Trước khi rời nhà trọ thánh Marta ở Vatican để ra phi trường, Đức Thánh cha đã chào thăm ba gia đình người Ucraina tị nạn, được Cộng đồng thánh Egidio chăm sóc và được Đức Hồng y Krajewski, Chánh sở Từ thiện dẫn tới. Trong số họ, có một bà mẹ 37 tuổi với hai bé gái 5 và 7 tuổi, từ Lvov đến Roma cách đây 20 ngày.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh cha cử hành thánh lễ duy nhất tại Malta
Sáng Chúa nhật, mùng 03 tháng Tư, Đức Thánh cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ duy nhất, trong chuyến viếng thăm tại Malta và ngài mời gọi các tín hữu vượt thắng mọi thái độ giả hình.
Nơi Đức Thánh cha cử hành thánh lễ gọi là Quảng trường “Vựa Lúa” vì xưa kia tại đây có 76 hầm chứa lúa lớn, nằm dưới lòng đất do các Hiệp sĩ thánh Gioan kiến thiết. Đây là quảng trường lớn nhất đảo Malta, có thể chứa được 200.000 người.
Tại đây, sáng ngày 09 tháng Năm năm 2001, thánh Gioan Phaolô II Giáo hoàng đã chủ sự thánh lễ tôn phong ba chân phước người Malta, trước sự tham dự của 150.000 tín hữu. Và Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI cũng dâng thánh lễ tại đây, sáng Chúa nhật 18 tháng Tư năm 2010, trước sự tham dự của 50.000 tín hữu.
Đến nơi vào lúc gần 10 giờ, Đức Thánh cha dùng xe Papamobile tiến qua các lối đi ở địa điểm hành lễ để chào thăm khoảng 20.000 tín hữu, đoàn đại diện các Giáo hội Kitô và tôn giáo bạn, trước khi bắt đầu cử hành thánh lễ lúc quá 10 giờ. Vì tình trạng đại dịch, dân chúng tại Malta vẫn còn phải chịu nhiều hạn chế, kể cả trong các buổi lễ tôn giáo.
Đồng tế với Đức Thánh cha có khoảng hơn mười hồng y, giám mục, kể cả các vị thuộc đoàn tùy tùng của Đức Thánh cha và hàng trăm linh mục.
Bài giảng của Đức Thánh cha
Trong bài giảng, Đức Thánh cha diễn giải bài Tin mừng Chúa nhật thứ V Mùa chay năm C, kể lại người đàn bà ngoại tình bị những người biệt phái và luật sĩ dẫn đến trước mặt Chúa Giêsu với hy vọng để ngài kết án ném đá người đàn bà tội lỗi ấy. Đức Thánh cha phân tích thái độ của những người tố cáo và người phụ nữ tội lỗi để rút ra những bài học cho các tín hữu.
Đức Thánh cha nói:
“Trước tiên, về những kẻ cáo buộc người đàn bà. Nơi họ, chúng ta nhìn thấy hình ảnh của những người tự phụ là công chính, tuân giữ luật Chúa, những người tử tế, tốt lành. Họ chẳng để ý đến những khuyết điểm của bản thân, nhưng lại rất chú ý để vạch ra những lỗi của người khác. Và vì thế, họ đến gặp Chúa Giêsu, không phải với tâm hồn cởi mở lắng nghe Chúa, nhưng “để thử thách và để có lý do để cáo buộc Người” (v.6)”.
Đức Thánh cha nhận xét rằng: “Đó là những người có học thức và mộ đạo, biết Kinh thánh, lui tới đền thờ, nhưng lại đặt tất cả những việc ấy để phục vụ cho tư lợi, chứ không bài trừ những tư tưởng ác ý trong tâm hồn họ. Trước mắt người đời, họ có vẻ là những chuyên gia về Thiên Chúa, nhưng chính họ lại không biết Chúa Giêsu, hay đúng hơn họ coi Người như một kẻ thù từ bên ngoài đến. Để làm điều đó, họ đặt người phụ nữ trước mặt Chúa, như thể đó là một đồ vật và gọi bà ta với giọng khinh bỉ “bà này” và công khai tố cáo bà ngoại tình. Họ thúc giục để phụ nữ ấy bị ném đá, đổ trên bà sự oán ghét của họ đối với lòng cảm thương của Chúa Giêsu. Họ làm tất cả những điều đó dưới danh nghĩa họ là những người đạo đức.”
Áp dụng vào bản thân
Đức Thánh cha nói: “Anh chị em thân mến, những nhân vật đó nói với chúng ta rằng cả trong lối sống đạo của chúng ta cũng có thể bị vết tích giả hình và thích chỉ tay chống người khác. Trong mọi thời, mọi cộng đoàn, luôn có nguy cơ hiểu lầm Chúa Giêsu, miệng kêu tên Chúa, nhưng lại phủ nhận Chúa trong việc làm. Người ta cũng có thể làm như thế, khi dương cao lá cờ thánh giá. Vậy, làm sao kiểm chứng xem chúng ta có phải là các môn đệ tại trường của Thầy hay không? Thưa, qua cái nhìn, qua cách thức chúng ta nhìn tha nhân và nhìn bản thân mình như thế nào.”
“Qua cách thức chúng ta nhìn tha nhân: nếu chúng ta làm như Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta hôm nay, nghĩa là hoặc với cái nhìn từ bi, hoặc cái nhìn xét đoán, thậm chí nhiều khi khinh rẻ, như những người cáo buộc trong bài Tin mừng, người ta coi mình là chiến sĩ của Thiên Chúa, nhưng lại không nhận thấy mình chà đạp anh chị em. Trong thực tế, ai tưởng mình bảo vệ đức tin nhưng lại chỉ tay chống lại tha nhân, thì tuy có một tôn giáo, nhưng lại không tuân giữ tinh thần Tin mừng, vì họ quên lòng thương xót là con tim của Thiên Chúa.
“Để kiểm chứng xem chúng ta có thực là các môn đệ của Thầy Chí Thánh hay không, cũng cần kiểm điểm xem chúng ta nhìn chính mình như thế nào. Những kẻ cáo buộc người phụ nữ xác tín mình chẳng có gì để học hỏi. Thực vậy, bộ máy bên ngoài của họ rất hoàn hảo, nhưng lại thiếu sự thật của con tim. Họ là hình ảnh những tín hữu, trong mọi thời đại, biến đức tin thành một yếu tố bên ngoài, qua đó, điều nổi bật là cái vẻ bề ngoài long trọng, nhưng lại thiếu sự thanh bần nội tâm, là kho tàng quí giá nhất của con người (...). Vì thế, khi cầu nguyện hoặc tham dự các buổi lễ tôn giáo, chúng ta nên tự hỏi xem mình có hòa hợp với Chúa hay không... Và khi chúng ta cởi mở tâm hồn với Chúa trong sự thật, Ngài có thể làm những điều kỳ diệu nơi chúng ta.
Thái độ người phụ nữ ngoại tình
Đức Thánh cha nói tiếp: “Bây giờ chúng ta hãy xem người đàn bà ngoại tình. Tình trạng bà ta có vẻ bị tổn hại, nhưng dưới mắt bà, có mở ra một chân trời, không thể tưởng. Bị lăng mạ, sẵn sàng chịu những lời quyết đoán và những hình phạt nghiêm khắc, bà ta ngạc nhiên khi thấy mình được Thiên Chúa tha bổng, mở ra cho bà trước một tương lai bất ngờ: “Không ai lên án bà sao?” - Chúa Giêsu nói - Tôi cũng không lên án bà; hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (vv.10.11). Thật là sự khác biệt dường nào giữa Thầy và những kẻ cáo buộc! Những kẻ ấy trích dẫn Kinh thánh để kết án; Chúa Giêsu, là hiện thân Lời của Thiên Chúa, phục hồi hoàn toàn cho người phụ nữ ấy, trả lại hy vọng cho bà. Từ sự việc này chúng ta học thấy rằng mỗi nhận xét, nếu không do đức bác ái thúc đẩy và không chứa đựng bác ái thì chôn vùi thêm người nhận những quan sát đó. Trái lại, Thiên Chúa luôn mở ngỏ một khả thể và mỗi lần đều biết tìm thấy những con đường giải thoát và cứu độ.
Cuộc sống của người phụ nữ ấy thay đổi nhờ tha thứ. Thậm chí có thể nghĩ rằng nhờ được Chúa Giêsu tha thứ, bà cũng học biết tha thứ. Có thể là bà không nhìn thấy nơi những kẻ cáo buộc mình là những người cứng nhắc và gian ác, nhưng như những người đã giúp bà gặp được Chúa Giêsu. Chúa muốn rằng chúng ta, những môn đệ của Người, trong tư cách là Giáo hội, được Chúa tha thứ, trở thành những chứng nhân không biết mệt mỏi về sự tha thứ: chứng nhân của một Thiên Chúa, đối với Người, không có từ “không thể phục hồi được”; một Thiên Chúa luôn tha thứ, tiếp tục tin nơi chúng ta và ban mọi cơ hội để bắt đầu lại.
Và Đức Thánh cha kết luận rằng: Nếu chúng ta noi gương Chúa, chúng ta sẽ không đi đến chỗ tập trung vào việc tố cáo tội lỗi, nhưng yêu thương tìm kiếm những tội nhân. Chúng ta sẽ không quan tâm đến những người hiện diện, nhưng đi tìm những người vắng mặt. Chúng ta sẽ không tái chỉ tay lên án, nhưng bắt đầu lắng nghe. Không gạt bỏ những người bị khinh rẻ, nhưng coi như thứ nhất những người bị coi là rốt cùng.
Cuối thánh lễ, Đức Tổng giám mục giáo phận Malta sở tại, Scicluna, đã đại diện mọi người cám ơn Đức Thánh cha. Nhân dịp này, Đức Thánh cha cũng ngỏ lời cám ơn Đức Tổng giám mục và mọi người. Đặc biệt ngài cám ơn Tổng thống và chính quyền, các anh em giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và mọi công dân, tín hữu ở Malta vì sự đón tiếp và lòng quí mến. Ngài tái kêu gọi cầu nguyện cho nhân dân Ucraina tiếp tục phải chịu những cuộc pháo kích và dội bom.
Sau đó, Đức Thánh cha và mọi người đọc kinh Truyền tin kính Đức Mẹ, trước khi ban phép lành kết thúc, vào lúc 11 giờ 45 giờ địa phương. Liền đó, Đức Thánh cha về Tòa Sứ thần để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVATông du Malta - ĐTC chủ sự giờ cầu nguyện tại đền thánh Đức Mẹ Ta' Pinu
Đền thánh Ta' Pinu
Đền thánh Ta' Pinu là nơi hành hương nổi tiếng nhất của Malta. Nhà thờ được xây theo kiến trúc gô-tích với Thánh giá kiểu Latinh. Bên trong nhà thờ có lưu giữ rất nhiều lời khấn nguyện, bằng chứng lòng đạo đức bình dân của người dân Malta.
Vào những năm 1500, tại nơi này đã có một nhà nguyện nhỏ. Năm 1575, khi nhà nguyện bị bỏ hoang và hư hoại, đặc sứ của Đức Gregorio XIII đã ra lệnh phá bỏ nhà nguyện. Nhưng khi công việc mới bắt đầu thì một công nhân bị gãy tay. Sự việc được hiểu như là một dấu chỉ và do đó công việc phá dỡ nhà nguyện được dừng lại. Nhà nguyện ban đầu thuộc tài sản của dòng họ Gentili, sau đó được một người tên Pino Gauci mua lại; từ đó có tên Ta' Pinu. Pino Gauci đã nới rộng và tu sửa nhà nguyện, đặt trong nhà thờ một bức ảnh Đức Mẹ Hồn xác lên trời do hoạ sĩ người Ý Amedeo Perugino vẽ. Bức ảnh vẫn được lưu giữ cho đến ngày nay.
Sau khi bị đóng cửa trong vài thế kỷ, nhà thờ được mở lại khi một sự kiện lạ thường xảy ra. Theo lưu truyền, ngày 22/6/1883, khi đi ngang qua nhà thờ, bà Carmela Grima, một phụ nữ nhà quê, đã nghe một giọng nói yêu cầu bà đọc "ba kinh Kính Mừng, mỗi kinh cho một ngày khi thân xác Ta ở trong mồ." Bà đã kể lại với người bạn và người này cho biết chính ông cũng nghe lời yêu cầu giống như thế khi ở gần nhà nguyện. Trong thời gian này hai người này cũng được chữa lành bệnh cách lạ lùng. Trong thời gian ngắn, tin tức của hai thị nhân này đã lan truyền khắp hòn đảo và nhà nguyện Ta' Pinu trở thành nơi hành hương. Năm 1887, khi đảo Gozo tránh được trận dịch tả cách kỳ diệu, Đức giám mục đã cho phép cử hành phụng vụ kính Đức Mẹ tại đây.
Để kỷ niệm 100 năm lần hiện ra đầu tiên, Đại hội Đức Mẹ Quốc tế lần thứ IX đã được tổ chức tại Malta vào tháng 9/1983. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã cử hành Thánh lễ tại thềm đền thờ vào ngày 26/5/1990.
Đến gần đền thánh, Đức Thánh Cha chuyển sang dùng papamobile - xe mui trần của Đức Thánh Cha. Đến đền thánh, ngài đi xe vào lối bên cạnh, trong khi 3.000 tín hữu chờ đợi ngài tại quảng trường lớn.
Viếng Đức Mẹ
Tại cửa vào đền thánh, Đức Thánh Cha được cha giám đốc đền thánh chào đón. Sau đó ngài cùng với Đức Hồng y Mario Grech, Tổng Thư ký Thượng Hội đồng Giám mục, Đức Tổng Giám mục của Malta và Đức Giám mục của Gozo tiến vào nhà nguyện của đền thánh. Đến trước ảnh Đức Mẹ, Đức Thánh Cha đã dâng kính Đức Mẹ một cành hoa hồng mạ vàng và đọc 3 kinh Kính Mừng, rồi ngài đến trước bàn thờ chính, chào và chúc lành cho các bệnh nhân hiện diện trong đền thờ và đi đến thềm đền thờ.
Hiện diện tại buổi cầu nguyện có đại diện của Giáo hội địa phương, có các thiếu nhi, thanh thiếu niên, người trẻ, các gia đình và các thành viên của các hiệp hội của Giáo hội; cũng có các vị đại diện chính quyền dân sự của đảo Gozo, cũng như rất đông linh mục, tu sĩ nam nữ và thành viên các tu hội đời.
Bắt đầu giờ cầu nguyện, Đức cha Anthony Teuma, giám mục của Gozo đã có lời chào mừng Đức Thánh Cha đến với Gozo, "một đảo nhỏ nhưng có trái tim vĩ đại", chào mừng Đức Thánh Cha đến với "nhà của chúng con và của Mẹ chúng con - đền thánh Đức Mẹ Ta' Pinu".
Chứng từ cảm động của đôi vợ chồng Sandi và Domenico Apap
Tiếp đến là phần trình bày chứng từ. Đầu tiên là chứng từ của đôi vợ chồng Sandi và Domenico Apap, kết hôn được 29 năm và có một con gái và một cháu ngoại. Bà Sandi cho biết, 4 năm sau khi kết hôn, khi mới 23 tuổi, bà bắt đầu bị chứng đa xơ cứng. Cuộc sống của họ thay đổi khi các triệu chứng của căn bệnh của bà gia tăng và các ước mơ của tuổi trẻ cũng tan theo. Hiện nay tình trạng sức khoẻ của bà phức tạp hơn do không thể di chuyển và lại bị nhiễm Covid-19. Thật khó để chấp nhận căn bệnh này. Bà thường tự hỏi tại sao Chúa lại để cho tất cả điều này xảy ra. Nhiều lần bà kêu lên: "Chúa ơi, Chúa ở đâu?" Nhưng cũng có điều gì đó đã giúp bà không tuyệt vọng và bà nói, "Lạy Chúa, Chúa biết cuộc đời con. Con phó thác mọi sự trong tay Chúa."
Còn ông Domenico thì nhìn nhận rằng bà Sandi vợ ông là quà tặng lớn nhất Thiên Chúa ban cho gia đình. Ông nói: "Kinh nghiệm đau khổ mà chúng con đã trải qua và tiếp tục cùng nhau sống không chỉ không huỷ diệt chúng con hay làm chúng con xa cách nhau, nhưng liên kết chúng con hơn, củng cố chúng con trong tình yêu thương nhau như một gia đình." Nhiều lần ông đặt câu hỏi với Chúa và không tìm được câu trả lời như mong muốn. Nhưng dần dần Chúa ban cho ông ơn hiểu rằng sứ vụ của ông là ở bên cạnh vợ và cùng bà vác thập giá. Ông nói: "Tôi học được rằng khi đau khổ được sống với tình yêu, nó không còn là đau khổ nữa mà trở thành niềm vui."
Tiếp đến là chứng từ của Jennifer Cauchi, chia sẻ về sự an bình khi đến với Đức Mẹ và chứng từ của Francesco Pio Attard, với băn khoăn thao thức làm sao Giáo hội gìn giữ kho tàng đức tin, và thực hiện sứ vụ ngôn sứ...
Bài giảng của Đức Thánh Cha
"Giờ" của Chúa Giêsu và khởi đầu của Giáo hội
Sau bài Phúc âm trích từ Tin Mừng thánh Gioan, thuật lại những lời cuối cùng của Chúa Giêsu trên Thánh Giá, Đức Thánh Cha bắt đầu bài giảng với "giờ" của Chúa Giêsu, trong Tin Mừng thánh Gioan là giờ chết của Người trên thập giá, với hình ảnh Mẹ Maria và thánh Gioan đứng dưới chân Thánh Giá, khi "mọi sự dường như đã mất, đã hết, vĩnh viễn;" với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: "Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46; Mk 15,34), cũng là lời cầu nguyện của chúng ta vào những lúc đau khổ.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng "giờ" chết của Chúa Giêsu "không có nghĩa là sự kết thúc của lịch sử. Nhưng nó đánh dấu sự khởi đầu của một sự sống mới." Một giờ khác tràn đầy sự sống được bắt đầu. Đó là thời gian của Giáo hội. "Bắt đầu với hai người đứng bên dưới Thánh giá, Chúa sẽ quy tụ một dân tộc tiếp tục đi trên những nẻo đường quanh co của lịch sử, mang trong lòng mình sự an ủi của Thánh Linh, để lau khô nước mắt của nhân loại."
Nói về đền thánh Đức Mẹ Ta' Pinu, Đức Thánh Cha nhận xét rằng, từ một nhà nguyện nhỏ đang bị hư hỏng, sắp bị phá bỏ, một loạt các sự kiện sẽ xoay chuyển tình thế, ngôi nhà thờ nhỏ bé ấy đã trở thành đền thánh quốc gia, là điểm đến của những người hành hương và là nguồn sống mới. Một nơi từng bị nghĩ rằng đã bị bỏ rơi thì giờ đây làm sống lại đức tin và hy vọng trong Dân Chúa. Từ đó Đức Thánh Cha mời gọi đánh giá ý nghĩa của “giờ” của Chúa Giêsu đối với cuộc sống của chúng ta. Ngài nói: "Giờ cứu độ đó cho chúng ta biết rằng, để canh tân đức tin và sứ mạng chung của chúng ta, chúng ta được mời gọi trở về nguồn cội, trở về với Giáo hội sơ khai mà chúng ta nhìn thấy dưới chân Thánh giá nơi con người của Mẹ Maria và Thánh Gioan."
Khám phá lại những điều cốt yếu trong đức tin của chúng ta
Theo Đức Thánh Cha, quay trở lại những nguồn cội, trước tiên, có nghĩa là khám phá lại những điều cốt yếu trong đức tin của chúng ta. Quay trở lại với Giáo hội sơ khai không có nghĩa là cố gắng tái tạo mô hình Giáo hội của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi; cũng không có nghĩa là lý tưởng thái quá cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. "Nhưng trở về nguồn cội là trở về với trọng tâm và khám phá lại cốt lõi của đức tin: tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu và việc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới của Người", như các môn đệ đầu tiên, như bà Maria Mađalena và Gioan, sau khi nhìn thấy ngôi mộ trống, với sự phấn khích tột độ đã vội vã trở về loan báo tin mừng Chúa phục sinh; như các tông đồ, mỗi ngày trong đền thờ và tại tư gia, họ không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Kitô Giêsu (Cv 5,42).
Một đức tin được xây dựng và không ngừng đổi mới
Đức Thánh Cha lưu ý rằng đời sống của Giáo hội không bao giờ chỉ là “một quá khứ để tưởng nhớ”, nhưng là một “tương lai tuyệt vời để xây dựng”, luôn tuân theo các kế hoạch của Thiên Chúa. Chúng ta cần một đức tin được xây dựng và không ngừng đổi mới trong cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa Kitô, trong việc lắng nghe lời Người hằng ngày, trong việc tham gia tích cực vào đời sống của Giáo hội và trong lòng đạo đức bình dân đích thực. Ngài cảnh giác rằng chúng ta không được xem nhẹ sự khủng hoảng đức tin, sự thờ ơ thực hành tôn giáo, đặc biệt là hậu quả của đại dịch, và sự dửng dưng của nhiều người trẻ đối với sự hiện diện của Chúa khi nghĩ rằng, xét cho cùng, vẫn còn một tinh thần tôn giáo nhất định. Những nghi lễ hoành tráng không luôn là dấu chỉ của đức tin sống động.
Phát triển nghệ thuật chào đón tha nhân
Đức Thánh Cha giải thích tiếp rằng quay trở lại ban đầu cũng có nghĩa là phát triển nghệ thuật chào đón. Những lời của Chúa Giêsu trên Thánh giá, nói với Mẹ Người và với thánh Gioan, kêu gọi chúng ta làm cho việc chào đón trở thành dấu ấn của người môn đệ. Việc thánh Gioan chào đón Đức Maria vào nhà ngài là một dấu hiệu cụ thể cho thấy chúng ta nên sống điều răn cao trọng nhất, giới răn yêu thương, như thế nào. Việc thờ phượng Thiên Chúa được thực hiện qua sự gần gũi với anh chị em của chúng ta.
Chào đón tha nhân: phép thử sự thấm nhuần tinh thần Tin Mừng
Việc chào đón nhau, nhân danh Chúa Kitô, vẫn mãi là một thách đố, trước hết là đối với các mối tương quan trong Giáo hội, vì việc truyền giáo của chúng ta sẽ sinh hoa trái nếu chúng ta cùng nhau làm việc trong tình bạn và tình hiệp thông huynh đệ. Nhưng theo Đức Thánh Cha, việc chào đón cũng là phép thử để đánh giá xem Giáo hội đã thấm nhuần tinh thần Tin Mừng đến mức độ nào. Chúng ta cũng không thể chào đón nhau trong các mái ấm của những ngôi nhà thờ đẹp đẽ, trong khi bên ngoài rất nhiều anh chị em của chúng ta phải đau khổ, bị đóng đinh bởi nỗi đau, sự nghèo đói và bạo lực.
Giờ cầu nguyện với kinh Magnificat, kinh Lạy Cha và phép lành Đức Thánh Cha ban cho cộng đoàn.
Rời đền thánh Đức Thánh Cha đi xe hơi trở lại cảng Mgarr cách đó 10 km, từ đó ngài đi tàu 20 phút để đến cảng Cirkewwa của đảo Malta và từ đó Đức Thánh Cha di chuyển về Toà Sứ thần cách đó 21 km để dùng bữa tối và nghỉ đêm, kết thúc ngày thứ nhất trong chuyến viếng thăm Malta.
Hồng Thủy - Vatican News
Đức Thánh cha gặp gỡ các giới chức chính quyền và xã hội Malta
Trong cuộc gặp gỡ các giới chức chính quyền, đạo đời và xã hội tại Malta, Đức Thánh cha Phanxicô kêu gọi dân chúng nước này đừng quên cội rễ của mình, trong khi cởi mở đón nhận các trào lưu khác. Ngài cũng bênh vực việc đón tiếp di dân, đồng thời lên án những đe dọa hòa bình.
Cuộc gặp gỡ 150 đại diện các tầng lớp xã hội Malta diễn ra lúc gần 12 giờ trưa, ngày 02 tháng Tư vừa qua, tại Phủ Tổng thống, sau khi Đức Thánh cha hội kiến riêng với Tổng thống và thủ tướng nước này.
Diễn từ của Đức Thánh cha
Lên tiếng sau lời chào mừng của Tổng thống George William Vella, Đức Thánh cha nhắc đến vị trí của Malta được gọi là “con tim của Địa Trung Hải”. Nhưng không phải chỉ về mặt địa lý mà thôi, “tại đây có có sự gặp gỡ giữa các biến cố lịch sử và các dân tộc, biến những đảo này thành một trung tâm sinh động, văn hóa, tinh thần và vẻ đẹp, một ngã tư đã biết đón nhận và hòa hợp các ảnh hưởng đến từ nhiều phía”.
Từ hiện tượng này, Đức Thánh cha mượn hình ảnh “hoa hồng gió” hay là “ngôi sao gió” được áp dụng cho Malta, biểu tượng sự xuất phát của các luồng gió tứ phương để gợi lên những đặc tính, các vấn đề và đề nghị hướng đi thích hợp. Phần lớn các luồng gió thổi vào các đảo Malta.
Bài trừ nạn tham nhũng và nạn bất hợp pháp
Phía bắc gợi lại Âu châu, đặc biệt là nhà của Liên hiệp Âu châu, được kiến tạo vì ở đó có đại gia đình liên kết trong việc bảo vệ hòa bình. Hiệp nhất và hòa bình là những hồng ân mà nhân dân Malta cầu xin Chúa mỗi khi quốc ca được xướng lên.
Đức Thánh cha nhận xét rằng “Để bảo đảm một sự sống chung xã hội, nếu chỉ củng cố cảm thức cùng thuộc về một nước, thì không đủ, còn phải củng cố những nền tảng của sự sống chung, dựa trên luật pháp và sự tôn trọng luật pháp, tinh thần bổn phận và sự minh bạch, đó là những cột trụ thiết yếu của một xã hội dân sự tiến bộ. Vì thế, quyết tâm loại bỏ tình trạng bất hợp pháp và nạn tham ô hối lộ phải mạnh mẽ, như ngọn gió từ phương bắc quét qua các bờ biển của đất nước này. Cần luôn luôn vun trồng sự tôn trọng luật pháp và minh bạch, giúp loại trừ tệ nạn bất lương và tội phạm, không hành động dưới ánh sáng mặt trời”.
Bảo vệ thiên nhiên và môi trường
Đức Thánh cha cũng nhận xét rằng “Tại Malta, thiên nhiên xuất hiện như một hồng ân, giữa bao nhiêu thử thách của lịch sử và cuộc sống, nhắc nhớ vẻ đẹp được ở trên trái đất. Vì thế, cần bảo vệ thiên nhiên chống lại sự tham lam, ham hố tiền bạc và nạn đầu tư xây cất, để những tệ nạn này khỏi ảnh hưởng đến thiên nhiên nhưng cả tương lai của đất nước nữa. Thay vào đó, việc bảo vệ môi trường và công bằng xã hội, chuẩn bị tương lai và chúng là con đường tuyệt vời để làm cho giới trẻ say mê nền chính trị tốt, giải thoát họ khỏi những cám dễ thờ ơ và không dấn thân”.
Không xa rời cội rễ
Quyện với ngọn gió từ phương bắc, có gió từ phương tây thổi tới Malta. Đặc biệt giới trẻ Malta chia sẻ lối sống và tư duy của Tây phương, từ đó có những điều rất tốt đẹp như các giá trị tự do và dân chủ, nhưng Đức Thánh cha cũng nhắc đến những nguy cơ cần đề phòng, để “sự ham muốn tiến bộ không làm cho ta tách rời khỏi cội rễ của mình. Malta là một “phòng thí nghiệm tuyệt vời về sự phát triển hòa hợp”, trong đó tiến bộ không có nghĩa là cắt bỏ những cội rễ với quá, như nhân danh sự thịnh vượng giả tạo do sự đòi hỏi của lợi nhuận, những nhu cầu và sự tiêu thụ, không kể quyền được bất kỳ quyền gì. Để có sự phát triển lành mạnh, điều quan trọng là bảo tồn ký ức và liên kết, trong tinh thần tôn trọng, sự hòa hợp giữa các thế hệ, không để mình bị mất hút trong sự đồng hóa giả tạo và sự thực dân hóa ý thức hệ. Nơi căn cội của một sự tăng trưởng vững chắc có nhân vị con người, tôn trọng sự sống và phẩm giá của mỗi người nam nữ”.
Bảo vệ sự sống từ khởi đầu
Trong chiều hướng này, Đức Thánh cha đặc biệt khích lệ nhân dân Malta trong nỗ lực “bảo vệ sự sống từ lúc mới khởi đầu cho đến lúc chết tự nhiên, đồng thời gìn giữ sự sống luôn chống lại sự gạt bỏ và lơ là coi nhẹ, đặc biệt là phẩm giá các công nhân, người già và các bệnh nhân.” Ngài cũng nghĩ đến những người trẻ có nguy cơ vứt bỏ thiện ích bao la, là chính bản thân họ, khi theo đuổi những ảo ảnh chỉ để lại trong nội tâm họ bao nhiêu trống rỗng. Đó là điều mà trào lưu duy tiêu thụ thái quá, sự khép kín đối với những nhu cầu của tha nhân và tệ nạn ma túy bóp nghẹt tự do khi tạo nên sự nghiện ngập”.
Vấn đề di dân
Sang đến những ngọn gió thổi từ phương nam vào Malta, Đức Thánh cha nhắc đến bao nhiêu anh chị em từ miền nam đi tìm kiếm hy vọng. Ngài cám ơn chính quyền và nhân dân Malta dành cho những người di dân, nhân danh Tin mừng, lòng nhân đạo và tinh thần hiếu khách tiêu biểu của người Malta. Nhưng vấn đề là làn sóng di dân đang gia tăng trong những năm gần đây, những sợ hãi và bất an tạo nên sự nản chí và bất mãn. Trước tình trạng này, Đức Thánh cha đề nghị một lối tiếp cận vấn đề di dân phức tạp trong những viễn tượng rộng lớn hơn trong không gian và thời gian.
Vấn đề di cư không phải là một hoàn cảnh của thời điểm này, nhưng nó đánh dấu thời đại chúng ta. Nó mang theo bao nhiêu món nợ của bất công trong quá khứ, bao nhiêu sự bóc lột, thay đổi khí hậu, những phiêu lưu xung đột mà ta đang phải chịu hậu quả. Từ miền nam nghèo và đông dân, đông đảo người di chuyển về phương bắc giàu có hơn: đó là một sự kiện thực tế mà ta không thể xua đuổi bằng những khép kín lỗi thời, vì sẽ không có thịnh vượng và hội nhập trong sự cô lập. Và rồi cũng cần cứu xét không gian: tình trạng nới rộng sự di cư khẩn cấp - chúng ta hãy nghĩ đến những người tị nạn từ Ucraina đang bị tàn phá, - đòi phải có những câu trả lời rộng rãi và chung với nhau. Không thể chỉ vài nước đảm nhận toàn thể vấn đề trong sự dửng dưng của các nước khác! Và những nước văn minh không thể vì tư lợi, thiết lập những thỏa thuận đen đối với những kẻ bất lương đang biến con người thành nô lệ. Địa Trung Hải cần tinh thần đồng trách nhiệm của Âu châu, để tái trở thành một diễn trường liên đới và khỏi trở thành tiền đồn của một sự đắm chìm của nền văn minh”.
Vượt thắng tâm trạng sợ hãi di dân
Trong viễn tượng này, Đức Thánh cha kêu gọi vượt thắng tâm trạng sợ người di dân xâm lăng để rồi bảo vệ an ninh của mình bằng mọi giá. Ngài nói: “Chúng ta hãy giúp đỡ nhau để khỏi coi người di dân như một đe dọa và khỏi chiều theo cám dỗ dựng lên những cái cầu treo và thiết lập các bức tường. Tha nhân không phải là virus ta cần tự vệ, nhưng là một người cần được tiếp đón, và “lý tưởng Kitô giáo luôn mời gọi vượt thắng sự nghi ngờ, sự thiếu tín nhiệm trường kỳ, nỗi lo sợ bị xâm chiếm, những thái độ tự vệ mà thế giới hiện nay đang áp đặt cho chúng ta” (E.V 88).
Chiến tranh từ Đông phương
Sau cùng là ngọn gió đến từ Đông phương: Đông âu, Đông phương nơi ánh sáng xuất hiện trước, nhưng những bóng tối chiến tranh cũng đến từ đây. Trong bối cảnh này, ám chỉ đến chiến tranh đang xảy ra tại Ucraina, Đức Thánh cha nhắc đến những cuộc xâm lăng, những cuộc chiến tàn bạo trên các đường phố, những đe dọa võ khí hạt nhân đang vùi dập mạng sống của bao nhiêu người. “Một lần nữa, vài cường lực khép kín trong những chủ trương lạc hậu về lợi ích quốc gia chủ nghĩa, khơi lên và kích động những cuộc xung đột, những người dân thường cảm thấy nhu cầu cần xây dựng tương lai, có thể cùng nhau hoặc không như vậy. Giờ đây trong đêm tối của chiến tranh đang bao phủ nhân loại, chúng ta đừng làm tiêu tán giấc mơ hòa bình”.
Đức Thánh cha nói thêm rằng “Thật là buồn khi thấy sự hăng say đối với hòa bình, sau thời Thế chiến thứ hai, đang bị suy yếu trong những thập niên gần đây cũng như con đường của cộng đồng quốc tế, với vài cường quốc tiến bước theo lợi ích riêng, tìm kiếm những không gian và vùng ảnh hưởng cho mình. Vì thế, không những hòa bình nhưng cả bao nhiêu vấn đề lớn, như cuộc chiến đấu chống nạn đói và sự chênh lệch bị loại khỏi những chương trình chính trong các hoạt động chính trị.
“Nhưng giải pháp cho cuộc khủng hoảng của mỗi người là chữa trị những khủng hoảng của tất cả mọi người, vì các vấn đề hoàn cầu đòi những giải pháp hoàn vũ. Chúng ta hãy lắng nghe khát vọng hòa bình của dân chúng, làm việc để đạt những căn bản đối thoại ngày càng rộng lớn, chúng ta hãy tái họp nhau trong các hội nghị quốc tế về hòa bình, trong đó vấn đề trung tâm là giải trừ võ trang, với cái nhìn hướng về các thế hệ tương lai.
Sau cùng, khi nhìn về Đông phương, Đức Thánh cha không quên nhắc đến các nước đang gặp khó khăn, như Liban, Syria, Yemen và các vùng khác đang bị xâu xé vì bạo lực và các vấn đề khác.
Sau diễn văn, Đức Thánh cha, Tổng thống, Thủ tướng, Đức Hồng y Quốc vụ khanh Parolin, cùng với Đức Tổng giám mục giáo phận Malta và Đức giám mục giáo phận Gozo, tiến ra bao lơn của khuôn viên Phủ Tổng thống để chào thăm dân chúng, ngồi chờ Đức Thánh cha xuất hiện.
Tiếp đến, Đức Thánh cha về Tòa Sứ thần Tòa Thánh, cách đó 13 cây số để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Thánh cha lên đường viếng thăm Malta
Lúc 8 giờ sáng, thứ Bảy mùng 02 tháng Tư năm 2022, Đức Thánh cha Phanxicô đã lên đường viếng thăm mục vụ tại quốc đảo Malta trong vòng 36 tiếng đồng hồ, cho đến 8 giờ, tối Chúa nhật mùng 03 tháng Tư.
Đây là chuyến tông du đầu tiên của Đức Thánh cha tại nước ngoài trong năm nay và là chuyến thứ 36 của ngài trong chín năm qua.
Khẩu hiệu được chọn cho chuyến viếng thăm của Đức Thánh cha là câu trích từ đoạn 2, sách Tông đồ Công vụ: “Họ đối xử chúng tôi với tình nhân đạo hiếm có” (Cv 28, 2), nói đến sự tích thánh Phaolô tông đồ và các bạn đồng hành bị đắm tàu, trôi dạt vào đảo Malta và được dân chúng địa phương đón tiếp. Đây là một vấn đề rất thời sự, vì có nhiều người di dân và tị nạn từ miền bắc Phi châu trôi dạt vào Malta và được đón tiếp.
Theo thói quen từ lâu, chiều ngày 01 tháng Tư, Đức Thánh cha đã đến cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ là phần rỗi của dân Roma, tại Đền thờ Đức Bà Cả để xin ơn phù trợ cho chuyến tông du của ngài. Đây là lần thứ 93 ngài đến cầu nguyện tại đây.
Ra đến phi trường quốc tế Fiumicino của thành Roma lúc 8 giờ 40, Đức Thánh cha đã được các giới chức đạo đời tiễn biệt, trong nghi thức đơn sơ trước khi ngài bước lên máy bay Airbus 320 của hãng hàng không Ita, hãng này thay thế cho Alitalia chấm dứt hoạt động.
Vì gió thổi mạnh và vì lý do an ninh, Đức Thánh cha đã dùng thang máy để bước lên máy bay và cũng không thể ngoảnh lại trước cửa máy bay để chào từ giã những người ở lại.
Trên máy bay đã có hơn 70 ký giả Ý và nước ngoài cùng đi, và trong số đoàn tùy tùng của Đức Thánh cha, ngoài Đức Hồng y Quốc vụ khanh Parolin, và Đức Tổng giám mục Phụ tá Peña Parra, người Venezuela, đặc biệt lần này có Đức Hồng y Mario Grech, nguyên là Giám mục giáo phận Gozo của Malta, và hiện là Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục.
Máy bay cất cánh hướng về phi trường thủ đô La Valletta của Malta, cách đó gần 700 cây số về hướng nam.
Như thường lệ, Đức Thánh cha đã ngỏ lời chào các ký giả tháp tùng và cám ơn họ cùng đi với ngài trong chuyến viếng thăm ngắn ngủi này. Ký giả của Đài phát thanh Công giáo Cope, bên Tây Ban Nha, bà Eva Fernández, đã trao cho Đức Thánh cha bức tranh do một người di dân, tên là Daniel, hoạ lại một cuộc đắm tàu, trong đó anh ta không cứu được những người khác. Trước đây, Đức Thánh cha cũng đã nhận được một tác phẩm của anh Daniel và nhận ra ngay biệt tài hội họa của anh.
Vài nét về tình hình đất nước và Giáo hội Công giáo tại Malta
Quốc đảo Malta chỉ rộng 316 cây số vuông, gồm hai hải đảo chính là Malta và Gozo, với dân số 478.000 người, trong đó số tín hữu Công giáo chiếm tới hơn 85%, tức là 408.000 người thuộc Tổng giáo phận thủ đô Malta và giáo phận Gozo mang tên cùng hải đảo.
Malta ở là nước ở mạn cực nam trong Liên hiệp Âu châu và tuy diện tích bé nhỏ, nhưng nước này luôn có một tầm quan trọng, nhất là nhờ vị thế chiến lược giữa lòng Địa Trung Hải. Malta nguyên là thuộc địa của Anh quốc và được độc lập năm 1964 trong khối Thịnh Vượng chung. Sau khi được độc lập, Malta được hai đảng chính thay nhau nắm chính quyền, đó là Đảng Lao Động và Đảng Quốc gia. Trong những năm qua, đảng Lao Động cầm quyền dưới sự lãnh đạo của thủ tướng Joseph Muscat, cho đến khi ông từ chức, sau vụ ám sát nữ ký giả Daphne Caruana Galizia hồi năm 2017 và nay do thủ tướng Robert Abela lãnh đạo. Do vị trí nằm giữa Lybia bên Phi châu và Ý, trong những năm qua, Malta phải đương đầu với làn sóng di dân với nhiều khó khăn, xét vị diện tích nhỏ hẹp của nước này.
Giáo hội
Nguồn gốc Giáo hội Công giáo tại Malta có từ thời các thánh tông đồ, đặc biệt với biến cố thánh Phaolô bị đắm tàu, trôi dạt vào đảo này vào khoảng năm 60, trên đường tiến về Roma. Giám mục đầu tiên tại đây là thánh Publio, cai quản Giáo hội địa phương trong 30 năm, trước khi chịu tử đạo năm 112.
Năm 1530, hoàng đế Carlo V nhường đảo Malta cho Hội Hiệp sĩ thánh Gioan, nay là Hội Hiệp sĩ Malta.
Giáo phận Malta thuộc Giáo tỉnh Palermo ở Sicilia, nam Ý hồi năm 1817, nhưng 27 năm đó được trực thuộc Tòa Thánh. Năm 1965, sau khi được độc lập, Cộng hòa Malta thiết lập quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh. Giáo hội tại đây được thánh Gioan Phaolô II viếng thăm hai lần, lầu đầu hồi tháng Năm năm 1990 và lần thứ hai năm 2001. Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI viếng thăm hồi tháng Tư năm 2010, trong Năm thánh Phaolô.
Hiện nay, tại Malta có sáu giám mục, kể cả các vị về hưu, với 716 linh mục, trong đó 411 vị thuộc hàng giáo sĩ triều, nhưng không có phó tế vĩnh viễn nào. Có gần 800 nữ tu và 33 tu huynh. Hiện nay, có 48 đại chủng sinh đang chuẩn bị tiến lên chức linh mục.
Thách đố
Thách đố của Giáo hội Công giáo tại Malta hiện nay là số tín hữu đều đặn tham dự thánh lễ Chúa nhật ngày càng suy giảm, tuy rằng tâm tình tôn giáo vẫn còn mạnh và sự hiện diện của Giáo hội ăn rễ sâu trong đời sống xã hội, bắt đầu là hơn 70 trường Công giáo và trong các trường công lập có giảng dạy môn giáo lý Công giáo, theo qui định của hiến pháp nước này.
Giáo hội Công giáo tại Malta cũng phải đương đầu với nhiều thách đố do sự biến chuyển của xã hội. Trước tiên là sự thông truyền đức tin trong một xã hội đa nguyên. Đức tin không được hiểu như một lòng đạo đức bề ngoài hoặc một sự kiện xã hội, hoặc từ truyền thống gia đình như trong quá khứ, nhưng là một đức tin sinh động, ý thức và được huấn luyện kỹ lượng để có thể chia sẻ và làm chứng trong mọi môi trường.
Tiếp đến, cuộc khủng hoảng gia đình cũng đi vào xã hội Malta, như trong cuộc trưng cầu dân ý năm 2011, đa số dân nước này chấp nhận ly dị. Malta là nước Âu châu cuối cùng cho phép ly dị. Tiếp đến, năm 2017, Quốc hội Malta thông qua luật cho những người đồng tính kết hôn với nhau. Tại đây, phá thai vẫn còn là điều bất hợp pháp.
Đón tiếp Đức Thánh cha tại phi trường
Malta chỉ cách Roma gần 700 cây số và sau một giờ 30 phút bay, Đức Thánh cha đến phi trường Luqa ở thủ đô La Valletta, lúc 9 giờ 50 phút sáng. Thành phố này chỉ có gần 6.000 dân cư nhưng là thủ phủ của Tổng giáo phận La Valletta, với 368.000 tín hữu Công giáo.
Từ trên máy bay bước xuống, Đức Thánh cha đã được Tổng thống Malta, ông George William Vella cùng phu nhân đón tiếp. Hai em bé trong y phục truyền thống đã tặng hoa cho ngài.
Tổng thống năm nay 80 tuổi (1942), nguyên là một bác sĩ hoạt động trong ngành hàng không dân dụng và được bầu làm đại biểu quốc hội Malta, rồi làm phó thủ tướng, kiêm ngoại trưởng. Năm 2019, ông được bầu làm Tổng thống Malta.
Tiếp đến, Đức Thánh cha đến ngay Phủ Tổng thống cách đó 10 cây số để hội kiến riêng với vị nguyên thủ quốc gia, trước khi gặp thủ tướng, rồi gặp gỡ chung các giới chức chính quyền, ngoại giao đoàn cũng tại Phủ Tổng thống, tổng cộng khoảng 150 người.
Phủ Tổng thống được kiến thiết hồi năm 1571, như là trụ sở của các vị thủ lãnh Hội Hiệp sĩ thánh Gioan.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Tòa thượng phụ Mátxcơva sẽ sớm bị cấm ở Ukraine?
Một số đại biểu Ukraine xem Giáo hội gắn kết với Mátxcơva như một mối đe dọa nội bộ | © Martin Schulz / Flickr / CC BY-NC-ND 2.0
cath.ch, Raphael Zbinden, 2022-03-31
Trang web của Giáo hội chính thống Ukraine orthodoxy.com đưa tin, dự thảo luật ngày 22 tháng 3 năm 2022 có tiêu đề “Về việc cấm tòa thượng phụ Mátxcơva trên lãnh thổ Ukraine” đã được công bố trên trang web của Quốc hội Ukraine. Luật quy định khả năng tịch thu tài sản của các cộng đồng muốn tiếp tục nằm dưới quyền quản lý của Mátxcơva.
Dự án đưa ra lệnh cấm đối với tòa thượng phụ Mátxcơva và các tổ chức tôn giáo trên lãnh thổ Ukraine còn muốn ở lại dưới quyền của Mátxcơva, gồm cả “Giáo hội chính thống Ukraine” mà về mặt giáo luật còn gắn kết. Giáo hội này không nên nhầm lẫn với “Giáo hội chính thống của Ukraine”, là kết quả của sự hợp nhất năm 2018, Giáo hội chính thống Ukraine trực thuộc tòa thượng phụ Kyiv và Giáo hội chính thống tự lập Ukraine. “Giáo hội chính thống của Ukraine” được thành lập theo yêu cầu của tổng thống Ukraine khi đó là Petro Poroshenko và Quốc hội.
Sự tự lập của Giáo hội được tòa thượng phụ đại kết Constantinople và tòa thượng phụ chính thống Alexandria công nhận năm 2019. Quyết định đã bị Mátxcơva lên án và họ đã chấm dứt quan hệ với Constantinople.
Kể từ đó, căng thẳng tăng giữa hai Giáo hội chính thống có mặt trên đất Ukraine. Các cuộc đụng độ đã xảy ra đặc biệt trong những nỗ lực đoạt quyền của những tín hữu Ukraine muốn trung thành với Mátxcơva.
Tu viện Kyiv bị quốc hữu hóa?
Do đó, dự luật mới đánh dấu nguy cơ tịch thu hàng loạt. Tài liệu nêu rõ: “Tất cả tài sản giáo hội của các cơ quan tối cao của quyền lực và quản lý của Giáo hội chính thống Nga tại Ukraine (…) sẽ bị kiểm kê và quốc hữu hóa trong vòng 48 giờ kể từ khi luật có hiệu lực (…)”.
Dự thảo luật quy định, các cộng đồng tôn giáo, tu viện và cơ sở giáo dục của tòa thượng phụ Mátxcơva sẽ có 14 ngày kể từ khi có hiệu lực để thay đổi sự phụ thuộc (về mặt giáo hội) của họ, và vì thế được giữ lại tài sản.
Tài liệu ghi rõ các tu viện Thánh Dormition ở Kyiv, Pochayev và Svyatogorsk, cũng như các di tích kiến trúc có tầm quan trọng quốc gia khác thuộc sở hữu hoặc quyền sử dụng của tòa thượng phụ Mátxcơva sẽ trở thành tài sản quốc gia và các quyết định trước đó về việc sử dụng sẽ bị bãi bỏ.
Giáo hội Nga, “đội quân tình báo thứ năm?”
Dự luật nói rõ, khi có sự thay đổi về sự thuộc về, Cơ quan An ninh Ukraine sẽ xác minh thông tin về “hoạt động chống Ukraine, chống nhà nước hoặc cộng tác với kẻ xâm lược Nga”. Văn bản cho biết thêm, các thủ phạm sẽ bị trừng phạt theo quy định của pháp luật.
Theo trang web Dịch vụ Thông tin Tôn giáo ở Ukraine (RISU), dự luật đề xuất biện minh cho các biện pháp này, xem Giáo hội chính thống Ukraine là “cơ cấu phá hoại và tình báo trên một quy mô rộng lớn (…) đã hoạt động và tiếp tục ủng hộ Putin từ nhiều năm nay.” Tài liệu ghi lại vụ bắt giữ tổng giám mục Mykhailo Pavlushenko thuộc Giáo hội Ukraine ngày 25 tháng 2-2022, người “đã giúp đỡ quân đội Nga”. Ngày 16 tháng 3, linh mục Onufriy cũng bị bắt tại Kyiv, ông đã thú nhận cộng tác với các cơ quan đặc nhiệm Nga. Dự luật đảm bảo: “Và những trường hợp như vậy đang tăng lên. Tất cả những chuyện này chứng tỏ cần phải đặt luật để cấm hoạt động của các tổ chức và hiệp hội tôn giáo được công nhận ở Ukraine, đã có hành vi xâm lược quân sự chống lại nhà nước chúng ta”.
Cần lưu ý một số lượng lớn các chức sắc của Giáo hội chính thống của Ukraine, gồm cả giáo chủ trưởng Onuphry, đã lên án cuộc chiến, yêu cầu Putin dừng cuộc tấn công và cam kết ủng hộ quân đội Ukraine.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Ngày học hỏi về tư tưởng của Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI
Điểm khởi đầu của hội nghị là tập đầu tiên của cuốn VIII của Tác phẩm toàn tập của Đức nguyên Giáo hoàng, được phát hành bởi Nhà xuất bản Vatican (LEV), có tựa đề “Giáo hội: một dấu chỉ giữa các dân tộc”. Tác phẩm thu thập nhiều đóng góp về chủ đề Giáo hội, kết quả của nửa thế kỷ nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và giảng dạy của Đức Biển Đức XVI.
Giáo hội của tội nhân và của các thánh
Giáo sư Pietro Luca Azzaro, đồng biên tập và đồng dịch giả của tập sách, nhận định: “Mặc dù đây là một cuốn sách được sắp xếp có hệ thống, mọi độc giả, chứ không chỉ các nhà thần học chuyên nghiệp, đều bị ấn tượng bởi tính thời sự của những nội dung được tác giả xử lý”. Cụ thể, lòng bác ái, hay chủ đề tình yêu, “là mặt trời mà tất cả tư tưởng của Đức Ratzinger xoay quanh, từ những bước đầu tiên trong cuộc hành trình trí tuệ của ngài cho đến những thông điệp mới nhất”.
Giáo sư Arazzo nói tiếp, Giáo hội, “một mặt là biểu hiện của tình yêu vô hạn và bao trùm của Thiên Chúa đối với con người, nhưng mặt khác, đó là biểu hiện bị vấy bẩn bởi tội lỗi”. Giáo sư nhấn mạnh rằng trong toàn bộ cuốn sách, Đức nguyên Giáo hoàng nói rằng “đúng là có một Giáo hội của những tội nhân, bị vấy bẩn bởi những vụ bê bối, nhưng cũng có một câu chuyện khác: câu chuyện về các vị Thánh vĩ đại và sức mạnh hòa giải vĩ đại của Giáo hội.”
Đóng góp cho Công đồng Vatican II
Một thời điểm quan trọng khác được đề cập trong tập sách là Công đồng Vatican II, trong đó nhà thần học trẻ tuổi Ratzinger lần đầu tham gia Công đồng với tư cách cố vấn thần học cho tổng giám mục Cologne, Hồng y Josef Frings, và sau đó là một chuyên gia của Công đồng. Và trên thực tế, sau năm 1965, đóng góp của ngài đã được chứng minh là điều nền tảng trong việc đổi mới thần học và giáo hội học.
Giáo sư Arazzo chia sẻ: “Peter Seewald, người viết tiểu sử của Đức nguyên Giáo hoàng, từng nói rằng một trong những đóng góp quan trọng nhất của Joseph Ratzinger là một bài báo ngắn được ngài viết khi còn là cha phó, có tựa đề ‘Những người ngoại đạo mới và Giáo hội.’” Đó là năm 1959 và gần 3 năm trước khi Công đồng Vatican II khai mạc, nhà thần học trẻ tuổi đã nhận ra rằng “các nhà thờ chật kín người vào ngày lễ trọng, nhưng Chúa Giêsu Kitô không còn sống động trong lòng các tín hữu nữa”. Và do đó, trong 50 năm sau đó, câu hỏi về sự thông truyền đức tin và hiệu quả của đức tin trong cuộc sống hàng ngày là trọng tâm trong suy nghĩ của ngài.
Hồng Thủy - Vatican News
Caritas Thuỵ Sĩ phân bổ 500.000 quan cho người tị nạn Ucraina ở Thuỵ Sĩ
Ngoài việc hỗ trợ tài chính, số tiền 500.000 quan được phân bổ sẽ có thể cung cấp cho những người tị nạn Ucraina mới đến Thuỵ Sĩ về tư vấn xã hội, hành chính và pháp lý, phiếu mua hàng trong các cửa hàng tạp hóa Caritas, dịch vụ phiên dịch, các khóa học ngôn ngữ, thậm chí cả quần áo.
Hôm 6/3/2022, Thụy Sĩ đã cho đăng ký những người tị nạn đầu tiên từ Ucraina. Vào ngày 30/3/2022, 19.289 người tị nạn đã được đăng ký, trong đó có 11.912 người có được tình trạng bảo vệ S, nghĩa là họ nhận được sự bảo vệ nhanh chóng và không cần thông qua thủ tục tị nạn thông thường ở Thuỵ Sĩ.
Tổ chức Caritas Thuỵ Sĩ nhấn mạnh: “Đó là một cuộc chạy đua với thời gian để giúp người tị nạn về việc đăng ký, chỗ cư trú, giáo dục, hỗ trợ về mặt hành chính và xã hội cho những người mới đến này.” Các dự án cho biết rằng 300.000 người đã rời Ucraina có thể đến tị nạn ở Thụy Sĩ.
Mạng lưới Caritas Thuỵ Sĩ đã được huy động ngay từ khi những người tị nạn Ucraina đầu tiên đến Thuỵ Sĩ. Caritas Thuỵ Sĩ, theo yêu cầu của Bộ Di dân (SEM), phối hợp với Tổ chức Viện trợ Người tị nạn của Thụy Sĩ (OSAR) và tổ chức Campax, Caritas Thụy Sĩ sắp xếp cho những người tị nạn Ucraina muốn sống trong các gia đình từ các Trung tâm Tị nạn Liên bang ở Boudry (NE) và ở Bern (với Quân đội Cứu tế).Tại Boudry, Caritas Thụy Sĩ cũng cung cấp đại diện pháp lý cho những người tham gia thủ tục tị nạn thông thường (không bao gồm tình trạng S).
Một số tổ chức Caritas khu vực, do các bang ủy nhiệm, đã tích cực trong việc giám sát và tư vấn cho các gia đình bản xứ. Trước mắt, họ cần bảo đảm cung cấp dịch vụ này trong ít nhất mười hai bang. (Cath.ch 31/03/2022)
Hồng Thủy - Vatican News
Đức Thánh cha tiếp và khích lệ Hội Italia về tật tự kỷ
Đức Thánh cha Phanxicô khuyến khích và cám ơn những người dấn thân trong việc nghiên cứu về tật tự kỷ cũng như hỗ trợ và thăng tiến những người bị khuyết tật này.
Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng mùng 01 tháng Tư năm 2022, dành cho hội, hay cũng gọi là Quỹ Italia về tật tự kỷ, nhân dịp ngày 02 tháng Tư này là Ngày Thế giới gây ý thức về bệnh tự kỷ, do Liên Hiệp Quốc ấn định để lưu ý mọi người về những người khuyết tật này cũng như các khía cạnh khác nhau trong thân phận của họ.
Hội này mới được thành lập năm 2015 ở Italia như một tổ chức phi lợi nhuận, qui tụ các nhà nghiên cứu, bác sĩ, tâm lý gia, các tổ chức và hiệp hội gia đình nhắm thăng tiến một nền văn hóa bênh vực những người tự kỷ và khuyết tật tâm trí.
Đức Thánh cha ca ngợi tầm quan trọng của hội này, “với những dự án nghiên cứu và những sáng kiến nhắm giúp đỡ những người yếu thế và bị thiệt thòi nhất, và qua đó đóng góp một phần giá trị vào cuộc chiến chống nền văn hóa gạt bỏ đang lan tràn trong xã hội chúng ta, một xã hội quá hướng về sự cạnh tranh và lợi lộc.”
Nhân dịp này, Đức Thánh cha cũng trình bày một số suy tư về nền văn hóa bao gồm và giúp mọi người cảm thấy mình là thành phần của cộng đoàn. Ngài nói: “Tình trạng khuyết tật, dưới mọi hình thức, là một thách đố nhưng cũng là một cơ may để xây dựng một xã hội bao gồm mọi người và văn minh hơn, trong đó các gia đình, giáo chức và các hiệp hội, như hội của anh chị em, không bị bỏ mặc một mình, nhưng được nâng đỡ. Vì thế, cần tiếp tục gây ý thức về những khía cạnh khác nhau của tình trạng khuyết tật, phá đổ các thành kiến và thăng tiến một nền văn hóa bao gồm và thuộc về cộng đoàn, dựa trên phẩm giá con người... Phẩm giá của những người mong manh và dễ bị tổn thương, quá nhiều khi bị gạt ra ngoài lề, vì bị gán cho nhãn hiệu khác biệt hoặc vô ích, nhưng trong thực tế họ là một phong phú lớn cho xã hội”. Về điểm này, Đức Thánh cha đã nhắc đến tấm gương của thánh nữ Magarita thành Lâu Đài ở Italia, tuy khuyết tật, nhưng thánh nữ đã đặt trọn cuộc sống trong tay Chúa để hoàn toàn tận tụy sống đời cầu nguyện và trợ giúp người nghèo”.
Đức Thánh cha cũng cổ võ giúp đỡ những người khuyết tật tham gia tích cực vào đời sống xã hội. Để được vậy, không những cần phá đổ những hàng rào thể lý, nhưng còn làm sao để họ có thể tham dự vào các sáng kiến của cộng đoàn dân sự và Giáo hội, đóng góp phần của họ. Cần hỗ trợ các sáng kiến giáo dục, sự tham gia vào công ăn việc làm và cả những hoạt động rảnh rỗi, qua đó những người khuyết tật có thể biểu lộ tinh thần sáng tạo”.
Sau cùng, Đức Thánh cha khuyến khích tăng cường tình liên đới, hỗ trợ lẫn nhau, như chúng ta đang thấy được biểu lộ qua những hoạt động trợ giúp những người Ucraina tị nạn chiến tranh hiện nay, liên đới trong kinh nguyện và các hoạt động bác ái. Ngài nói: “Đứng trước bao nhiêu vết thương, nhất là vết thương của những người dễ bị tổn thương nhất, chúng ta đừng để uổng phí những cơ hội nâng đỡ lẫn nhau”.
Đức Thánh cha không quên khích lệ Hội Italia về tật tự kỷ tiếp tục đồng hành với những người bị tật này, không những cho họ, nhưng trước tiên là với họ, ngài nói: “Anh chị em biết rõ điều đó, và hôm nay, anh chị em muốn nói lên điều ấy bằng một cử chỉ: lát nữa đây, tại Quảng trường thánh Phêrô, một số người tự kỷ sẽ làm bếp và cống hiến bữa ăn trưa cho những anh chị em nghèo. Đó là một sáng kiến chứng tỏ lối sống và hành động của người Samaritano nhân lành, đó là lối sống của Chúa: gần gũi, cảm thương, dịu dàng.”
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Hồng y Parolin: Đức Thánh cha sẽ kêu gọi quan tâm đến di dân
Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cho biết trong chuyến đi Âu châu, viếng thăm Malta vào hai ngày mùng 02 và 03 tháng Tư này, Đức Thánh cha sẽ mời gọi toàn thể quan tâm đón tiếp những người di dân và tị nạn, những người trốn chạy chiến tranh, bách hại, bạo lực hoặc tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn.
Đức Hồng y Parolin tuyên bố như trên với đài Vatican, hôm 31 tháng Ba vừa qua, trước ngưỡng cửa cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha.
Đức Hồng y nhận định rằng “cuộc viếng thăm này được chờ đợi vì đã bị hoãn lại một lần do đại dịch Covid-19 và nay diễn ra trong bối cảnh chiến tranh đang gây lo âu rất nhiều cho Đức Thánh cha. Vì thế, ngài thực hiện cuộc viếng thăm với một tâm trạng đau lòng, như ngài đã bày tỏ nhiều lần trong những tuần qua vì những gì đang xảy ra tại Ucraina và nhiều lần kêu gọi ngưng chiến, đồng thời tiếp tục đối thoại, vì tuy đã có thương thuyết nhưng dường như chưa đạt được kết quả nào cụ thể”.
Đức Hồng y Parolin cảm tạ Chúa vì có một cuộc “chạy đua” thực sự đối với những người tị nạn từ Ucraina: “Thực là một điều đáng ngưỡng mộ những gì mà các nước Âu châu đang làm cho họ. Tôi hy vọng kinh nghiệm bi thảm này có thể giúp tăng trưởng, gia tăng sự nhạy cảm đối với một cuộc di dân khác, đến từ phía nam, và tôi thấy rằng về vấn đề này, không có giải pháp nào khác ngoài sự cộng tác và chia sẻ trách nhiệm về những “gánh nặng” giữa các nước Âu châu, nhất là giữa những nước mà người di dân trôi dạt tới, hoặc nước chuyển tiếp và những nước nơi họ muốn định cư... Đức Thánh cha đã nhiều lần nhấn mạnh ưu tiên là cứu vớt những người ở biển và điều này có thể thực hiện bằng cách gia tăng những lộ trình di cư hợp pháp.”
Đầu tư vào các nước xuất cư
“Ngoài ra, cần giải quyết vấn đề tận nguồn, vì không ai muốn bỏ quê hương của mình, nhưng họ bị bó buộc vì những tình trạng xung đột, bất an hoặc kém phát triển. Vì thế cần đầu tư vào các nước nguyên quán về mặt kinh tế, ổn định chính trị, quản trị tốt, tôn trọng các quyền con người. Cần thi hành bốn động từ mà Đức Thánh cha chỉ dẫn, đó là đón tiếp, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập. Không nước nào có thể một mình lãnh nhận trách nhiệm. Cần có một sự dấn thân chung, chia sẻ giữa xã hội nhân sự và cả các nhóm tôn giáo và Giáo hội Công giáo nói riêng”.
Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh cũng nhận xét “một điều thật ý nghĩa, là trong năm thứ mười của triều đại Giáo hoàng có cuộc viếng thăm tại đảo Malta, vì đảo này gắn liền với hình ảnh thánh Phaolô, nhà truyền giáo tuyệt hảo, và điều này tương ứng với điều được Đức Thánh cha Phanxicô nhấn mạnh, đó là mời gọi Giáo hội trở thành thừa sai, mang Tin mừng đến cho mọi người trong mọi hoàn cảnh”.
Vấn đề của Giáo hội tại Malta
Về Giáo hội tại Malta, Đức Hồng y Parolin nhận định rằng Giáo hội tại nước này cũng đang đứng trước nhiều vấn đề giống như các Giáo hội tại những nước Tây phương: một đàng, có truyền thống tôn giáo lâu dài về sự gần gũi dân chúng và các nhu cầu của họ, nhưng đàng khác, việc thực hành đạo giảm sút cùng với những giá trị Kitô vốn là nền tảng của xã hội. Đức Hồng y nói: “Tôi thiết nghĩ câu trả lời mà Đức Thánh cha nhiều lần đề nghị là trở thành môn đệ - thừa sai; từ môn đệ chỉ căn tính, một căn tính Kitô vững mạnh nảy sinh từ tương quan bản thân với Chúa Giêsu Kitô, và đồng thời là môn đệ thừa sai. Sự cởi mở này phải được biểu lộ trước tiên qua cuộc đối thoại với thế giới ngày nay. Đây là một cuộc đối thoại có tính chất đón tiếp và đồng thời phê bình đối với những khía cạnh kém tích cực trong các thực tại và xã hội chúng ta”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Chương trình ngày đầu trong cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha tại Malta
Lúc 8 giờ, sáng thứ Bảy, ngày 02 tháng Tư năm 2022, Đức Thánh cha Phanxicô sẽ lên đường viếng thăm mục vụ tại quốc đảo Malta trong vòng 36 tiếng đồng hồ, cho đến 8 giờ tối Chúa nhật, mùng 03 tháng Tư.
Malta chỉ cách Roma gần 700 cây số và sau một giờ ba mươi phút bay, Đức Thánh cha sẽ đến thủ đô La Valletta, lúc 10 giờ sáng. Ngài đến ngay phủ Tổng thống để hội kiến riêng, trước khi gặp thủ tướng, rồi gặp gỡ chung các giới chức chính quyền, ngoại giao đoàn cũng tại Phủ Tổng thống, tổng cộng khoảng 150 người. Trong dịp này, ngài sẽ đọc bài diễn văn đầu tiên trong chuyến tông du.
Ban chiều cùng ngày, lúc gần 4 giờ, Đức Thánh cha sẽ dùng xuồng máy để tới đảo Gozo và lúc 5 giờ 30, chủ sự buổi cầu nguyện với các tín hữu tại Đền thánh Quốc gia “Ta’ Pinu”, trước khi đáp tàu trở về thủ đô của Malta.
Khẩu hiệu được chọn cho chuyến viếng thăm của Đức Thánh cha là câu trích từ đoạn 2 sách Tông đồ Công vụ: “Họ đối xử chúng tôi với tình nhân đạo hiếm có” (Cv 28, 2), nói đến sự tích thánh Phaolô tông đồ và các bạn đồng hành bị đắm tàu, trôi dạt vào đảo Malta và được dân chúng địa phương đón tiếp. Đây là một vấn đề rất thời sự vì có nhiều người di dân và tị nạn từ miền bắc Phi châu trôi dạt vào Malta và được đón tiếp.
Tổng cộng trong chuyến viếng thăm này, Đức Thánh cha sẽ có năm sinh hoạt, gặp gỡ, thánh lễ, cầu nguyện với tổng cộng năm diễn văn và bài giảng. Đặc biệt, ngài sẽ gặp gỡ người di dân trước khi trở về Roma.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu