Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Tổng Giám mục Jéronymos II cám ơn “Người Anh Em Giáo hoàng Rôma”
Một “một cảm nghiệm thần bí của tình huynh đệ” trong hành động
Tổng giám mục Jéronymos và Đức Phanxicô tại tòa Sứ thần A-ten © Vatican Media
fr.zenit.org, Anita Bourdin, 2021-12-05
Và nếu ở Hy Lạp “Đức Thánh Cha” thành “Đức Thánh Anh em” được không (Très saint Frère)? Có, đó là từ của Tổng giám mục chính thống giáo A-ten dùng, ngài là người đứng đầu Giáo hội chính thống Hy Lạp. Chiều chúa nhật 5 tháng 12, ngài đã đến thăm Đức Phanxicô tại Tòa sứ thần A-ten.
Đức Phanxicô trở về từ Thính phòng Megaron, nơi ngài vừa cử hành thánh lễ. Tổng giám mục thăm trả lễ Đức Phanxicô vì ngày hôm qua, thứ bảy 4 tháng 12, Đức Phanxicô đã đến tư dinh thăm ngài.
Sau phần trao đổi, với sự giúp đỡ của thông dịch viên, và trước sự chứng kiến của phái đoàn hai bên, các ngài đã ký vào sổ danh dự của Sứ thần.
Tổng giám mục chính thống giáo viết: “Chiều hôm nay, ngày 5 tháng 12 năm 2021, lễ Thánh Saba, phái đoàn chúng tôi và tôi đến để cám ơn Đức Thánh Cha, Đức Thánh Anh Em, Giáo hoàng Phanxicô, đã đến thăm Hy Lạp. Chúng tôi chào ngài và chúc ngài lên đường bình an. Cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng tôi.”
Đức Phanxicô cũng viết vài dòng: “Với niềm vui và bình an, tôi được gặp người anh em yêu quý của tôi là Đức Jeronymos II. Tôi cám ơn ngài vì tình huynh đệ nhân hậu, sự dịu dàng và kiên nhẫn của ngài. Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ân sủng để tiếp tục cùng nhau đi trên con đường huynh đệ và bình an này. Tôi cám ơn Đức Jieronymos II về lòng quảng đại đã giúp chúng tôi cùng bước đi với nhau. Xin Thiên Chúa chúc lành cho hai Giáo hội anh em của chúng ta và xin Mẹ Thiên Chúa phù hộ chúng ta”.
Có vẻ như “cảm nghiệm thần bí của tình huynh đệ” mà Đức Phanxicô kêu gọi đang được thực hiện. Ngày hôm qua, Đức Phanxicô phát biểu trước Thượng hội đồng chính thống giáo: “Thách thức là phát triển một đam mê chung để dẫn chúng ta, người công giáo và chính thống giáo cũng như anh chị em các tín ngưỡng khác lắng nghe nhau, để ước mơ và cùng làm việc chung với nhau, vun trồng cảm nghiệm thần bí trong tình huynh đệ.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
ĐTC từ giã Hy Lạp trở về Roma
Sau cuộc gặp gỡ giới trẻ, Đức Thánh Cha đi ra phi trường Athens để trở về Roma.
Tại phi trường đã diễn ra nghi lễ từ giã. Bộ trưởng Ngoại vụ của Hy Lạp đã đón Đức Thánh Cha tại sảnh VIP và hội kiến riêng với ngài trong ít phút.
Sau đó Đức Thánh Cha đi qua hàng quân danh dự, chào các phái đoàn và bước lên máy bay.
Chiếc máy bay A320neo của hãng hàng không Aegean cất cánh đưa Đức Thánh Cha vượt qua đoạn đường 1.100km, kéo dài hơn 2 giờ bay, trở về Roma.
Ngay sau khi khởi hành, Đức Thánh Cha đã gửi điện văn cho Tổng thống Hy Lạp, Katerina Sakellaropoulou, thông điệp cầu nguyện và chúc lành cho quốc gia và đặc biệt là "lòng biết ơn sâu sắc" về sự tiếp đón nồng nhiệt ngài đã nhận được trong thời gian viếng thăm Hy Lạp.
Trên chuyến bay đã diễn ra cuộc họp báo, như thường lệ, với các nhà báo trên máy bay đã tháp tùng chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha.
Đức Thánh Cha đã kết thúc chuyến tông du thứ 35 tại nước ngoài, với cuộc viếng thăm kéo dài 5 ngày, từ ngày 2-6/12/2021, tại hai nước Sýp và Hy Lạp.
Hồng Thủy - Vatican News
Những hoạt động cuối cùng của Đức Thánh cha tại Hy Lạp
Sáng thứ Hai, ngày 06 tháng Mười Hai năm 2021 là ngày chót trong ba ngày viếng thăm của Đức Thánh cha Phanxicô tại Hy Lạp.
Ban sáng, lúc 7 giờ, Đức Thánh cha cử hành thánh lễ riêng tại nguyện đường Tòa Sứ thần Tòa Thánh, và lúc 8 giờ 15, ngài tiếp kiến Chủ tịch Quốc hội Hy Lạp, ông Konstantinos Tasoulas.
Ông năm nay 62 tuổi, nguyên là một luật gia và làm đại biểu quốc hội từ hơn 20 năm nay. Ông cũng từng làm thứ trưởng quốc phòng Hy Lạp, Bộ trưởng Văn hóa và thể thao. Từ hai năm nay ông là Chủ tịch quốc hội.
Tiếp đến, Đức Thánh cha giã từ các nhân viên Tòa Sứ thần, cám ơn các ân nhân đã hỗ trợ việc tổ chức chuyến viếng thăm của ngài, rồi tới trường thánh Dionigi của các nữ tu dòng Ursuline ở Maroussi, ngoại ô Athènes, cách đó 9 cây số, để gặp gỡ giới trẻ tại Hội trường, từ lúc gần 10 giờ.
Đức Thánh cha gặp gỡ giới trẻ Công giáo tại Hy Lạp
Các nữ tu dòng thánh Ursuline đến Hy Lạp lần đầu tiên cách đây 350 năm (1670) và định cư tại thành Naxos, nơi các chị lập một trường học và một lưu xá. Đó là trường ngoại quốc đầu tiên được thành lập tại Hy Lạp.
Trong thế kỷ XIX, các chị mở thêm trường ở đảo Tinos và đến năm 1947, các chị định cư ở thủ đô Athènes. Đến năm 1959, các chị di chuyển về đường Psychiko và tại đây hiện có trường Mỹ, trường tiểu học thánh Dionigi và một trường mẫu giáo quốc tế. Số học sinh gia tăng nên năm 1962, các nữ tu tậu một khu nhà ở vùng Maroussi, ngoại ô phía bắc của Athènes.
Khi Đức Thánh cha đến đây vào lúc gần 10 giờ, ngài được các nữ tu và các học sinh chào đón nồng nhiệt. Khi ngài tiến vào nơi gặp gỡ, là Hội trường đa dụng, nơi đây cũng là một sân chơi bóng rổ. Hiện diện tại đây có gần 100 người trẻ, cùng với một ca đoàn học sinh của trường Ursuline.
Chào mừng Đức Thánh cha
Trong lời chào mừng Đức Thánh cha, linh mục đặc trách mục vụ giới trẻ Công giáo Hy Lạp cho biết các bạn trẻ nam nữ hiện diện vui mừng và phấn khởi chào mừng Đức Thánh cha. Họ đến đây từ mọi góc trời của Hy Lạp và bằng mọi phương tiện để thấy và nghe Đức Thánh cha, và để tiếp tục với một đà tiến mới trong hành trình đức tin của họ.
Cha cũng nói rằng: Tại Hy Lạp, các tín hữu Công giáo chỉ là một đoàn chiên nhỏ bé bị phân tán trong các cộng đoàn bé nhỏ, và một số bạn trẻ sống và học hành tại các thành phố, không có cộng đoàn Công giáo nào nâng đỡ. Kinh nghiệm về các cuộc gặp gỡ giới trẻ liên Hy Lạp và cả Ngày Quốc tế giới trẻ nâng đỡ sự hăng say và giúp họ nuôi dưỡng ý thức rằng họ đang ở trên hành trình đức tin cùng với các bạn trẻ toàn thế giới và trong tình hiệp thông với toàn thể Giáo hội.
Các chứng từ
Tiếp đến, xen kẽ giữa những điệu vũ và bài ca, Đức Thánh cha và mọi người đã nghe chứng từ của vài bạn trẻ.
Trước tiên là cô Ioanna Vidali, 26 tuổi, người Hy Lạp thuộc giáo phận Tinos, đã học về xã hội học, nhưng hiện đang hành nghề làm bánh ngọt, một hoạt động mà cô yêu thích và thấy có nhiều cơ hội sáng tác. Cô thuộc một gia đình sùng đạo, được mẹ và bà nội giáo huấn về đức tin, và lớn lên được một nữ tu dòng Ursuline nâng đỡ, giúp cô ý thức về niềm vui cho đi và liên đới.
Nhưng khi chuẩn bị vào đại học, Ioanna trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin, bắt đầu sợ Thiên Chúa và nghi ngờ về hành trình đức tin của mình. Thế nhưng một đêm kia, trong tình trạng căng thẳng xuống tinh thần, và định rời bỏ đức tin, trong giấc mơ, cô Ioanna thấy một hình người giống Chúa Kitô, thanh thản và tươi cười, chào cô từ xa xa. Cô do dự và đến gần, Chúa nói: “Dù con có làm ngơ không biết Cha, đối với Cha đó không phải là điều quan trọng, Cha chỉ cần hiện diện đối với tất cả những người tin là Cha hiện hữu, vậy là đủ rồi”.
Cô Ioanna cho biết từ lúc đó, đức tin của cô được củng cố và đón nhận sự cao cả của tình yêu Chúa. Chúa đã cho cô sai lầm, và đã làm cho cô tìm được nhiều câu trả lời. Cô tỉnh dậy và ngày hôm sau đã thuật lại cho một trong các cô giáo của cô và hôm nay, đây là lần đầu tiên cô kể lại với Đức Thánh cha và mọi người.
Cô cũng cho biết từ đó cô gắng giúp đỡ các bạn trẻ khác khám phá sự cao cả của Thiên Chúa.
Chứng từ thứ hai là của cô Katerina Binibini, người Philippines. Cô cho biết cô bị thử thách về đức tin mỗi khi thấy những người chịu đau khổ vì những hành động xấu của những người khác. Và mỗi khi cô nói chuyện với những người trẻ cùng lứa tuổi, họ hỏi cô về đức tin, nhưng cô không biết trả lời thế nào. Họ nói: “Nếu có Thiên Chúa thì tại sao Chúa cho phép bao nhiêu sự ác và đau khổ trên thế giới như thế?”. Có những lúc cô gặp những người hảo tâm, nhưng họ không có đức tin. Từ đó cô tự hỏi: tại sao tôi phải tin để được coi là người tốt lành. Nhiều khi cô tức bực và ghen tương khi thấy những người không tin tưởng, nhưng dường như họ không chịu đau khổ và không có vấn đề, trong khi cô là tín hữu Kitô mà lại liên tục cảm thấy bị thử thách.
Trong thời đại dịch, đức tin của cô Katerina được củng cố. Cộng đoàn của cô bị mất một người rất được cộng đoàn quí mến, cũng là người hướng dẫn cộng đoàn, đó là nữ tu Emma. Nhưng cô không nghĩ đó là lỗi của Thiên Chúa vì chị Emma qua đời như vậy, trái lại nhờ đó cô có thể suy nghĩ và nói với Chúa trong một bầu không khí an bình. Cô thấy Chúa bảo vệ gia đình và tất cả những người chung quanh cô. Và cô không còn ghen tương với những người được đặc ân hơn cô. Cô biết ơn vì trong những khó khăn, Chúa đã soi sáng cho cô thực hiện những điều quan trọng nhất trong cuộc sống. Nhờ đó cô đã tìm lại được an ủi trong Kinh thánh và hiểu dễ dàng hơn tình thương của Chúa đối với cô.
Chứng từ thư ba là của anh Aboud Babro, gốc Syria 18 tuổi, có em trai 12 tuổi đi kèm. Gia đình anh ở thành Aleppo bị thảm cảnh chiến tranh, chịu mọi thiếu thốn và năm 2012, anh quyết định rời bỏ Syria sau khi đạn pháo rơi trúng phòng ngủ của cha mẹ anh, nhưng may mắn cả gia đình thoát nạn.
Aboud vượt biên, sau khi hai lần làm đơn xin nhập cảnh tại đại sứ quán Hy Lạp tại Liban và Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng đều bị từ chối, vì thế anh phải vượt biên và đến Hy Lạp vào năm 2020. Tại đây anh được người chú và các nữ tu dòng thanh Giuse giúp đỡ lập lại cuộc đời. Hiện anh đang học năm thứ ba trung học cấp hai.
Huấn từ của Đức Thánh cha
Trong huấn từ, Đức Thánh cha lần lượt dựa vào những chứng từ của các bạn trẻ để đưa ra những nhận xét và kèm theo những lời nhắn nhủ.
Ngờ vực về đức tin
Đi từ những nghi ngờ về đức tin như được trình bày trong hai chứng từ, Đức Thánh cha mời gọi các bạn trẻ đừng sợ những ngờ vực về đức tin. Đó không phải là những thiếu sót về đức tin, trái lại những nghi ngờ là “vitamin” của đức tin, giúp củng cố và làm cho đức tin trở nên vững mạnh hơn, nghĩa là ý thức, tự do và trưởng thành hơn. Những nghi ngờ làm cho ta sẵn sàng hơn lên đường, tiến bước trong khiêm tốn, ngày qua ngày. Đức tin chính là một hành trình hằng ngày với Chúa Giêsu, Chúa cầm tay và đồng hành với chúng ta, khích lệ chúng ta, và khi chúng ta ngã, Chúa nâng chúng ta dậy. Đó là một thứ chuyện tình, trong đó ta cùng nhau tiến bước, ngày qua ngày.
Ơn tha thứ
Đức Thánh cha cũng mời gọi các bạn trẻ ngạc nhiên về ơn tha thứ của Chúa. Trong sự ngạc nhiên ấy, chúng ta tìm được khuôn mặt của Chúa Cha và an bình nội tâm. Chúa nâng chúng ta trỗi dây và đổ tình thương của Ngài, vòng tay nâng chúng ta lên, phá tan sự ác đã phạm và làm cho sự đẹp đẽ tái rạng ngời trong chúng ta, làm nổi bật thân phận chúng ta là những người con được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương. Đức Thánh cha nhấn mạnh rằng: “Chúng ta đừng để cho sự lười biếng, sợ hãi hoặc tủi hổ cướp mất kho tàng ơn tha thứ. Chúng ta hãy để cho mình ngạc nhiên về tình thương của Thiên Chúa!”
Niềm vui phục vụ
Từ chứng từ của cô Ioanna về những người khác trong hành trình đức tin của cô: một nữ tu đã tỏ cho cô thấy niềm vui khi coi cuộc sống như một việc phục vụ, Đức Thánh cha nói: đúng vậy, phục vụ tha nhân là con đường để chinh phục niềm vui. Xả thân giúp người khác không phải là người đang bị mất mát, nhưng là những người chiến thắng, đó là con đường để thực hiện một cái gì đó thực sự là mới trong lịch sử.
“Các bạn muốn làm cái gì đó mới mẻ trong cuộc sống ư? Các bạn muốn tái trẻ trung ư? Đừng hài lòng với việc công bố vài post hay vài tweet trên mạng. Đừng hài lòng với những cuộc gặp gỡ tiềm thể, trực tuyến, nhưng hãy tìm những cuộc gặp gỡ thực sự, nhất là với những người đang cần bạn. Đó là điều đặc sắc và cách mạng. Bao nhiêu người ngày nay ở trên mạng xã hội mà lại ít xã hội: họ khép kín nơi mình, là tù nhân của điện thoại họ cầm ở tay. Nhưng trên màn hình lại thiếu người khác, thiếu những đôi mắt, hơi thở, đôi bàn tay. Màn hình dễ trở thành một tấm gương nơi ta tưởng đang đứng trước thế giới, nhưng trong thực tế, bạn cô độc, trong một thế giới tiềm thể đầy những vẻ bề ngoài, đầy những hình ảnh được sửa đổi và tô điểm để luôn có vẻ đẹp hơn và tươi trẻ hơn. Trái lại, thật là đẹp khi ở với những người khác, khám phá sự mới mẻ của tha nhân!
Cầu nguyện
Sau huấn từ của Đức Thánh cha, các bạn trẻ còn cùng nhau dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện, nói lên những âu lo của họ trước sự ác, và họ cầu xin Chúa giúp họ đón nhận mọi cơ hội để tăng trưởng trong tình thương, để có thể tha thứ cho anh chị em. Họ cũng cầu nguyện cho sự hiệp nhất của các Giáo hội, đồng thời cầu xin Chúa giúp các cộng đoàn bé nhỏ tại Hy Lạp được củng cố trong tình huynh đệ và hiệp nhất.
Sau khi Đức Thánh cha ban phép lành kết thúc, một nhóm năm bạn trẻ đã tặng Đức Thánh cha một cây kiểng, và ngài cũng tặng lại cho họ những hộp tràng hạt.
Cuộc gặp gỡ kết thúc lúc gần 11 giờ, giờ địa phương, và liền đó Đức Thánh cha ra phi trường quốc tế Athènes, cách đó gần 30 cây số. Tại đây, có nghi thức tiễn biệt đơn sơn với sự hiện diện của Ngoại trưởng Hy Lạp.
Máy bay Airbus 320 của hãng Aegean chở Đức Thánh cha và đoàn tùy tùng về tới phi trường Ciampino ở Roma khoảng 12 giờ 30 trưa, kết thúc tốt đẹp chuyến tông du thứ 35 của ngài tại nước ngoài.
Trên đường về, như thường lệ, Đức Thánh cha ghé lại Đền thờ Đức Bà Cả để cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ là “phần rỗi của dân Roma”, cảm tạ Mẹ Thiên Chúa vì ơn phù trợ trong cuộc viếng thăm vừa qua.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Thánh cha họp báo trên máy bay từ Hy Lạp về Roma
Trên chuyến bay dài hai tiếng đồng hồ từ thủ đô Athènes của Hy Lạp về Roma, sáng ngày 06 tháng Mười Hai năm 2021, Đức Thánh cha Phanxicô đã trả lời một số câu hỏi của các ký giả cùng đi, về một số vấn đề thời sự, như: di dân, tương quan thân hữu với Chính thống, văn kiện của Liên hiệp Âu châu về lễ Giáng sinh, và cả vụ Đức Tổng giám mục Giáo phận Paris từ chức.
Về tương quan với Chính thống Nga, Đức Thánh cha tiết lộ rằng đang có dự án cuộc gặp gỡ lần thứ hai, giữa ngài và Đức Thượng phụ Kirill, Giáo chủ Chính thống Nga. Đức Thánh cha nói: “Một cuộc gặp gỡ với Đức Thượng phụ Kirill đang ở chân trời không quá xa. Tôi nghĩ rằng tuần tới đây, Đức Tổng giám mục Hilarion (Chủ tịch Hội đồng ngoại vụ của Giáo hội Chính thống Nga) sẽ đến gặp tôi để thỏa thuận về một cuộc gặp gỡ có thể xảy ra. Có lẽ Đức Thượng phụ sẽ đi Phần Lan, và tôi thì sẵn sàng đến Mascơva để đối thoại với một người anh em. Không có thủ tục để đối thoại với một người anh em Chính thống tên là Kirill, Crysostomos (Giáo chủ Chính thống Cipro), Hieronymos (Giáo chủ Chính thống Hy Lạp) ...
Về vụ Đức Tổng giám mục Michel Aupetit, Tổng giám mục Paris, từ chức và Đức Thánh cha đã nhận đơn hôm 02 tháng Mười Hai vừa qua, nữ ký giả người Pháp hỏi: tại sao Đức Thánh cha vội vã nhận đơn từ chức như vậy?
Đức Thánh cha cho biết Đức Tổng giám mục là nạn nhân của những vụ “nói xấu nói hành” đến độ không thể tiếp tục cai quản giáo phận nữa. Ngài nói: “Tôi tự hỏi Đức cha ấy đã làm điều gì nặng đến độ phải từ chức? Có ai trả lời được cho tôi, Đức cha đã làm gì? Nếu chúng ta không biết lời cáo buộc thì chúng ta không thể kết án... Trước khi trả lời câu hỏi của bà, tôi nói rằng: ‘Quí vị hãy làm cuộc điều tra đi, vì thật là nguy hiểm khi nói rằng: Đức cha đã bị kết án. Ai kết án? Dư luận, hay là những chuyện tầm phào nói hành nói xấu. Chúng tôi không biết. Nếu quí vị biết thì hãy nói, chẳng vậy tôi không thể trả lời. Và quí vị cũng không biết đó là một sự sai lỗi của Đức cha, một sự thiếu sót nghịch điều răn thứ sáu, vuốt ve bà thư ký, đó là lời cáo buộc. Nhưng đây không phải là một tội nặng, đó là tội nhưng không phải là một trong những tội nặng, vì những tội xác thịt không phải là những tội nặng nhất. Những tội nặng nhất là tội có vẻ là ‘thiên thần’: tội kiêu ngạo, oán ghét.
“Như thế Đức cha Aupetit là người có tội, cũng như tôi là kẻ tội lỗi, và có lẽ cả thánh Phêrô nữa, là vị giám mục mà Chúa Giêsu đã thiết lập Giáo hội của Ngài trên đó. Hồi đó, cộng đoàn đã chấp nhận một giám mục tội lỗi, tội chối Chúa Kitô! Ta thấy ngày nay Giáo hội chúng ta không quen có một giám mục tội nhân, chúng ta giả bộ nói rằng giám mục của tôi là một vị thánh... Không phải vậy, tất cả chúng ta đều là người tội lỗi. Nhưng khi những chuyện nói xấu gia tăng, gia tăng, thì làm mất thanh danh của một người, người ấy không thể cai quản, vì đã mất thanh danh, không phải vì tội của người ấy - cũng như tội thánh Phêrô, hay của tôi - nhưng vì sự nói hành nói xấu của người ta. Vì thế, tôi đã chấp nhận sự từ chức của Đức cha Aupetit, không phải vì Đức cha có tội, nhưng vì sự giả hình của người ta, làm cho Đức cha bị mất thanh danh, không thể tiếp tục cai quản giáo phận nữa.”
Về Phúc trình của Ủy ban Sauvé về những vụ lạm dụng tính dục trong Giáo hội Công giáo Pháp trong 70 năm qua, Đức Thánh cha cho biết ngài không đọc phúc trình này, và chỉ nghe những bình luận của các giám mục Pháp. Các giám mục Pháp sẽ đến gặp ngài trong tháng này và ngài sẽ yêu cầu các vị giải thích.
Và Đức Thánh cha nhấn mạnh rằng “cần phải giải thích và thẩm định Phúc trình Sauvé theo quan niệm thời đó, chứ không phải với quan điểm của chúng ta ngày nay. Cũng như với chế độ nô lệ: Ngày nay chúng ta gọi nô lệ là một sự tàn bạo. Những vụ lạm dụng cách đây 70 năm hoặc 100 năm là một sự tàn bạo. Nhưng cách thức người ta sống thời đó khác với ngày nay. Ví dụ, trong trường hợp những vụ lạm dụng, trong Giáo hội thời ấy có thái độ che đậy. Nhưng đó là thái độ người ta còn áp dụng trong phần lớn các gia đình và các khu phố ngày nay. Bây giờ chúng ta nói: không được che đậy những vụ lạm dụng. Nhưng cần luôn giải thích chúng theo thông diễn học (ermeneutica) của thời đó, chứ không phải theo quan niệm thời nay của chúng ta.
Trả lời câu hỏi của một ký giả về văn kiện mới đây của Ủy ban bình quyền của Liên hiệp Âu châu đề nghị bãi bỏ việc dùng từ lễ Giáng sinh và thay thế bằng thành ngữ “lễ cuối năm”, Đức Thánh cha nói đó là một lập trường “lỗi thời”. “Trong lịch sử cũng có nhiều chế độ độc tài tìm cách làm như thế, như Napoléon, hoặc chế độ Đức quốc xã, chế độ cộng sản. Đó là một thứ “chủ trương duy đời” (laicisme) theo kiểu “thuốc viên bọc đường”, đó là điều không ổn trong lịch sử.
