhóm dân quân giết chết vì oán ghét đức tin.
Trên trang mạng của Bộ Phong thánh có viết rằng: “Chứng tá đức tin mạnh mẽ và ý nghĩa của ba vị Tôi tớ Chúa được phong chân phước cũng có thể nói với Giáo hội ngày nay và thế giới về sự cần thiết loan báo Tin mừng và làm sao để việc truyền giảng Tin mừng này đi tới cả những thực tại khó khăn và phức tạp nhất.
“Chính lòng trung thành với Tin mừng của Chúa Kitô và với bậc sống thánh hiến của mình đã đưa ba vị Tôi tớ Chúa đến chỗ chấp nhận là hạt giống rơi xuống lòng đến để mang lại hoa trái phong phú và lâu bền, đồng thời có khả năng là ánh sáng thế gian và là muối đất”. (Bộ Phong Thánh causasanti.va)
Bài giảng của Đức Hồng y
Trong bài giảng, Đức Hồng y Semeraro nhấn mạnh rằng: “Sự tử đạo không xuất phát từ mình, từ sự coi rẻ mạng sống, hoặc từ một hình thức anh hùng tột cùng, nhưng từ hành động mang lại sự sống của Chúa Thánh Linh, Đấng Thánh Hóa. Khi Thánh Linh che phủ cuộc sống của người môn đệ, thì họ trở thành chứng nhân khắp nơi: dù họ ở đâu hay thuộc thời đại nào. Điều này càng mạnh mẽ và rõ ràng hơn trong việc tử đạo. Để tiến qua cái chết tiến vào sự sống, cần có Chúa Thánh Linh hoạt động để những người có Thần Trí thánh thiện tiếp tục hân hoan cả khi họ gặp sầu muộn thử thách; tuy nghèo nhưng họ có khả năng làm cho nhiều người được phong phú, và dù họ không có gì cả, họ có tất cả” (Xc 2 Cr 6,10).
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Hội đồng Giám mục Pháp kết thúc Đại hội tại Lộ Đức
Sáng ngày 08 tháng Mười Một vừa qua, Hội đồng Giám mục Pháp đã kết thúc khóa họp mùa thu tại Lộ Đức, trong đó phần lớn chương trình nghị sự bàn về Phúc trình công bố ngày 05 tháng Mười vừa qua, về những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục tại Pháp, từ năm 1950 đến nay.
Trong diễn văn kết thúc, Đức Tổng giám mục Eric de Moulins-Beaufort của giáo phận Reims, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Pháp, nói: “Chúng ta đã nhìn nhận trách nhiệm của mình như một cơ chế và chúng ta đã quyết định khởi sự hành trình chữa lành, mở ra một con đường có thể là làm trung gian và bồi thường cho các nạn nhân. Chúng ta đang tiến đến một tình trạng Giáo hội chúng ta trở nên nghèo hơn”.
Đức Tổng giám mục Chủ tịch cũng cam kết một sự cộng tác chặt chẽ hơn với nhà chức trách tư pháp, trong việc bài trừ nạn lạm dụng, nỗ lực liên tục để phổ biến qui luật cộng tác giữa các giáo phận và các văn phòng công tố, như đã được một số giáo phận vùng Paris thi hành. Ngoài công việc bên ngoài, còn cần một sự cải tổ sâu rộng Giáo hội, như một tổ chức”.
Về các linh mục, Đức Tổng giám mục de Moulins-Beaufort kêu gọi các vị hãy gia tăng cảnh giác gấp đôi và sáng suốt. Ngài nói: “Chúng ta đã trở thành linh mục để với tinh thần khiêm tốn, mang sự an ủi của Chúa Kitô, bảo đảm cho nhiều người sự gần gũi của Thiên Chúa, và chắc chắn không phải để làm cho nhiều người nam nữ khóc vì sự điều hành giáo xứ của chúng ta”.
Họp báo
Trong cuộc họp báo, vào ban chiều cùng ngày, Đức Tổng giám mục Chủ tịch Hội đồng Giám mục Pháp đã trình bày một chương trình rộng lớn để canh tân việc quản trị Giáo hội tại Pháp. Ngài cũng cho biết Giáo hội sẽ tài trợ các nạn nhân, với tài sản của mình và tiền vay mượn.
Để tiến hành việc này, một cơ quan toàn quốc độc lập sẽ nhìn nhận và chữa lành, điều tra, cứu xét các đơn xin bồi thường của các nạn nhân. Cơ quan này sẽ do luật gia Marie Derain de Vaucresson điều khiển.
Đức Tổng giám mục cũng cho biết: “Sau khi làm việc về những đề nghị trong Phúc trình Ciase, chúng tôi sẽ đệ lên Đức Thánh cha những đề nghị, liên quan đến Giáo hội hoàn vũ, đặc biệt là về giáo luật”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Ba Lan: Lạc quyên toàn quốc giúp di dân
Chúa nhật Lễ Chúa Kitô Vua, ngày 21 tháng Mười Một tới đây, tại các nhà thờ Công giáo trên toàn quốc Ba Lan, sẽ tổ chức các cuộc lạc quyên hỗ trợ Caritas nước này trong việc giúp đỡ người di dân, đặc biệt những người đang bị kẹt giữa biên giới Belarus và Ba Lan.
Đức Tổng giám mục Gądecki của giáo phận Poznan, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan, thông báo như trên trong thánh lễ hôm 05 tháng Mười Một vừa qua, tại Vương cung Thánh đường Thánh Giá ở thủ đô Varsava, với các tham dự viên Đại hội toàn quốc lần đầu tiên của Phong trào Chúa Kitô vua.
Hiện nay, có khoảng 3.000 đến 4.000 người di dân bị kẹt ở vùng biên giới Ba Lan - Belarus. Chính phủ Ba Lan cũng như Liên hiệp Âu châu tố giác chính phủ Belarus đã đưa máy bay chở những người di dân này đến Belarus và thả họ ở vùng biên giới Lituani và Ba Lan, để họ tìm đường vào Liên hiệp Âu châu, với mục đích trả đũa các biện pháp trừng phạt của Liên hiệp chống Belarus. Ngay từ đầu, Giáo hội Công giáo tại Ba Lan đã giúp đỡ người di dân và xin chính phủ Ba Lan cho những người đó được tạm trú tại Ba Lan, săn sóc những người ở trong tình trạng nguy kịch nhất, nhưng chính phủ quyết liệt không chấp thuận.
Trong bài giảng thánh lễ, sau khi diễn giải ý nghĩa Vương quyền của Chúa Giêsu, Đức Tổng giám mục Gądecki sẽ đề cập đến tình trạng ở biên giới Ba Lan - Belarus, nơi nhiều người di dân đang sống trong rừng chịu đau khổ, giá lạnh và chết chóc. Ngài nói: “Một thảm trạng nhân đạo đang diễn ra trước mắt chúng ta. Những người di dân này là nạn nhân của những trò chơi không thể chấp nhận được trong chính trị quốc tế. Tuy nhiên, dù bối cảnh họ đến đây như thế, chắc chắn họ đang cần sự nâng đỡ của chúng ta về tinh thần cũng như vật chất”.
Đức Tổng giám mục Gądecki nhắc lại rằng ngay từ đầu cuộc khủng hoảng, Caritas Ba Lan, qua các Caritas giáo phận và đại biểu của Hội đồng Giám mục Ba Lan về di dân, đã tìm cách trợ giúp bao nhiêu có thể cho những người di dân ấy. Hiện nay, sự trợ giúp được thực hiện tại các trung tâm dành cho người nước nghèo, hỗ trợ các trạm lính biên phòng nơi có người di dân trú ngụ, với Căn lều Hy vọng do Caritas thiết lập. Số tiền lạc quyên được sẽ dùng vào các hoạt động giúp đỡ người di dân và tị nạn trong cuộc khủng hoảng hiện nay cũng như tiến trình dài hạn giúp người tị nạn nào muốn ở lại Ba Lan hội nhập vào xã hội nước này.
Tin mới nhất cho biết hàng ngàn người di dân từ Belarus tiến tới biên giới Ba Lan với ý định vượt qua để vào nước Đức. Chính phủ Ba Lan đã thiết lập các hàng rào kẽm gai và gửi 12.000 binh sĩ tới để bảo vệ biên giới. Năm nay, đã có 23.000 người nhập cư bất hợp pháp vào Ba Lan từ biên giới phía đông, trong đó có gần một nửa trong tháng Mười vừa qua.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Tiếp kiến chung của Đức Thánh cha: Tiến bước trong Thánh Linh làm cho chúng ta được tự do và vui tươi
Lúc 9 giờ sáng, thứ Tư ngày 10 tháng Mười Một năm 2021, như thường lệ, Đức Thánh cha Phanxicô đã tiếp kiến chung hơn 6.000 tín hữu hành hương, ngồi chật bên trong Đại thính đường Phaolô VI, ở Nội thành Vatican.
Đây là buổi tiếp kiến chung thứ 35 tính từ đầu năm nay.
Sau khi Đức Thánh cha làm dấu thánh giá mở đầu, mọi người nghe đọc một đoạn cuối cùng, trích từ thư thánh Phaolô gửi tín hữu thành Galat (6,9-10.18):
Lắng nghe Lời Chúa
“Anh em, chúng ta đừng mệt mỏi làm điều thiện; thực vậy, nếu chúng ta không nản chí, thì đến thời, chúng ta sẽ được gặt hái. Vậy bao lâu còn cơ hội, chúng ta hãy làm điều thiện đối với tất cả mọi người, nhất là đối với những anh chị em trong đức tin [...]. Nguyện xin Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh chị em tràn đầy ân sủng. Amen”.
Bài huấn giáo
Tiếp đó, Đức Thánh cha trình bày bài thứ 15 và cũng là bài cuối, trong loạt bài giáo lý về thư thánh Phaolô gửi tín hữu Galát. Bài này có tựa đề là: “Chúng ta đừng mệt mỏi làm điều thiện”.
Đức Thánh cha nói: Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Chúng ta đang đi tới chỗ kết thúc các bài giáo lý về thư gửi tín hữu Galat. Lẽ ra, chúng ta có thể suy tư về bao nhiêu điều khác chứa đựng trong thư này của thánh Phaolô! Lời Chúa là một nguồn mạch vô tận. Và thánh Tông đồ, trong thư này đã nói với chúng ta, như một người loan báo Tin mừng, như một nhà thần học và chủ chăn.
Thánh Phaolô
Thánh giám mục Ignatio thành Antiokia có một kiểu diễn tả đẹp, khi ngài viết: “Chỉ có một Thầy duy nhất nói và điều Người nói được thực hiện; nhưng những điều Ngài làm khi thinh lặng đáng là của Chúa Cha. Ai có lời của Chúa Giêsu thì cũng có thể lắng nghe được sự thinh lặng của Người” (Ad Ephesios, 15,1-2). Chúng ta có thể nói rằng thánh Tông đồ Phaolô có khả năng mang lại tiếng nói cho sự thinh lặng ấy. Những trực giác của thánh nhân đặc sắc hơn giúp chúng ta khám phá sự mới mẻ sâu rộng chứa đựng trong mạc khải của Chúa Giêsu Kitô. Ngài thực là một nhà thần học, đã chiêm ngắm mầu nhiệm Chúa Kitô và đã thông truyền với trí thông minh sáng tạo của ngài. Ngài cũng có khả năng thực thi sứ mạng mục tử đối với một cộng đoàn bị lạc hướng và hoang mang. Thánh nhân thực hiện với các phương pháp khác nhau: thỉnh thoảng ngài dùng sự châm biếm, nghiêm khắc, hiền từ. Thánh nhân khẳng định quyền tông đồ, nhưng đồng thời không giấu giếm những yếu đuối về tính tình của mình. Trong con tim của ngài, sức mạnh của Thánh Linh đã thực sự tác động: cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô Phục Sinh đã chinh phục và biến đổi trọn cuộc sống của thánh nhân, và ngài đã xả thân hoàn toàn để phục vụ Tin mừng.
Thánh Phaolô bênh vực tự do
Thánh Phaolô không bao giờ nghĩ đến một thứ Kitô giáo với những nét hòa hoãn, thiếu sự quyết liệt và nghị lực, ngược lại mới là đúng. Ngài đã bảo vệ tự do đã được Chúa Kitô mang lại, với lòng hăng say, làm cảm động cho đến ngày nay, nhất là nếu chúng ta nghĩ đến tất cả những đau khổ và cô đơn thánh nhân phải chịu. Thánh Phaolô xác tín đã nhận được một ơn gọi mà ngài chỉ có thể đáp lại; và ngài đã muốn giải thích cho người Galát rằng họ cũng được kêu gọi đạt tới tự do ấy, tự do giải thoát khỏi mọi hình thức nô lệ, vì tự do ấy làm cho họ trở thành những người thừa hưởng lời hứa xưa kia, và trở thành con cái Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Ý thức về những rủi ro nguy hiểm mà quan niệm như thế về tự do mang theo, thánh Phaolô không bao giờ coi nhẹ các hậu quả. Thánh nhân thẳng thắn quả quyết với các tín hữu rằng tự do không hề có nghĩa là tháo thứ, cũng không dẫn tới những hình thức tự phụ tự mãn. Trái lại, thánh Phaolô đã đặt tự do dưới bóng của tình yêu và đã thiết định việc thi hành nhất quán tự do ấy trong việc phục vụ bác ái. Tất cả quan điểm ấy đã được đặt trong chân trời cuộc sống theo Thánh Linh, Đấng làm cho Lề Luật Chúa ban cho Israel được viên mãn và ngăn cản sự rơi trở lại dưới ách nô lệ của tội lỗi.
Hai thái độ
Vào cuối hành trình giáo lý này, tôi thấy có thể nảy sinh nơi chúng ta hai thái độ. Một đàng, giáo huấn của thánh Tông đồ tạo nên nơi chúng ta sự phấn khởi; chúng ta cảm thấy được thúc đẩy tức khắc đi theo con đường tự do, “tiến bước theo Thần Trí”. Đàng khác, chúng ta ý thức những giới hạn của mình, vì chúng ta cảm nghiệm mỗi ngày thật là cơ cực chừng nào để ngoan ngoãn đối với Thánh Linh, chiều theo hoạt động sinh lợi ích của Chúa. Vì thế, có thể xảy ra sự mệt mỏi ngăn cản sự hăng hái, đôi khi bị gạt ra ngoài lề so với lối sống theo não trạng trần tục. Thánh Augustinô gợi ý về cách thức chống lại tình trạng ấy, nhắc đến giai thoại Tin mừng về bão tố trên hồ. Ngài nói thế này: “Niềm tin Chúa Kitô ở trong tâm hồn bạn cũng như Chúa Kitô đang ở trên thuyền. Khi nghe những lời lăng mạ, bạn mệt mỏi, hoang mang, và Chúa Kitô ngủ. Hãy đánh thức Chúa Kitô, đánh động đức tin của bạn! Thậm chí trong hoang mang xáo trộn ấy, bạn có thể làm được điều gì đó. Hãy đánh thức đức tin của bạn. Xin Chúa Kitô thức dậy và nói với bạn... Vì thế hãy đánh thức Chúa Kitô. Hãy tin điều đã được nói, và sẽ có một niềm an bình lớn trong tâm hồn của bạn” (Discorso 163/B 6). Và đúng như vậy. Chúng ta phải đánh thức Chúa Kitô trong tâm hồn chúng ta và chỉ lúc ấy, chúng ta mới có thể chiêm ngắm những sự việc với cái nhìn của Chúa, vì Chúa nhìn xa hơn bão tố. Qua cái nhìn trong sáng, thanh thản của Ngài, chúng ta có thể nhìn thấy một toàn cảnh, mà một mình, chúng ta chẳng có thể nhận thấy.
Đừng mệt mỏi làm điều thiện
Trong hành trình vất vả nhưng nhiều thích thú này, thánh Tông đồ nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không thể để cho mình bị mệt mỏi khi làm điều thiện. Chúng ta phải tín thác rằng Chúa Thánh Linh luôn đến giúp đỡ trong sự yếu đuối của chúng ta và ban ơn nâng đỡ chúng ta đang cần. Vì thế, chúng ta hãy học cách thường xuyên khẩn cầu hơn Chúa Thánh Linh! Chúng ta có thể làm điều đó bằng những lời đơn sơ, vào những lúc khác nhau trong ngày. Và chúng ta có thể mang theo mình, thí dụ kẹp một cuốn sách Tin mừng bỏ túi, một kinh nguyện đẹp mà Giáo hội vẫn đọc vào ngày lễ Hiện Xuống: “Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến, xin gửi từ trời cao một tia sáng của Chúa, xin hãy đến, hỡi Đấng là Cha những người nghèo, xin hãy đến, Đấng ban các hồng ân, xin hãy đến, Ánh sáng của các tâm hồn! Đấng An ủi tuyệt hảo, khách dịu dàng của tâm hồn, ơn an ủi rất dịu dàng...”. Và tiếp tục như thế, đó là một kinh nguyện rất đẹp. Chúng ta nên đọc thường xuyên. Chúng ta sẽ được giúp đỡ tiến bước trong Thánh Linh, trong tự do và trong vui tươi.
Chào thăm và nhắn nhủ
Bài giáo lý bằng tiếng Ý trên đây của Đức Thánh cha được các linh mục thông dịch, lần lượt tóm lược trong các thứ tiếng khác nhau, kèm theo lời chào thăm của Đức Thánh cha.
Đặc biệt khi chào các tín hữu Ba Lan, Đức Thánh cha nói: “Ngày mai là quốc khánh mừng độc lập của Ba Lan. Trong khi cảm tạ Chúa vì hồng ân tự do, chúng ta hãy nhớ rằng, - như thánh Gioan Phaolô II đã nói,- “tự do này phải được thực hành trên căn bản tình yêu Chúa, yêu tổ quốc và anh chị em” (13-11-2002). “Ngày nay thế giới và Ba Lan đang cần những người có con tim quảng đại, phục vụ trong tinh thần khiêm tốn và yêu thương, chúc phúc thay vì chúc dữ, chinh phục đất với phúc lành” (Sopot 5.6.1999). Tôi cầu chúc mọi người an bình và mọi sự tốt lành, đồng thời phó thác mọi người Ba Lan cho Thiên Chúa. Tôi thành tâm ban phép lành cho anh chị em”.
Với các tín hữu nói tiếng Ý, Đức Thánh cha đặc biệt chào thăm các Hiệp hội giáo sĩ và hiệp hội những nhân viên phụng tự - những người coi phòng thánh nhà thờ. Ngài nói: “Tôi đánh giá cao việc phục vụ của anh chị em, và tôi khuyến khích anh chị em luôn chu toàn với tinh thần nhạy cảm mục vụ... Tôi cũng chào thăm các đại diện của ngành cảnh sát các Trung tâm cải huấn, lính cứu họa và các thực tại công đoàn khác thuộc phân bộ an ninh và quốc phòng: Tôi cầu chúc làm sao để nghề nghiệp của anh chị em được hiểu như một “sứ mạng” cần chu toàn, với khả năng chuyên môn và tinh thần trách nhiệm luân lý”.
Sau cùng, Đức Thánh cha chào thăm những người cao niên, bệnh nhân, người trẻ và các đôi tân hôn. Ngài nhắc đến lễ thánh Lêô Cả Giáo hoàng, Tiến sĩ Hội thánh, đã tận hiến cuộc sống để bảo vệ và phổ biến chân lý Tin mừng. Nhờ sự chuyển cầu của thánh nhân, ước gì anh chị em có thể sống đức tin trong vui tươi và trở thành những chứng nhân thanh thản về tình yêu của Chúa”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Thánh cha ấn định ngày phong hiển thánh cho bảy chân phước
Hôm 09 tháng Mười Một vừa qua, Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết Đức Thánh cha Phanxicô đã ấn định ngày tôn phong hiển thánh cho bảy chân phước, là ngày 15 tháng Năm, năm tới (2022).
Ngày 03 tháng Năm năm nay (2021), Đức Thánh cha đã nhóm công nghị và quyết định tôn phong bảy chân phước lên bậc hiển thánh, nhưng không ấn định ngày tôn phong vì lý do đại dịch và nay ngài mới ấn định ngày (09/11/2021).
Đứng đầu danh sách là chân phước Lazaro Devasahayam, giáo dân tử đạo năm 1752, tại Ấn Độ. Ông sinh năm 1712 và phục vụ trong hoàng gia của Vương quốc Ấn giáo ở Travancore, ngày nay thuộc bang Kerala miền nam Ấn. Năm 1745, khi được 32 tuổi, ông trở lại Công giáo và nhận tên thánh là Lazaro và trong tiếng địa phương, Devasaharam có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi”. Cuộc trở lại của Lazaro Devasaharam gây bất mãn nơi các thủ lãnh tôn giáo địa phương. Họ vu khống ông về tội làm gián điệp, phản bội và sa thải ông. Ông bị cầm tù và bị bắn chết trong rừng, ngày 14 tháng Giêng năm 1752, lúc mới 40 tuổi, bảy năm sau khi theo đạo. Lazaro được phong chân phước năm 2012, 300 năm sau khi sinh ra.
Vị thứ hai là Chân phước linh mục Cesare de Bus, Sáng lập dòng các Linh mục đạo lý đức tin, sinh tại Cavaillon, bên Pháp năm 1544 và qua đời tại Avignon năm 1607, thọ 63 tuổi.
Vị thứ ba là chân phước Linh mục Luigi Maria Palazzolo, Sáng lập Dòng các Nữ tu người nghèo. Cha sinh năm 1827 tại Bergamo, bắc Italia, con út trong tám người con của ông bà Ottavio Palazzo và Teresa Antoine, cả hai đều thuộc gia đình khá giả. Hầu hết trong số tám người con đều qua đời sớm và Luigi mồ côi cha năm lên 10 tuổi. Luigi được mẹ giáo dục chu đáo, đặc biệt về lòng bác ái đối với người nghèo và các bệnh nhân.
Thầy Luigi Palazzolo thụ phong linh mục trong giáo phận Bergamo, năm 1850 lúc mới được 23 tuổi, và được giao phó nhiệm vụ giáo dục các trẻ em bị bỏ rơi. Với thời gian, cha cũng săn sóc cả các trẻ nữ và khởi sự Hội thánh nữ Dorotea, ở khu phố thánh Bernardino đông dân và nghèo. Cha xác tín cần phải có các nữ giáo chức chuyên nghiệp trong việc săn sóc các trẻ nữ, nên năm 1869, cùng với chị Teresa Gabrielli, cha Luigi thành lập Dòng các Nữ tu người nghèo. Cha cũng lập một dòng nam, tên là Dòng Các Tu huynh Thánh Gia, nhưng dòng này chỉ tồn tại đến năm 1928. Cha qua đời năm 1886 tại nhà mẹ của dòng ở Bergamo, thọ 59 tuổi. Cha được Đức Giáo hoàng Gioan XXIII phong chân phước năm 1963.
Vị thứ tư là chân phước Linh mục Giustino Maria Russolillo (1891-1955), sáng lập tu hội cầu cho ơn thiên triệu, ngành nam và ngành nữ. Cha sinh năm 1891, con thứ ba trong một gia đình khiêm hạ có mười người con ở tỉnh Napoli, nam Italia, làm cha sở tại giáo phận này, nổi tiếng về các hoạt động linh hướng và giảng thuyết. Cha qua đời năm 1955, thọ 64 tuổi.
Phép lạ được Bộ Phong thánh nhìn nhận, nhờ sự chuyển cầu của chân phước Russolillo là cuộc khỏi bệnh lạ lùng của một tu huynh dòng cầu cho ơn thiên triệu, người Madagascar, xảy ra tại thành phố Pozzuoli, ngày 21 tháng Tư năm 2016. Hôm đó, người ta tìm thấy thầy nằm trên mặt đất trong phòng, mình đầy máu, bộ máy hô hấp của thầy bị tổn thương trầm trọng, và thầy được đưa vào nhà thương cứu cấp.
Cha giám tỉnh dòng cầu cho ơn thiên triệu mời gọi tất cả anh em cầu nguyện với chân phước Giustino Russolillo, xin cứu chữa cho tu huynh bị thương. Ngày 18 tháng Tư, một tu huynh mang ảnh chân phước có gắn thánh tích và đặt trên mình thầy bị bệnh. Hôm đó, bệnh trạng của thầy vẫn còn rất nặng nhưng đến ngày 21 tháng Tư sau đó, bệnh của thầy được cải tiến đột ngột và tu huynh ra khỏi tình trạng hôn mê, rồi được xuất viện hơn mười ngày sau đó, ngày 03 tháng Năm. Phép lạ này mở đường cho việc phong hiển thánh cho chân phước Russolillo.
Vị thứ năm là chân phước Linh mục Charles de Foucauld, người Pháp, sinh tại Strasbourg năm 1858 và qua đời tại Tamarasset, bên Algérie năm 1916. Sau 30 năm đầu đời sống trong tháo thứ, nhưng sau đó, Charles đã trở lại, say mê tìm Chúa, thụ phong linh mục và sống 13 năm trong một làng người Tuareg ở Tamarasset bên Algérie, cầu nguyện 11 giờ mỗi ngày, chìm đắm trong mầu nhiệm Thánh Thể. Cha tử nạn khi nhà của cha bị cướp phá. Cha được phong chân phước ngày 13 tháng Mười Một năm 2005. Từ linh đạo của cha Charles de Foucauld đã nảy sinh một gia đình thiêng liêng mang tên của cha, gồm các tiểu đệ và tiểu muội Chúa Giêsu.
Thứ sáu là nữ Chân phước Maria Francesca Chúa Giêsu, tục danh Anna Maria Rubatto người Italia, sáng lập Dòng các nữ tu dòng Ba Capuxin, sinh năm 1844 và qua đời năm 1904 tại Montevideo, thủ đô Paraguay, thọ 60 tuổi.
Sau cùng là chân phước Maria Domenica Mantovani (1862-1934) đồng sáng lập dòng tiểu muội Thánh Gia, cùng với chân phước Giuseppe Nascimbeni, cha sở giáo xứ Castelletto o Brenzone. Luật dòng lấy hứng tu luật dòng Ba Phanxicô tại viện. Trước khi qua đời, dòng của chị có 1.200 nữ tu tại 150 nhà. Chị Domenica Mantovani được phong chân phước năm 2003.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Tổ chức Renovabis phê bình Tổng thống Belarus
Tổ chức bác ái Renovabis của Hội đồng Giám mục Đức, chuyên trợ giúp Đông Âu, phê bình Tổng thống Lukaschenko của Belarus lạm dụng những người di dân vô tội để làm cho Liên hiệp Âu châu bị căng thẳng.
Từ 3.000 đến 4.000 người di dân bị chính phủ Belarus dồn tới biên giới Ba Lan khiến họ bị kẹt tại đây, vì không được tiến vào Ba Lan.
Tuyên bố hôm 09 tháng Mười Một vừa qua, tại thành phố Munich, ông Thomas Schwartz, Giám đốc điều hành tổ chức Renovabis, nói rằng: “Belarus đã dùng người di dân và tị nạn để trả đũa các biện pháp trừng phạt của Liên hiệp Âu châu chống Belarus”.
Tại biên giới Belarus - Ba Lan, ngày càng có những vụ đụng độ giữa những người di dân và các lực lượng an ninh Ba Lan bảo vệ biên giới. Ông Thomas Schwatz nói: “Những người di dân không được vào Ba Lan, quốc gia đầu tiên họ tới, hoặc bị đe dọa gửi trả lại Belarus, trái với công pháp quốc tế về người tị nạn”. Cùng với các giám mục Ba Lan, tổ chức Renovabis kêu gọi chính phủ hai nước Belarus và Ba Lan để cho người di dân được cứu giúp.
Hội quốc tế về nhân quyền (IGFM) thì coi việc lạm dụng người di dân, do nhà nước Belarus, là “một tội ác chống lại nhân loại và là một hành vi chiến tranh chống Âu châu”, đồng thời cảnh giác trước viễn tượng một cuộc chiến tranh lạnh mới tại biên giới hai nước Belarus và Ba Lan. Tổ chức nhân quyền này tố giác Tổng thống Lukaschenko bốc những người di dân từ Afghanistan, Irak hoặc Syria, chở họ đến Belarus rồi gửi họ tới biên giới Ba Lan để khuynh đảo Liên hiệp Âu châu. Lukaschenko cố tình chọn cái chết của những người đang tìm kiếm sự giúp đỡ.
Và tổ chức quốc tế về nhân quyền kêu gọi đưa Tổng thống Belarus ra trước tòa án hình sự quốc tế. Ngoài ra, cần phải ngăn cản sự xích lại gần thêm của Belarus với Nga, Tổng thống Vladimir Putin vốn ủng hộ Lukaschenko.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Hồng y Kasper tái phê bình Con đường Công nghị Đức
Đức Hồng y Walter Kasper, người Đức, nguyên Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, tái phê bình những thiếu sót của Con đường Công nghị tại Đức và nói rằng sai sót cơ bản của con đường này là gạt bỏ lời Đức Thánh cha kêu gọi Công nghị này qui trọng tâm vào việc loan báo Tin mừng.
Con đường Công nghị của Công giáo Đức gồm có khoảng 230 tham dự viên, trong đó có 68 giám mục, 69 đại biểu của Ủy ban trung ương giáo dân Công giáo Đức và các đại biểu khác. Công nghị này nhắm cải tổ sâu rộng Giáo hội sau phúc trình những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục trong Công giáo Đức, qua bốn diễn đàn về các thực thi quyền bính trong Giáo hội, luân lý tính dục, đời sống linh mục, và vai trò phụ nữ trong Giáo hội.
Hồi tháng Sáu năm 2019, Đức Thánh cha Phanxicô đã gửi một thư dài 19 trang cho Con đường Công nghị Đức, tha thiết kêu gọi hãy chú tâm đến việc loan báo Tin mừng, đứng trước “sự hao mòn và suy thoái đức tin” ngày càng gia tăng trong xã hội Đức.
Lên tiếng trực tuyến hôm 07 tháng Mười Một vừa qua, tại Ngày học hỏi do nhóm làm việc về nhân học Kitô (Arbeitskreis Christliche Anthropologie), Đức Hồng y Kasper, 88 tuổi, nói rằng “thiếu sót cơ bản của Con đường Công nghị Đức là đã gạt qua một bên lời mời gọi của Đức Giáo hoàng Phanxicô, rằng hãy bắt đầu từ sứ mạng cơ bản loan báo Tin mừng, để rồi đưa các tiêu chuẩn phụ thuộc lên hàng đầu. Xét về mặt hình thức, Con đường này không bãi bỏ chức giám mục, nhưng làm cho nó không còn cốt tính. Nói chung, theo văn bản của Con đường Công nghị Đức, giám mục chẳng khác gì với Chủ tịch một Hội đồng giám sát, được bầu theo nhiệm kỳ và có thể bị loại bỏ bất kỳ lúc nào”.
Đức Hồng y Kasper nhấn mạnh rằng “Văn kiện ‘Quyền bính và sự phân quyền trong Giáo hội” đã sai lầm khi đặt những vấn đề phụ thuộc như “xã hội học, khoa chính trị và nhân văn” lên hàng đầu”. Và Đức Hồng y nhắc nhở rằng: “Các giám mục ngày nay không phải là các tông đồ mới; họ thi hành sứ vụ giám mục trong tư cách là những người kế nhiệm các tông đồ”. Sứ mạng của giám mục làm chứng nhân và trung thành loan báo Tin mừng, không phải là một ơn gọi nhất thời”.
Đức Hồng y Kasper cũng nhận xét rằng Con đường Công nghị Đức toan tính thiết lập một thứ kiểm soát dân chủ về quyền bính trong Giáo hội. Giáo hội có thể học hỏi về chế độ dân chủ, nhưng chỉ theo mức độ trật tự của Giáo hội cho phép. Trong Giáo hội sơ khai, cũng có những yếu tố công nghị, nhưng không được lẫn lộn công nghị của Giáo hội với một nghị viện trong đó các quyết định được thông qua với đa số phiếu. Trái lại, cần phải tìm kiếm sự đồng thuận, được hiểu là một dấu hiệu của Chúa Thánh Linh”.
Con đường Công nghị Đức đã nhóm khóa họp toàn thể thứ hai, từ ngày 30 tháng Chín đến 02 tháng Mười vừa qua, nhưng đã đột ngột kết thúc sau khi bỏ phiếu chấp thuận một văn bản ủng hộ việc chúc lành cho những cặp đồng phái và một cuộc thảo luận về vấn đề chức linh mục còn cần thiết hay không. Khóa thứ ba và cuối cùng dự kiến sẽ tiến hành vào tháng Hai năm tới, với các cuộc bỏ phiếu chung kết.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
ĐHY Parolin thăm Thuỵ Sĩ dịp kỷ niệm 100 năm quan hệ ngoại giao giữa Toà Thánh và Thuỵ Sĩ
Nối lại quan hệ ngoại giao
Từ năm 1586 đến 1873, Đức Giáo hoàng đã có một đặc sứ tại Thuỵ Sĩ, dù rằng vị này chỉ ở Lucerna và chính thức là “người đối thoại” với các bang công giáo. Nhưng quan hệ ngoại giao giữa Thuỵ Sĩ và Toà Thánh bị gián đoạn trong thế kỷ 19 bởi Kulturkampf - cuộc xung đột giữa nhà nước Đức và Giáo hội Công giáo tại Đức và vùng Thuỵ Sĩ nói tiếng Đức. Và vào năm 1920, theo quyết định của Hội đồng Liên bang và sự can thiệp của một số Hồng y, các quan hệ chính thức giữa Toà Thánh và Thuỵ Sĩ đã được thiết lập.
Thêm vào đó, cũng nhờ đại học Fribourg và trên hết là sự hợp tác nhân đạo trong thời Đại chiến, theo đề nghị của Đức Hồng y Léon Amette của Paris, Toà Thánh đã nối lại liên lạc với Thụy Sĩ, với ý định là chữa bệnh cho những người bị thương và bệnh nhân tại Thuỵ Sĩ. Cuối cùng, nhờ Uỷ viên Hội đồng Liên bang Giuseppe Motta - lúc đó là Tổng thống liên bang - Tòa Sứ thần mới đã được mở cửa hoạt động tại Bern.
Ngược lại, về phía Thụy Sĩ, phải đợi đến năm 1991 - sau các cuộc thảo luận giữa Tòa thánh và Đức cha Haas về tình hình ở giáo phận Coira - Hội đồng Liên bang mới quyết định chấm dứt sự đơn phương trong quan hệ ngoại giao bằng việc bổ nhiệm một đại sứ với nhiệm vụ đặc biệt tại Tòa thánh. Cho đến thời điểm đó, các đại diện duy nhất của Thụy Sĩ tại Roma thực tế là Đội Vệ binh Thụy Sĩ.
Viếng đền thánh Đức Mẹ ở Einsiedeln
Chặng đầu tiên trong chuyến viếng thăm của Đức Hồng y Quốc vụ khanh Toà Thánh là đền thánh Đức Mẹ của dòng Biển Đức ở Einsiedeln vào ngày 7/11/2021. Đan viện nằm ở trung tâm của Thuỵ Sĩ và nổi tiếng với “Đức Mẹ Đen”. Thánh Gioan Phaolô II đã thăm nơi này vào ngày 16/6/1984.
Đan viện phụ của đan viện nhấn mạnh: “Einsiedeln kể cho chúng ta nghe về nhiều thế hệ đan sĩ và tín hữu đã tìm thấy nơi nương tựa và sức mạnh mới trong Mẹ của Chúa Giêsu”.
Thăm Flüeli-Ranft
Đức Hồng Y Parolin cũng đến thăm một địa điểm hành hương quan trọng khác ở Thụy Sĩ, đó là Flüeli-Ranft, nơi thánh Nicholas thành Flüe, bổn mạng của Thụy Sĩ, đã sinh sống và làm việc cách đây 550 năm. Nhà huyền bí và ẩn sĩ này được coi là người đối thoại quan trọng về các vấn đề địa chính trị-ngoại giao khi đó. Cách thức của ngài ngày nay vẫn được đánh giá cao như một hình mẫu cho những người kiến tạo hòa bình và có đức tin sâu sắc vào Giáo hội.
Hội nghị 2 ngày
Từ thứ Hai 8/11/2021, tại đại học Fribourg, diễn ra hội nghị kéo dài hai ngày về việc đánh giá lại mối quan hệ ngoại giao mang tính lịch sử. Vào chiều thứ Hai, có buổi giới thiệu cuốn sách “Giáo hoàng và Hội đồng Liên bang: từ sự tan rã năm 1873 đến việc mở lại tòa sứ thần ở Bern vào năm 1920”, của nhà sử học Lorenzo Planzi.
Vào thứ Ba sẽ 9/11/2021, diễn ra hội nghị nghiên cứu “Thụy Sĩ và Tòa Thánh: một lịch sử căng thẳng, từ thời Trung cổ đến cam kết chung về hòa bình”. Các chuyên gia và các nhà nghiên cứu sẽ trình bày về 5 lĩnh vực chuyên đề: “Từ thời Trung cổ đến cải cách”, “Toà Sứ thần tại Lucerne”, “Xã hội học và thần học về sự chung sống giữa các hệ phái Kitô ở Thụy Sĩ”, “Một thế kỷ các mối quan hệ giữa Thụy Sĩ và Tòa Thánh” và, “Ngoại giao và những thách thức hiện nay” trong cuộc thảo luận bàn tròn kết thúc, với sự tham dự của Sứ thần Tòa thánh tại Bern, Đức tổng giám mục Martin Krebs, và Đại sứ Denis Knobel.
Hồng Thủy - Vatican News
Giáo hội Peru tham gia kỷ niệm 200 năm quốc gia được độc lập
Để thực hiện các sáng kiến trên, Hội đồng Giám mục đã thành lập một ủy ban về các hoạt động thúc đẩy sự tham gia của Giáo hội trong việc xây dựng và độc lập của quốc gia. Uỷ ban đã công bố logo của sự kiện, được chọn bởi một ban giám khảo đặc biệt, trong số 53 các đề xuất đến từ khắp nơi trên đất nước.
Logo có hàng chữ “Giáo hội, trái tim của Peru”. Bên cạnh đó là hình ảnh: Đức Trinh Nữ Maria, Thánh giá; đường vòm cung bao quanh, diễn tả 200 năm đức tin đã soi sáng con đường của người dân Peru. Ở dưới cùng là ba biểu tượng đại diện cho ba khu vực của Peru: bờ biển, núi và rừng.
Giáo hội đã tổ chức các sự kiện cho dịp kỷ niệm này, gồm có Đại hội Quốc tế các Nhà Giáo dục Công giáo lần thứ VII, từ ngày 3 đến 5/11, do Văn phòng Quốc gia về Giáo dục Công giáo tổ chức. Từ ngày 8 đến 10/11, Hội nghị các nhà quản lý di sản văn hóa lần thứ VII với chủ đề “Bảo vệ, bảo hộ và phòng ngừa trong việc bảo vệ di sản văn hóa”, được tổ chức bởi Ủy ban Giám mục Giáo dục, Văn hóa và Di sản Văn hóa và Bộ Văn hóa Peru.
“Này bạn trẻ , hãy chỗi dậy! Bạn là ngôn sứ của kỷ niệm 200 năm” là khẩu hiệu của Ngày Giới trẻ Quốc gia đầu tiên của Peru sẽ cử hành từ ngày 19 đến 21/11, với mục đích suy tư và nhìn nhận tầm quan trọng của giới trẻ đất nước dưới ánh sáng của năm độc lập. Đại hội 200 năm độc lập, “Giáo hội, trái tim của Peru”, dự kiến sẽ diễn ra vào tháng 01/2022.
Ngọc Yến - Vatican News
Giáo hội Ba Lan tổ chức lạc quyên giúp người tị nạn đến từ Belarus
Ngày lạc quyên sẽ được tổ chức vào cuối các Thánh lễ trong toàn Giáo hội Ba Lan. Giải thích lý do, Đức tổng giám mục Gadecki nói rằng “Bất kể người di cư đến trong hoàn cảnh nào, họ chắc chắn cần sự hỗ trợ về tinh thần và vật chất của chúng ta. Kể từ khi bắt đầu cuộc khủng hoảng di cư, Giáo hội Ba Lan, trong chừng mực có thể, đã cố gắng giúp đỡ những người đến tị nạn”; nhưng ngài cũng lưu ý rằng “nhu cầu còn lớn hơn nhiều”.
Theo tin tức mới nhất, quân đội Ba Lan đã triển khai thêm 12.000 binh sĩ ở biên giới với Belarus, nhắm tăng cường lực lượng cảnh sát và lính biên phòng, đã hoạt động ở đó. Các bản tin chưa được kiểm chứng vào phút chót cho biết các cơ quan thực thi pháp luật Ba Lan đã sử dụng khí gas để ngăn chặn vài trăm người di cư, chủ yếu đến từ Trung Đông, Iraq và Afghanistan, vượt qua hàng rào thép gai đã được dựng dọc theo biên giới Belarus trong hơn một tháng qua.
Theo Bộ trưởng Quốc phòng Ba Lan Mariusz Blaszczak, những người di cư, trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ vị thành niên, sẽ bị lực lượng bảo vệ có vũ trang của Belarus đẩy về biên giới với Ba Lan. Bà Svjatlána Cichanóŭskaja, nhà bất đồng chính kiến người Belarus và lãnh đạo phe đối lập chống Tổng thống Aljaksandr Lukašėnko, khi lưu ý đến trách nhiệm của tổng thống Belarus hiện tại về “các cuộc tấn công hỗn hợp nhằm vào Ba Lan và Lithuania”, (bà) kêu gọi Liên minh châu Âu và Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc nhanh chóng can thiệp.
NATO đã lên án việc nhà chức trách Belarus “sử dụng người di cư cho các cuộc tấn công hỗn hợp”, trong khi Ủy ban châu Âu bày tỏ quan ngại về “nỗ lực gây bất ổn Liên minh” của chế độ Lukašėnko. (SIR 08/11/2021)
Hồng Thủy - Vatican News