Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh cha viếng thăm trại tị nạn ở đảo Lesbo
Trong cuộc viếng thăm trại tị nạn ở đảo Lesbo, Hy Lạp, hôm 05 tháng Mười Hai năm 2021, Đức Thánh cha Phanxicô phê bình thái độ dửng dưng của nhiều người và nhiều chính phủ, làm ngơ không biết đến số phận đau thương của những người di dân và tị nạn. Ngài tái kêu gọi cộng đồng quốc tế tìm một giải pháp cho vấn đề này.
Lúc 8 giờ 30, sáng Chúa nhật 05 tháng Mười Hai, Đức Thánh cha ra phi trường quốc tế của thủ đô Athènes, đáp máy bay đến Mytilene, cũng gọi là Lesbo, hải đảo lớn thứ ba của Hy Lạp, để viếng thăm những người xin tị nạn, tại Trung tâm tiếp đón và nhận diện. Đây là lần thứ hai ngài đến đảo này. Lần đầu hồi tháng Tư cách đây 5 năm (2016) và thăm Moria là trại tị nạn lớn nhất ở Âu châu cho đến tháng Chín năm ngoái (2020) thì bị hỏa hoạn thiêu hủy.
Đảo Lesbo rộng hơn 1.600 cây số vuông, và có gần 115.000 dân cư, với thủ phủ là Mytilene và chỉ cách bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ 20 cây số.
Sau 55 phút bay, máy bay chở Đức Thánh cha đã tới phi trường Mytilene lúc 10 giờ 10 phút. Tuy là chuyến viếng thăm hoàn toàn riêng, nhưng tại sân bay cũng có bà Tổng thống Hy Lạp và Đức Tổng giám mục Josif Printezis của giáo phận Naxos sở tại đón tiếp. Giáo phận này có 5.000 tín hữu Công giáo thuộc 27 xứ đạo.
Từ phi trường, Đức Thánh cha đã dùng xe đi thêm 16 cây số để đến trại tị nạn, được gọi là “Moria 2.0” hiện có hàng ngàn người tại đây. Họ sống trong các căn nhà thùng.
Buổi gặp gỡ người tị nạn
Đến trại lúc 10 giờ 45 phút, Đức Thánh cha đã đi dọc theo những con dường trong trại, chào thăm và trao đổi với hàng trăm người tị nạn đứng bên đường, trong đó có đông đảo các trẻ em. Rồi ngài đến lều gặp gỡ sát bờ biển, cùng với bà Tổng thống, Đức Tổng giám mục Công giáo sở tại và Đức Tổng giám mục Chính thống địa phương, trước sự hiện diện của khoảng 200 người tị nạn.
Trong lời chào mừng Đức Thánh cha, ông Phó trưởng trại tị này cho biết nhờ sự quan tâm của ngài, tình trạng của trại đã được các vị hữu trách và chính quyền cải tiến nhiều.
Mọi người cũng nghe chứng từ của một người tị nạn, ông Christian Tango Mukaya, người Congo 30 tuổi, đến Hy Lạp cách đây hơn một năm, có ba người con, hai người đi theo ông, trong khi vợ và con ông còn ở trong nước, nhưng ông có tin tức từ một năm nay.
Tiếp đến là chứng từ của một người thiện nguyện, thành viên cộng đoàn Công giáo địa phương. Cộng đoàn giúp đỡ nhiều người tị nạn, và sự hiện diện của các tín hữu Công giáo tị nạn đã giúp cộng đoàn giáo xứ nhỏ bé thêm sinh động và khởi sắc. Cộng đoàn nhận được nhiều hơn là sự giúp đỡ đã cho đi.
Diễn văn của Đức Thánh cha
Lên tiếng trong dịp này, Đức Thánh cha cho biết ngài đến đây để gặp lại các anh chị em di dân và tị nạn, để “nhìn tận mắt những đôi mắt đầy sợ hãi và mong đợi, những đôi mắt đã thấy bạo lực và nghèo đói, đã chảy quá nhiều giọt lệ”... Ngài xác tín rằng vấn đề di dân và tị nạn là một vấn đề của thế giới, là cuộc khủng hoảng nhân đạo có liên hệ tới tất cả mọi người và những vấn đề lớn cần được cùng nhau đương đầu và giải quyết, vì trên thế giới ngày nay chỉ có những giải pháp lẻ tẻ không thích hợp cho vấn đề di dân.
Vấn đề di dân ít được quan tâm
Đức Thánh cha nhận xét rằng chiến dịch chích vắcxin ngừa đại dịch Covid-19 đang được tiến hành trên bình diện hoàn vũ, tuy có nhiều chậm chạp và không chắc chắn, và dường như cũng có sự chuyển động trong cuộc chiến chống thay đổi khí hậu, nhưng có sự ấn nấp một cách kinh khủng đứng trước những cuộc di dân. Tuy nhiên đây là vấn đề có liên hệ tới con người, tới các nhân mạng! Nó có liên hệ tới tương lai của mọi người, tương lai này chỉ thanh quang, an bình nếu được hòa nhập. Chỉ khi nào được dung hợp với những người yếu thế nhất thì tương lai mới thịnh vượng. Vì khi những người nghèo bị xua đuổi thì hòa bình cũng bị đẩy xa. Lịch sử dạy chúng ta rằng những khép kín và các chủ nghĩa quốc gia đưa tới những hậu quả thê thảm. Thực vậy, như Công đồng chung Vatican II đã nhắc nhở, “để kiến tạo hòa bình, điều tuyệt đối cần thiết là ý chí quyết tâm tôn trọng các cá nhân và các dân tộc khác, quyết liệt coi phẩm giá của họ là thánh thiêng và liên tục thực thi tình huynh đệ” (GS 78). Thật là ảo tưởng khi nghĩ rằng chỉ cần cứu thoát bản thân mình, và tự vệ chống lại những người yếu thế gõ cửa nhà mình. Tương lai sẽ còn đặt chúng ta có nhiều tiếp xúc hơn với những người khác. Để biến tương lai trở nên tốt đẹp, chúng ta không cần những hành động đơn phương, nhưng cần những chính sách bao quát. Ngài nói: “Tôi lập lại rằng lịch sử dạy chúng ta điều đó nhưng chúng ta chưa học nó. Đừng quay lưng lại với thực tại, hãy chấm dứt sự liên tục đổ trách nhiệm cho người khác, đừng liên tục ủy thác vấn đề di cư cho những người khác, như thể chẳng ai quan tâm đến vấn đề này và như thể đó là một gánh nặng vô ích mà người nào đó phải gánh vác!”
Đức Thánh cha nói thêm rằng: “Chúa nhật hôm nay, tôi cầu xin Thiên Chúa thức tỉnh chúng ta đừng quên những người đang đau khổ, đánh động chúng ta ra khỏi thái độ cá nhân chủ nghĩa loại trừ người khác, đánh thức những tâm hồn giả điếc trước những nhu cầu của người khác. Tôi cũng cầu nguyện để mỗi người, để tất cả chúng ta vượt thắng sự tê liệt vì sợ hãi, dửng dưng làm cho người khác chết, thái độ “sống chết mặc bay” chẳng quan tâm, với những “găng tay bằng nhung” kết án tử cho những người đang ở ngoài lề! Chúng ta hãy chống lại tận gốc rễ tư tưởng thịnh hành hiện nay, tư tưởng xoay quanh cái tôi, những ích kỷ cá nhân và quốc gia, đang trở thành mẫu mực và tiêu chuẩn của mọi sự”.
Chưa có tiến bộ đáng kể
Đức Thánh cha nhận xét rằng 5 năm trôi qua từ sau cuộc viếng thăm của ngài tại đảo này, cùng với Đức Thượng phụ Chính thống Bartolomaios và Đức Tổng giám mục Ieronymos, Giáo chủ Chính thống Hy Lạp, chỉ có một ít thay đổi về vấn đề di dân. Ngài nói: “Chắc chắn là có nhiều người dấn thân trong việc tiếp đón và hội nhập và tôi muốn cám ơn bao nhiêu người thiện nguyện và những người ở mọi cấp độ - chính quyền, xã hội và từ thiện - đã cố gắng nhiều để chăm sóc những người di dân và vấn đề di cư. Tôi nhìn nhận có sự dấn thân tài trợ và xây dựng các cơ cấu xứng đáng để đón tiếp, tôi cũng chân thành cám ơn dân chúng địa phương vì bao nhiêu điều tốt lành đã làm và những hy sinh đã chịu. Nhưng chúng ta phải cay đắng nhìn nhận rằng cả đất nước này vẫn còn bị nhiều sức ép và tại Âu châu vẫn còn những người coi vấn đề này chẳng liên hệ gì đến họ. Và bao nhiêu hoàn cảnh không xứng đáng với con người! Bao nhiêu những điểm nóng, nơi mà người di dân và tị nạn sống trong những điều kiện cùng cực, không thấy có giải pháp nào ở chân trời! Nhưng sự tôn trọng con người và các nhân quyền, - nhất là tại đại lục không quên thăng tiến các quyền ấy trên thế giới,- phải luôn được bảo tồn và phẩm giá của mỗi người phải được coi trọng hơn mọi sự! Thật là buồn khi nghe nói có đề nghị như một giải pháp dùng tiền chung để xây dựng các bức tường... Không phải bằng cách củng cố các dây kẽm gai mà các vấn đề được giải quyết và cải tiến được sự sống chung. Trái lại, chính nhờ sự hiệp sức săn sóc những người khác, theo khả năng của mỗi người và trong sự tôn trọng luật pháp, luôn đặt nơi chỗ nhất giá trị không thể loại bỏ là sự sống của mỗi người”.