Trong chiều hướng này, Đức Thánh cha kêu gọi Liên hiệp Âu châu hãy tôn trọng ý hướng của các vị khởi xướng Liên hiệp và tránh mở đường cho một sự “thực dân hóa ý thức hệ”, vì thái độ này có thể gây chia rẽ giữa các quốc gia thành viên và làm cho Liên hiệp Âu châu thất bại. Liên hiệp phải tôn trọng mỗi nước có cơ cấu riêng, những sắc thái riêng, cởi mở đối với những nước khác và đừng muốn đồng nhất hóa.
Trả lời câu hỏi về vấn đề di dân ở Âu châu, Đức Thánh cha khẳng định rằng chính phủ mỗi nước phải nói rõ “chúng tôi có thể nhận bao nhiêu người di dân. Đó là quyền của họ. Nhưng dầu sao những người di dân cần được đón nhận, đồng hành, thăng tiến và hội nhập. Nếu một chính phủ không thể đón nhận nhiều hơn một con số nào đó, thì phải đối thoại với các nước khác, chăm sóc lẫn nhau. Vì thế, Liên hiệp Âu châu có vai trò quan trọng cả trong vấn để này, vì có thể thực hiện được một sự hòa hợp giữa tất cả các nước về sự phân phối người di dân. Hiện nay không có sự hòa hợp giữa tất cả các nước, họ đẩy người di dân đi đây, đi đó, thiếu sự hòa hợp chung”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVAĐức Thượng phụ Pizzaballa ca ngợi cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha tại Cipro
Đức Thượng phụ Pizzaballa, chủ chăn của các tín hữu Công giáo Latinh ở đảo Cipro, nhận định rằng cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha Phanxicô, từ ngày 02 đến 04 tháng Mười Hai vừa qua tại đảo này mang lại an ủi và khích lệ cho toàn thể cộng đoàn Công giáo tại địa phương.
Đức Pizzaballa cũng là chủ chăn của các tín hữu Công giáo Latinh ở Thánh địa và Vương quốc Giordani. Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, hôm 04 tháng Mười Hai vừa qua, ngài nói: “Cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha tại Cipro thực là một dấu hiệu khích lệ rất tích cực. Những lời của Đức Thánh cha chống lại những bức tường và chia cách ở Cipro cũng rất can đảm”.
Trong huấn từ tại buổi cầu nguyện đại kết với những người di dân tại thủ đô Nicosia của Cipro, ngài tố giác những hàng rào kẽm gai và các trại tị nạn. Đức Thượng phụ nói: “Đây là những vết thương còn mở toang và sẽ còn tiếp tục như thế, và rất tiếc chúng ta không có ảo tưởng gì về vấn đề này. Nhưng tôi nghĩ thật là điều can đảm khi Đức Giáo hoàng nói lên điều đó. Sự kiện là những hàng rào kẽm gai ấy là một sự lăng mạ đối với nhân loại và thường người ta không nói như vậy. Mỗi chia cắt hoặc mỗi hàng rào là một dấu hiệu sợ hãi, thiếu viễn tượng, thiếu hy vọng và thiếu cái nhìn về tương lai”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Sứ thần Toà Thánh tại Liên minh châu Âu qua đời vì Covid-19
Nhiều sứ điệp chia buồn trước cái chết của Đức tổng giám mục Giordano.
Đức tổng giám mục Giordano sinh năm 1954 và chịu chức linh mục năm 1979. Sau khi đậu cử nhân thần học và cử nhân triết, từ năm 1982-1996 ngài là giáo sư triết học tại học viện thần học liên giáo phận và trường Khoa học tôn giáo của Fossano. Năm 1995 ngài được bầu làm Tổng Thư ký của Hội đồng giám mục Liên minh châu Âu và chuyển đến trụ sở tại Thuỵ Sĩ. Ngài phục vụ trong trách nhiệm này 13 năm.
Năm 2008, ngài được bổ nhiệm làm Quan sát viên Thường trực của Tòa thánh tại Hội đồng Châu Âu ở Strasbourg. Năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đặt ngài làm Sứ thần Tòa Thánh tại Venezuela, và ngài được tấn phong giám mục vào tháng 12 cùng năm. Cuối cùng, vào tháng 5 năm nay, Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm ngài làm đại diện Toà Thánh tại Liên minh châu Âu. (SIR 02/12/2021)
Hồng Thủy - Vatican News
Thánh lễ tại Thính phòng Megaron
Thính phòng Megaron
Thính phòng Megaron được coi là di sản văn hóa quốc gia, ngôi đền của âm nhạc và các hoạt động văn hóa, giáo dục của thủ đô Hy Lạp. Tọa lạc trên đại lộ Vasilissis Sofias, ra đời vào những năm 70 từ ý tưởng của một số trí thức khai sáng như Alexandra Trianti và Christos Lambrakis. Nhờ sự giúp đỡ của một số nhà tài trợ, trong đó có nhà soạn nhạc và nhạc trưởng, Dimitris Mitropoulos, thính phòng được giao cho các kiến trúc sư và kỹ sư giỏi nhất của Hy Lạp và châu Âu chuyên về âm học. Thính phòng được khánh thành vào năm 1991 bởi Tổng thống Cộng hòa Kōnstantinos Karamanlīs, và được mở rộng dần với các phòng đa chức năng, không gian ngoài trời cho các hoạt động văn hóa, một thư viện âm nhạc uy tín với khoảng 10.000 bản ghi âm của các nhà soạn nhạc, các bộ sưu tập âm nhạc truyền thống và quý hiếm, một trung tâm quốc tế cho Hội nghị, phòng diễn tập và ghi âm, và không gian triển lãm. Ở thính phòng này, âm nhạc cổ điển và opera là lĩnh vực chính, được lồng ghép bởi thế giới đương đại của các nghệ sĩ từ khắp nơi trên thế giới, kết hợp với sân khấu, điện ảnh, khiêu vũ. Dàn nhạc ở nơi cư trú, Dàn nhạc Quốc gia Athen.
Thánh lễ
Tại Thính phòng Megaron, Đức Thánh Cha cử hành Thánh lễ theo phụng vụ Chúa nhật II Mùa Vọng. Nghi thức Thánh lễ bằng tiếng latinh, hai bài đọc và Tin Mừng bằng tiếng Hy Lạp.
Sau đây là bài giảng của Đức Thánh Cha:
Vào Chúa nhật thứ hai Mùa Vọng này, Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt của Thánh Gioan Tẩy Giả. Tin Mừng nhấn mạnh hai điều quan trọng: nơi Gioan hiện diện, đó là hoang địa, và nội dung sứ điệp của Thánh Gioan, đó là sám hối. Hoang địa và sám hối: Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh nhiều lần những lời này để làm cho chúng ta hiểu rằng những lời này liên quan trực tiếp đến chúng ta. Chúng ta hãy đón nhận cả hai.
Chúa đến không theo cách con người nghĩ
Hoang địa. Thánh sử Luca giới thiệu nơi này một cách cụ thể. Ngài nói về những hoàn cảnh trang trọng và những nhân vật vĩ đại của thời đó. Ngài đề cập đến năm thứ 15 của hoàng đế Tibêriô, tổng trấn Phongxiô Philatô, vua Hêrôđê và các “nhà lãnh đạo chính trị” khác của thời đó. Sau đó, Thánh Luca nhắc đến những vị lãnh đạo tôn giáo Khanan và Caipha, những người đang phục vụ Đền thờ Giêrusalem (Lc 3,1-2). Đến đây, Thánh Luca tuyên bố: “Lời Thiên Chúa phán cùng ông Gioan trong sa mạc” (Lc 3,2). Nhưng Lời đó đến bằng cách nào? Chúng ta đã mong đợi Lời Chúa sẽ được nói với một trong những nhân vật nổi danh vừa được kể đến. Thay vào đó, một điều trớ trêu tinh tế xuất hiện nơi những dòng Tin Mừng: từ vị trí trên cao của những người quyền bính, lại bất ngờ xuất hiện trong hoang địa một người vô danh, đơn độc. Thiên Chúa làm chúng ta ngạc nhiên. Đường lối Người làm chúng ta ngạc nhiên vì nó khác với sự mong đợi của con người chúng ta; chúng không phản ánh sức mạnh và sự vĩ đại mà chúng ta dựa vào. Thiên Chúa ưa thích sự nhỏ bé và khiêm nhường. Ơn cứu độ không bắt đầu từ Giêrusalem, Athens hay Roma, nhưng trong hoang địa. Cách tiếp cận nghịch lý này mang đến cho chúng ta một thông điệp rất đẹp: quyền bính, học thức và nổi tiếng không có gì bảo đảm làm đẹp lòng Chúa, vì những điều này có thể dẫn đến kiêu ngạo và từ chối Người. Thay vào đó, cần phải có cái nghèo nội tâm, nghèo như hoang địa.
Chúa đến với chúng ta trong những lúc thử thách
Chúng ta hãy suy nghĩ thêm về nghịch lý của hoang địa. Gioan Tẩy Giả - Vị Tiền hô - chuẩn bị sự xuất hiện của Đấng Kitô tại một nơi khó tiếp cận và đầy nguy hiểm. Ngày nay, nếu ai đó muốn đưa ra một loan báo quan trọng, người này thường đến những địa điểm ấn tượng, nơi có nhiều người, nơi có thể được nhìn thấy rõ. Trái lại, Gioan rao giảng trong hoang địa. Chính ở nơi đó, nơi khô cằn, trong không gian trống vắng và nơi hầu như không có sự sống, ở đó vinh quang của Chúa được tỏ bày, như lời Kinh Thánh đã tiên báo (Is 40, 3-4), Thiên Chúa biến hoang địa thành hồ ao, đất khô cằn thành mạch nước dồi dào (Is 41,18). Và một thông điệp đáng khích lệ khác: Thiên Chúa, nay cũng như xưa, hướng mắt nhìn đến bất cứ nơi nào có nhiều nỗi buồn và cô đơn. Chúng ta có thể trải nghiệm điều đó trong cuộc sống. Chúa thường không đến được với chúng ta khi chúng ta đang ở giữa những tiếng vỗ tay và chỉ nghĩ đến mình, nhưng Chúa đến với chúng ta trong những lúc thử thách. Người đến thăm chúng ta trong những hoàn cảnh khó khăn, lấp đầy khoảng trống nội tâm của chúng ta khi chúng ta để chỗ cho Người, trong những sa mạc hiện sinh của chúng ta.
Sa mạc tâm hồn là nơi Chúa tỏ hiện
Anh chị em thân mến, trong cuộc sống của chúng ta với tư cách là cá nhân hay quốc gia, không thiếu những giây phút chúng ta có cảm tưởng như đang ở trong sa mạc. Và đây chính là nơi Thiên Chúa tỏ hiện. Chúa thường không đến với những ai cảm thấy mình thành công, nhưng đến với những người cảm thấy mình không thể làm gì được. Và Người đến với những lời gần gũi, trắc ẩn và dịu dàng: “Đừng sợ hãi: có Ta ở với ngươi. Đừng nhớn nhác: Ta là Thiên Chúa của ngươi. Ta cho ngươi vững mạnh, Ta lại còn trợ giúp với tay hữu toàn thắng của Ta"(Is 41, 10). Bằng cách rao giảng trong sa mạc, Thánh Gioan đảm bảo với chúng ta rằng Chúa đến để giải thoát chúng ta và ban lại sự sống cho chúng ta trong những hoàn cảnh tưởng chừng như không thể cứu vãn, không có lối thoát. Do đó, không có nơi nào mà Chúa không muốn đến viếng thăm. Và hôm nay chúng ta không thể không cảm nhận niềm vui khi thấy Người chọn sa mạc, để đến với chúng ta trong sự nhỏ bé của chúng ta để yêu thương, và trong sự khô cằn của chúng ta để làm dịu cơn khát! Anh chị em thân mến, đừng sợ sự nhỏ bé, vì nhỏ bé không phải là vấn đề, miễn là chúng ta mở lòng với Chúa và với tha nhân. Và đừng sợ sự khô khan, bởi vì Thiên Chúa không sợ điều này, ở đó, trong sự khô khan Chúa đến thăm chúng ta.
Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang điều thứ hai, sám hối. Thánh Gioan Tẩy Giả đã rao giảng điều đó không ngừng và với cung giọng mạnh mẽ (Lc 3, 7). Đây cũng là một chủ đề “khó chịu”. Cũng như sa mạc không phải là nơi đầu tiên chúng ta muốn đến, thì lời mời sám hối chắc chắn không phải là lời đề nghị đầu tiên mà chúng ta muốn nghe. Nói về sám hối có thể khơi dậy nỗi buồn; nó dường như khó hòa hợp với Tin Mừng của niềm vui. Nhưng điều này xảy ra khi chúng ta cho rằng sám hối đơn giản chỉ sự phấn đấu của chúng ta để nên hoàn thiện về mặt đạo đức, như thể đó là điều chúng ta có thể đạt được nhờ nỗ lực của chính chúng ta. Vấn đề nằm ở chỗ: chúng ta nghĩ mọi thứ tuỳ thuộc vào chúng ta. Và điều này dẫn đến nỗi buồn và thất vọng tinh thần. Vì chúng ta muốn sám hối, trở nên tốt hơn, vượt qua những lỗi lầm và thay đổi, nhưng chúng ta cảm thấy mình không đủ khả năng và mặc dù có thiện chí, chúng ta lại luôn vấp ngã. Chúng ta có kinh nghiệm giống Thánh Phaolô, chính từ vùng đất này, ngài đã viết: “Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm”(Rm 7, 18-19). Như thế, tự mình, chúng ta không có khả năng làm điều tốt chúng ta muốn, vậy có nghĩa gì khi chúng ta phải sám hối?
Sám hối: suy nghĩ vượt lên trên
Ở đây ngôn ngữ đẹp của anh chị em, ngôn ngữ Hy Lạp có thể giúp chúng ta hiểu động từ “sám hối”, metanoéin. Động từ này bao gồm metá, có nghĩa là vượt lên trên, và noéin có nghĩa là suy nghĩ. Như vậy, sám hối có nghĩa là suy nghĩ vượt lên trên, nghĩa là vượt lên trên những suy nghĩ thông thường của chúng ta, vượt ra ngoài thế giới quan thông thường của chúng ta. Tất cả những lối suy nghĩ đó làm giảm đi mọi thứ cho chính chúng ta, cho niềm tin của việc thấy mình tự đủ của chúng ta. Hoặc những lối suy nghĩ tự cho mình là trung tâm được đánh dấu bằng sự cứng nhắc và sợ hãi làm tê liệt, bởi sự cám dỗ nói “chúng tôi luôn làm theo cách này”, bởi ý tưởng rằng sa mạc của cuộc sống là nơi chết chóc, và không có sự hiện diện của Chúa.
Khi khuyến khích chúng ta sám hối, Thánh Gioan mời gọi chúng ta vượt ra ngoài nơi chúng ta hiện diện; vượt xa những gì bản năng nói với chúng ta và tư tưởng ảnh hướng đến chúng ta, bởi vì thực tế còn vĩ đại hơn. Thực tế là Chúa vĩ đại hơn. Vì vậy, sám hối có nghĩa là không nghe những gì làm mất niềm hy vọng, không nghe những người luôn nói rằng sẽ không có gì thay đổi trong cuộc sống. Sám hối có nghĩa là từ chối tin rằng chúng ta đã bị định sẵn để chìm vào vũng lầy của sự tầm thường. Nó có nghĩa là không quy phục trước những sợ hãi bên trong, xuất hiện đặc biệt trong những lúc thử thách để làm chúng ta nản lòng và nói với chúng ta rằng chúng ta sẽ không vượt qua được, rằng mọi thứ đã sai và việc nên thánh không dành cho chúng ta. Không phải như vậy, bởi vì Thiên Chúa luôn hiện diện. Cần phải tin cậy nơi Chúa, bởi vì Người là điều vượt trên của chúng ta, là sức mạnh của chúng ta. Mọi thứ thay đổi nếu chúng ta dành cho Người vị trí đầu tiên. Chúng ta chỉ cần mở cửa để Chúa bước vào và làm những điều kỳ diệu. Chỉ như sa mạc và lời của Gioan là đủ để Chúa đến thế gian.
Chúng ta hãy cầu xin ân sủng để tin rằng với Chúa, mọi thứ sẽ thay đổi, rằng Người chữa lành nỗi sợ hãi của chúng ta, chữa lành vết thương của chúng ta, biến những nơi khô cằn thành suối nước. Chúng ta cầu xin ân sủng của hy vọng. Vì hy vọng làm sống lại đức tin và khơi lại lòng bác ái. Bởi vì đó là hy vọng mà các sa mạc của thế giới ngày nay đang khát.
Và trong lúc cuộc gặp gỡ này đổi mới chúng ta trong niềm hy vọng và niềm vui của Chúa Giêsu, và tôi vui mừng khi được ở giữa anh chị em, chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ giúp chúng ta, giống như Mẹ, trở nên những người gieo rắc hy vọng, những người gieo niềm vui xung quanh chúng ta, không chỉ vào lúc này, khi chúng ta hạnh phúc và ở cùng nhau, nhưng hàng ngày, trong những sa mạc nơi chúng ta hiện diện. Vì chính nơi đó, với ơn Chúa, cuộc đời chúng ta được mời gọi sám hối và nở hoa.
Chào cám ơn
Trước khi kết thúc Thánh lễ, Đức Tổng Giám mục Theodoros Kontidis của Tổng Giáo phận Athen, đại diện cộng đoàn cám ơn Đức Thánh Cha. Đức Tổng Giám mục nói rằng sự hiện diện của Đức Thánh Cha tại Hy Lạp làm cho mọi người cảm nhận được sự hiệp nhất với Giáo hội như một thân thể trong Đức Kitô. Ngài nói: “Chúng con chân thành cám ơn Đức Thánh Cha vì đã đến đây với chúng con, cùng cử hành Thánh lễ, và cám ơn vì tất cả những gì Đức Thánh Cha đã làm cho Giáo hội trên thế giới và vì những lời giảng dạy đã khuyến khích mọi người đi theo đường lối Chúa Giêsu”.
Đáp lời Đức Tổng Giám mục, Đức Thánh Cha cũng bảy tỏ lòng biết ơn đến chính quyền dân sự và các Giám mục, cũng như tất cả những người bằng nhiều cách khác nhau đã cộng tác chuẩn bị và tổ chức chuyến thăm này.
Sau Thánh lễ, Đức Thánh Cha trở về Toà Sứ thần.
Thăm Đức Thượng phụ Jeronymos II
Tại Toà Sứ thần, vào lúc 19 giờ, Đức Thánh Cha có cuộc gặp gỡ với Đức Thượng phụ Jeronymos II và đoàn tuỳ tùng tại hội trường của Toà sứ thần.
Ngọc Yến - Vatican News
Đức Thánh cha đến Hy lạp
Sau 1 giờ 40 phút bay, máy bay chở Đức Thánh cha và đoàn tháp tùng đã đáp xuống phi trường quốc tế Athènes, thủ đô Hy Lạp, lúc quá 11 giờ.
Khi máy bay dừng hẳn, Đức Tổng giám mục Savio Hàn Đại Huy, người Hong Kong, thuộc dòng Don Bosco, Sứ thần Tòa Thánh tại Hy Lạp, cùng với ông trưởng Ban nghi lễ ngoại giao của chính phủ, đã bước lên máy bay chào Đức Thánh cha và mời ngài xuống.
Ở dưới chân thang có ngoại trưởng Hy Lạp chào đón ngài và 4 em bé trong y phục cổ truyền tặng hoa cho Đức Thánh cha. Liền đó ngài lên xe đi thẳng về Phủ Tổng thống Hy Lạp, cách đó hơn 30 cây số để gặp Tổng thống và chính phủ.
Đức Thánh cha gặp gỡ Tổng thống và chính quyền Hy Lạp
Khi đến Phủ Tổng thống lúc 12 giờ trưa, Đức Thánh cha đã được bà Tổng thống Ekaterini Sakellaropoulos tiếp đón với nghi thức ngoại giao chính thức, đoàn quân danh dự, quốc thiều và giới thiệu hai phái đoàn, trước khi ngài được mời vào thư phòng của Tổng thống để hội kiến riêng.
Bà Ekaterini năm nay 65 tuổi (1956), nguyên là một luật gia, hoạt động trong tham chính viện, Tòa án hành chánh tối cao của Hy Lạp, rồi làm Chủ tịch của tòa này cho đến năm ngoái (2020). Tiếp đến bà trở thành phụ nữ đầu tiên được bầu làm Tổng thống Cộng hòa Hy Lạp, với 261 phiếu trên tổng số 300.
Trong khi Đức Thánh cha gặp riêng bà Tổng thống, thì tại một phòng bên cạnh, có cuộc gặp gỡ ngắn giữa Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh và thủ tướng Hy Lạp, có sự tham dự của Đức Tổng giám mục Phụ tá Quốc vụ khanh và Ngoại trưởng của Tòa Thánh.
Sau khi hội kiến với bà Tổng thống, Đức Thánh cha còn gặp Thủ tướng Kyriakos Mitsotakis của Hy Lạp. Ông năm nay 53 tuổi, là con của cựu Thủ tướng Konstantinos Mitsotakis.
Sau các cuộc gặp gỡ trên đây, Đức Thánh cha được bà Tổng thống hướng dẫn, đến một hội trường trong Phủ Tổng thống để gặp gỡ chung các giới chức chính quyền và tôn giáo, cũng như ngoại giao đoàn, và đại diện xã hội dân sự của Hy Lạp, tổng cộng khoảng 150 người.
Diễn từ của Đức Thánh cha
Sứ điệp của Hy Lạp
Lên tiếng sau lời chào mừng của bà Tổng thống, Đức Thánh cha đề cao vai trò quan trọng về văn hóa của thành Athènes và Hy Lạp đối với Âu châu và thế giới. Những di tích lịch sử tại đây vẫn còn nhắc nhở cho nhân loại về sự khôn ngoan, và mời gọi hướng thượng, giữa lúc ngày nay tại Tây Phương khai sinh từ đây, có sự lu mờ về “nhu cầu Trời Cao và bị mắc kẹt ở giữa vì hàng ngàn cuộc chạy đua trần tục và sự ham hố vô độ của chủ nghĩa duy tiêu thụ vô nhân cách. Những nơi này ở Hy Lạp mời gọi chúng ta hãy để cho mình ngạc nhiên vì sự vô hạn, về vẻ đẹp của sự hiện hữu và niềm vui của đức tin. Những con đường của Tin mừng cũng đã tiến qua đây, nối kết Đông và Tây Phương, những nơi thánh và Âu Châu, Jerusalem và Roma...”. Xu hướng thu hẹp dân chủ.
Đức Thánh cha cũng nhận xét rằng Hy Lạp là chiếc nôi của nền dân chủ của nhân loại. Dân chủ đã nảy sinh từ đây, nhưng ngài không quên bày tỏ lo âu vì ngày nay, không những tại Âu châu, người ta thấy có sự thu hẹp dân chủ. Dân chủ đòi sự tham gia và can dự của tất cả mọi người, và vì thế nó đòi những cố gắng vất vả và kiên nhẫn. Dân chủ thì phức tạp, trong khi chủ nghĩa độc đoán thì vội vã và những lời cam đoan dễ dàng do những chủ nghĩa mị dân đưa ra thì có vẻ hấp dẫn. Trong nhiều xã hội, người ta bận tâm về vấn đề an ninh và bị mê hoặc vì chủ nghĩa tiêu thụ, sự mệt mỏi và bất mãn đưa tới một thái độ hoài nghi về dân chủ. Sự tham gia của tất cả mọi người là một đòi hỏi cơ bản, không những để đạt tới những mục tiêu chung, nhưng còn vì nó đáp ứng thực tại chúng ta là những hữu thể xã hội, không thể lập lại và đồng thời lệ thuộc lẫn nhau”.
Thách đố về khí hậu: thi hành những cam kết
Trong số nhiều vấn đề được Đức Thánh cha đề cập đến, những thách đố về khí hậu, đại dịch, thị trường chung và nhất là nạn nghèo đói lan rộng. “Đó là những thách đố đòi sự cộng tác cụ thể và tích cực. Cộng đồng quốc tế cần có sự cộng tác như thế để mở ra những con đường hòa bình qua những chính sách đa phương, không bị bóp nghẹt vì những chủ trương quốc gia chủ nghĩa thái quá. Nền chính trị cũng cần sự cộng tác như thế, để đặt những đòi hỏi chung lên trên tư lợi”.
Đức Thánh cha cầu mong những cam kết đã được đưa ra trong cuộc chiến chống những thay đổi khí hậu ngày càng được mọi nước chia sẻ và thực thi, chứ không phải chỉ là những cam kết ngoài mặt. “Việc làm phải đi theo lời nói để các con cháu không phải trả giá vì sự giả hình của cha ông như đã xảy ra bao nhiêu lần”.
Vấn đề di dân
Đức Thánh cha không quên nhắc đến vấn đề di dân. Càng ngày càng có những người di dân cập bến Hy Lạp và nhiều khi số người này vượt quá số dân tại những đảo họ đến, làm gia tăng những khó khăn mà dân chúng tại đó vốn đã chịu vì khủng hoảng kinh tế. Về mặt này, Đức Thánh cha đặc biệt phê bình thái độ trì hoãn của Âu châu: “Cộng đồng Âu châu, bị xâu xé vì sự ích kỷ quốc gia, thay vì là động lực lôi kéo tình liên đới, nhiều khi có vẻ bị mắc kẹt và thiếu phối hợp. Trước kia sự xung đột ý thức hệ đã cản trở việc xây dựng những cây cầu giữa đông và tây Âu, thì ngày nay vấn đề di cư cũng mở ra những lỗ hổng giữa bắc và nam. Tôi muốn tái kêu gọi Âu châu hãy có một cái nhìn tổng thể và cộng đồng đứng trước vấn đề di cư và tôi khích lệ quan tâm đến những người gặp khó khăn nhất, để theo khả năng của mỗi người, người di dân được đón nhận, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập trong sự tôn trọng hoàn toàn các nhân quyền và phẩm giá của họ. Điều này không phải là một cản trở hiện tại nhưng đúng hơn là một bảo đảm cho tương lai vì đó là một dấu hiệu sống chung hòa bình với những người ngày càng bị bó buộc phải trốn chạy để tìm kiếm một gia cư và tìm hy vọng”.
Cám ơn chính phủ Hy Lạp nhìn nhận Công giáo
Về Giáo hội Công giáo tại Hy Lạp, Đức Thánh cha tái bày tỏ lòng biết ơn vì chính phủ nước này đã công khai nhìn nhận Cộng đồng Giáo hội và ngài cam kết ý chí của Giáo hội thăng tiến công ích trong xã hội Hy Lạp, theo chiều hướng đặc tính đại đồng của Giáo hội Công giáo, đồng thời Đức Thánh cha cầu mong rằng trong thực hành Giáo hội Công giáo tại nước này luôn được bảo đảm những điều kiện cần thiết để chu toàn việc phục vụ.”
Sau cuộc gặp gỡ chung trên đây, Đức Thánh cha còn dừng lại ở phòng Bizantine và ký vào sổ danh dự và trao đổi quà tặng với Tổng thống, trước khi giã từ để về Tòa Sứ thần Tòa Thánh, cách đó gần 6 cây số để cùng bữa trưa và nghỉ ngơi, lúc 1 giờ 30.
Tòa Thánh và Hy Lạp thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau trên cấp đại sứ từ năm 1979, tuy rằng từ năm 1834, Tòa Thánh đã có vị Khâm sứ, không có tư cách ngoại, Đại diện Đức Giáo hoàng trước mặt Giáo hội Công giáo ở Hy Lạp.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Thánh cha viếng thăm các vị lãnh đạo Chính thống Hy Lạp
Hoạt động thứ hai của Đức Thánh cha tại Hy Lạp diễn ra lúc gần 4 giờ chiều, ngày 04 tháng Mười Hai. Ngài đến Tòa Tổng giám mục Chính thống Hy Lạp để gặp Đức Tổng giám mục Giáo chủ Ieronymos II của giáo phận Athènes và toàn Hy Lạp.
Đức Giáo chủ năm nay 83 tuổi (1938) trong một gia đình gốc Albani. Nguyên là một giáo sư đại học về khảo cổ, ngài đã bỏ sự nghiệp này để đi tu và được chọn làm giám mục hồi năm 1981, và từ 13 năm nay làm Tổng giám mục giáo chủ.
Đến nơi vào lúc 4 giờ chiều, Đức Thánh cha hội kiến với Đức Tổng giám mục Giáo chủ tại thư phòng, trước khi gặp chung đoàn tùy tùng của Đức Tổng giám mục tại sảnh đường Ngai Tòa. Tại đây, Đức Thánh cha và Đức Tổng giám mục đã hôn sách Tin mừng trước khi ngồi vào ghế.
Diễn từ của Đức Thánh cha
Lên tiếng trong cuộc gặp gỡ, sau lời chào mừng của Đức Tổng giám mục Ieronymos II, Đức Thánh cha bày tỏ vui mừng vì được gặp lại Đức Tổng giám mục giáo chủ, 5 năm sau cuộc gặp gỡ tại đảo Lesbo Hy Lạp, nhân cuộc viếng thăm của ngài tại trại tị nạn ở đảo này. Ngài nhắc đến bao nhiêu căn cội chung từ thời các tông đồ giữa Công giáo và Chính thống, từ các công đồng chung đầu tiên, và nói rằng:
Tái xin lỗi về những lỗi lầm của Công giáo
“Nhưng rất tiếc là sau đó chúng ta đã tăng trưởng và xa cách nhau. Những thuốc độc trần tục làm cho chúng ta bị lây nhiễm, cỏ dại do ngờ vực càng gia tăng sự cách xa và chúng ta đã ngưng vun trồng tình hiệp thông với nhau. Thánh Basilio Cả đã quả quyết rằng các môn đệ đích thực của Chúa Kitô “chỉ được nhào nặn theo những gì họ thấy nơi Chúa” (Moralia 8,1). Đứng về phía Giáo hội Công giáo, tôi xấu hổ nhìn nhận rằng có những hành động và chọn lựa ít hoặc không hệ liên hệ gì với Chúa Giêsu và Tin mừng của Chúa, nhưng đúng hơn do lòng khao khát lợi lộc và quyền hành, chúng đã làm khô héo tình hiệp thông. Thế là chúng ta đã để cho sự phong phú bị thương tổn vì những chia rẽ. Lịch sử có gánh nặng của nó và ngày hôm nay tôi cảm thấy cần lập lại lời xin lỗi Thiên Chúa và các anh em vì những lỗi lầm mà bao nhiêu tín hữu Công giáo đã phạm. Nhưng có một an ủi lớn là niềm xác tín về những căn cội tông đồ của chúng ta và mặc dù có sự biến dạng của các căn cội ấy với thời gian, cây mà Thiên Chúa trồng vẫn tăng trưởng và mang lại những hoa trái trong cùng một Thánh Linh. thật là một ân phúc khi nhìn nhận những hoa trái của nhau và cùng nhau cảm tạ Chúa vì điều này”.
Cổ võ tình hiệp thông
Cũng trong diễn từ tại cuộc gặp gỡ Đức Giáo chủ Chính thống Hy Lạp, Đức Thánh cha cổ võ gia tăng tình hiệp thông giữa hai Giáo hội và ngài nhận định rằng sự hiệp thông dường như động chạm đến một điểm nhạy cảm không những trong xã hội nhưng cả nơi các môn đệ của Chúa Giêsu, “trong một thế giới Kitô được nuôi dưỡng bằng cá nhân chủ nghĩa và định chế cứng nhắc” ... Tình hiệp thông giữa các anh chị em mang lại phúc lành của Thiên Chúa. “Vì thế - Đức Thánh cha nói - chúng ta đừng sợ giúp đỡ nhau tôn thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, không thi hành việc chiêu dụ tín đồ và hoàn toàn tôn trọng tự do của người khác, vì như thánh Phaolô đã viết - ‘nơi nào có Thánh Linh của Chúa, thì nơi đó có tự do’ (2 Cr 3,17). Tôi cầu nguyện xin Thánh Thần bác ái chiến thắng sự kháng cự của chúng ta và làm cho chúng ta trở thành những người xây dựng tình hiệp thông, vì ‘nếu thực sự tình yêu loại trừ được sợ hãi thì sợ hãi sẽ biến thành tình yêu, và khi đó ta sẽ khám phá thấy điều cứu vớt chính là sự hiệp nhất” (Thánh Gregorio di Nissa, Omelia 15 về Sách Nhã Ca). Và đàng khác, làm sao chúng ta có thể làm chứng cho thế giới về sự hòa hợp của Tin mừng nếu các Kitô hữu chúng ta còn chia rẽ nhau? Làm sao chúng ta có thể loan báo tình thương của Chúa Kitô, Đấng tập họp mọi dân nước, nếu chúng ta không hiệp nhất với nhau? Bao nhiêu bước tiến đã được thực hiện để chúng ta gặp gỡ nhau. Chúng ta hãy cầu xin Thánh Thần hiệp thông, xin Ngài thúc đẩy chúng ta trên các con đường của Ngài và giúp chúng ta đặt tình hiệp thông, không phải trên những tính toán, trên các chiến lược và thuận lợi, nhưng trên kiểu mẫu duy nhất chúng ta hướng đến, đó là Chúa Ba Ngôi”.
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh cha với các vị lãnh đạo Chính thống Hy Lạp kết thúc với phần trao đổi quà tặng và ký sổ vàng, trước khi Đức Thánh cha đến nhà thờ Chính tòa thánh Dionigi của Công giáo, chỉ cách đó 900 mét, để gặp đỡ các giám mục và Cộng đoàn Công giáo địa phương từ lúc quá 5 giờ chiều.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Thánh cha gặp gỡ các giám mục và cộng đồng Công giáo Hy Lạp
Hoạt động thứ ba và cũng là hoạt động chót của Đức Thánh cha Phanxicô trong ngày đầu tiên tại Hy Lạp, là cuộc gặp gỡ của ngài tại nhà thờ chính tòa thánh Dionigi của Công giáo ở thủ đô Athènes với các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên, vào lúc quá 5 giờ chiều.
Thánh Dionigi, hay Denis, là người đã trở lại sau bài thuyết trình của thánh Phaolô tại Athènes và trở thành giám mục đầu tiên tại đây. Thánh đường này được Đức Piô IX nâng lên hàng Tiểu Vương cung Thánh đường hồi năm 1877, và là nhà thờ Công giáo đầu tiên và cuối cùng của Giáo hội Công giáo tại Hy Lạp.
Trước thánh đường có một nhóm đông đảo các trẻ em cầm cờ Tòa Thánh và Hy Lạp chào đón Đức Thánh cha khi ngài đến đây.
Mở đầu buổi gặp gỡ, trước sự hiện diện của hơn 100 người, Đức cha Rossolatos, nguyên Tổng giám mục giáo phận Athènes, kiêm Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hy Lạp đã chào mừng Đức Thánh cha, rồi mọi người cùng nghe chứng từ của một nữ tu dòng Ngôi Lời nhập thể và một giáo dân.
Huấn từ của Đức Thánh cha
Trong huấn từ của mình, Đức Thánh cha đã đi từ trình thuật của Tông đồ Công vụ về việc thánh Phaolô diễn thuyết tại đồi Aeropa, thành Athènes (Cv 17,16-34), vốn là nơi hội họp của các kỳ lão và hiền triết để nêu bật hai thái độ của thánh Tông đồ như bài học cho các tín hữu:
Lòng tín thác
Thái độ trước tiên là lòng tín thác. Thánh Phaolô bị các triết gia dồn vào ngõ bí. Trước đó, tại thành Thessalonica, ngài cũng đã bị cản trở trong việc rao giảng, như những vụ xáo trộn do những đối thủ của ngài xách động. Nay tại thành Athènes, thánh nhân bị các triết gia coi là “lang băm” nhưng ngài vẫn không nản chí.
Đức Thánh cha nói: “Có lẽ rất nhiều lúc trong hành trình của chúng ta, chúng ta cũng cảm thấy mệt mỏi và đôi khi bất mãn vì chỉ là một cộng đoàn bé nhỏ, hoặc một Giáo hội ít có sức mạnh phải bước đi trong một bối cảnh không luôn luôn thuận lời. Suy nghĩ về chuyện thánh Phaolô tại Athènes: thánh nhân bị lẻ loi, là thiểu số, ít được ưa chuộng và ít có cơ may thành công, nhưng ngài không để mình bị nản chí đè bẹp, không từ bỏ sứ vụ, không để mình bị cám dỗ than vãn. Thái độ của tông đồ chân thực là tiến bước trong tin tưởng, ưa thích sự bất an do những tình trạng bất ngờ hơn là cái nhàm chán của tập quán và sự lập đi lập lại. Thánh Phaolô đã có can đảm, lòng can đảm xuất phát từ sự tín thác nơi Thiên Chúa, nơi sự cao cả của Chúa, Đấng thích hoạt động trong sự bé nhỏ của chúng ta.
“Anh chị em thân mến, chúng ta hãy tín thác vì tình trạng mình là một Giáo hội bé nhỏ, biến chúng ta thành một dấu chỉ hùng hồn của Tin mừng, của vị Thiên Chúa được Chúa Giêsu loan báo, Chúa Giêsu đã chọn những người bé nhỏ và nghèo hèn, đã thay đổi lịch sử bằng những cử chỉ đơn sơ của những người khiêm hạ. Trong tư cách là Giáo hội, chúng ta không được yêu cầu có tinh thần chinh phục và chiến thắng, với những con số to lớn, sự sáng ngời trần tục. Tất cả những thứ ấy là nguy hiểm. Đó là cám dỗ của sự hiếu thắng. Chúng ta được yêu cầu bắt đầu từ hạt cải bé nhỏ, nhưng tăng trường từ từ trong sự khiêm tốn. Chúng ta được yêu cầu trở thành men, làm dậy lên đấu bột thế giới trong sự âm thầm kiên nhẫn, nhờ hoạt động không ngừng của Thánh Linh.
Đón nhận
Thái độ thứ hai của thánh Phaolô tại Athènes là sự đón tiếp. Đây là thái độ nội tâm cần thiết để loan báo Tin mừng: không muốn chiếm không gian và cuộc sống của người khác, nhưng gieo vãi Tin mừng trong thửa đất của cuộc sống, nhất là học cách đón nhận những hạt giống Thiên Chúa đã đặt trong tâm hồn của họ trước khi chúng ta đến... Loan báo Tin mừng không phải là làm đầy một bình chứa trống rỗng, nhưng đúng hơn là mang ra ánh sáng điều mà Chúa đã bắt đầu thực hiện. Đó là điều thánh Phaolô đã chứng tỏ tại thành Athènes: ngài nhìn nhận phẩm giá của những người đối thoại, đã đón nhận ước muốn Thiên Chúa ở nơi tâm hồn những người đối thoại và với sự tử tế dịu dàng, ngài muốn mang cho họ sự kinh ngạc của đức tin. Cách thức của ngài là không áp đặt, nhưng đề nghị. Không dựa trên sự chiêu dụ tín đồ, nhưng trên sự hiền lành dịu dàng của Chúa Giêsu.
Và Đức Thánh cha nói rằng: “Cả chúng ta ngày nay cũng được yêu cầu có thái độ đón tiếp, một tâm hồn được linh hoạt với ước muốn kiến tạo tình hiệp thông giữa những khác biệt về nhân bản, văn hóa, tôn giáo. Thách đố ở đây là khai triển sự say mê đối với sự cùng nhau, dẫn đưa chúng ta, các tín hữu Công giáo, Chính thống và những anh chị em thuộc các tín ngưỡng khác, lắng nghe nhau, cùng mơ ước và làm việc, vun trồng một “thần bí học” về tình huynh đệ (EV 87). Lịch sử quá khứ vẫn còn là một vết thương mở trên con đường đối thoại đón tiếp, nhưng chúng ta hãy can đảm chấp nhận thách đố của ngày hôm nay!
Sau huấn từ của Đức Thánh cha, mọi người đọc kinh Lạy Cha và Đức Thánh cha ban phép lành kết thúc. Tiếp đó, khi về Tòa Sứ thần Tòa Thánh, Đức Thánh cha gặp riêng các tu sĩ dòng Tên trước khi dùng bữa tối và nghỉ đêm.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu