Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
ĐTC Phanxicô: Đấng đáng kính Armida là chứng tá liên kết giữa Lời và cuộc sống
Ngài nhận xét: “Đấng đáng kính đã có một lựa chọn dứt khoát cho cuộc đời: Sống đức tin trong thời hiện đại của thế kỷ XX, cùng với mối quan hệ sâu sắc với Giáo hội, bao gồm việc đồng trách nhiệm và vâng lời”.
Theo Đức Thánh Cha, một cuộc sống thấm nhuần tinh thần lắng nghe và đón nhận Tin Mừng đã làm cho bà trở thành nhân chứng cho sự liên kết giữa những gì được nghe và những gì được sống. Armida đã sống cuộc đời như một sự tổng hòa giữa Lời và cuộc sống khiến đức tin của bà trở thành một trải nghiệm cụ thể.
Đức Thánh Cha đặc biệt nhấn mạnh đến hoạt động của Đấng đáng kính thúc đẩy vai trò mới của phụ nữ trong Giáo hội. Vào thời của bà, cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, phần lớn phụ nữ chỉ có thể có hai lựa chọn: làm vợ và mẹ, hoặc cuộc sống tu trì. Armida chọn cách thứ ba: tông đồ giáo dân. Sống ơn gọi dâng hiến trong Tu hội các nữ tu truyền giáo Vương quyền Chúa Kitô, và hoạt động trong phong trào thanh nữ Công giáo tiến hành trong 40 năm, bà đã hình thành linh đạo phụng vụ bình dân.
Đức Thánh Cha cho rằng với hoạt động này, bà đã góp phần quyết định vào việc thúc đẩy phụ nữ trẻ Kitô giáo trong nửa đầu thế kỷ 20. Ngoài ra, những chuyến đi mà bà tự nhận là một “người du mục Chúa nhân lành”, là dịp để bà mời gọi phụ nữ tham gia với tư cách là công dân và là Kitô hữu.
Về hoạt động của bà trong lĩnh vực tri thức, cụ thể đồng sáng lập Đại học Công giáo với cha Agostino Gemelli, Đức Thánh Cha viết: “Bà đã góp phần đảm bảo rằng trau dồi kiến thức không có nguy cơ bị trừu tượng hoá, nhưng luôn được đánh giá trong thực tế, với trọng tâm là sự thật, công ích và bác ái”.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng, lối sống của bà chính là một con đường mới để nên thánh. Thực vậy, vào thời của bà, giáo dân dường như ở vị trí thứ hai trong Giáo hội. Tuy nhiên, bằng những hoạt động của mình, bà đã vượt qua định kiến này. Đây chính là đặc điểm để người tín hữu có thể cùng nhau gặp gỡ mọi người trong hoàn cảnh cụ thể của họ. ( CSR_1331_2022)
Ngọc Yến - Vatican News
Công bố Huấn thị mới của Bộ Giáo dục Công giáo về các trường Công giáo
Hôm 29 tháng Ba vừa qua, Bộ Giáo dục Công giáo đã công bố Huấn thị về các trường Công giáo, với tựa đề “Căn tính của trường Công giáo để có một nền văn hóa đối thoại”.
Văn kiện nhắm trình bày một suy tư và những hướng sâu rộng và cập nhật hơn về giá trị của căn tính Công giáo của các trường trong Giáo hội, công hiến một số tiêu chuẩn thích hợp trước những thách đố thời nay, tiếp tục với những tiêu chuẩn vẫn luôn có giá trị, như Đức Thánh cha Phanxicô đã khẳng định: “Chúng ta không thể thực hiện một nền văn hóa đối thoại nếu chúng ta không có căn tính”.
Huấn thị nhắm đáp ứng những nhu cầu được nêu lên gần đây, đó là cần có một ý thức rõ ràng hơn và nhấn mạnh hơn về căn tính Công giáo của các trường Giáo hội trên toàn thế giới. Ngoài ra, nhiều phái đoàn các giám mục về Roma thăm Tòa Thánh cũng nói đến nhu cầu đó. Thêm vào đó có những vụ xung đột và kiện tụng vì những giải thích khác nhau về ý niệm truyền thống, liên quan đến căn tính Công giáo của các trường Giáo hội đứng trước những thay đổi mau lẹ những năm gần đây, trong đó có sự phát triển tiến trình hoàn cầu hóa với sự gia tăng đối thoại liên tôn và liên văn hóa.
Huấn thị gồm ba chương chia làm 93 đoạn, lần lượt đề cập đến:
Các trường Công giáo trong sứ vụ của Giáo hội (Ch.I)
Tiếp đến là các chủ thể trách nhiệm về việc thăng tiến và kiểm chứng căn tính Công giáo (Ch.II). Trong phần này cũng nói đến việc phục vụ của giáo quyền: giám mục giáo phận, các cha sở, Hội đồng Giám mục và Tòa Thánh.
Chương III của huấn thị đề cập đến một vài điểm khó khăn, như quan niệm thu hẹp, sự giải thích theo hình thức, những nhận xét khép kín. Văn kiện xác định các thẩm quyền và luật lệ.
Trong chương này cũng đề cập đến một số đề tài và lãnh vực nhạy cảm: những xung đột trong lãnh vực kỷ luật hoặc đạo lý, những trường hợp luật pháp nhà nước áp đặt những chọn lựa trái ngược với tự do tôn giáo và chính căn tính Công giáo của một trường học. Ngoài ra có những vấn đề trong nội bộ Giáo hội địa phương, do sự thẩm định khác nhau giữa các thành phần cộng đoàn như giám mục, cha sở, những người thánh hiến, các phụ huynh, các vị lãnh đạo trường, hội đoàn, v.v. Cách thức giải quyết những xung khắc.
Một số chỉ dẫn cụ thể
Huấn thị của Bộ Giáo dục Công giáo chứa đựng nhiều chỉ dẫn cụ thể:
Ví dụ, trong việc thu nhận các giáo viên và các nhân viên khác của trường Công giáo cần để ý đến căn tính đặc thù của các trường này, và những người không tôn trọng có thể bị sa thải. Thực vậy, trong trường Công giáo, “Việc phục vụ của giáo chức là một sứ vụ và là giáo vụ của Giáo hội. Nếu một người đã được thu nhận mà không tuân giữ các điều kiện của trường Công giáo và sự thuộc về Giáo hội, thì trường phải đề ra các biện pháp thích hợp. Cũng có thể đi tới quyết định sa thải, để ý đến tất cả những hoàn cảnh của mỗi trường hợp”. Việc sa thải chỉ áp dụng như biện pháp cuối cùng.
Huấn thị cũng qui định rằng: “Trường Công giáo, theo đạo lý của Giáo hội, phải giải thích và qui định những tiêu chuẩn cần thiết để thu nhận các giáo chức. Tiêu chuẩn này cũng liên hệ tới tất cả các việc thu nhận nhân viên khác, kể cả các nhân viên hành chánh. Vì thế nhà chức trách thẩm quyền phải thông báo về căn tính Công giáo của trường cho những người sắp được thu nhận và những hệ luận, cũng như trách nhiệm của họ trong việc thăng tiến căn tính ấy”.
Các giáo chức của trường Công giáo được kêu gọi “nổi bật về đạo lý ngay chính và đời sống liêm chính trong việc huấn luyện các thế hệ trẻ”.
Các giáo chức và nhân viên hành chánh thuộc về các Giáo hội Kitô hoặc tôn giáo khác, cũng như những người không tuyên xưng tín ngưỡng nào, từ khi được thu nhận vào trường Công giáo, họ có nghĩa vụ phải nhìn nhận và tôn trọng đặc tính Công giáo của trường”.
Ngoài ra, Huấn thị của Bộ Giáo dục Công giáo nhắc nhở rằng cần chú ý nhiều đến hoạt động tông đồ hơn là khía cạnh lợi nhuận tài chánh. Và cũng như trong công việc khác của Giáo hội, trách nhiệm về các trường Công giáo thuộc nhiều cấp độ khác nhau: giáo xứ, giáo phận, Tòa Thánh đều có trách nhiệm phụ đới (sussidiaria) đối với các trường Công giáo.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Số tín hữu Kitô tại Jerusalem ngày càng suy giảm
Giám đốc truyền thông, phát ngôn viên của Hội đồng Giám mục Công giáo tại Thánh địa, ông Wadie Abu Nassar, bày tỏ lo âu về số tín hữu Kitô tại Jerusalem ngày càng giảm sút: “Đây là điều gây lo âu khi chúng ta gọi Jerusalem là thành của ba tôn giáo: Hồi giáo, Kitô và Do thái giáo. Và một trong ba tôn giáo này hầu như biến mất tại Thành Thánh.”
Ông Abu Nassar bày tỏ lập trường trên đây, trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Anadolu của Thổ Nhĩ Kỳ và được đăng trên trang mạng Aboun của Công giáo tại Thánh địa, hôm 28 tháng Ba vừa qua. Ông nhận xét rằng hồi năm 1922, số tín hữu Kitô chiếm 25% dân thành Jerusalem, nay họ chỉ còn lại 1%. Tình trạng giảm sút này cũng gây lo âu cho cả những người không thuộc Kitô giáo và yêu mến sự đa nguyên của Jerusalem.
Các Giáo hội Kitô ở địa phương bày tỏ quan tâm vì sự suy giảm Kitô hữu ở miền Cisjordani, tại miền Gaza, và đặc biệt ở khu vực phía đông thành Jerusalem. Trong những tình trạng mong manh bấp bênh, các nhóm chủng tộc và tôn giáo thiểu số vẫn luôn là thành phần yếu thế nhất. Những thay đổi về con số này là kết quả của những sức ép kinh tế, thiếu viễn tượng chính trị và do các hoạt động của Israel.
Theo ông Abu Nassar, chắc chắn là những thách đố về mọi phía đang gia tăng. Tình trạng bế tắc trong cuộc xung đột ở trung đông rất bất tiện cho các tín hữu Kitô, hiện không có cuộc thương thuyết trực tiếp giữa Israel và Palestine và cũng chẳng có một giải pháp chính trị. Một số toan tính của Israel chiếm đoạt tài sản của Giáo hội cũng là điều gây lo âu.
Giáo hội tìm cách giải quyết bằng nhiều cách sự suy giảm số tín hữu Kitô, kể cả bằng những dự án trợ giúp gia cư và hỗ trợ về mặt xã hội, đồng thời gây ý thức trong dư luận Kitô thế giới về tình trạng Kitô hữu và Thánh địa trong các cuộc gặp gỡ các tín hữu Kitô hành hương và các cuộc viếng thăm của các vị giáo phẩm từ nước ngoài.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
“Một chuyến đi của Đức Phanxicô đến Kyiv là không thể. Chúng tôi xin nước Nga bảo vệ trẻ em”
Sứ thần Tòa thánh tại Ukraine, tổng giám mục Visvaldas Kulbokas: “Không có sự ngưng bắn tối thiểu sẽ rất rủi ro cho giáo hoàng và giáo dân. Một chuyến đi bí mật hoặc lén lút là chuyện không thể hình dung được. Thông qua các kênh ngoại giao, tôi yêu cầu Mátxcơva bảo vệ những người mong manh nhất.”
famigliacristiana.it, Antonio Sanfrancesco, 2022-03-28
Sứ thần nói: “Chuyến đi của giáo hoàng đến Kyiv là chuyện rất tốt đẹp nhưng không thể, vì các điều kiện an ninh tối thiểu còn thiếu.” Ngài kể đời sống người dân dưới bom đạn và không kích từ hơn một tháng nay: “Kể từ khi chiến tranh bùng nổ, chúng tôi không còn dùng các tầng trên của Tòa khâm sứ nữa. Chúng tôi ngủ và cử hành thánh lễ hàng ngày ở tầng trệt. Khi chúng tôi nghe tiếng nổ rất gần, hoặc tiếng còi báo động vang lên, chúng tôi xuống tầng hầm nhưng chúng tôi không thể sống ở đó cả ngày cả đêm.”
Giám mục Visvaldas Kulbokas, người Litva, 47 tuổi, nói tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga và tiếng Tây Ban Nha. Ngày 7 tháng 9 năm vừa qua, ngài nhậm chức sứ thần Tòa thánh tại Ukraine, sau khi đảm nhiệm chức vụ Thư ký Tòa Khâm sứ tại Mátxcơva từ năm 2009 đến năm 2012.
Cha có nghĩ sẽ có cuộc tấn công này?
Tổng giám mục Visvaldas Kulbokas: không. Trong những tuần đầu tiên năm nay, chúng tôi thấy quân đội Nga đến gần biên giới Ukraine, khi đó chúng tôi hiểu phải chuẩn bị những diễn tiến xấu nhất. Trước đây tôi không thể ngờ một xung đột lớn như thế này lại có thể xảy ra.
Kyiv đã sống trong đau khổ nhiều ngày, xin cha cho biết bây giờ tình hình như thế nào?
Tình hình bây giờ tốt hơn nếu so sánh với các thành phố khác như Kharkiv hay Mariupol, thành phố Mariupol là thành phố tử đạo, vì cho đến nay thành phố này trả giá cao nhất. Mariupol là thành phố có ba trăm ngàn dân, lớn thứ nhì sau Kyiv, bây giờ thành phố này không còn gì. Không điện, không nước, không khí đốt. Ở Kyiv, chúng tôi có điện, có sưởi, một số cửa hàng còn mở và mọi người có thể ra ngoài mua cái gì đó để ăn. Hàng viện trợ nhân đạo cũng đến từ các khu vực khác và từ nước ngoài. Dù mỗi ngày chúng tôi phải đối diện với nỗi sợ hãi: tên lửa lướt trên đầu, còi báo động liên tục, nhưng những người ở lại đã quen dù càng ngày họ càng bị căng thẳng và càng đau khổ.
Cha có thể nói chuyện với chính quyền của các thành phố bị ảnh hưởng nặng nề nhất ở Đông Nam Bộ không?
Tôi có nói chuyện với giám mục phụ tá ở Kharkiv, thuộc giáo phận Mariupol, ngài cho biết chỉ còn giữ được quyển sách lễ của nhà nguyện. Tất cả đều bị phá hủy hoặc mất cắp, giống như rất nhiều nhà thờ và nhà nguyện khác. Từ 14 ngày nay, người dân Mariupol không còn liên lạc với gia đình, họ không biết người thân của mình có còn sống hay không. Nhìn người dân đau khổ là đã đau đớn trong lòng, nhưng khi nhìn hình ảnh những người được cứu vì họ phải di tản, tôi bật lên tiếng kêu tự đáy lòng, tôi tự hỏi: vì sao lại đau đớn thế này? Ai có thể gây ra điều này? Tôi không hiểu mục tiêu của ai đó lại cao hơn cuộc sống của các trẻ em, bà mẹ mang thai, người bệnh, người già.
Ban đầu xem như ảo tưởng, sau đó là thương thuyết dù rất khó khăn nhưng vẫn tiếp tục. Bây giờ có vẻ như chúng tôi đang ở trong một bế tắc mới. Cha còn tin tưởng không?
Theo tôi, nếu cuộc chiến này đã bắt đầu thì cũng phi lý nó kết thúc như thế này. Mặt khác, điều hợp lý hơn là một trong các bên nhận thấy chiến tranh không thể đạt các mục tiêu của nó và có những khó khăn nghiêm trọng trên thực tế, vì thế có thể đẩy nhanh các cuộc thương thuyết do những khó khăn này. Đó là lý do vì sao khía cạnh thiêng liêng rất quan trọng.
Đức Phanxicô và sứ thần Tòa thánh Visvaldas Kulbokas ngày 2 tháng 9 tại Vatican (Ansa)
Đức Phanxicô xem chiến tranh là “vô nhân đạo và phạm sự thánh”, ngài liên tục xin chúng ta cầu nguyện cho hòa bình.
Lời xin của ngài rất quan trọng vì một trong các mục đích của lời cầu nguyện là tâm hồn được trở lại. Nếu không có sự thay đổi từ bên trong này, các chính trị gia tham gia vào cuộc xung đột vẫn giữ nguyên con đường chiến tranh và không thể nào thoát khỏi vòng xoáy bạo lực và chết chóc. Cầu nguyện là vũ khí thiêng liêng cơ bản. Khi dâng thánh lễ tại đây, tôi cũng cầu nguyện cho những người sống dưới làn bom đạn, những người sống ẩn nấp dưới hầm, các trẻ em chết đói chết khát. Chiến tranh gây ra đau khổ, chết chóc và tàn phá. Giáo dân Ukraine đồng lòng tố cáo điều kinh dị này.
Những lời của thượng phụ Kyrill Mátxcơva cho rằng đây là “cuộc chiến siêu hình” để chống lại tội lỗi của phương Tây, bắt đầu bằng tố cáo những người đồng tính Gay Pride đã tạo chấn động.
Tôi không muốn bình luận về những tuyên bố này nhưng tôi nhớ Ủy ban các Giáo hội và các tổ chức tôn giáo Ukraine, nơi tất cả các tôn giáo được quy tụ, người hồi giáo, người do thái giáo rất đoàn kết. Tôi không thể nói rằng tất cả các giám mục và linh mục Ukraine hoàn toàn đoàn kết và hoàn toàn thống nhất trong việc lên án cuộc chiến này, nhưng các đại diện cao nhất của mọi tôn giáo đã nói lên tiếng nói chống cuộc xung đột.
Đức Phanxicô xin dâng hiến nước Nga và Ukraine cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria, ngài xin tất cả các giám mục trên thế giới cùng hiệp ý với ngài. Ý nghĩa của cử chỉ này là gì?
Đó là vũ khí thiêng liêng rất mạnh và tôi hiểu ngài. Tôi ngạc nhiên trước lời xin từ khắp nơi trên thế giới xin ngài thực hiện việc dâng hiến này. Hội đồng Giám mục Ukraine cũng xin. Tôi biết nhiều lời xin tương tự cũng đã đến thẳng Vatican. Khi nhìn các trẻ em đau khổ, tôi không hiểu vì sao ở thế kỷ 21 lại có người phát động cuộc chiến tranh như vậy. Chúa cho phép ma quỷ hành động vì chính chiến tranh là việc của ma quỷ. Và vũ khí duy nhất để chống Satan kẻ gây chia rẽ là Đức Mẹ, Mẹ là đấng thiêng liêng, là trạng sư bảo vệ chúng ta, Mẹ của tất cả và cách riêng của các trẻ em bị giết, bị thương và các bà mẹ phải chạy trốn. Giao phó cho Mẹ với tấm lòng tin tưởng trọn vẹn là lựa chọn đúng đắn vì chính Mẹ đã đạp đầu con rắn.
Khi bắt đầu xung đột, các hành lang nhân đạo không thể được tổ chức. Sau đó có một cái gì đã được mở ra.
Ngay từ đầu Tòa Thánh đã can thiệp cho một số vấn đề cụ thể liên quan đến trẻ em, bảo vệ các cô nhi viện, đưa các em đi sơ tán. Trong những trường hợp này, Tòa Thánh dùng con đường ngoại giao.
Cha đã nhận được phản hồi nào?
Một quan tâm đến các yêu cầu của chúng tôi và chúng tôi biết ơn vì điều này.
Giáo hội Ukraine đã làm gì để giúp đỡ những người tị nạn?
Có một huy động rất lớn. Ở Kiev, tại nhà thờ Thánh Nicholas, giáo xứ tổ chức trung tâm gom và gởi đồ cứu trợ nhân đạo, các linh mục và giáo dân cùng làm. Hai cơ quan Caritas cũng làm việc đắc lực. Du không thể di chuyển tự do ban ngày, nhưng nhiều tình nguyện viên làm hết sức mình để gom và phát đồ viện trợ. Thật không may là có nhiều người giúp người dân sơ tán, đặc biệt là trẻ em, các em không đến được chỗ sơ tán đã chết dưới bom đạn.
Ông Vitaliy Klitschko, thị trưởng thành phố Kyiv đã mời Đức Phanxicô đến thành phố. Một chuyến đi như thế có thể thực hiện được không?
Tôi đã gởi lời mời của thị trưởng đến phủ Quốc vụ khanh. Dĩ nhiên sẽ thật ý nghĩa to lớn nếu giáo hoàng ở giữa chúng tôi, nhưng tôi đã cùng với các giám mục suy nghĩ nhiều về vấn đề này, thật không may, không dễ dàng chút nào để tổ chức một chuyến đi như vậy trong hoàn cảnh này. Phải đến Kyiv với các biện pháp phòng thủ và phương tiện an toàn, như một số nhà lãnh đạo châu Âu đã làm để có các cuộc họp bí mật và duy trì các thương thuyết. Một chuyến đi bí mật và lén lút là không thể. Một thỏa hiệp đình chiến tối thiểu là điều không thể thiếu với giáo hoàng và với giáo dân đến cầu nguyện với ngài. Nếu không có những điều kiện tối thiểu như vậy thì không thể được, an toàn của mọi người sẽ bị đe dọa.
Từ đầu cuộc chiến cha đã ở lại Kyiv. Cha có sợ không?
Tôi cùng các nhân viên cố gắng dùng tất cả các biện pháp để phòng ngừa. Kể từ khi chiến tranh bùng nổ, chúng tôi không còn dùng các tầng trên, cũng như các phòng có cửa sổ bên ngoài vì đó là nơi nguy hiểm nhất khi có tấn công. Chúng tôi ngủ và cử hành thánh lễ hàng ngày ở tầng trệt. Khi chúng tôi nghe tiếng nổ gần và còi báo động vang lên, chúng tôi xuống tầng hầm ẩn náu nhưng chúng tôi không thể sống đêm ngày ở đó. Chiến tranh thách thức tất cả mọi người, người tin cũng như người không tin. Cách đây vài ngày, các nữ tu cộng tác ở toà sứ thần kể cho tôi nghe giấc mơ của một người vô thần, một giấc mơ rất quan trọng.
Xin cha kể.
Một người đàn ông mơ, ông đi trong đêm tối qua những con đường đã bị phá hủy một nửa để tìm gia đình. Đến một lúc ông thấy lính Nga bắn vào Chúa Giêsu bị đóng đinh. Trong thâm tâm, ông lên án những người lính đó và xin Chúa Giêsu che chở ông và cho ông tìm được người nhà. Chúa Giêsu nói với ông: “Con quyết định xem, con muốn bắn Ta hay con muốn Ta che chở cho con”. Ông thức dậy và hiểu ý nghĩa lời nói kỳ lạ này. Trong thâm tâm, ông nghĩ ông tốt hơn người lính Nga, nhưng Chúa làm cho ông hiểu, không phải như vậy, ông phải lựa chọn nếu ông muốn như mọi người hãy trở lại và thay đổi tâm hồn.
Người này nói giấc mơ đã làm thay đổi ông. Tôi thấy chứng từ này là mẫu mực, vì đó là cách làm cho tôi nhận thức khía cạnh tâm linh của cuộc chiến này đang thách thức tất cả mọi người, cả người tin và người không tin, và thúc giục chúng ta tự hỏi: “Tôi đang làm gì, tôi theo ai?”. Chúa Giêsu nói với chúng ta, chúng ta chỉ có một Người Cha trên trời và vì thế tất cả chúng ta là anh em. Nếu là anh em thì không những phải tránh xung đột, mà còn phải tránh gièm pha, tránh phán xét người khác. Không chỉ những người gây ra chiến tranh phải trên con đường trở lại lâu dài, mà cả chúng ta đôi khi cũng bị cám dỗ để xem mình tốt hơn và công chính hơn người khác. Qua những gì đang xảy ra, Tin Mừng đặt chúng ta ở ngã ba đường và hỏi chúng ta: “Anh em có nghĩ rằng mình là anh em với người khác không? Mình có tin Chúa là cha của tất cả mọi người không?”
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Giám mục Gizo: Chúng tôi không cần trò chơi chiến tranh
Trong những ngày gần đây, có tin Quần đảo Solomon chuẩn bị ký thỏa thuận an ninh với Trung Quốc. Điều này đã gây lo ngại cho Úc và New Zealand, bởi điều này tạo cơ hội cho Trung Quốc xây dựng căn cứ quân sự ở Quần đảo Solomon, căn cứ đầu tiên trong khu vực.
Trong tuyên bố trước Quốc hội vào ngày 29/3, Thủ tướng Sogavare cho biết tài liệu bị rò rỉ nói trên là bản dự thảo và ông sẽ không cung cấp nội dung chi tiết của bất kỳ thỏa thuận nào được đề xuất. Ông khẳng định: “Chúng tôi không bị gây áp lực dưới bất kỳ hình thức nào từ những người bạn mới, không có ý định yêu cầu Trung Quốc xây dựng căn cứ quân sự ở Quần đảo Solomon, và cũng không tham gia vào bất kỳ cuộc tranh giành quyền lực địa chính trị nào”.
Vào tháng 11 năm ngoái, thủ đô Honiara đã bị chấn động bởi vụ tấn công vào khu Chinatown của người Hoa, thể hiện sự bất bình chống ông Sogavare. Vụ việc được giải quyết nhờ sứ mệnh gìn giữ hoà bình do Úc dẫn đầu. Giờ đây, có nguồn tin cho rằng vụ tấn công có liên quan đến Trung Quốc.
Trong một tuyên bố, Đức cha Luciano Capelli nói: “Vụ tấn công ở khu phố Chinatown không liên quan gì đến Trung Quốc. Đó là do những người chống đối chính phủ gây ra. Bạo loạn đã bị ngăn chặn bởi sự can thiệp của Úc. Trái lại, toàn bộ vấn đề về quan hệ với Trung Quốc phải được nhìn nhận liên quan đến cách thức Bắc Kinh đang di chuyển trên khắp Thái Bình Dương và xa hơn nữa, cả ở châu Phi và Nam Mỹ”.
Ngài tiếp tục: “Với tư cách là Giám mục của Giáo hội ở tỉnh phía tây tôi không thấy các mối đe dọa và kẻ thù bên ngoài đòi hỏi một siêu cường quốc có khả năng thể hiện sức mạnh. Chúng tôi chỉ có một số vấn đề sắc tộc nội bộ hoặc vấn đề cướp bóc trong thành phố. Người Úc đang làm rất tốt. Quần đảo Solomon không cần các trò chơi chiến tranh hay các siêu cường thử bom của họ ở đây. Mọi người đã có đủ những gì đã xảy ra 70 năm trước”.
Quần đảo Solomon với chưa tới 1 triệu dân, cách Úc khoảng 2.000km về phía đông bắc, đã cắt đứt quan hệ với vùng lãnh thổ Đài Loan và chuyển sang thiết lập quan hệ với Trung Quốc vào năm 2019. Điều này báo hiệu ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc ở Thái Bình Dương.
Ngọc Yến - Vatican News
Thánh giá hoà bình ở Đức thánh du đến Colombia
Sáng kiến bắt đầu từ Giáo phận Aachen bởi Đức cha Helmut Karl Dieser và trong bối cảnh kỷ niệm 60 năm kết nghĩa giữa thành phố của Đức với Colombia. Sáng kiến hướng đến 14 Tổng Giám mục, kêu gọi các vị mục tử thúc đẩy các hoạt động và hành hương ủng hộ hoà bình trong các Tổng Giáo phận do các vị chăm sóc.
Cha Ferney López, Tổng Thư ký của Tổ chức Phát triển Dân tộc cho châu Mỹ Latinh cho biết, bản sao Thánh giá thánh du là một bằng chứng về mối liên kết hiệp thông tinh thần bền chặt, các hoạt động loan báo Tin Mừng và tình liên đới được củng cố trong những năm tháng tình bạn giữa hai quốc gia.
Thánh giá hoà bình là một biểu tượng của tình huynh đệ có giá trị lịch sử và xã hội, vì gắn liền với các cuộc hành hương và sáng kiến chống bạo lực do các Giáo phận ở Đức khuyến khích sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Bản gốc Thánh giá nặng 50 kg, ở trung tâm là khuôn mặt Chúa Kitô đau khổ, được thực hiện vào năm 1947 bởi những người trở về từ chiến tranh Krefeld. Từ đó, Thánh giá được xem là một biểu tượng mạnh mẽ để cầu xin cho các bên tham chiến ở mọi nơi trên mặt đất quan tâm đến việc đối thoại và thấu hiểu.
Ngọc Yến - Vatican News
ĐHY Krajewski trao xe cứu thương ĐTC tặng trẻ em Ucraina bị thương
Bằng một dấu hiệu cụ thể về sự gần gũi, nâng đỡ và trợ giúp người dân Ucraina đang trải qua nhiều đau khổ vì chiến tranh, Đức Hồng y Krajewski đã đưa chiếc xe cứu thương được trang bị đầy đủ đến Lviv. Các nhà chức trách Ucraina đang hỗ trợ khoảng 250.000 người di tản từ các vùng chiến sự đã nhận được món quà của Đức Thánh Cha.
Đức Hồng Y Krajewski nói: “Thật là một đặc ân lớn đối với tôi khi tôi được giao nhiệm vụ trao tặng món quà đặc biệt là chiếc xe cứu thương này.” “Đức Thánh Cha luôn là người xây những cây cầu, người mang lại hòa bình, và chiếc xe cứu thương này dành riêng cho những người dân đau khổ nhưng cũng đại diện cho Đức Thánh Cha ôm họ vào lòng. Đó là một cách nói: ‘Tôi ở gần anh chị em, tôi đâu khổ với anh chị em, tôi yêu cầu và cầu xin hòa bình cho đất nước đang gặp nhiều khó khăn này.”
Chánh Sở Từ thiện của Đức Thánh Cha giải thích: “Tôi đã giao chiếc xe cứu thương này cho tỉnh trưởng Lviv và ông ấy cảm ơn tôi, ông ấy cảm ơn Đức Thánh Cha và nói rằng chiếc xe cấp cứu này được dành cho bệnh viện nhi để cứu những trẻ em đến từ các khu vực chiến tranh.”
Một quan chức Ucraina nói rằng đây là món quà quan trọng vì số lượng người tị nạn trong khu vực đã tăng lên đáng kể. “Xin cảm ơn Đức Hồng y Krajewski! Chúng tôi cảm ơn Đức Thánh Cha Phanxicô vì những lời cầu nguyện của ngài, vì đã nhớ đến Ucraina: điều đó mang lại cho chúng tôi sức mạnh! Chúng tôi muốn thế hệ tiếp theo của chúng tôi không phải chứng kiến chiến tranh và được khỏe mạnh.”
Trưa thứ Hai 29/3/2022, Đức Hồng y Krajewski đã cầu nguyện trong nhà thờ chính tòa Lviv.
Đây là lần thứ hai Đức Hồng y thăm Ucraina kể từ khi chiến tranh bùng nổ nhằm mang lại sự gần gũi và nâng đỡ của Đức Thánh Cha đối với những người đang chịu đựng xung đột. Trước đó, từ ngày 6-12/3/2022, Đức Hồng y đã đến Rivne, Zhovkva và những nơi khác bị ảnh hưởng bởi xung đột.
Hồng Thủy - Vatican News
ĐTC chia buồn về sự qua đời của Đức Hồng y Antonios Naguib
Trong điện thư gửi đến Đức Thượng phụ Ibrahim Isaac Sedrak của Alexandria, Đức Thánh Cha bày tỏ sự gần gũi của mình với toàn thể Giáo hội Công giáo Copte về sự mất mát này. Đức Thánh Cha nêu bật sự dấn thân của Đức Hồng y Naguib trong việc phát triển và phục vụ xã hội vì những người nghèo và người đau khổ. Đức Thánh Cha gọi Đức Hồng Y Naguib là một “tấm gương mục tử tốt lành” hoàn hảo cho Giáo hội của ngài.
Đức Thánh Cha cũng cầu nguyện, nhờ sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, xin Chúa “đón nhận người tôi tớ trung thành này vào thành Giêrusalem trên trời.”
Tiểu sử Đức Hồng y Naguib
Đức Hồng y Naguib sinh ngày 18/3/1935, tại Samalout, Ai Cập. Ngài theo học tại Chủng viện liên nghi lễ Maadi ở Cairo và sau đó tại Đại học Giáo hoàng Urbaniana ở Rôma, được thụ phong linh mục vào năm 1960. Ngài đã đóng góp vào bản dịch Tân Ước mới sang tiếng Ả Rập tiêu chuẩn hiện đại.
Ngài được tấn phong làm Giám mục Minya năm 1977 và được bầu làm Thượng phụ Alexandria năm 2006. Trong 7 năm làm Thượng phụ Alexandria, ngài cũng là chủ tịch Thượng hội đồng Giáo hội Công giáo Copte và Chủ tịch hội đồng hàng giáo phẩm Công giáo Ai Cập. Năm 2010, Đức Biển Đức XVI đã phong ngài lên Hồng y. Sau khi bị đột quỵ vào năm 2011, ngài đã nghỉ hưu vào tháng 01/2013. Vào tháng 3 năm đó, ngài đã tham dự Mật nghị bầu chọn Đức Giáo hoàng Phanxicô.
Đức Hồng y Naquib là một người ủng hộ mạnh mẽ việc đối thoại đại kết, đặc biệt là với các tín hữu Chính thống Copte, cộng đoàn Kitô hữu lớn nhất ở Ai Cập. Ngài cũng lo ngại về việc chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo đang gia tăng đe dọa các Ki-tô hữu Ai Cập, đặc biệt là sau cuộc nổi dậy Mùa xuân Ả Rập lật đổ Tổng thống Ai Cập Hosni Mubarak vào năm 2011, và nhấn mạnh rằng cần phải tách biệt lĩnh vực chính trị và tôn giáo.
Với sự qua đi của Đức Hồng y Naguib Hồng y đoàn còn 211 vị, trong đó có 119 Hồng y cử tri, nghĩa là những vị dưới 80 tuổi, có quyền bầu cử.
Hồng Thủy - Vatican News
Đức Thánh cha tiếp kiến hai nhóm thổ dân Canada
Sáng ngày 28 tháng Ba vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô đã lần lượt tiếp kiến hai nhóm đại diện các thổ dân Canada, trong đó gồm mười đại biểu của những người lai, và tám đại biểu của sắc dân Inuit, và một vài giám mục đại diện Hội đồng Giám mục Canada.
Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết Đức Thánh cha đã gặp mỗi nhóm khoảng một tiếng ba mươi phút, qua đó ngài muốn lắng nghe những chuyện đau thương do những người sống sót kể lại. Những cuộc gặp gỡ và lắng nghe sẽ tiếp tục trong những ngày tới đây, như những thông tin đã được thông báo.
Thông cáo của Hội đồng Giám mục Canada cho biết có ba nhóm thổ dân thuộc các sắc tộc khác nhau đến Roma, từ ngày 28 tháng Ba tới mùng 01 tháng Tư này để gặp gỡ Đức Giáo hoàng. Trong các nhóm đó, có Hội đồng các sắc dân đầu tiên (Assembly of First Nation, AFN). Hai nhóm đã được Đức Thánh cha kiến là Hội đồng toàn quốc những người lai, và sắc dân Inuit Tapiriit Kanatami. Trong các đoàn đó, có các Trưởng lão, những người “bảo tồn kiến thức”, các cựu học sinh các trường nội trú và những người từ nhiều nơi ở Canada.
Nhu cầu hòa giải giữa các thổ dân và Giáo hội Công giáo Canada được nhấn mạnh, sau vụ khám phá những ngôi mộ vô danh tại các trường nội trú thổ dân ở Canada hồi năm ngoái. Giáo hội Công giáo cùng với các Giáo hội Kitô khác, Anh giáo và Tin lành, đã được chính phủ thuộc địa ủy thác nhiệm vụ giáo dục các trẻ em thổ dân trong chính sách đồng hóa văn hóa. Các em bị đưa ra khỏi bộ lạc của mình, phải học tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, từ bỏ văn hóa của mình và không được trở về với các bộ lạc nguyên quán.
Trước khi về Roma gặp Đức Giáo hoàng, một số đại diện thổ dân tuyên bố họ muốn ngài đích thân sang Canada để xin lỗi thổ dân, cũng như giao nạp văn khố của Giáo hội liên quan đến các trường nội trú thổ dân, và đồng thời xin Đức Giáo hoàng Phanxicô hủy bỏ sắc chỉ do Đức Giáo hoàng Alessandro VI hồi năm 1493, cho phép Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha thực dân hóa Mỹ châu và các cộng đoàn thổ dân làm thần dân.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Thánh cha gặp Đức Tổng giám mục Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan
Hôm 28 tháng Ba vừa qua, Đức Tổng giám mục Stanislaw Gądecki, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan đã được Đức Thánh cha Phanxicô tiếp kiến riêng. Trong số những vấn đề được đề cập đến trong cuộc trao đổi, cũng có vấn đề gọi là “Con đường Công nghị” của Giáo hội Công giáo Đức mà Đức cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan bày tỏ quan tâm và Đức Thánh cha không đồng ý với đường hướng của “Con đường” này.
Qua “Con đường Công nghị”, Giáo hội Công giáo Đức đang đi ra ngoài giáo lý và truyền thống của Giáo hội Công giáo về nhiều điểm, như truyền chức cho nữ giới, thay đổi luân lý tính dục của Giáo hội, thay đổi luật độc thân giáo sĩ, v.v. Trong thời gian qua, Đức cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan đã viết thư cho Đức cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức để bày tỏ lo lắng về hướng đi của Công giáo Đức.
Thông cáo của Hội đồng Giám mục Ba Lan cho biết ngoài vấn đề vừa nói, trong buổi tiếp kiến riêng dài 45 phút, Đức Tổng giám mục Gądecki đã trình bày cho Đức Thánh cha về tình hình gần đây của Giáo hội Công giáo ở Ba Lan, lập trường của Giáo hội tại nước này lên án sự tấn công của Liên bang Nga chống Ucraina, và đồng thời cám ơn Đức Thánh cha đã thánh hiến toàn thế giới, đặc biệt là Nga và Ucraina cho Khiết tâm Đức Mẹ. Ngoài ra, Đức cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan cũng trình bày cho Đức Thánh cha sự động viên của Công giáo Ba Lan đón tiếp và giúp đõ những người Ucraina tị nạn. Số người được đón tiếp tại Ba Lan lên tới hơn hai triệu 300.000 người.
Đức Thánh cha đã cám ơn mọi hoạt động của Giáo hội tại Ba Lan và hứa hỗ trợ tinh thần. Ngài kêu gọi các linh mục và chủng sinh hãy tiếp tục gần gũi với Dân Chúa và chúc lành cho Giáo hội tại Ba Lan.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu