Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Giáo hội Philippines chính thức khai mạc án phong chân phước cho thiếu nữ 13 tuổi
Hồng Thủy - Vatican News
Sự kiện này đánh dấu bước đầu tiên trong một quá trình lâu dài nhằm tôn vinh Ruíz-Abad trở thành một trong những vị thánh trẻ nhất trong lịch sử Giáo hội.
Đức Cha Renato Mayugba, Giám mục của Laoag City, đứng đầu tòa án để nghe các nhân chứng làm chứng về cuộc đời và sự thánh thiện của vị Tôi tớ Chúa trẻ tuổi Ruíz-Abad, người được mô tả là “nguồn cảm hứng của lòng đạo đức, lòng thương xót, việc truyền giáo và sức mạnh cho người khác”.
Một đoạn video tái hiện cuộc đời của Ruíz-Abad đã được chiếu trong buổi khai mạc án phong chân phước, mang đến cho người tham dự một cái nhìn thoáng qua về cuộc đời của thiếu nữ với lòng đạo đức sâu sắc và tình yêu dành cho Chúa ngay từ khi còn rất nhỏ. Khi còn là một trẻ em, Ruíz-Abad luôn chăm chú cầu nguyện trước Thánh Thể, với hai cánh tay dang rộng về phía Chúa và thích phân phát thẻ cầu nguyện và các hình ảnh tôn giáo, đặc biệt là về “Santo Niño” (Chúa Giêsu Hài đồng), cho các giáo viên và bạn học của em. Đoạn video cho thấy một thiếu nữ không hề bối rối khi bị chẩn đoán mắc bệnh tim nan y và đã nói với người mẹ đang đau khổ của mình: “Mẹ đừng lo lắng; không sao đâu - Chúa sẽ chữa lành cho con!”.
Cha Dennis Ruíz, thỉnh nguyện viên của án, nhấn mạnh tầm quan trọng của tấm gương của Ruíz-Abad, đặc biệt đối với giới trẻ ngày nay, giống như Chân phước Carlo Acutis. Cha nói: “Nhiều người trẻ ngày nay bận tâm đến công nghệ, thời trang, vui chơi, thú vui và ham muốn vật chất trần tục, những điều này đôi khi khiến họ không chú ý đến những mối quan hệ lành mạnh, đặc biệt là [mối quan hệ] với Thiên Chúa”. “Với những gia đình không chu toàn chức năng và sự tan rã của gia đình trong xã hội ngày nay, trẻ em thường là đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, điều này khiến các em tìm đến môi trường của mình để được an ủi và xoa dịu. Nhưng nếu có một tấm gương đạo đức và nghị lực tốt cho tuổi trẻ, họ có thể được cứu khỏi sự diệt vong hoàn toàn. Việc hiểu biết về tính cách và đặc điểm của Niña cũng như đức tin mạnh mẽ của cô đối với Thiên Chúa sẽ là kim chỉ nam cho giới trẻ”.
Ngay sau phiên họp khai mạc, Tòa án Giáo phận Laoag và những người tham dự phiên họp đã đến viếng mộ Tôi Tớ Chúa Ruíz-Abad tại Nhà thờ Thánh Monica ở Sarrat, thành phố Ilocos Norte.
Đơn thỉnh cầu phong chân phước và phong thánh cho Ruíz-Abad là một phần trong nỗ lực rộng lớn hơn của Giáo hội nhằm công nhận các vị thánh thời hiện đại, những gương mẫu cho người Công giáo trong thế kỷ 21. Giáo hội Công giáo muốn công nhận các vị thánh đã thực hành đức tin trong đời sống bình thường của cuộc sống hiện đại.
Đức Cha Mayugba đã khuyến khích: “Xin cho cuộc đời của Ruíz-Abad, dù ngắn ngủi, truyền cảm hứng cho tất cả chúng ta đặt Thiên Chúa lên hàng đầu trong cuộc sống của mình”. (CNA 11/04/2024)
Tín hữu Trung Quốc quảng đại đóng góp cho “Cuộc lạc quyên toàn quốc” năm 2024
Vatican News
Việc quyên góp, theo truyền thống, với đỉnh cao là vào Chúa nhật Lễ Lá, gây quỹ để phân bổ phần lớn cho các nỗ lực cứu trợ ở những khu vực bị ảnh hưởng bởi thảm hoạ thời tiết và tình trạng khẩn cấp xã hội, và luôn nhận được sự hỗ trợ cụ thể của các giám mục.
Theo thông tin do hãng tin Fides thu thập, giáo phận Bắc Kinh đã thu được 169.286 nhân dân tệ (tương đương 21.620 Euro), và từ các giáo phận ở những khu vực kém thịnh vượng hơn về kinh tế. Giống như các tỉnh Giang Tô, Sơn Tây (thu được 17.973 nhân dân tệ), Quý Châu và Sơn Đông (thu được 20.000 nhân dân tệ).
Giáo phận Thượng Hải đã chọn ngày lạc quyên trùng với Chúa Nhật Lòng Thương Xót, và do đó nhấn mạnh mối liên kết hiệp nhất các công việc của lòng thương xót với sứ điệp của Thánh Faustina Kowalska. Cho đến ngày 8/4, giáo phận đã lạc quyên được khoảng 530.000 nhân dân tệ, đến từ các giáo xứ và viện dưỡng lão. Đức Cha Giuse Thẩm Bân (Shen Bin), Giám mục Thượng Hải, cho biết: “Ngay cả việc thực hiện cuộc lạc quyên cũng cho thấy con đường thánh hóa, nó được thúc đẩy bởi tình yêu dành cho Thiên Chúa, được thể hiện trong tình yêu đối với con người”.
Việc quyên góp để gây quỹ vì lợi ích của những người gặp hoàn cảnh khó khăn luôn được các cộng đồng Công giáo trên khắp Trung Quốc hỗ trợ rất nhiều, cũng nhờ vào khả năng luôn có thể xác minh tính minh bạch tối đa trong việc sử dụng số tiền quyên góp được trong những năm này. Các dự án được tài trợ cũng bao gồm các nỗ lực cứu trợ được hỗ trợ sau lũ lụt và động đất ở nhiều khu vực khác nhau của Trung Quốc, cũng như những nỗ lực trợ giúp sau trận động đất ở Hoa Liên, Đài Loan, vụ phun trào núi lửa ở Guatemala và sóng thần ở Indonesia vào năm 2018. (Fides 11/4/2024)
ĐTC sẽ viếng thăm Indonesia, Papua New Guinea, Đông Timor và Singapore vào tháng 9
Vatican News
Thông báo viết: “Nhận lời mời của các Nguyên thủ quốc gia và các Giáo hội, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ thực hiện chuyến tông du đến Indonesia, Papua New Guinea, Đông Timor và Singapore từ ngày 02 đến 13/9/2024.
Dự kiến, Đức Thánh Cha sẽ rời Roma vào ngày 02/9 và trở về vào ngày 13/9.
Đầu tiên, ngài sẽ đến Jakarta, thủ đô Indonesia, từ ngày 03 đến ngày 06/9. Tiếp đến, ngài sẽ đến thăm Port Moresby, thủ đô của Papua New Guinea, và Vanimo từ ngày 06 đến ngày 09/9. Điểm dừng chân tiếp theo của Đức Thánh Cha sẽ là Dili thủ đô của Đông Timor từ ngày 09 đến ngày 11/9. Từ đó, ngài sẽ đến Singapore từ ngày 11 đến ngày 13/9.
Lần đầu tiên Đức Thánh Cha đề cập đến khả năng tông du đến khu vực này vào tháng 12/2023. Trong một cuộc phỏng vấn với đài truyền hình Mexico N+, Đức Thánh Cha cho biết ngài hy vọng sẽ đến “Polynesia” vào tháng 8 và đến quê hương Argentina vào cuối năm nay.
Sau đó, vào tháng 01/2024, Đức Thánh Cha nói với người phỏng vấn tờ báo Ý La Stampa rằng ngài sẽ đến thăm Đông Timor, Papua New Guinea và Indonesia.
Indonesia là quốc gia có đa số dân theo Hồi giáo lớn nhất thế giới và số người Công giáo lên tới hơn 8 triệu người, tương đương 3,1% dân số.
Khoảng 32% dân số Papua New Guinea là người Công giáo, với con số khoảng 2 triệu người.
Đông Timor đa số là người Công giáo, chiếm khoảng 96% dân số, với hơn 1 triệu người.
Khoảng 395.000 người Công giáo sống ở Singapore, chiếm khoảng 3% dân số.
Đức Thánh Cha tiếp các thành viên Quỹ Giáo hoàng
Vatican News
Được thành lập vào năm 1988, sứ vụ của Quỹ Giáo hoàng ở Hoa Kỳ là “phục vụ Đức Giáo Hoàng và Giáo hội Công giáo” trong các nhu cầu bác ái trên thế giới, bao gồm việc đào tạo các linh mục, tu sĩ và giáo dân; trợ giúp cho các nhà nội trú Công giáo và các cơ sở y tế; các chương trình ủng hộ sự sống; chăm sóc các linh mục và tu sĩ lớn tuổi; và nơi trú ẩn cho người lớn và trẻ em vô gia cư.
Trong bài nói chuyện với 140 người đến từ Hoa Kỳ, Đức Thánh Cha nhắc lại từ khi thành lập, Quỹ Giáo hoàng đã trở thành phương tiện truyền tải niềm vui Phục sinh bằng cách mang lại sự gần gũi, lòng trắc ẩn và tình yêu dịu dàng của Chúa Giêsu đến với nhiều anh chị em trên thế giới.
Ngài nói: “Qua những sáng kiến tốt đẹp này, anh chị em tiếp tục giúp đỡ những người kế vị Thánh Phêrô xây dựng nhiều nhà thờ địa phương và chăm sóc nhiều người kém may mắn, nhờ đó các vị hoàn thành sứ vụ được Chúa uỷ thác cho Thánh Tông đồ. Cám ơn lòng quảng đại của anh chị em”.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh thêm rằng công việc của các thành viên bén rễ và tìm được cảm hứng từ đức tin Công giáo. Đức tin này cần phải được tiếp tục nuôi dưỡng bằng việc tham gia vào đời sống Giáo hội, lãnh nhận các Bí tích, và dành thời gian thinh lặng trước Chúa để cầu nguyện và tôn thờ. Nhờ cầu nguyện liên lỉ, dần dần chúng ta sẽ trở nên “một lòng một ý” (Cv 4, 32) với Chúa Giêsu và với anh chị em khác, từ đó chuyển thành tình liên đới và chia sẻ lương thực hằng ngày của chúng ta.
Trong đời sống thiêng liêng, hoa trái này rất quan trọng đối với mọi người, vì thực tế các thành viên Quỹ Giáo hoàng không trực tiếp tiếp xúc với những ai họ giúp đỡ, nhưng các chương trình của Quỹ thúc đẩy liên kết tinh thần và tình huynh đệ với những người thuộc mọi nền văn hoá, ngôn ngữ, tôn giáo và khu vực khác nhau.
Đức Thánh Cha kết luận: “Hơn bao giờ hết, sự phục vụ của anh chị em cần thiết trong thời nay, vốn bị đánh dấu bởi chủ nghĩa cá nhân và sự dửng dưng”.
Đức Thánh Cha khai trương “Trường Cầu nguyện” tại một giáo xứ ở Roma
Vatican News
Cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha đánh dấu cuộc gặp gỡ đầu tiên trong một loạt cuộc gặp gỡ sẽ được thực hiện trong Năm Cầu nguyện như một sự chuẩn bị thiêng liêng cho Năm Thánh 2025.
Trong gần một giờ trò chuyện, đầu tiên Đức Thánh Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của việc “nói lời cảm ơn về mọi sự” với cha mẹ, bạn bè, giáo viên và giáo lý viên, nhưng trên hết tạ ơn Chúa. Ngài nói: “Điều quan trọng là phải nói lời cảm ơn vì mọi sự. Ví dụ, nếu các con vào nhà ai đó và không nói lời cảm ơn, xin lỗi, hoặc không chào họ, điều đó có tốt không?”. Ngoài ra, để tỏ lòng biết ơn, ngài còn nhắc nhở các em phải biết xin phép và nhận biết khi nào cần xin lỗi.
Nhưng trọng tâm buổi trò chuyện là chủ đề cầu nguyện. Đức Thánh Cha nhấn mạnh cầu nguyện không bao giờ được thiếu, ngay cả trong “những lúc đen tối” của cuộc sống. Về điều này, có một câu hỏi cảm động của bé Alice đang phải chiến đấu với bệnh tật. Em hỏi: “Làm sao con có thể cám ơn Chúa khi bị bệnh?” Đức Thánh Cha trả lời: “Ngay cả trong những thời khắc đen tối, chúng ta phải tạ ơn Chúa vì Người ban cho chúng ta sự kiên nhẫn để chịu đựng khó khăn”.
Đức Thánh Cha cũng mời gọi các em cầu nguyện trước khi ăn và nhớ đến những người khác không có gì để ăn, tạ ơn Chúa vì có một mái ấm gia đình.
Chủ đề cuối cùng là đức tin. Đức Thánh Cha mời gọi các em tạ ơn Chúa vì hồng ân đức tin đã lãnh nhận. Và để thực hành điều này, vào mỗi tối trước khi đi ngủ, cần dừng lại đôi chút, nhìn lại một ngày đã qua và dâng lên Chúa lời tạ ơn và tất cả những gì đã lãnh nhận trong ngày.
Ngài kết thúc cuộc gặp gỡ bằng cách cùng với các em đọc “Lời cầu nguyện tạ ơn” được soạn cho dịp này và được in trên một tờ rơi có biểu tượng Năm Thánh.
Chúng ta có chắc mình không phạm tội quên, tội sót không?
fr.aleteia.org, Mónica Muđoz, 2024-04-09
Những tội thiếu sót hiếm khi chúng ta nhớ khi xét mình, nhưng chúng lại phạm thường xuyên hơn chúng ta nghĩ…
Chúng ta cầu nguyện trong thánh lễ: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em. Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tuởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót…”. Tuy nhiên, rất ít người chú ý đến tội quên tội sót này. Từ “bỏ sót” có nghĩa là gì, và nhất là tội bỏ sót là gì? Sách Giáo lý của Giáo hội công giáo nhấn mạnh, tội là xúc phạm đến Thiên Chúa, “một thất bại trong tình yêu đích thực với Thiên Chúa và với người anh em” (GLCG 1849). Tội có thể nhẹ hoặc nặng, có thể phạm vì thiếu sót, có nghĩa là quyết định không hành động.
Điều bỏ sót là điều gì?
Theo tự điển, bỏ sót là “quên không làm việc gì, không xét đến, không đề cập, không làm”. Có thể không làm điều ác, nhưng cũng có thể quên không làm điều tốt. Chúa Giêsu nhắc: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng” (Mt 25:42-43).
Những lời này mời gọi chúng ta suy ngẫm về những thiếu sót của mình và khuyến khích chúng ta làm việc bác ái với người anh em. Người tín hữu kitô không những phải tuân giữ Mười Điều Răn và không tìm cách làm điều xấu: để thánh thiện, họ còn phải nghĩ đến người khác và làm việc lành. Điện thoại cho người già cô đơn cần tâm sự, dành thì giờ cho người gặp khó khăn cần được lắng nghe, giúp đỡ người láng giềng đang mệt mỏi…
Chúa mong các môn đệ đích thực của Ngài hiệp nhất với người đau khổ, thoát khỏi sự an nhàn và ích kỷ, khỏi thói lười biếng và thờ ơ để thể hiện lòng trắc ẩn và bác ái. Trong lần xét mình tới, chúng ta tự hỏi mình đã bỏ sót tội gì và nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: “Mỗi lần anh em không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là anh em đã không làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25:45).
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Tương lai nào cho Giáo hội công giáo? Hồng y Grech: “Bây giờ không còn là thời của giới tinh hoa ưu tú”
Hồng y cùng với Đức Phanxicô. ©Vatican Media
cdt.ch/societa, Dario Campione, 2024-03-21
Hồng y người Malta Mario Grech, tổng thư ký Thượng hội đồng đến Thụy Sĩ để tham dự một loạt cuộc họp.
Hồng y người Malta Mario Grech, tổng thư ký Thượng hội đồng về tính đồng nghị đã đến Thụy Sĩ vào đầu tuần theo lời mời của Hội đồng Giám mục Thụy Sĩ để tham dự một loạt cuộc họp. Trang Corriere del Ticino phỏng vấn ngài.
Xin cha cho biết, trong một thế giới bị rung chuyển vì chiến tranh và xung đột, Giáo hội đặt câu hỏi về tương lai của mình qua tính đồng nghị. Điều này cụ thể có ý nghĩa gì?
Hồng y Mario Grech. Chiến tranh và xung đột khẳng định chúng ta cần phải học rất nhiều để cùng nhau bước đi. Một Giáo hội đồng nghị là một lá cờ được giương lên giữa các quốc gia gieo rắc cái chết! Một Giáo hội đồng nghị có nghĩa là cùng nhau bước đi để lắng nghe nhau. Và khi tôi nói hãy lắng nghe nhau, tôi không chỉ nói đến việc trao đổi ý kiến nhưng còn một điều gì đó đầy thách thức hơn. Với những ai có đức tin, mỗi người chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Tất cả những ai đã rửa tội đều nhận được ơn này, nhưng nhiệm vụ của chúng ta là làm cho nó trở nên sống động trong thế giới ngày nay. Vì vậy, không chỉ đi cùng nhau mà còn lắng nghe nhau. Trong Giáo hội lắng nghe, các giám mục lắng nghe dân Chúa và Phêrô cũng cần lắng nghe.
Một Giáo hội ít chiều dọc hơn, ít thứ bậc hơn, điều mà Đức Phanxicô đã nhấn mạnh kể từ ngày đầu triều của ngài. Đức Phanxicô có rất nhiều kinh nghiệm về mặt này. Ở Châu Mỹ Latinh, họ có lợi thế khi nói về tính đồng nghị, “Thần học về Dân Chúa” là trung tâm của giáo hội học Châu Mỹ Latinh, ở đó hệ thống phân cấp phục vụ Dân Chúa.
Nhưng theo cha, ý nghĩa đích thực nhất của Thượng Hội đồng như Đức Phanxicô mong muốn là gì?
Đức Phanxicô xác tín con đường Giáo hội trong tương lai là con đường đồng nghị: tất cả dân Chúa phải có khả năng tìm ra con đường để cùng nhau bước đi vì nó mang lại sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, đó là sự phong phú, và chỉ khi tất cả chúng ta cùng nhau đi, chúng ta mới có thể nhận ra tiếng nói của Ngài.
Hồng y Grech: “Nếu chúng ta không tin Chúa Thánh Thần thổi sức thì thượng hội đồng sẽ thất bại”
Theo cha, liệu có nguy cơ biến Thượng hội đồng thành một cuộc thảo luận về “chính trị giáo hội”, có thể mang các vấn đề gây tranh luận như luật độc thân của linh mục, chúc phúc cho các cặp đồng tính vào trọng tâm cuộc tranh luận không?
Tôi sẽ không nói đến “chính trị” nhưng đúng hơn là các vấn đề liên quan đến đời sống của dân Chúa. Suy tư về chức thánh hay các bậc sống khác nhau là thực tế, là đi tìm câu trả lời dưới ánh sáng của lời Chúa. Trước hết chúng ta cần mọi thứ để nhận ra mình là một cộng đồng cùng bước đi với nhau. Một khi Giáo hội trưởng thành trong văn hóa đồng nghị mới này, tôi tin chúng ta sẽ có thể trả lời các câu hỏi hiện sinh.
Có lẽ đó cũng là một cách để tránh cho Thượng hội đồng không tỏ ra quá xa rời thực tế hoặc tạo ấn tượng về một Giáo hội tự thảo luận, không tác động đến đời sống của người dân, cũng không tác động trên các tín hữu công giáo.
Sẽ là một sai lầm nếu Thượng hội đồng chỉ có sự tham gia của giới ưu tú, các nhà thần học hoặc các giám mục. Đây là một trong những bước ngoặt của Đức Phanxicô. Trong quá khứ, Thượng hội đồng là sự kiện chỉ dành riêng cho các giám mục. Lần này Thượng hội đồng mở ra để toàn thể Giáo hội tham gia. Giai đoạn đầu tiên là việc lắng nghe dân Chúa, đặc biệt là những người ở vùng ngoại vi. Đã có nhiều câu trả lời và nhiều lời kết hợp, có nghĩa là có sự sẵn sàng cùng nhau bước đi, tìm câu trả lời từ Tin Mừng. Nếu không thì con đường này sẽ không có ý nghĩa gì.
Hồng y Grech và Hollerich được Đức Phanxicô chọn để lãnh đạo một thượng hội đồng quyết định
Giáo hội hoàn vũ là một phần của các Giáo hội địa phương: sẽ là sai lầm nếu tưởng tượng sự tồn tại của một bên là Giáo hội hoàn vũ và một bên là các Giáo hội đặc thù. Tuy nhiên, đối với những người nhìn từ bên ngoài, vẫn luôn có sự nghi ngờ, có nhiều Giáo hội khác nhau, đôi khi gặp khó khăn trong việc tìm ra một sự tổng hợp.
Giáo hội hoàn vũ là một phần của các Giáo hội địa phương: sẽ là sai lầm khi tưởng tượng sự tồn tại của một bên là Giáo hội hoàn vũ và một bên là các Giáo hội đặc thù. Đây không phải là trường hợp: Giáo hội hoàn vũ được sinh ra từ các Giáo hội địa phương, đó là giáo huấn của Công đồng Vatican II và Hiến chế Tín lý về Hội thánh, Lumen gentium.
Nhưng có những quan điểm khác nhau, một nhấn mạnh quan trọng về các lựa chọn của giáo hoàng, – tôi nghĩ đến những gì các giám mục châu Phi nói về việc chúc phúc cho các cặp đồng tính hoặc chủ nghĩa bảo thủ của một số giáo sĩ Bắc Mỹ – cho thấy Giáo hội khác nhau giữa các quốc gia và giữa các châu lục. Thượng hội đồng có làm việc để khôi phục sự hiệp nhất lớn hơn trong Giáo hội hay để hiểu được tầm quan trọng, mà không sợ hãi các khác biệt?
Khi chúng ta nói về hiệp nhất, về hiệp thông, chúng ta không đề cập đến sự đồng nhất về tư tưởng. Có sự thống nhất trong những khác biệt, có những điểm chung và những không gian khác nhau cho những trải nghiệm khác nhau, tùy theo “địa điểm”. Ngày 14 tháng 3 vừa qua chúng tôi đã xuất bản một tài liệu mới với năm quan điểm thần học, năm chủ đề chúng tôi muốn giao cho các ủy ban nội bộ trước phiên họp toàn thể khóa thứ hai. Điểm thứ năm trong số này có tựa đề “Vị trí của Giáo hội đồng nghị trong truyền giáo”. Rõ ràng “địa điểm” là một chủ đề có tầm quan trọng quyết định, vì nói về đức tin ở châu Âu hay châu Đại Dương là khác nhau. Nhưng “địa điểm” cũng là một nơi thần học. Riêng tôi, tôi luôn hình dung Giáo hội như một cầu vồng, với những màu sắc không loại trừ nhau mà cùng nhau tạo nên sự hài hòa. Rõ ràng là hòa hợp sẽ bị thiếu khi xảy ra xung đột.
Kết quả quan trọng nhất của phiên họp đầu tiên của Thượng Hội đồng là gì? Và cha mong chờ gì từ phiên họp thứ hai sẽ kết thúc vào cuối tháng 10?
Lần đầu tiên Thượng hội đồng diễn ra với hai phiên họp. Sau cuộc họp tháng 10 năm 2023, tất cả các điểm thảo luận đều được tóm tắt trong một báo cáo. Điều mới là Đức Phanxicô đã xác định, trong cùng một báo cáo, mười chủ đề và giao cho các nhóm liên ngành xin họ trả lời thêm. Trong quá khứ, lời khuyến khích luôn mang tính hậu Thượng hội đồng, nhưng khi làm như vậy, một lần nữa ngài chứng tỏ ngài đang lắng nghe.
Chúng ta đang nói về chủ đề gì?
Đây là những câu hỏi liên quan đến các khía cạnh của đời sống Giáo hội đang chuyển động, nhưng cũng liên quan đến mối quan hệ với một xã hội đang thay đổi: chiều kích đại kết, các tiêu chuẩn lựa chọn giám mục, sứ mệnh của các sứ thần Tòa thánh trong các Giáo hội quốc gia; và còn cả chức phó tế nữ hay chủ đề người nghèo, những người phải được lắng nghe vì họ đóng góp cho thần học không chỉ về khía cạnh bác ái mà còn về những điều họ nói.
Chức phó tế nữ là một trong những vấn đề đã được thảo luận từ rất lâu, nó sẽ là một cuộc cách mạng đối với Giáo hội.
Tôi sẽ không dùng những thuật ngữ như cách mạng. Chức phó tế nữ và một không gian khác dành cho phụ nữ trong Giáo hội là đào sâu tự nhiên ý Chúa, nói lên và thể hiện tính năng động vốn có trong lịch sử của Giáo hội.
Sự phản ánh tự tham chiếu giết chết. Tôi hiểu Đức Phanxicô khi ngài hướng dẫn chúng ta cởi mở để có thể đón nhận những hạt giống tràn đầy hy vọng đến từ Giáo hội nhưng không chỉ từ cuộc đối thoại với các tôn giáo khác.
Thưa cha, số lượng người đi lễ ở các nhà thờ công giáo châu Âu đang giảm dần. Điều gì làm tổn thương nhất trong những năm gần đây? Những vụ bê bối lạm dụng? Chủ nghĩa giáo sĩ trị, như Đức Phanxicô nói?
Sự phản ánh tự tham chiếu sẽ giết chết. Tôi hiểu Đức Phanxicô khi ngài hướng dẫn chúng ta cởi mở để có thể đón nhận những hạt giống tràn đầy hy vọng đến từ Giáo hội nhưng không chỉ từ cuộc đối thoại với các tôn giáo khác. Đó là một thách thức: khi chúng ta bảo vệ căn tính kitô giáo và công giáo của mình, chúng ta không thể loại trừ việc đồng hành với người khác. Về vấn đề lạm dụng, tôi nói chúng ta là kẻ có tội và Giáo hội rất dễ bị tổn thương. Tôi tin việc nhận ra điểm yếu của mình và thực hiện các biện pháp để khắc phục sai lầm là điều tốt.
Cha có nghĩ kết quả cuối cùng của Thượng hội đồng cũng có thể thay đổi Giáo hội ở Thụy Sĩ không? Và như thế nào?
Nghịch lý thay, ở Thụy Sĩ, vấn đề đồng nghị không phải là một điều hoàn toàn mới: ba thực tại văn hóa và ngôn ngữ trong Giáo hội đã và đang cùng nhau bước đi, và tôi tin họ có thể học cách làm điều đó tốt hơn nữa. Tôi là một Giáo hội. Và Liên bang có truyền thống dân chủ lâu đời và vững chắc. Ở đất nước này, lắng nghe mọi người là điều căn bản. Tôi nói điều này không phải vì Giáo hội có tính dân chủ, trái lại, Giáo hội có tính chất thứ bậc, nhưng vì Giáo hội có xu hướng hướng tới tính đồng nghị ngày càng lớn hơn. Tôi tin một cam kết đã có sẵn trong DNA của Giáo hội Thụy Sĩ.
Tôi xin hỏi cha câu hỏi cuối cùng. Là công dân Malta, ngay cả trước khi trở thành giám mục và hồng y, cha nhìn thế nào về những gì đang xảy ra ở Địa Trung Hải, nơi hàng ngàn người chết trên biển trước sự thờ ơ và không quan tâm của những người lẽ ra phải làm gì đó để cứu họ?
Những gì xảy ra ở Địa Trung Hải thật đáng xấu hổ; xấu hổ khi châu Âu và phần lớn giới chính trị nhắm mắt, đóng lòng trước thảm kịch nhân loại này. Chúng ta, với tư cách là Giáo hội, cũng phải xấu hổ, mặc dù có các linh mục, các cộng đồng giáo xứ chào đón người di cư. Chúng ta phải cố gắng hướng tới sự chung sống giữa con người, giúp đỡ xã hội trong vấn đề này, mở rộng trái tim với những người đang đi trốn với hy vọng có thể sống một cuộc sống tốt hơn và xứng đáng hơn.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
ĐHY Zenari: 90% dân số Syria sống dưới mức nghèo khổ
Vatican News
Trong bài phát biểu tại cuộc gặp gỡ của tổ chức bác ái, trước hết, Đức Hồng Y bày tỏ lòng biết ơn Đức Thánh Cha về lời mời gọi của ngài đừng quên Syria trong sứ điệp Phục Sinh vừa qua. Theo Sứ thần Toà Thánh, đó là một trong số rất ít lời kêu gọi được đưa ra trước sự kiện bi thảm này: năm thứ 14 của cuộc chiến. Một cuộc chiến bị truyền thông và cộng đồng quốc tế lãng quên. Lời kêu gọi của Đức Thánh Cha thực sự là một luồng gió mới cho Syria.
Đức Hồng Y cho biết tình hình hiện nay của đất nước: “Theo số liệu của Liên Hiệp Quốc, mọi thứ đang trở nên càng tồi tệ hơn. Số người cần hỗ trợ nhân đạo gia tăng, nhiều hơn 9% so với năm ngoái: 3/4 dân số Syria đang sống trong tình trạng cần thiết này và con số cho thấy là 16,7 triệu người. Đây là những con số gây chóng mặt. Tiếp đến là vấn đề hồi hương của những người di dời và người tị nạn, vẫn là một vấn đề rất nghiêm trọng và chưa được giải quyết: đối với những người tị nạn, Libăng không còn có thể chấp nhận sự hiện diện của quá nhiều người trong số họ, nhưng cũng chưa có điều kiện để đưa họ đi nơi khác. Hơn nữa, 90% dân số đang phải sống dưới mức nghèo khổ. Tôi ở đây để nói về Syria, và để nhận được sự giúp đỡ, nhưng tình trạng nghèo đói của đất nước này không thể giải quyết bằng bố thí: một giải pháp chính trị là cần thiết, nhưng các nhà phân tích cho thấy điều này vẫn còn rất xa”.
Sứ thần Toà Thánh cũng cho biết về những hỗ trợ của Giáo hội dành cho người dân. Theo ngài, Giáo hội không thể giải quyết nghèo đói một mình, nhưng ít ra có thể giúp phân phát đồ cứu trợ, mà ngày càng ít do phải dành cho các vùng xung đột khác như Trung Đông và Ucraina. Giữa hoàn cảnh đau thương này, vẫn có những mẫu gương của những người Samari nhân hậu và những bà Vêronica lau khô nước mắt cho người đau khổ.
Về hy vọng hoà bình, Đức Hồng Y cho rằng điều này phải bắt đầu từ Âu châu: “Nhiều người hỏi tôi phải giúp Syria như thế nào. Tôi cho rằng cuộc bầu cử Âu châu tiếp theo sẽ là một sự kiện quyết định: cần phải chọn ra những người có thể đưa ra bước ngoặt chính trị đối với những gì đang xảy ra trên thế giới”.
Đấng Tạo Hoá và những giả thuyết của khoa học
Vatican News
Một sự thật đầu tiên không thể nghi ngờ là con người quan tâm về nguồn gốc của vũ trụ và giả thuyết về Thiên Chúa Đấng Sáng Tạo. Điều này được chứng thực qua sách của Michel-Yves Bolloré và Olivier Bonnassies xuất bản vào năm 2021, tại Pháp, trở thành sách bán chạy nhất, và điều này cũng được lặp lại khi tới Ý.
Hai tác giả muốn trình bày bằng chứng khoa học về sự hiện diện của Chúa và một thiết kế thông minh về nguồn gốc của vũ trụ, nối tiếp một loạt khám phá gần đây. Đó là những lý thuyết, được chứng thực bằng những tính toán và quan sát, làm lung lay nhiều niềm tin được cho là của những người nhân danh khoa học tuyên bố phủ nhận sự tồn tại của Đấng Tạo Hóa.
Thực vậy, sách giúp hiểu được sự khôn ngoan của những lời trong hiến chế tín lý Dei Filius của Công đồng Vatican I: “Không thể có sự bất đồng thực sự giữa đức tin và lý trí”. Công đồng đã trả lời cho những người ủng hộ sự không tương hợp giữa chân lý đức tin và tri thức hợp lý được suy luận bởi lý trí tự nhiên, bằng cách tuyên bố, với những từ ngữ vẫn còn phù hợp cho đến ngày nay, rằng có hai cấp độ kiến thức khác nhau, khác nhau về nguyên tắc và đối tượng, không xung đột nhau. Nhưng Công đồng cũng giải thích rằng có một loại trí thông minh rộng lớn hơn gắn kết mọi thụ tạo với Đấng Tạo Hóa, có khả năng kết hợp những gì trí thông minh của con người, bằng các phương tiện của nó, có thể biết về thực tại thực nghiệm. Đó là ý tưởng về lý trí mà Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã nói đến trong bài phát biểu đáng nhớ trước Quốc hội Đức vào tháng 9/2011: Ngài so sánh lý trí “với những tòa nhà bê tông cốt thép không có cửa sổ, trong đó chúng ta cung cấp cho mình khí hậu và ánh sáng và không còn muốn nhận cả hai thứ đó từ thế giới rộng lớn của Thiên Chúa”.
Việc không có xung đột giữa khoa học và đức tin được chứng thực bởi các nhà khoa học có đức tin, tác giả của những khám phá vĩ đại. Ở đây chỉ cần đề cập đến hai cái tên: đó là một người cùng thời với Darwin, Gregor Mendel, giáo sĩ dòng Augustinô người Moravian, ngày nay được coi là cha đẻ của ngành di truyền học; hoặc của linh mục Georges Edouard Lemaître, được coi là cha đẻ của vũ trụ học hiện đại, là người đầu tiên vào năm 1927 nhận thấy sự giãn nở của vũ trụ, một khám phá nằm ở nguồn gốc của thuyết Big Bang.
Trong cuốn sách của Bolloré và Bonnassies, hai lập luận vũ trụ học được mô tả rộng rãi để ủng hộ sự tồn tại của Chúa. Trước hết, bằng chứng được xác nhận bởi nhiều thử nghiệm khoa học khác nhau, rằng vũ trụ đang giãn nở và nó bắt đầu vào khoảng 13,8 tỷ năm trước. Nếu không thể quan sát được thời điểm ban đầu thì dấu vết của một giai đoạn sau đó đã được kiểm chứng, khi vũ trụ bằng 0,003% tuổi hiện tại. Bằng chứng này làm cho các tác giả cho rằng, vì khoa học đã chứng minh sự khởi đầu của thời gian nên điều này mặc nhiên thừa nhận sự tồn tại của Đấng Tạo Hóa. Cho đến vài thập kỷ trước, các nhà vật lý học thiên thể vẫn có niềm tin chắc chắn hơn nhiều so với ngày nay. Bây giờ các nhà khoa học nói với chúng ta rằng chúng ta chỉ biết 5% vũ trụ. Chỉ 5% số lượng này được tạo thành từ vật chất “thông thường” và có thể nhìn thấy được (các thiên hà, ngôi sao, hành tinh, mặt trăng, khí...). 95% “phần còn lại” chưa biết bao gồm 27% vật chất tối và 68% năng lượng tối. Vật chất tối và năng lượng tối này thực sự là gì, chúng kết hợp như thế nào vào cấu trúc tổng thể của vũ trụ, vẫn chưa được khám phá.
Lập luận thứ hai được đề xuất liên quan đến một bằng chứng khoa học khác, đó là thực tế rằng các quy luật điều chỉnh trong vũ trụ của chúng ta có xu hướng tạo ra các điều kiện cho sự xuất hiện của sự sống. Sự sống trên trái đất thực sự được tạo ra nhờ một loạt các hoàn cảnh chính xác. Tóm lại, vũ trụ được tạo dựng để cho phép chúng ta tồn tại. Sự hài hòa với sự tồn tại của sự sống chính xác đến mức nếu vũ trụ không giống như hiện tại thì chúng ta sẽ không tồn tại.
Do đó, có những hằng số vật lý cơ bản mà giá trị của chúng cho phép tồn tại vũ trụ và sự sống. Những hằng số này không nhiều và hiện tại không có lý do nào được biết tại sao chúng lại như vậy. Nếu có nhiều vật chất hơn hiện nay, vũ trụ sẽ sụp đổ: vũ trụ đã được làm như vậy rồi, nó sẽ không đạt tới mốc hơn 13 tỷ năm. Nếu có ít vật chất hơn một chút, vũ trụ sẽ giãn nở nhanh hơn và sẽ không có các ngôi sao, vốn là yếu tố cơ bản cho sự sống. Nếu vật chất không tổng hợp thành các ngôi sao thì sự sống không tồn tại.
Đứng trước bằng chứng này, có những người cho rằng ngẫu nhiên là một yếu tố nằm ở nguồn gốc của vũ trụ. Họ đưa ra giả thuyết về sự hiện diện của các vũ trụ vô tận - lý thuyết về đa vũ trụ - mà có thể đã phát triển một cách ngẫu nhiên theo một cách hoàn toàn khác với vũ trụ của chúng ta và mà đối với chúng ta không thể biết được. Một khẳng định có phần “siêu hình”: những vũ trụ vô tận khác này trên thực tế có thể được đưa ra giả thuyết để biện minh cho sự tồn tại nhân quả của chúng ta, nhưng chúng không thể quan sát được và do đó chúng không thể được trải nghiệm. Như chúng ta có thể thấy, giả thuyết - đối với những người có hồng ân đức tin, không phải là giả thuyết mà là sự chắc chắn - rằng Ai đó đã nghĩ đến và là nguồn gốc của trời và đất, rằng Ai đó đã nghĩ đến chúng ta, muốn có chúng ta và yêu thương chúng ta và tiếp tục yêu chúng ta, ban cho chúng ta sự sống, không thể được chứng minh một cách “khoa học”, nhưng nó cũng hợp lý không kém các giả thuyết siêu hình không kém khác.
Về vấn đề này, thật thú vị khi đọc Trước Big Bang, sách của giám đốc Khoa Vật lý Lý thuyết tại CERN Gian Francesco Giudice, xuất bản vào tháng 9 năm ngoái. Sách được viết do câu hỏi của một cô bé cùng đi một chuyến tàu với nhà khoa học. Cô bé hỏi ông đang đọc gì và ông trả lời: “Lịch sử của vũ trụ”. Cô bé hỏi tiếp: “Nếu cuốn sách nói về tất cả lịch sử vũ trụ thì có phải nó cũng nói về con không?” Một câu hỏi khiến Giudice ngạc nhiên, không nói nên lời, và trả lời một cách không chắc chắn: “Không, tôi không nghĩ vậy. Nhưng tôi vẫn chưa đọc hết”.
Trong sách này, ông Giudice viết: “Việc khám phá những vận hành sâu xa làm nền tảng cho các hiện tượng vật lý không làm mất đi vẻ đẹp của chúng nhưng còn làm cho chúng ta trải nghiệm cảm xúc khi bất ngờ nhìn thiên nhiên bằng con mắt khác, với cảm giác thấm nhập vào bản chất sâu sắc nhất của nó... Bức chân dung của Big Bang được vẽ bằng sự thổi phồng có cường độ mạnh đến mức khiến chúng ta cảm thấy như đang hiện diện trước cảnh tượng về nguồn gốc của vật chất, dường như mở ra trước mắt chúng ta giống như một sự trưng bày vũ trụ ngoại thường”.
Do đó, cuốn sách này giúp chúng ta hiểu hơn về những bí ẩn sự hình thành vũ trụ. Nhưng cần hết sức thận trọng để tránh dựa vào khoa học và các phương pháp của nó để “chứng minh” sự tồn tại của Đấng Tạo Hóa. Cần phải luôn nhớ những phát biểu của Thánh Gioan Phaolô II, trong buổi tiếp kiến chung vào tháng 7 năm 1985: “Khi chúng ta nói về những bằng chứng sự hiện hữu của Thiên Chúa, chúng ta phải nhấn mạnh rằng chúng ta không nói về những bằng chứng khoa học-thực nghiệm. Bằng chứng khoa học, theo nghĩa hiện đại của từ này, chỉ có giá trị đối với những thứ có thể cảm nhận được bằng giác quan, vì chỉ dựa vào những thứ này thì các công cụ điều tra và xác minh mà khoa học sử dụng mới có thể được thực hiện. Muốn có bằng chứng khoa học về Chúa có nghĩa là hạ thấp Chúa xuống ngang hàng với sinh vật trong thế giới của chúng ta, và do đó đã sai lầm về phương pháp luận về Chúa là gì. Khoa học phải thừa nhận những giới hạn và sự bất lực của mình trong việc đạt đến sự hiện hữu của Thiên Chúa: khoa học không thể khẳng định hay phủ nhận sự tồn tại này. Tuy nhiên, không được rút ra kết luận từ điều này rằng các nhà khoa học không có khả năng tìm ra, trong các nghiên cứu khoa học của họ, những lý do xác đáng để thừa nhận sự tồn tại của Thiên Chúa. Nếu khoa học như thế không thể đạt tới Thiên Chúa, thì khoa học gia, người sở hữu một trí thông minh, mà đối tượng không bị giới hạn ở những điều có thể cảm nhận được, có thể khám phá trong thế giới những lý do để khẳng định một hữu thể vượt trội hơn mình. Nhiều khoa học gia đã và đang thực hiện khám phá này”.
Những lời trên giúp chúng ta liên hệ tới sự khẳng định của cha Georges Lemaitre, người Bỉ, người đầu tiên đề xuất lý thuyết vũ trụ Big Bang. Trong một hội nghị, khi được hỏi liệu nguyên tử nguyên thủy có được đồng nhất với Chúa hay không, cha mỉm cười trả lời: “Tôi rất tôn kính Chúa nên không thể đưa ra một giả thuyết khoa học nào về Người”.
Đức Thánh Cha tiếp Uỷ ban Giáo hoàng về Kinh Thánh
Vatican News
Đức Thánh Cha nói chủ đề này gần gũi với tâm hồn ngài, và điều quan trọng là phải đối diện với đau khổ và bệnh tật xứng với nhân phẩm. Ngài nhắc lại: “Dưới ánh sáng đức tin, đau khổ và bệnh tật có thể trở thành những yếu tố quyết định trong một tiến trình trưởng thành. Đau khổ giúp phân định điều gì chính yếu và điều gì không. Nhưng trước hết mẫu gương của Chúa Giêsu chỉ ra con đường. Chúa khuyến khích chúng ta chăm sóc những ai đang đau yếu với ý muốn thắng vượt bệnh tật, đồng thời Chúa mời gọi chúng ta kết hiệp những đau khổ của chúng ta với của lễ cứu độ của Người như hạt giống sinh hoa trái”.
Ở điểm này, Đức Thánh Cha mời gọi các thành viên của Uỷ ban Giáo hoàng về Kinh Thánh suy tư hai cụm từ: lòng trắc ẩn và bao gồm.
Trước hết về lòng trắc ẩn. Lòng trắc ẩn cho thấy thái độ lặp đi lặp lại của Chúa Giêsu dành cho những người yếu đuối và cần được giúp đỡ. Lòng trắc ẩn cho thấy sự gần gũi của Chúa với những người đau khổ và làm cho Người đồng hoá với họ “Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm” (Mt 25, 36). Tất cả những điều này cho thấy một chiều kích quan trọng: Chúa không giải thích đau khổ nhưng cúi xuống với những ai đau khổ. Người không đưa ra câu trả lời dễ dàng cho những câu hỏi “tại sao” của chúng ta, nhưng trên Thánh giá Người đã biến câu hỏi lớn “tại sao” của chúng ta thành của Người.
Đức Thánh Cha suy tư tiếp về “sự bao gồm”. Ngài nhận xét, trong Kinh Thánh không có cụm từ này nhưng những hành động của Chúa Giêsu tỏ rõ sự bao gồm: tìm kiếm tội nhân, người bị gạt ra bên lề, không có ai bị loại trừ khỏi ơn cứu độ của Thiên Chúa. Sự bao gồm còn thể hiện trong khía cạnh khác: Chúa mong muốn toàn thể con người cả hồn lẫn xác đều được chữa lành. Bởi vì chữa lành thể xác chẳng ích gì nều tâm hồn không được chữa lành.
Đối với Đức Thánh Cha, quan điểm bao gồm này đưa chúng ta đến thái độ chia sẻ. Qua kinh nghiệm đau khổ và bệnh tật, Giáo hội được mời gọi cùng bước đi với mọi người, trong tình liên đới Kitô và nhân loại, mở ra những cơ hội đối thoại và hy vọng.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha cám ơn các thành viên vì sự phục vụ và khuyến khích họ tiếp tục nghiên cứu cách nghiêm túc với tinh thần huynh đệ để chiếu sáng Kinh Thánh vào những khía cạnh mà tất cả mọi người đều quan tâm.