Quan tâm đến những nguyên nhân sâu xa
Đức Thánh cha cũng tố giác chủ trương trong một số xã hội đặt sự đối nghịch ý thức hệ giữa an ninh và tình liên đới, địa phương và hoàn vũ, truyền thống và sự cởi mở. Ngài nhấn mạnh rằng: “Tốt hơn nên mở rộng cái nhìn, đi sâu vào các vấn đề của phần lớn nhân loại, của bao nhiêu dân tộc đang là nạn nhân của những tình trạng khẩn cấp về nhân đạo mà họ không gây ra nhưng chỉ là nạn nhân phải chịu đựng, sau những lịch sử dài bị bóc lột và vẫn còn ngày nay. Thật là dễ lôi kéo dư luận quần chúng bằng cách gieo rắc sự sợ hãi người khác; tại sao với cùng thái độ như vậy, người ta không nói về sự bóc lột người nghèo, những cuộc chiến tranh bị quên lãng và thường được tài trợ dồi dào, những hiệp định kinh tế được ký trên lưng của dân chúng, những hoạt động bí mật để buôn bán võ khí và làm cho nó lan tràn? Cần phải giải quyết các nguyên nhân xa, chứ không phải chỉ đối phó với những người nghèo đang trả giá vì hậu quả những nguyên nhân ấy, thậm chí những hậu quả đó được sử dụng để tuyên truyền chính trị!
Kinh Truyền tin
Cuối cuộc gặp gỡ, Đức Thánh cha mời gọi mọi người đọc kinh Truyền tin kính Đức Mẹ. Đức Thánh cha nhắn nhủ mọi người “xin Đức Mẹ mở mắt chúng ta trước những đau khổ của anh chị em. Mẹ đã vội vã lên đường lên giúp bà chị họ Elisabeth đang có thai. Bao nhiêu bà mẹ có thai đã vội vã lên đường và trong một hành trình chết chóc trong lúc họ mang sự sống trong lòng! Xin Mẹ Thiên Chúa giúp chúng ta có một cái nhìn từ mẫu, nhìn thấy nơi tha nhân những người con của Chúa, những anh chị em cần đón tiếp, bảo vệ và thăng tiến, hội nhập. Và yêu thương dịu dàng. Xin Mẹ chí thánh dạy chúng ta đặt thực tại con người trước những ý thưởng và các ý thức hệ, và mau lẹ tiến bước đến gặp những ngừơi đau khổ.
Kết thúc cuộc viếng thăm tại đảo Lesbo, Đức Thánh cha đáp máy trở về thủ đô Athènes để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi tại Tòa Sứ thần Tòa Thánh.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Lễ Giáng sinh ở Hà Lan sẽ phải kết thúc trước 5 giờ chiều
Thông cáo được đưa ra sau khi lệnh giới nghiêm được thêm vào các biện pháp đã được đưa ra trong những tuần trước đó về các phương tiện đi lại công cộng.
Trong khi các buổi học giáo lý hay hội họp của hội đồng giáo xứ có thể được thực hiện trực tuyến thì các Thánh lễ sẽ phải kết thúc trước 5 giờ chiều.
Các giám mục Hà Lan viết: "Như năm ngoái, vào Giáng sinh sẽ không thể có lễ nửa đêm có giáo dân tham dự". Do đó các ngài yêu cầu các giáo xứ “tận dụng tối đa các cơ hội để tổ chức lễ Giáng sinh trong ngày, kể cả trong tuần bát nhật lễ Giáng sinh”.
Theo các ngài, quyết định này tạo nên nỗi buồn nhưng nó xuất phát từ mong muốn rằng "nhà thờ không trở thành nguồn lây lan".
Các giám mục cảm ơn tất cả những "những người làm việc không mệt mỏi" để hành trình hướng tới Giáng sinh diễn ra một cách tốt nhất có thể. Như năm ngoái, trang web (https://www.vierkerstmis.nl/) cung cấp nhiều tài liệu và đề nghị để sống Mùa Vọng.
Hồng Thủy - Vatican News
ĐTC gặp đại diện Chính quyền, Xã hội dân sự và Ngoại giao đoàn
Trong diễn văn đáp lời, trước hết Đức Thánh Cha cảm ơn về sự chào đón của Tổng thống nhân danh toàn thể người dân Sýp. Đức Thánh Cha nhận mình là một người hành hương, “đến một đất nước bé nhỏ về địa lý nhưng vĩ đại về lịch sử; trên một hòn đảo mà qua nhiều thế kỷ đã không làm cho người dân thành ốc đảo, nhưng đã kết nối họ; ở một vùng đất có biên giới là biển; ở nơi đánh dấu cửa ngõ phía Đông với Châu Âu và phía Tây với Trung Đông.”
Các Mối Phúc
Điểm đầu tiên Đức Thánh Cha nhấn mạnh trong bài diễn văn của ngài là “Các Mối Phúc” của Tin Mừng trên miền đất mà Kitô giáo gắn liền từ xa xưa. “Các Mối phúc là hiến chương vĩnh viễn của Kitô giáo. Việc sống Các Mối Phúc cho phép Tin Mừng luôn tươi trẻ và lấp đầy hy vọng cho xã hội. Các Mối Phúc là chiếc la bàn để định hướng, ở mọi vĩ độ, chỉ ra những lộ trình mà người Kitô hữu phải đi trong hành trình cuộc sống.”
Với đặc tính địa lý mình, Sýp trở thành “nơi Châu Âu và Phương Đông gặp nhau, cuộc hội nhập văn hóa vĩ đại đầu tiên của Tin Mừng trên lục địa này đã bắt đầu và tôi thật cảm động khi đi lại bước chân của các nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo hội tiên khởi, đặc biệt là các thánh Phaolô, Barnaba và Máccô.” Vì vậy, Đức Thánh Cha nói: “tôi ở đây, một người hành hương giữa quý vị, để cùng đi với quý vị, những người Sýp thân yêu, tất cả quý vị, với mong ước rằng tin tức tốt lành của Tin Mừng có thể mang đến cho Châu Âu một sứ điệp của niềm vui, ngang qua dấu chỉ của Các Mối Phúc. Sýp tỏa sáng với vẻ đẹp trên lãnh thổ của mình, lãnh thổ phải được bảo vệ và giữ gìn bằng các chính sách môi trường thích hợp đã được nhất trí cùng với các nước láng giềng. Vẻ đẹp ấy còn tỏa sáng trong kiến trúc, nghệ thuật, đặc biệt trong nghệ thuật thánh, và trong các nghề thủ công tôn giáo, trong nhiều kho tàng khảo cổ học.”
Đảo Sýp là một viên ngọc trai quý
Đức Thánh Cha gọi đảo Sýp là “một viên ngọc trai quý giá giữa lòng Địa Trung Hải.” Từ hình ảnh của viên ngọc trai “phải mất nhiều năm để các lớp khác nhau trở nên rắn chắc và sáng bóng”, Đức Thánh Cha liên tưởng đến đất nước Sýp phong phú với “nhiều nền văn hóa được gặp gỡ và pha trộn qua nhiều thế kỷ. Ngay cả ngày nay, ánh sáng của Sýp có nhiều góc cạnh: có nhiều dân nhiều nước, với những màu sắc khác nhau, tạo nên gam màu của cộng đồng này. Tôi cũng nghĩ đến sự hiện diện của nhiều người nhập cư, với tỷ lệ đáng kể nhất trong số các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu. Giữ được vẻ đẹp đa sắc tộc, đa diện của tổng thể chẳng hề dễ dàng. Như trong việc hình thành một viên ngọc trai, nó đòi hỏi thời gian và sự kiên nhẫn, nó đòi hỏi một cái nhìn bao quát có khả năng ôm lấy sự đa dạng của nhiều nền văn hóa và hướng về tương lai với tầm nhìn xa. Theo nghĩa này, điều quan trọng là phải bảo vệ và thăng tiến mọi thành phần xã hội, đặc biệt là những nhóm thiểu số theo thống kê.”
Cách thức một viên ngọc trai được hình thành cũng cho thấy nhiều bài học. Vẻ đẹp của viên ngọc trai được tạo nên từ những hoàn cảnh khó khăn. Nó được sinh ra trong sự tối mờ, khi con hàu “đau đớn” vì bất ngờ gặp phải một đe doạ đến sự an toàn của nó, chẳng hạn như một hạt cát khiến nó khó chịu. Để bảo vệ bản thân, con hàu phản ứng bằng cách đồng hóa mình với những gì làm tổn thương nó: nó ngậm vật lạ và nguy hiểm và biến nó thành vẻ đẹp, thành một viên ngọc trai. Viên ngọc trai của Sýp đã bị mờ đi bởi đại dịch, khiến nhiều du khách không thể đến và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó. Tại đây, cũng như ở những nơi khác, điều này đã gây nên những hậu quả khủng hoảng kinh tế và tài chính. Tuy nhiên, trong giai đoạn phục hồi này, không phải sự hăng hái phục hồi lại những gì đã mất sẽ đảm bảo cho sự phát triển vững chắc và lâu dài, mà là việc dấn thân thúc đẩy phục hồi xã hội, đặc biệt là ngang qua một cuộc chiến kiên quyết chống tham nhũng và những vết thương làm tổn hại đến phẩm giá con người.
Đối thoại là con đường dẫn đến hoà bình
Điểm tiếp theo được Đức Thánh Cha đề cập đến là về hoà bình. “Con đường dẫn đến hòa bình, chữa lành những xung đột và tái tạo vẻ đẹp của tình huynh đệ, được đánh dấu bằng một từ: đối thoại. Chính chúng ta phải giúp mình tin tưởng vào sức mạnh nhẫn nại và ôn hoà của đối thoại, được rút ra từ các Mối Phúc. Chúng ta biết đó không phải là một con đường dễ dàng; nó dài và quanh co, nhưng không có lựa chọn thay thế nào để đạt được sự hòa giải. Chúng ta nuôi dưỡng niềm hy vọng bằng “sức mạnh của những cử chỉ” hơn là bằng “những cử chỉ của sức mạnh”. Bởi vì có một sức mạnh của những cử chỉ chuẩn bị cho hòa bình: không phải là những cử chỉ quyền lực, đe dọa trả đũa và phô trương quyền lực, mà là những cử chỉ lắng dịu, những bước đối thoại cụ thể.”
Với thực tế không dễ dàng, Đức Thánh Cha khuyến khích: “Những thời điểm có vẻ không thuận lợi, khi đối thoại trì trệ, cũng có thể chính là những thời điểm chuẩn bị cho hòa bình. Viên ngọc trai vẫn nhắc nhở chúng ta về điều này, vì nó thành hình được như vậy là nhờ tiến trình kiên nhẫn âm thầm kết thêm chất mới bằng những tác nhân đã làm nó bị thương. Trong những tình huống này, hận thù không được phép lấn át, đừng từ bỏ việc hàn gắn vết thương, đừng quên những hoàn cảnh của những người biến mất. Và khi cảm giác nản lòng xuất hiện, hãy nghĩ đến các thế hệ tương lai, những người mong muốn được thừa hưởng một thế giới hòa bình, hợp tác, gắn kết, không phải là nơi sinh sống của những kẻ thù truyền kiếp và bị ô nhiễm bởi những tranh chấp chưa được giải quyết. Vì thế đối thoại là điều cần thiết, để tránh sự gia tăng nghi ngờ và oán hận. Chúng ta hãy đề cập đến Địa Trung Hải, bây giờ không may là một nơi của xung đột và thảm kịch nhân đạo; trong vẻ đẹp sâu xa của nó, nó là mare nostrum, là biển của tất cả các dân tộc gắn liền với nó, để được kết nối, không bị chia cắt. Sýp, ngã tư địa lý, lịch sử, văn hóa và tôn giáo, là vị trí để thực hiện một hành động hòa bình. Ước mong Sýp trở thành một công trường mở cho hòa bình ở Địa Trung Hải.”
“Hòa bình thường không nảy sinh từ những nhân vật vĩ đại, mà từ sự quyết tâm hàng ngày của những người nhỏ bé. Lục địa châu Âu cần hòa giải và hiệp nhất, cần can đảm và động lực để bước tới. Bởi vì, không phải những bức tường của sợ hãi và loại bỏ bị điều khiển bởi các lợi ích dân tộc chủ nghĩa sẽ giúp cho nó tiến bộ, cũng không phải duy chỉ phục hồi kinh tế sẽ đảm bảo cho an ninh và sự ổn định của nó.” Nhưng chính sự gặp gỡ và chào đón mới mang lại những hoa trái lợi ích lâu dài, như được nhìn thấy qua lịch sử của Sýp. Sýp không chỉ là “bàn đạp” trên lục địa về lịch sử của Kitô giáo, mà còn về việc xây dựng một xã hội phong phú trong sự hội nhập.
Đức Thánh Cha kết thúc bài diễn văn bằng việc liên tưởng đến hai thánh tông đồ Phaolô và Barnaba, đã “đi xuyên qua đảo” để đến Pa-phô (x. Cv 13:6), ngài cũng “đi xuyên qua lịch sử và linh hồn của vùng đất này, với mong muốn rằng khát vọng hiệp nhất và thông điệp về vẻ đẹp của nó tiếp tục dẫn đường cho nó hướng đến tương lai.”
Kết thúc ngày thứ nhất
Sau khi kết thúc buổi gặp gỡ với các đại diện Chính quyền, Xã hội dân sự và Ngoại giao đoàn, Đức Thánh Cha di chuyển bằng xe đến Toà Sứ Thần Nicosia, cách đó gần 3km. Các nhân viên Toà Sứ thần đón tiếp ngài tại tiền sảnh Toà Sứ thần. Đức Thánh Cha dùng bữa tối riêng và nghỉ đêm tại Toà Sứ thần. Kết thúc ngày thứ nhất của chuyến tông du.
Văn Yên, SJ - Vatican News
Diễn văn của ĐTC Phanxicô với các linh mục, tu sĩ, phó tế, giáo lý viên của Giáo hội Sýp (02-12-2021)
Tôi rất vui được ở đây giữa anh chị em. Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn Đức Hồng y Béchara Boutros Raï về những lời tốt đẹp của ngài dành cho tôi, và gửi lời chào thân ái đến Đức Thượng Phụ Pierbattista Pizzaballa. Cám ơn tất cả anh chị em về thừa tác vụ và sự phục vụ anh chị em đang thực hiện, đặc biệt cám ơn các nữ tu, về hoạt động giáo dục mà các chị đang thực hiện trong các trường học, nơi có nhiều trẻ em trên đảo tham gia. Đây là nơi gặp gỡ, đối thoại và học biết nghệ thuật xây những cây cầu. Cám ơn tất cả anh chị em vì sự gần gũi của anh chị em với mọi người, đặc biệt trong bối cảnh xã hội và công việc có nhiều khó khăn.
Tôi xin chia sẻ với anh chị em niềm vui khi đến thăm vùng đất này và hành trình như một người hành hương theo vết chân vị Tông đồ vĩ đại Barnaba, người con của dân tộc này, môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến và một người loan báo Tin Mừng dũng cảm. Khi đến thăm các cộng đoàn mới được khai sinh, thánh Tông đồ đã thấy ân sủng Chúa đang hoạt động; ngài vui mừng và “khuyên nhủ mọi người bền lòng gắn bó cùng Chúa” (Cv 11, 23). Tôi đến đây cùng với ước muốn đó: thấy ân sủng Chúa đang hoạt động trong Giáo hội và trong vùng đất của anh chị em, để vui mừng với anh chị em về những điều kỳ diệu Chúa đã thực hiện, và mời gọi anh chị em luôn kiên trì, không mệt mỏi hay nản lòng. Thiên Chúa vĩ đại hơn những mâu thuẫn của chúng ta.
Khi nhìn anh chị em, tôi thấy sự đa dạng phong phú của anh chị em. Xin chào Giáo hội Maronite, trong nhiều thế kỷ đã đến đảo nhiều lần và thường trải qua nhiều thử thách, đã kiên vững trong đức tin. Khi nghĩ về Libăng, tôi rất lo ngại cho cuộc khủng hoảng mà đất nước đang phải đối mặt. Tôi cảm nhận những đau khổ của một dân tộc mệt mỏi và bị thử thách bởi bạo lực và đau khổ. Tôi cầu nguyện cho khát vọng hòa bình trỗi dậy từ trái tim của đất nước đó. Cám ơn anh chị em vì tất cả những gì anh chị em đang làm ở đây tại Sýp. Cây tùng tuyết của Libăng được nhắc đến nhiều lần trong Kinh Thánh như một ví dụ về vẻ đẹp và sự hùng vĩ. Nhưng ngay cả cây tùng tuyết vĩ đại cũng mọc lên từ rễ và từ từ đâm chồi. Anh chị em là những gốc rễ đó, được bứng trồng ở Sýp để lan tỏa hương thơm và vẻ đẹp Tin Mừng. Cám ơn anh chị em!
Tôi cũng xin chào Giáo hội Latinh, hiện diện ở đây hàng thiên niên kỷ, theo thời gian, đã chứng kiến lòng nhiệt thành đức tin, cùng với sự tăng trưởng của con cái Giáo hội. Ngày nay, nhờ sự hiện diện của nhiều anh chị em di cư, đã thể hiện như một dân tộc “đa sắc”, một nơi gặp gỡ thực sự giữa các dân tộc và nền văn hóa khác nhau. Khuôn mặt Giáo hội này phản ánh vai trò của Sýp trong lục địa châu Âu: một vùng đất của những cánh đồng vàng, một hòn đảo được sóng biển vỗ về, nhưng trên hết là lịch sử của các dân tộc gắn bó nhau, một bức tranh của những cuộc gặp gỡ. Giáo hội cũng vậy, công giáo, nghĩa là phổ quát, là một không gian rộng mở, trong đó tất cả mọi người đều được chào đón và quy tụ bởi lòng thương xót và lời mời gọi yêu thương của Chúa. Trong Giáo hội Công giáo không có những bức tường. Không được quên điều này. Không có ai trong chúng ta được gọi đến đây để lôi kéo như những người thuyết giáo. Lôi kéo người khác là sự khô cằn, không trao ban sự sống. Tất cả chúng ta đều được kêu gọi bởi lòng thương xót của Chúa, Đấng không bao giờ mệt mỏi kêu gọi, ở gần, tha thứ. Nguồn gốc ơn gọi Kitô của chúng ta ở đâu? Trong lòng thương xót Chúa, đừng bao giờ quên điều đó. Chúa không thất vọng; Lòng thương xót của Người không làm chúng ta thất vọng. Người luôn chờ đợi chúng ta. Xin đừng bao giờ có bức tường trong Giáo hội Công giáo. Giáo hội là ngôi nhà chung, là nơi của những tương quan, là sự chung sống trong đa dạng. Và trong sự đa dạng đó có sự phong phú của hiệp nhất. Và ai làm nên sự hiệp nhất? Chúa Thánh Thần. Và ai làm nên sự đa dạng? Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho chúng ta hiểu được. Thánh Thần là tác giả của sự đa dạng và là tác giả của sự hài hòa. Thánh Thần là Đấng tạo nên sự đa dạng của các hồng ân và sự hiệp nhất hài hòa của Giáo hội.
Anh chị em thân mến, giờ đây tôi muốn chia sẻ với anh chị em đôi điều về thánh Barnaba, người anh và đấng bảo trợ của anh chị em, bằng những từ mô tả cuộc đời và sứ vụ của ngài.
Đầu tiên là kiên nhẫn. Về thánh Barnaba, chúng ta nói ngài là một người vĩ đại của đức tin và quân bình được chọn bởi Giáo hội ở Giêrusalem - có thể nói Giáo hội Mẹ, là người thích hợp nhất để đến thăm một cộng đoàn mới, cộng đoàn Antiôkhia, được hình thành từ một số người mới trở lại. Thánh Barnaba được cử đi xem chuyện gì đang xảy ra. Ở đó, ngài thấy những người đến từ một thế giới, một nền văn hóa khác, một sự nhạy cảm tôn giáo khác. Họ là những người vừa có một trải nghiệm thay đổi cuộc đời, có một đức tin đầy nhiệt thành, nhưng vẫn còn mong manh. Trong hoàn cảnh này, thái độ của thánh Barnaba là sự kiên nhẫn: đó là sự kiên nhẫn không ngừng lên đường; kiên nhẫn để bước vào cuộc sống của những người cho đến nay chưa được biết đến; kiên nhẫn để chấp nhận những gì là mới, không vội vàng phán xét; kiên nhẫn của sự phân định, biết nắm bắt những dấu hiệu hoạt động của Chúa ở khắp mọi nơi; kiên nhẫn để “nghiên cứu” các nền văn hóa và truyền thống khác. Trên hết, thánh Barnaba có sự kiên nhẫn đồng hành: ngài không áp đặt đức tin mong manh của những người mới đến bằng thái độ khắt khe và thiếu linh hoạt, hoặc bằng cách đưa ra những đòi hỏi quá nhiều về việc tuân thủ các giới luật. Ngài đồng hành cùng họ, cầm tay và đối thoại với họ. Thánh Barnaba không bị tai tiếng, như một người cha và một người mẹ không bị tai tiếng bởi con cái. Cha mẹ đồng hành, giúp những người con lớn lên. Đừng bao giờ có trong tâm trí sự chia rẽ, và trong Giáo hội không được có sự lôi kéo, chiêu dụ. Hãy để Giáo hội phát triển và đồng hành. Nếu anh chị em phải khiển trách một ai đó thì sao? Hãy làm với tình yêu, với bình an. Con người của sự kiên nhẫn.
Chúng ta cần một Giáo hội kiên nhẫn. Một Giáo Hội không để cho mình bị xáo trộn và bối rối trước những thay đổi, nhưng thanh thản đón nhận tính mới lạ và phân định những tình huống dưới ánh sáng Tin Mừng. Trên hòn đảo này, công việc anh chị em làm trong việc chào đón những anh chị em mới đến từ những bờ biển khác của thế giới thật là quý giá. Giống như thánh Barnaba, anh chị em cũng được kêu gọi để vun trồng một cái nhìn kiên nhẫn và chú ý, để trở thành những dấu hiệu dễ thấy và đáng tin cậy của sự kiên nhẫn của Chúa, Đấng không bao giờ để bất cứ ai bên ngoài ngôi nhà, ngoài vòng tay yêu thương của Người. Giáo hội Sýp cũng có những vòng tay rộng mở này: chào đón, hội nhập và đồng hành. Đây cũng là một sứ điệp quan trọng đối với Giáo hội khắp châu Âu, nơi được đánh dấu bằng cuộc khủng hoảng đức tin. Không cần phải bốc đồng và nóng nảy, hoài cổ hoặc than phiền, nhưng tốt hơn hãy tiến về phía trước, đọc các dấu hiệu của thời đại cũng như các dấu hiệu của cuộc khủng hoảng. Cần phải bắt đầu lại việc loan báo Tin Mừng với lòng kiên nhẫn, trên hết là cho thế hệ sau.
Các Giám mục, tôi muốn nói với anh em: hãy là những mục tử kiên nhẫn trong sự gần gũi, không mệt mỏi tìm kiếm Chúa trong cầu nguyện, gặp gỡ các linh mục, các anh chị em của các hệ phái Kitô khác với sự tôn trọng và ân cần, các tín hữu nơi họ đang sinh sống.
Các linh mục thân mến, tôi muốn nói với anh em: hãy kiên nhẫn với các tín hữu, luôn sẵn sàng khuyến khích họ, hãy là những thừa tác viên không biết mệt mỏi về sự tha thứ và lòng thương xót của Chúa. Đừng bao giờ là những quan toà khắt khe, nhưng luôn là những người cha yêu thương. Khi tôi đọc dụ ngôn về người con hoang đàng ... Người anh cả là một quan tòa nghiêm khắc, nhưng người cha nhân hậu, là hình ảnh của người Cha luôn tha thứ: luôn chờ đợi để tha thứ cho chúng ta! Năm ngoái, một nhóm bạn trẻ thực hiện một buổi trình diễn, nhạc pop, về câu chuyện dụ ngôn người con hoang đàng ... Rất hay! Nhưng hay nhất là cuộc thảo luận cuối cùng, khi người con hoang đàng đến gặp một người bạn và nói: “Tôi không thể tiếp tục như thế này. Tôi muốn quay trở về nhà nhưng tôi sợ cha tôi đóng cửa lại, xua đuổi tôi. Và nỗi sợ hãi này, tôi không biết phải làm thế nào… Hãy viết thư cho cha bạn và nói với ông rằng bạn muốn trở về nhưng bạn sợ cha bạn sẽ không đón nhận bạn. Hãy nói với cha bạn rằng nếu ông muốn đón nhận bạn thì hãy treo một chiếc khăn ở cửa sổ cao nhất của ngôi nhà". Rồi người con lên đường trở về. Khi gần tới nhà, anh thấy ngôi nhà đầy những chiếc khăn màu trắng. Đây là Chúa chúng ta. Người không bao giờ mệt mỏi tha thứ. Và khi người con bắt đầu nói, thì người cha đã không để anh nói tiếp. Xin các linh mục đừng khắt khe trong việc xưng tội. Khi anh em thấy một người nào đó đang gặp khó khăn hãy nói: “Tôi hiểu. Tôi hiểu rồi". Đây là "trái tim của cha", như trái tim của người cha là Thiên Chúa. Công trình của Chúa hoàn thành nơi mỗi người là một “lịch sử thánh thiêng”: chúng ta hãy say mê hoạt động này. Trong muôn vàn hình thức khác nhau của dân chúng, sự kiên nhẫn cũng có nghĩa là anh em có đôi tai và trái tim rộng mở để đón nhận những nhạy cảm tâm linh khác nhau, những cách thể hiện đức tin, những nền văn hóa khác nhau. Giáo hội không đồng nhất hoá, nhưng hòa nhập với sự kiên nhẫn. Đây là điều với ân sủng Chúa, chúng ta muốn đạt được trên tiến trình hiệp hành: cầu nguyện kiên nhẫn và kiên nhẫn lắng nghe, cho một Giáo hội ngoan nguỳ với Chúa và mở ra với nhân loại.
Trong lịch sử của thánh Barnaba, có một khía cạnh quan trọng thứ hai mà tôi muốn nhấn mạnh: cuộc gặp gỡ giữa ngài với Phaolô thành Tarsô và tình bạn huynh đệ của họ, giúp họ cùng nhau thực hiện sứ vụ. Sau khi Phaolô trở lại, “mọi người đều sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ” (Cv 9,26), vì trước đây ông là kẻ bắt bớ các tín hữu. Ở đây Sách Công Vụ Tông đồ cho chúng ta biết một điều rất hay: “Barnaba đưa Phaolô đi cùng với ông” (c. 27), đưa ông đến với cộng đoàn, thuật lại những gì đã xảy ra với ông và bảo lãnh cho ông. Chúng ta hãy lắng nghe những lời đó, “ông đưa Phaolô đi cùng với ông”. Điều này gợi lên sứ vụ của chính Chúa Giêsu, vì Người đã đưa các môn đệ đi theo Người qua các đường phố của Galilê và mang lấy nhân loại của chúng ta bị thương tích bởi tội lỗi. Đó là thái độ của tình bạn và chia sẻ cuộc sống. Đưa đi cùng có nghĩa là cùng mang lấy lịch sử của người khác, dành thời gian để hiểu biết họ, không dán nhãn, mang họ trên vai khi họ mệt mỏi hoặc bị thương, như người Samari nhân hậu đã làm (Lc 10, 25-37). Đây là tình huynh đệ.
Barnaba và Phaolô, như hai anh em, cùng đi loan báo Tin Mừng, ngay cả khi bị bách hại. Tại Antiôkhia, “trong suốt một năm, họ đã gặp gỡ Giáo hội và giảng dạy cho rất nhiều người” (Cv 11, 26). Sau đó, theo ý muốn Thánh Thần, cả hai được dành riêng cho một sứ vụ lớn lao hơn, và vì vậy “họ đáp tàu đi đảo Sýp” (Cv 13,4). Lời Chúa tăng trưởng và lớn mạnh, không chỉ vì phẩm chất con người của hai ông, nhưng trên hết vì hai ông là anh em trong danh Chúa, và tình huynh đệ của họ làm cho giới răn yêu thương được toả sáng. Anh chị em khác biệt, giống như các ngón tay của một bàn tay, nhưng tất cả đều có cùng phẩm giá. Tất cả đều là anh chị em. Sau đó, như đã xảy ra trong cuộc sống, một sự kiện không mong đợi đã xảy ra: Sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết hai người có sự bất hoà và chia tay nhau (Cv 15,39). Giữa anh chị em cũng có những lần tranh luận và cãi nhau. Tuy nhiên, Phaolô và Barnaba không chia tay nhau vì lý do cá nhân, nhưng vì họ đang tranh luận về thừa tác vụ, về cách thi hành sứ vụ của họ, và họ có những cái nhìn khác nhau. Thánh Barnaba muốn đưa thánh Máccô đi loan báo Tin Mừng, nhưng Phaolô thì không muốn. Hai ông tranh luận, nhưng ở một số thư sau này của Phaolô, chúng ta thấy không còn sự oán giận giữa hai ông. Phaolô thậm chí còn viết thư cho Timôthê, người sau đó phải đến theo Phaolô: “Anh hãy mau mau đến với tôi… Anh hãy đem Máccô đi với anh, vì anh ấy rất hữu ích cho công việc phục vụ của tôi”(2 Tm 4, 9. 11). Đây là tình huynh đệ trong Giáo hội: chúng ta có thể tranh luận về những quan điểm, sự nhạy cảm và những ý tưởng khác nhau. Trong một gia đình, anh em thảo luận, thay đổi quan điểm. Tôi nghi ngờ những người không bao giờ tranh luận, bởi vì họ luôn luôn che giấu các chương trình nghị sự. Tình huynh đệ của Giáo hội là: chúng ta có thể thảo luận về quan điểm, sự nhạy cảm, những ý tưởng khác nhau. Trong một số trường hợp, thẳng thắn nói ra có thể hữu ích, vì đó là cơ hội để trưởng thành và thay đổi. Không nói sau lưng, điều này chẳng đem lại ích lợi gì. Tuy nhiên, chúng ta hãy luôn nhớ rằng: chúng ta tranh luận không phải vì để gây chiến hay áp đặt ý kiến riêng của mình, nhưng để bày tỏ và sống sức sống của Thần Khí, là tình yêu và sự hiệp thông. Chúng ta có thể tranh luận, nhưng chúng ta vẫn là anh chị em. Tôi nhớ khi còn nhỏ. Mỗi ngày, chúng tôi tranh luận gay gắt với nhau, và sau đó chúng tôi cùng ngồi vào bàn ăn. Cuộc thảo luận của một gia đình của một người mẹ: mẹ Giáo hội, những người con tranh luận.
Anh chị em thân mến, chúng ta cần một Giáo hội huynh đệ, một Giáo hội là khí cụ tình huynh đệ cho thế giới. Ở đây, ở Sýp có rất nhiều sự nhạy cảm về tâm linh và Giáo hội, nguồn gốc, lịch sử, các lễ nghi và truyền thống khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta không được coi sự đa dạng như một mối đe dọa đối với căn tính; chúng ta không được ghen tị hoặc bận tâm đối với các vấn đề khác. Nếu chúng ta rơi vào cám dỗ này, thì nỗi sợ hãi sẽ lớn dần lên, và rồi sinh ra sự hoài nghi và rồi sớm muộn gì cũng dẫn đến chiến tranh. Chúng ta là anh chị em, được yêu thương bởi một người Cha duy nhất. Anh chị em hoà mình trong Địa Trung Hải, một vùng biển giàu lịch sử, đã là cái nôi của nhiều nền văn minh, một vùng biển mà ngày nay nhiều người, nhiều dân tộc và nền văn hóa từ mọi nơi trên thế giới vẫn đến. Với tình huynh đệ, anh chị em có thể nhắc nhở mọi người, và toàn thể châu Âu rằng, để xây dựng một tương lai xứng đáng với nhân loại, cần phải cùng nhau làm việc, vượt lên trên những chia rẽ, phá bỏ các bức tường, vun trồng ước mơ hiệp nhất. Chúng ta cần chào đón và hòa nhập, cùng nhau bước đi như những anh chị em!
Xin cám ơn anh chị em về những gì anh chị em là và những gì anh chị em làm, về niềm vui khi anh chị em loan báo Tin Mừng và về những vất vả và hy sinh mà anh chị em gắng chịu và làm cho nó tiến triển. Đây là con đường được các thánh Tông đồ Phaolô và Barnaba chỉ ra. Tôi ước mong anh chị em sẽ luôn là một Giáo hội kiên nhẫn phân định, đồng hành và hội nhập, một Giáo hội huynh đệ dành chỗ cho những người khác, tranh luận nhưng vẫn luôn hiệp nhất. Tôi chúc lành cho anh chị em và tôi xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho tôi! Efcharistó! [Cám ơn!]
Nguồn: Vatican News
ĐTC thăm hữu nghị Tổng thống Sýp
Dinh Tổng thống nằm gần trung tâm thành phố Nicosia. Dưới thời cai trị của Anh (1878-1960), nơi này là Trụ sở Chính quyền. Sau khi đảo Sýp được độc lập, toà nhà trở thành Dinh Tổng thống và là nơi cư ngụ chính thức và nơi làm việc chính của Tổng thống.
Tổng thống Cộng hoà Sýp, ông Nicos Anastasiades, sinh năm 1946. Ông tốt nghiệp ngành luật tại Đại học Athens vào năm 1969 và tốt nghiệp Luật Hàng hải ở Đại học Luân Đôn vào năm 1971. Từ năm 1972 ông bắt đầu hành nghề luật sư. Từ năm 1976 ông nằm trong số những người thành lập đảng trung tả Nhóm Dân chủ, và làm phó chủ tịch và chủ tịch của đảng từ năm 1997-2006. Ông đã từng giữ chức Chủ tịch Bộ Giáo dục, Chủ tịch Uỷ ban liên quốc hội về ngoại vụ. Ông được bổ nhiệm làm phó chủ tịch hạ viện từ năm 1996-2001. Ngày 24/2/2013 ông được bầu làm Tổng thống Cộng hoà Sýp. Ông đã lập gia đình và có hai người con.
Đến Dinh Tổng thống, Đức Thánh Cha được Tổng thống đón tại lối vào Dinh Tổng thống, cạnh tượng tổng giám mục Makarios, Tổng thống đầu tiên của Sýp. Tại đây bắt đầu nghi thức chào đón.
Sau khi Đức Thánh Cha cùng Tổng thống Sýp duyệt qua hàng quân danh dự, quốc thiều của Vatican và Sýp được đoàn quân nhạc tấu lên và quốc kỳ của hai nước cũng được kéo lên. Kế đến Đức Thánh Cha và Tổng thống đã giới thiệu các thành phần của hai phái đoàn.
Sau nghi lễ chào đón, Tổng thống Sýp đã cùng Đức Thánh Cha vào tiền sảnh của Dinh Tổng thống và chụp hình chung, và hai vị đã hội kiến riêng tại phòng làm việc của Tổng thống.
Đức Thánh Cha đã tặng Tổng thống Sýp một mề đay lưu niệm. Mề đay này một mặt có huy hiệu và tên Đức Giáo hoàng Phanxicô, một mặt có hình hai thánh tông đồ Phaolô và Barnaba, những nhân vật chính của việc loan báo Tin Mừng ở Sýp.
Thánh Barnaba được điêu khắc đứng bên trái, tay cầm sách Tin Mừng và tay kia cầm cây gậy, biểu tượng cho cuộc hành hương của ngài để loan báo Lời Chúa. Phía sau ngài là nhà thờ Chrysopolitissa ở Paphos, hình ảnh biểu tượng của lịch sử lâu đời của Kitô giáo ở Sýp và ngày nay cũng là nơi gặp gỡ của các hệ phái Kitô khác nhau.
Ở bên phải là hình thánh Phaolô, tay cầm bút và cuộn giấy, diễn tả việc viết các thư nổi tiếng của ngài. Phía sau ngài là một khung cảnh mang tính biểu tượng về Hy Lạp cổ đại, nơi được ngài đến và loan báo Tin Mừng; nổi bật là cuộc gặp gỡ của ngài tại đồi Areopagus ở Athens.
Tổng thống Cộng hoà Sýp cũng giới thiệu gia đình của ông với Đức Thánh Cha.
Sau cuộc gặp gỡ riêng, Đức Thánh Cha và Tổng thống cùng đi đến Phòng Nghi lễ để gặp gỡ các cấp chính quyền dân sự và xã hội và ngoại giao đoàn.
Hồng Thủy - Vatican News
ĐTC gặp các linh mục, tu sĩ, phó tế, giáo lý viên của Giáo hội Sýp (02-12-2021)
Sau khi được chào đón chính thức tại sân bay quốc tế Larnaca, vào lúc 16 giờ thứ Năm 02/12/2021, Đức Thánh Cha đến Nhà thờ chính toà Maronite Đức Mẹ Ban Ơn ở Nicosia, để gặp các linh mục, tu sĩ nam nữ, phó tế, giáo lý viên, các hiệp hội và phong trào của Giáo hội Sýp.
Thành phố Nicosia
Nicosia là thủ đô của của Sýp, nằm ở đồng bằng Mesoria, giữa những ngọn núi của Kyrenia ở phía bắc, cao nguyên Troodos ở phía nam và dọc theo sông Pedieos. Thành phố trung tâm của đảo Sýp, đảo lớn thứ ba ở Địa Trung Hải. Năm 1974, sau cuộc xâm lược của người Thổ Nhĩ Kỳ, thành phố bị chia cắt thành hai, một phần thuộc Sýp và một phần thuộc Thổ Nhĩ Kỳ.
Ngày nay Nicosia, thủ đô bị chia cắt cuối cùng trên lục địa châu Âu, là một trong những trung tâm kinh tế và tài chính quan trọng của Đông Địa Trung Hải. Ngoài những điểm chính liên quan đến lịch sử, Nicosia được bao quanh bởi các bức tường thành bằng đá sa thạch do người Venice xây dựng vào thế kỷ XVI. Các bức tường được gia cố bởi mười một pháo đài hình trái tim và được bảo vệ bởi một con hào rộng 80 mét. Bên trong, có khu phố truyền thống của Laiki Geitonia, với các quán rượu, cửa hàng, nhà hàng và các phòng trưng bày. Các bức tường xung quanh có ba cổng lịch sử. Những con hào xung quanh khu phức hợp từ lâu đã được chuyển đổi thành một công viên.
Nhà thờ chính toà Maronite Đức Mẹ Ban Ơn
Khi tới Nhà thờ chính toà Maronite Đức Mẹ Ban Ơn ở Nicosia, Đức Thánh Cha được Đức Tổng Giám mục Maronite đón tại lối vào chính và cả hai cùng tiến vào nhà thờ.
Nhà thờ chính toà Maronite Đức Mẹ Ban Ơn ở Nicosia được xây dựng vào thế kỷ XVII, và được trùng tù và khánh thành vào ngày 28/10/1961. Những lần trùng tu tiếp theo có liên quan đặc biệt đến bàn thờ, theo các tiêu chuẩn của phụng vụ Maronite; rồi các cửa sổ kính màu nghệ thuật được lắp đặt mô tả theo cuộc đời của các vị thánh Maronite và đã được thực hiện khảm ở mặt ngoài. Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI đã đến thăm nhà thờ vào ngày 06/6/2010.
Buổi gặp gỡ
Buổi gặp gỡ được bắt đầu với bài hát, lời chào mừng của Đức Hồng y Béchara Boutros Raï, Thượng phụ của Antiochia của các tín hữu Maronite, lời chứng của hai nữ tu đại diện.
Trong bài diễn văn trước những người hiện diện, Đức Thánh Cha cám ơn các linh mục, tu sĩ, phó tế, giáo lý viên và các thành viên của các hiệp hội, phong trào về thừa tác vụ và sự phục vụ họ đang thực hiện. Ngài đặc biệt cám ơn các nữ tu về hoạt động giáo dục mà các chị đang thực hiện trong các trường học, nơi có nhiều trẻ em trên đảo tham gia. Đây là nơi gặp gỡ, đối thoại và học biết nghệ thuật xây những cây cầu.
Hành hương theo vết chân thánh Barnaba
Đức Thánh Cha nói ngài đến đây như một người hành hương theo vết chân Tông đồ vĩ đại Barnaba, người con của dân tộc này, môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến và một người loan báo Tin Mừng dũng cảm. Ngài giải thích: “Khi đến thăm các cộng đoàn mới được khai sinh, thánh Tông đồ đã thấy ân sủng Chúa đang hoạt động; ngài vui mừng và “khuyên nhủ mọi người bền lòng gắn bó cùng Chúa” (Cv 11, 23). Tôi đến đây cùng với ước muốn đó: thấy ân sủng Chúa đang hoạt động trong Giáo hội và trong vùng đất của anh chị em, để vui mừng với anh chị em về những điều kỳ diệu Chúa đã thực hiện, và mời gọi anh chị em luôn kiên trì, không mệt mỏi hay nản lòng”.
Chào hai cộng đoàn Giáo hội
Tiếp đến, Đức Thánh Cha chào hai cộng đoàn Giáo hội hiện diện tại đây: Giáo hội Maronite, với nhiều thử thách, nhưng vẫn kiên vững trong đức tin. Ngài cám ơn các tín hữu vì những gì đang thực hiện tại đây tại Sýp. Đức Thánh Cha nói: “Cây tùng tuyết của Libăng được nhắc đến nhiều lần trong Kinh Thánh như một ví dụ về vẻ đẹp và sự hùng vĩ. Nhưng ngay cả cây tùng tuyết vĩ đại cũng mọc lên từ rễ và từ từ đâm chồi. Anh chị em là những gốc rễ đó, được bứng trồng ở Sýp để lan tỏa hương thơm và vẻ đẹp Tin Mừng”.
Với Giáo hội Latinh, Đức Thánh Cha nói: “hiện diện ở đây hàng thiên niên kỷ, theo thời gian, đã chứng kiến lòng nhiệt thành đức tin, cùng với sự tăng trưởng của con cái Giáo hội. Ngày nay, nhờ sự hiện diện của nhiều anh chị em di cư, đã thể hiện như một dân tộc ‘đa sắc’, một nơi gặp gỡ thực sự giữa các dân tộc và nền văn hóa khác nhau.”. Ngài giải thích: “Giáo hội cũng vậy, công giáo, nghĩa là phổ quát, là một không gian rộng mở, trong đó tất cả mọi người đều được chào đón và quy tụ bởi lòng thương xót và lời mời gọi yêu thương của Chúa. Trong Giáo hội Công giáo không có những bức tường. Vì Giáo hội là ngôi nhà chung, là nơi của những tương quan, là sự chung sống trong đa dạng”.
Mẫu gương thánh Barnaba: Kiên nhẫn trong sứ vụ
Đức Thánh Cha nói về thánh Barnaba, đấng bảo trợ của các tín hữu tại đảo Sýp, bằng những từ mô tả cuộc đời và sứ vụ của ngài:
Đầu tiên là sự kiên nhẫn. Thánh Barnaba được Giáo hội Giêrusalem chọn đến thăm một cộng đoàn mới, Antiôkhia, được tạo thành từ một số người mới trở lại. Đến nơi, ngài thấy những người đến từ một thế giới, một nền văn hóa khác, một sự nhạy cảm tôn giáo khác. Những người có một đức tin đầy nhiệt thành, nhưng vẫn còn mong manh. Trong hoàn cảnh này, thái độ của thánh Barnaba là sự kiên nhẫn. Đó là sự kiên nhẫn không ngừng lên đường, để bước vào cuộc sống của những người chưa biết, để chấp nhận những gì là mới, không vội vàng phán xét. Kiên nhẫn phân định, biết nắm bắt những dấu hiệu hoạt động của Chúa ở khắp mọi nơi; kiên nhẫn để “nghiên cứu” các nền văn hóa và truyền thống khác. Đặc biệt, thánh Barnaba có sự kiên nhẫn đồng hành: ngài không áp đặt đức tin mong manh của những người mới đến bằng thái độ khắt khe và thiếu linh hoạt, hoặc bằng cách đưa ra những đòi hỏi quá nhiều về việc tuân thủ các giới luật. Ngài đồng hành và đối thoại với họ.
Chúng ta cần một Giáo hội kiên nhẫn. Một Giáo Hội không để cho mình bị xáo trộn và bối rối trước những thay đổi, nhưng thanh thản đón nhận tính mới lạ và phân định những tình huống dưới ánh sáng Tin Mừng. Trên hòn đảo này, công việc anh chị em làm trong việc chào đón những anh chị em mới đến từ những bờ biển khác của thế giới thật là quý giá. Giống như thánh Barnaba, anh chị em cũng được kêu gọi để vun trồng một cái nhìn kiên nhẫn và chú ý, để trở thành những dấu hiệu dễ thấy và đáng tin cậy của sự kiên nhẫn của Chúa, Đấng không bao giờ để bất cứ ai bên ngoài ngôi nhà, ngoài vòng tay yêu thương của Người.
Mời gọi các giám mục và linh mục kiên nhẫn trong sứ vụ
Tới đây, Đức Thánh Cha mời gọi các Giám mục: “Hãy là những mục tử kiên nhẫn trong sự gần gũi, không mệt mỏi tìm kiếm Chúa trong cầu nguyện, gặp gỡ các linh mục, các anh chị em của các hệ phái Kitô khác với sự tôn trọng và ân cần, các tín hữu nơi họ đang sinh sống”. Và ngài mời gọi các linh mục: “hãy kiên nhẫn với các tín hữu, luôn sẵn sàng khuyến khích họ, hãy là những thừa tác viên không biết mệt mỏi về sự tha thứ và lòng thương xót của Chúa. Đừng bao giờ là những quan toà khắt khe, nhưng luôn là những người cha yêu thương. Công trình của Chúa hoàn thành nơi mỗi người là một ‘lịch sử thánh thiêng’: chúng ta hãy say mê hoạt động này”.
Mẫu gương thánh Barnaba: Sống tình huynh đệ trong sứ vụ
Đức Thánh Cha nói tiếp về điểm thứ hai nơi con người của thánh Barnaba: Cuộc gặp gỡ giữa ngài với Phaolô thành Tarsô và tình bạn huynh đệ của họ, giúp họ cùng nhau thực hiện sứ vụ. Sau khi Phaolô trở lại, “mọi người đều sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ” (Cv 9,26), vì trước đây ông là kẻ bắt bớ các tín hữu. Ở đây Sách Công Vụ Tông đồ cho chúng ta biết một điều rất hay: “Barnaba đưa Phaolô đi cùng với ông” (c. 27), đưa ông đến với cộng đoàn, thuật lại những gì đã xảy ra với ông và bảo lãnh cho ông. Chúng ta hãy lắng nghe những lời đó, “ông đưa Phaolô đi cùng với ông”. Điều này gợi lên sứ vụ của chính Chúa Giêsu, vì Người đã đưa các môn đệ đi theo Người qua các đường phố của Galilê và mang lấy nhân loại của chúng ta bị thương tích bởi tội lỗi. Đó là thái độ của tình bạn và chia sẻ cuộc sống. Đưa đi cùng có nghĩa là cùng mang lấy lịch sử của người khác, dành thời gian để hiểu biết họ, không dán nhãn, mang họ trên vai khi họ mệt mỏi hoặc bị thương, như người Samari nhân hậu đã làm (Lc 10, 25-37). Đây là tình huynh đệ.
Barnaba và Phaolô, như hai anh em, cùng đi loan báo Tin Mừng. Lời Chúa tăng trưởng và lớn mạnh, không chỉ vì phẩm chất con người của hai ông, nhưng trên hết vì hai ông là anh em trong danh Chúa, và tình huynh đệ của họ làm giới răn yêu thương được toả sáng. Sau đó, như đã xảy ra trong cuộc sống, một sự kiện không mong đợi đã xảy ra: có sự bất hoà và chia tay nhau (Cv 15, 39). Giữa anh chị em cũng có những lần tranh luận và cãi nhau. Tuy nhiên, Phaolô và Barnaba không chia tay nhau vì lý do cá nhân, nhưng vì họ đang tranh luận về thừa tác vụ. Đây là tình huynh đệ trong Giáo hội: chúng ta có thể tranh luận về những quan điểm, những ý tưởng khác nhau. Trong một số trường hợp, thẳng thắn nói ra có thể mang lại ích lợi, vì đó là cơ hội để trưởng thành và thay đổi. Tuy nhiên, chúng ta hãy luôn nhớ rằng: chúng ta tranh luận không phải vì để gây chiến hay áp đặt ý kiến riêng của mình, nhưng để bày tỏ và sống sức sống của Thần Khí, là tình yêu và sự hiệp thông.
Đức Thánh Cha mời gọi: “Chúng ta cần một Giáo hội huynh đệ, một Giáo hội là khí cụ tình huynh đệ cho thế giới. Ở đây, ở Sýp có rất nhiều sự nhạy cảm về tâm linh và Giáo hội, nguồn gốc, lịch sử, các lễ nghi và truyền thống khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta không được coi sự đa dạng như một mối đe dọa đối với căn tính; chúng ta không được ghen tị hoặc bận tâm đối với các vấn đề khác. Nếu chúng ta rơi vào cám dỗ này, thì nỗi sợ hãi sẽ lớn dần lên, và rồi sinh ra sự hoài nghi và rồi sớm muộn gì cũng dẫn đến chiến tranh”.
Đức Thánh Cha kết thúc bài diễn văn với lời mời gọi: “Với tình huynh đệ, anh chị em có thể nhắc nhở mọi người, và toàn thể châu Âu rằng, để xây dựng một tương lai xứng đáng với nhân loại, cần phải cùng nhau làm việc, vượt lên trên những chia rẽ, phá bỏ các bức tường, vun trồng ước mơ hiệp nhất. Chúng ta cần chào đón và hòa nhập, cùng nhau bước đi như những anh chị em!”.
Ngọc Yến - Vatican News
ĐTC đến đảo Sýp, chặng thứ nhất của chuyến tông du
Theo truyền thống, giám mục đầu tiên của thành phố Lanarca là thánh Ladarô, người bạn làng Bêtania đã được Chúa Giêsu cho sống lại.
Khi máy bay chở Đức Thánh Cha dừng lại tại sân dành cho các nguyên thủ, nơi dành cho nghi lễ tiếp đón chính thức, Sứ thần Toà Thánh tại Sýp, Đức tổng giám mục Adolfo Tito Yllana, và trưởng ban Nghi lễ của Sýp đã lên máy bay chào Đức Thánh Cha.
Bước xuống thang máy bay, Đức Thánh Cha được Chủ tịch Quốc hội của Sýp, bà Annita Demetriou, chào đón tại chân thang máy bay.
3 thiếu nhi trong trang phục truyền thống tặng hoa cho Đức Thánh Cha.
Sau khi duyệt qua hàng quân danh dự, Đức Thánh Cha và Chủ tịch Quốc hội của Sýp giới thiệu hai phái đoàn của Vatican và đảo Sýp.
Kết thúc nghi lễ tiếp đón, Đức Thánh Cha và bà Chủ tịch Quốc hội đến phòng VIP hội kiến riêng.
Sau cuộc hội kiến ngắn với Chủ tịch Quốc hội, Đức Thánh Cha di chuyển bằng xe hơi đến thủ đô Nicosia và viếng thăm nhà thờ chính toà Đức Mẹ Ban ơn của Giáo hội Công giáo Maronite để gặp gỡ các linh mục, tu sĩ, phó tế, giáo lý viên, các hội đoàn và các phong trào của Giáo hội Sýp.
Hồng Thủy - Vatican News
Đức Tổng giám mục Gänswein phê bình con đường Công nghị của Công giáo Đức
Đức Tổng giám mục Georg Gänswein, bí thư riêng của Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI, phê bình con đường Công nghị của Công giáo Đức đang tiến hành từ hai năm nay, với mục đích cải tổ sâu rộng Giáo hội tại nước này, sau những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên trong những thập niên trước đây.
Con đường này là một tiến trình do Hội đồng Giám mục và Ủy ban trung ương giáo dân Công giáo Đức đề xướng nhắm cải tổ Giáo hội trong bốn lãnh vực thực thi quyền bính trong Giáo hội, cụ thể là dân chủ hóa; vai trò của phụ nữ trong Giáo hội, trong đó có việc cho phụ nữ chịu thánh chức, cải tổ luân lý tính dục của Giáo hội cho hợp thời và sau cùng là thay đổi luật độc thân giáo sĩ. Khóa họp toàn thể của Công nghị có 230 đại biểu, đa số là giáo dân.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho “Tạp chí Vatican” (Vatican-Magazin), số ra tháng Mười Hai này, Đức Tổng giám mục Gänswein nói: “Đức cha Vorderholzer, Giám mục giáo phận Regensburg, có lý khi nói về Con đường Công nghị tại Đức là một sự “lạm dụng những vụ lạm dụng”. Tiến trình này muốn tạo nên những cải tổ trong nội bộ Giáo hội, đưa Giáo hội Công giáo tại Đức ra khỏi sự hiệp thông với Cộng đoàn Giáo hội hoàn vũ. Nếu không có sự thức tỉnh trước, thì dân chúng sẽ bị thất vọng lớn”. Hoặc các giám mục Đức phải chấm dứt sớm những đòi hỏi không thực tế, hoặc Roma phải chấm dứt. Và điều này chẳng có lợi cho Giáo hội tại Đức cũng như cho Giáo hội hoàn vũ”.
Đức Tổng giám mục Gänswein cũng tự hỏi: Con đường Công nghị của Công giáo Đức có mang lại điều gì cho đức tin của nhiều tín hữu đơn sơ hay không. Cho đến nay người ta ít nghe nói về những điều tích liên quan đến sự đào sâu và canh tân đức tin từ phía Giáo hội cơ chế với những hiệp hội Công giáo tại nước này. Thay vào đó, trong các Diễn đàn của Con đường Công nghị, có nhiều người tích cực hoạt động chính trị, họ xuất thân từ Giáo hội Công giáo nhưng nói chung họ có một cái nhìn hoàn toàn khác hẳn về các vấn đề thần học chủ yếu của Giáo hội, theo huấn quyền của Hội thánh, và nhiều lần họ lên tiếng trong dư luận.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Cựu thuyền nhân trở thành Tổng giám mục Tirana, thủ đô Albani
Một cựu thuyền nhân đã được Đức Thánh cha Phanxicô bổ nhiệm làm Tổng giám mục giáo phận Tirana-Durazzo, bên Albani hôm 30 tháng Mười Một vừa qua.
Đó là Đức cha Arjan Dodaj 44 tuổi, kế nhiệm Đức Tổng giám mục George Anthony Frendo, 75 tuổi, thuộc dòng Đa Minh người Malta, về hưu.
Năm 1993, Arjan Dodaj, 16 tuổi đã vượt biên từ Albani sang Ý. Anh cho biết đã đặt nhiều hy vọng nơi Âu châu, các giá trị tự do, sự thật, bình đẳng và tình huynh đệ. Và sau đó anh mới biết đó là những giá trị Kitô. Trong chế độ cộng sản Albani, những người mang hy vọng và bênh vực các quyền con người bị loại trừ, nhất là các giáo sĩ.
Chế độ này, hồi năm 1967, đã tuyên bố Albani là quốc gia vô thần đầu tiên. Cho đến năm 1990, những ai thực hành tôn giáo đều bị bắt và cầm tù, lao động khổ sai hoặc bị kết án tử hình. Sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, các cơ cấu của tôn giáo dần dần được tái thiết.
Tại Ý, anh Dodaj làm nghề thợ hàn và làm vườn mỗi ngày hơn mười tiếng đồng hồ. Anh được tiếp xúc lần đầu tiên với đức tin Kitô, nên đã xin rửa tội và nảy sinh ước muốn làm linh mục. Anh học triết và thần học và thụ phong linh mục, do Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong chức, trong Huynh đoàn Linh mục nam tử Thánh Giá (Fraternità Sacerdotale dei Figli della Croce), cộng đoàn Nhà Đức Maria ở Roma. Năm 2017, cha Dodaj trở về quê hương như linh mục “Hồng ân đức tin” (Fidei Donum) và chỉ ba năm sau được Đức Thánh cha Phanxicô bổ nhiệm làm Giám mục Phụ tá Tổng giáo phận Tirana-Durazzo.
Trong cuộc viếng thăm mới đây tại Vienne và trả lời phỏng vấn của hãng tin Kathpress, Đức cha Dodaj cho biết trường hợp những người Albani tìm được đức tin Kitô như bản thân ngài, không phải là điều họa hiếm. Tại Albani ngày nay có nhiều người lớn xin trở lại. Ví dụ, tại Nhà thờ chính tòa Tirana, năm nay vào dịp vọng Phục sinh, có 60 người được rửa tội. Giáo hội Công giáo tăng trưởng nhanh tại Albani và đức tin rất sinh động. Nhiều người Albani di cư ra nước ngoài, đã học được nhiều khả năng và sau đó, khi hồi hương, họ đã góp phần kiến đạo các điều kiện sinh sống tốt đẹp hơn và họ trở thành những người mang hy vọng”.
Tổng giáo phận Tirana có gần 140.000 tín hữu Công giáo trên tổng số một triệu 250.000 dân cư, với 19 giáo xứ và chỉ có 5 linh mục giáo phận và 31 linh mục dòng.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Tổng giám mục thủ đô Ailen tố giác việc sử dụng ma túy
Đức cha Dermot Farrell, Tổng giám mục giáo phận Dublin, thủ đô Cộng hòa Ailen, tố giác sự “bình thường hóa” việc sử dụng ma túy đang lan tràn tại địa phương.
Trong bài giảng Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng, hôm 28 tháng Mười Một vừa qua, tại giáo xứ Westland Row, Đức Tổng giám mục Farrell nói về hiện tượng phổ biến các chất ma túy bấp hợp pháp tại thủ đô Ailen, đến độ “sử dụng ma túy trở nên bình thường như uống một ly rượu”.
Đức Tổng giám mục cũng khẳng định rằng “Giữa kỳ đại dịch Covid-19, có một “đại dịch” khác, đó là sử dụng ma túy và nạn bạo lực liên hệ với ma túy. Hai thứ đại dịch này đòi có một câu trả lời của xã hội. Những nguyên nhân của tai ương này thật là phức tạp và sâu xa, và chỉ có thể đương đầu với chúng trong sự cộng tác của mọi người với nhau; nhờ thiện chí của cộng đoàn, của chính phủ và các vị lãnh đạo tôn giáo. Sự phổ biến ma túy tại Dublin và trên toàn quốc Ailen là một vấn đề của xã hội và các vấn đề của xã hội đòi một câu trả lời của xã hội”.
Đức Tổng giám mục Farrell tố giác sự “bình thường hóa văn hóa ma túy tại Ailen, và nhấn mạnh rằng đối với một số người, sử dụng ma túy trở thành điều bình thường như uống một ly rượu”. Nhắc đến lời Đức Thánh cha Phanxicô, Đức Tổng giám mục nói: “Vì tất cả chúng ta là anh chị em có liên hệ mật thiết với nhau, chúng ta không thể đánh mất sự liên hệ hỗ tương này để rồi đánh mất sự cảm thương, sự đồng cảm và trách nhiệm đối với những người khác. Vì thế, giải pháp không phải là chỉ ngăn chặn làn sóng các nguồn ma túy bất hợp pháp, bài trừ các băng đảng và các tổ chức buôn bán ma túy, canh chừng hữu hiệu hơn, cải tổ hệ thống hình pháp, đầu tư vào những miền từ trước đến nay vẫn bị thiệt thòi, nhưng còn là một vấn đề tính tình. Câu trả lời đích thực không phải chỉ là một chương trình tốt đẹp hơn trong vấn đề ma túy, nhưng còn là đồng hành với các gia đình có các con cái bị sa vào những cạm bẫy của những kẻ buôn bán ma túy vô lương tâm, những kẻ buôn bán sự chết chóc”.
Đức Tổng giám mục giáo phận Dublin cũng nói rằng “Để đưa con người trở lại, chúng ta phải đồng hành với nhau, và cần ủng hộ sự sống, chống lại sự chết, hỗ trợ tha nhân, giáo dục, thể thao và các cơ may công ăn việc làm. Nếu thực hiện được những công trình đó, thì sẽ không còn chỗ cho ma túy, lạm dụng rượu và các thứ nghiện ngập khác”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu