„Chúng tôi đã nhìn thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông…“ ( Mt 2, 2)
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Sao là vật thể tinh tú trên nền trời do Thiên Chúa tạo dựng vào ngày tạo dựng thứ tư ( St 1,16) chiếu tỏa ánh sáng vào ban đêm.
Nhưng với con người xưa nay các vì sao vẫn luôn là một bí hiểm còn chất chứa nhiều bí ẩn chưa hay không khám phá ra hết được. Vì thế từ mọi thời đại con người đã thiết lập khoa thiên văn để tìm hiểu khảo cứu về các vì sao trên trời.
Những nhà chiêm tinh, mà xưa nay vẫn gọi là Ba Vua đã nghiên cứu và nhận ra ngôi sao của Vua hài nhi Giêsu xuất hiện trên nền trời, khi Chúa Giesu sinh ra ở Bethlehem, nước Do Thái: „Chúng tôi đã nhìn thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông…“ ( Mt 2, 2).
Thánh sử Mattheo không như Thánh sử Luca đã đưa các mục đồng là nhân chứng Chúa Giêsu Kito đã sinh ra làm người, nhưng đã đưa các Vị chiêm tinh ngành thiên văn là nhân chứng Chúa Giêsu Kitô đã sinh ra
Các mục đồng theo như lời Thiên Thần hiện đến báo tin cho họ. Và họ đã đến thăm thờ lạy hài nhi Giêsu. Họ là những nhân chứng đầu tiên về biến cố Chúa Giêsu gáng sinh làm người ( Lc 2, 10-11).
Còn các nhà chiêm tinh ngành thiên văn đã theo ngôi sao của hài nhi Giêsu xuất hiện trên nền trời hướng dẫn tìm đến thăm viếng cùng tặng qùa cho hài nhi Giêsu mới sinh ra. Họ là những nhân chứng từ miền xa bên phương Đông tới chứng kiến biến cố Chúa Giêsu sinh xuống trần gian. ( Mt 2, 2)
Các nhà chiêm tinh ngành thiên văn là ai, và tại sao họ lại tìm đến hài nhi Giêsu?
Chính xác về thân thế sự nghiệp cùng nguồn gốc xứ sở của họ, cùng có bao nhiêu người của họ, không có sử sách nói về, ngoài Kinh Thánh nói họ là những nhà chiêm tinh về thiên văn đến từ phương Đông. Nhưng có thể hiểu theo thời đó họ là những vị Tư Tế và khôn ngoan của tôn giáo vùng bên Ba Tư.
Những người như thế hiểu biết được nghệ thuật về những điều bí ẩn và có thể lý giải giấc mơ. Họ có thể hiểu cắt nghĩa về những sự siêu nhiên, cùng làm ảo thuật.
Họ cũng có khả năng về thiên văn, tìm hiểu cắt nghĩa những dấu chỉ của các ngôi sao trên nền trời.
Họ là những người lương dân không thuộc về Do Thái giáo. ( Joachim Gnilka, Das Matthaeusevangelium 1,1-13,58, Sonderausgabe, Herder 2000, trang 35-36)
Đức giáo Hoàng Benedickt XVI. có suy tư về những nhà chiêm tinh, bác học ngành thiên văn:
„ Những vị nầy như trong Phúc âm theo Thánh Mattheo nói đến, không chỉ là những nhà nghiên cứu về thiên văn các ngôi sao. Họ là những nhà khôn ngoan thông thái. Họ biểu hiện cho sức năng động nội tâm, họ tự mình bước qua lằn ranh giới của các tôn giáo, để đi tìm kiếm sự chân thật, tìm kiếm Thiên Chúa thật và đồng thời tìm đến ý nghĩa khởi thủy của triết lý ….
Tầm hiểu biết về vũ trụ quan của những vị này đã dẫn đưa họ tìm đường đến vị vua của dân Do Thái mới sinh ra. Như thế chúng ta được phép kết luận rằng họ đã đến với Chúa Giêsu Kitô và đã tự mình bước vượt qua lằn ranh của khoa học đã vạch ra cho họ.
Họ một cách nào đó đứng về phía nối dõi theo tổ phụ Abraham, người đã nghe tiếng Thiên Chúa kêu gọi từ bỏ quê hương đi đến miền đất nước xa lạ.
Họ theo một cách khác nối dõi theo triết học Sokrates và thắc mắc của ông về tôn giáo còn bí ẩn để đi tìm sự chân thật. Trong ý nghĩa như thế, họ là những khuôn mặt tiên khởi dọn đường đi tìm kiếm sự chân thật cho mọi giai đoạn thời đại.
Xưa nay theo truyền thống nói kể đến ba vị chiêm tinh tìm đến thờ hài nhi Giêsu, là đại diện cho ba châu lục: Phi châu, Á châu và Âu châu. Hình ảnh Vị Vua da mầu đen nói lên trong nước Chúa Giêsu Kitô không có sự khác biệt về mầu da chủng tộc nguồn gốc. Nhân loại tập hợp thông nhất trong Chúa Kito, và họ không vì thế mà mất bỏ căn tính, sự phong phú giầu sang khác biệt của mình.
Sau này ba vị Vua được cắt nghĩa là biểu tượng cho ba giai đoạn đời sống con người: Thời trẻ, lúc trưởng thành và lúc tuổi gìa.. Cũng vậy, sự cắt nghĩa phân chia theo giai đoạn khác nhau của đời sống con người nói lên ý nghĩa sự hợp nhất trong cộng đoàn với Chúa Giêsu của con người và tìm được sự thống nhất nội tâm.
Nhưng ý nghĩa căn bản mang yếu tố quyết định là những nhà khôn ngoan thông thái phương Đông đã bắt đầu một khởi sự. Họ đã làm công việc khởi đầu lên đường của con người đi tìm kiếm Chúa Giêsu Kitô. Họ mở ra một cuộc rước, cuộc hành hương kéo dài qua suốt toàn dòng lịch sử. Họ không chỉ đại diện cho con người đi tìm kiếm Chúa Giêsu Kitô, nhưng đại diện nói lên sự trông mong chờ đợi nội tâm của đời sống tinh thần con người, cùng cho phong trào sự chuyển động của các tôn gíao và lý trí con người đi tìm đến với Chúa Giêsu Kitô. ( Joseph Ratzinger, Benedickt XVI. JESUS von Nazareth, Prolog die Kindheitsgeschichten, Herder 2012, 4. Kapitel , tr. 104- 106).
Đền thờ Chúa giáng sinh bên Bethlehem được xây dựng từ thời Thánh nữ Helena, mẹ Vua Constantino vào thế kỷ thứ tư. Và Thánh Hieronymo đã đến cư ngụ trong một căn phòng ở dưới hầm bên đưới đền thờ ngay từ năm 386 sau Chúa giáng sinh để dịch bộ Kinh Thánh Vulgata từ tiếng Hylạp sang tiếng Latinh. Đền thờ cũng trải qua nhiều giai đoạn thay đổi về xây dựng thêm bớt cùng người chủ quán xuyến trông coi.
Vào thế kỷ thứ 7. quãng năm 614 những thánh đường khác trong đất thánh của đế quốc Byzantin bị quân Ba Tư chiếm đóng tàn phá, nhưng đền thờ Chúa giáng sinh không bị tàn phá. Vì khi quân Ba Tư tới đền thờ họ thấy ở trên tường nơi cửa ra vào có hình Ba Vua mặc phẩm phục theo Đông phương. Họ cho rằng tổ tiên của họ đã tới nơi đây, nên họ kính trọng không phá hủy đền thờ. Đó là lý do cắt nghĩa nguồn gốc về con số Ba, cùng nguồn gốc của ba vị phát xuất từ Ba Tư, và đền thờ không bị phá hủy.
////////////////////////////
Chúng ta đã ngắm thấy nhiều ngôi sao trên nền trời vào ban đêm do Thiên Chúa tạo dựng trong công trình thiên nhiên trời đất. Những ngôi sao chiếu soi chỉ phương hướng trong trời đất.
Và chúng ta cũng đã sống trải qua với những ngôi sao do con người biến chế vẽ tạo làm ra. Đó là những ngôi sao trang trí, hoặc mang ý nghía biểu trưng ý thức hệ nào đó.
Nhưng trước sau chúng ta tin vào Chúa Giêsu, như các nhà chiêm tinh bày tỏ tuyên xưng „ Chúng tôi đã nhìn thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi tìm đến bái lạy Người.“ ( Mt 2, 2)
Và đức tin chúng ta dõi theo ngôi sao Chúa Giêsu thành Bethlehem, chứ không phải những ngôi sao khác.( Đức Cố Hồng Y Joachim Meisner 1933-1917).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lạy Mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Bên xã hội các nước Tây phương có “ngày nhớ ơn mẹ” hằng năm. Tùy theo tập tục văn hóa mỗi nước chọn ngày tháng nào trong năm làm ngày nhớ ơn mẹ. Nhiều nước chọn một ngày trong tháng Năm.
Theo lịch phụng vụ của Giáo Hội Công giáo, vào ngày đầu năm mới Dương lịch, ngày 01.01., là ngày lễ mừng kính đức mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa.
Tại sao Giáo Hội lại chọn ấn định ngày đầu năm mới là ngày nhớ đến mẹ Thiên Chúa, mà không chọn vào ngày khác trong năm?
Giáo Hội chọn ngày đầu năm mới kính nhớ đến Đức Mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa trong niềm tin tưởng xác tín sâu xa vào chúc phúc lành của Thiên Chúa, cùng với niềm vui mừng biết ơn, và cầu xin sự bình an cho con người.
Trong lễ nghi phụng vụ vào ngày đầu năm mới mừng kính:
- một người mẹ đã trao tặng hài nhi Giêsu, đấng cứu thế, sự sống. Đây là cách sống lòng quảng đại kính trọng thiên chức làm mẹ, mà Thiên Chúa đã ban cho được làm mẹ.
- một người mẹ khi ngắm nhìn sự sống mới của em bé chào đời con mình đã với lòng cung kính ngạc nhiên mừng rỡ. Và sau cùng chỉ còn biết gìn giữ suy nghĩ mọi sự trong tâm hồn. Một tâm hồn biết bỡ ngỡ ngạc nhiên trước mầu nhiệm sự sống là một tâm hồn có đời sống đơn sơ chân thành.
- một người mẹ đã đặt tên cho con mới chào đời của mình là Giêsu, như lời Thiên Thần Chúa đã loan báo. Đây là tấm lòng một người mẹ yêu thương con mình, nên đã chọn đặt tên cho con mình như thánh ý Thiên Chúa mong muốn.
- một người mẹ đã suốt dọc đời sống hằng cùng đồng hành với con mình, cho dù có khi hiểu và cũng có khi không hiểu thấu đáo con đường đời sống của người con. Nhưng người mẹ đó vẫn luôn đứng sát cạnh con mình trong mọi hoàn cảnh.
- một người mẹ đã sống cùng chịu đau khổ trong niềm tin tưởng cậy trông phó thác vào thánh ý Chúa đối với con đường đời sống của con mình. Và dần dần người mẹ đó đã hiểu nhận ra chương trình của Chúa muốn thực hiện nơi con mình, cùng qua sự chết của con mình sẽ phát sinh sự sống mới.
Cha mẹ hài nhi Giêsu muốn xin chúc phúc lành của Thiên Chúa cho sự sống mới của con mình, và cho tất cả đời sống con mình còn đang ẩn chứa cùng trên bước đường phát triển hướng về ngày mai.
Theo gương cung cách sống như thế, chúng ta cũng như mẹ Thiên Chúa, ngày đầu năm mới cầu xin chúc phúc lành của Thiên Chúa cho đời sống mình, đời sống tất cả mọi người trong gia đình mình, cho Cộng đoàn xứ đạo, cho quê hương đất nước Việt Nam, nơi sinh ra lớn lên, cho quê hương đất nước nơi đang sinh sống… trong năm mới còn đang chứa đựng nhiều ẩn dấu nơi đời sống tương lai chúng ta.
Ngày đầu năm mới chúng ta xin chúc phúc lành của Thiên Chúa xuống:
- trên các hài nhi trong năm nay sẽ mở mắt chào đời;
- trên các đôi bạn trẻ năm nay sẽ thành hôn với nhau;
- trên mọi người cha người mẹ đang mong chờ ngày chào đời con mình sắp tới;
- trên mọi người năm nay bắt đầu bước vào làm việc xây dựng đời sống;
- trên các thanh thiếu niên năm nay sẽ bước vào ngưỡng cửa trường học, hay học một ngành nghề chuyên môn;
- trên các thanh thiếu niên nam nữ dấn thân chọn đời sống tu trì tận hiến cho Thiên Chúa và con người
- trên mọi người năm nay sẽ tới thời gian đi nghỉ hưu;
- trên những người chịu đựng sự đau yếu bệnh tật; trên những đôi vợ chồng năm nay có kỷ niệm 25 ,30, 40, 50, 60 năm đời sống hôn nhân với nhau;
- trên những người phải đi tỵ nạn rời bỏ quê hương xứ sở;
- trên những người làm việc từ thiện đồng hành giúp đỡ những người cần được giúp đỡ,
- và trên các nhà cầm quyền biết tôn trọng giữ gìn công lý hòa bình cho đất nước cùng người dân trong xã hội.
Trong năm mới nhở lời bầu cừ của đức mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa , cầu xin chúc phúc lành của Thiên Chúa chiếu tỏa trên tất cả mọi người chúng ta đang đi tìm Chúa Giêsu, Đấng đã qua sự chết kêu gọi chúng ta vào đời sống mới!
Ave Maria, con dâng lời chào Mẹ!
Chúc mừng Năm mới!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh gia đình
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong Giáo Hội có nhiều thánh đường, nhiều xứ đạo mang tên Gia Đình Thánh Gia. Thánh đường Sagrada Familia ở thành phố Barcelona bên nước Tây ban Nha, là thánh đường thời danh trên thế giới. Hằng năm có tới hai triệu khách du lịch đến tham quan. Thánh đường này do Kỹ sư Antonio Gaudi vẽ họa đồ cho công trình kiến trúc to lớn đồ sộ nhất từ hơn 130 năm nay, và cho tới ngày hôm nay vẫn chưa hoàn tất việc xây dựng.
Người ta dự đoán cần trong vòng từ 30 đến 50 năm nữa để xây dựng cho hoàn thành. Người khác lại nghĩ rằng đó là một công trình xây dựng liên tục kéo dài không chấm dứt. Vào mỗi thời điểm đều có những công trình nghệ thuật để lại dấu vết và hãy còn dang dở chưa hoàn thành. Những dấu vết dở dang trong thời gian còn đó. Theo dự phóng của họa đồ ngôi thánh đường vĩ đại này được xây dựng với 18 ngọn tháp.
Nhìn vào lịch sử xây dựng cùng hình ảnh ngôi thánh đường Sagrada Familia, người ta tự hỏi phải chăng đó cũng có thể là hình ảnh gia đình đang trong tiến trình biến chuyển thay đổi ở xã hội ngày hôm nay không? Phải chăng không phải mỗi giai đoạn thời gian có một mô hình viễn tượng về gia đình ?
Trong thời đại ngày nay không thể đơn giản lấy mô hình gia đình lý tưởng mang sắc thái thôn quê của thế kỷ 19. ra làm mẫu mực: người vợ lo việc nấu nướng trong nhà bếp, lo chăm sóc con cái và những việc khác trong gia đình được trật tự ngăn nắp sạch sẽ, người chồng lao động ngoài đồng ruộng, và con cái giúp đỡ cha mẹ sau giờ học ở nhà trường theo khả năng có thể.
Gia đình là một cộng đồng chung sống trong suốt dọc đời sống. Gia đình do một người đi làm kiếm tiền bạc của cải lo liệu nuôi nấng cho các thành phần trong gia đình.
Đó là hình ảnh gia đình ngày xưa vào những thế kỷ trước đây. Ngày nay thì khác, không còn như thế nữa.
Những nhà xã hội học nghiên cứu về gia đình đưa ra nhận xét, thực ra đời sống cũng như mối tương quan về gia đình và đời sống hôn nhân có thay đổi, nhưng không nhiều.
Người phụ nữ, người vợ ra ngoài đi làm kiếm tiền ngày hôm nay không phải chỉ vì muốn để không bị lệ thuộc vào tiền bạc. Nhưng họ phải đi làm kiếm tiền, để cho đời sống gia đình ít là một nửa hay một phần có đủ để chi phí trong đời sống. Vì nhu cầu chi tiêu cho đời sống trong gia đình ngày càng nhiều thêm ra. Hay đúnbg hơn vật gía ngày càng mắc đắt thêm.
Những thắc mắc và những vấn đề phức tạp nữa xảy đến cho đời sống, như đời sống gia đình bây giờ càng có thêm những luật lệ xã hội ràng buộc: luật lệ về của cải tài sản, luật về chi phí nuôi sống gia đình, luật về thuế khóa, và bây giờ có thêm mô hình sống chung mới. Cung cách đối xử với những trường hợp ly dị cũng là điều mới nữa. Trường hợp như thế trước đây ít chục năm hoàn toàn khác. Nhưng bây giờ trong đời sống xã hội gần như bình thường. Rồi trường hợp mô hình đời sống giữa hai người nam với nam, nữ với nữ. Họ sống chung nhau nhận con nuôi như thể một gia đình, được luật lệ xã hội công nhận hợp pháp.
Người tín hữu Chúa Kito theo khía cạnh đức tin bị đặt trước những thách đố đó không khỏi tự hỏi: Vậy chương trình nguyên thủy hình ảnh về gia đình xưa nay có còn nữa không? Thế nào là khuôn mẫu nguyên thủy về gia đình? Người ta có thể nhìn vào mẫu phác họa ngôi thánh đường Sagrada Familia ở Barcelona do kiến trúc sư Gaudi đã vẽ ra để rút ra bài học?. Vậy chương trình bản vẽ nào chúng ta có thể nhìn vào để nghiên cứu học hỏi?
Câu trả lời chúng ta không có được do những chỉ dẫn hiện thời ở công trình xây dựng. Nhưng bản sơ thảo cho công trình chúng ta tìm ra được ở nơi chứng từ của đức tin, của Kinh Thánh. Nơi đó chúng ta khám phá ra sự chung sống của đời sống gia đình vừa trong thời gian, vừa cả về những điều lệ căn bản giúp cho đời sống gia đình trong tương quan liên đới với nhau được củng cố cho vững chắc.
Không phải những vai trò khác nhau của những khác biệt về phái tính theo truyền thống giúp xây dựng nên đời sống hôn nhân và gia đình. Nhưng là một bổn phận bao quát: Gia đình là nơi chốn cụ thể của tình yêu thương và tương trợ lẫn cho nhau.
Cho trẻ em không có nơi chốn nào tốt hơn nữa giúp họ học hỏi được thế nào là sự tin tưởng, sự ràng buộc gắn bó và niềm vui mừng với nhau. Bỏ qua những lạm dụng, ghen tỵ sang một bên, không có chỗ nào khác mang lại hạnh phúc lớn hơn, khi nếp sống gia đình cùng chung nhau hiện thực. Trong gia đình những thành phần liên đới giúp đỡ nhau, cùng nhau mừng lễ, cùng nhau chia xẻ buồn vui, cùng nhau chịu đựng và hân hoan mừng rỡ, cùng nhau hy vọng và cùng lo âu hồi hộp chờ đợi.
Ngày lễ kính Thánh Gia Thất nhắc nhớ cùng khơi lên tình tự lòng can đảm cho con người về gia đình là nơi chốn của sự tin tưởng, sự ràng buộc và niềm vui mừng với nhau. Nơi đó con người sống lớn lên trải qua trong nếp sống tình tự chân thành con người với nhau.
Cho dù có những thay đổi, phải, có khi là cách mạng về hình ảnh nếp sống gia đình trong tương lai, mà những thế hệ trẻ ngày mai sẽ tiếp cận nhận ra, chúng ta vẫn nhận ra ý định của Đấng Tạo Hóa, Người vẽ mẫu phác họa cho đời sống gia đình: gia đình là bầu trời không gian cho tình yêu con người được triển nở hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Lễ Thánh Gia Thất
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lịch sử ngày lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm người tín hữu Chúa Kitô mừng lễ sinh nhật Đấng cứu thế sinh xuống trần gian làm người.
Mừng lễ với tâm tình vui mừng hạnh phúc. Vì Chúa Giêsu, đấng cứu thế, Con Thiên Chúa, từ trời cao mang ánh sáng ơn tha thứ bình an đến cho con người.
Từ ngày Ông Bà Nguyên tổ Adong Evà lỗi giới răn phạm tội ăn trái cấm, bị Thiên Chúa đuổi ra khỏi vườn địa đàng, con người phải sống trong bóng tối tội lỗi gây ra mất bình an cho tâm hồn, nhất là hình phạt phải chết, phải đau khổ.
Mừng lễ với lòng biết ơn. Vì được chính Con Thiên Chúa cùng chia sẻ thân phận là con người nghèo nàn yếu hèn trong công trình tạo dựng thiên nhiên. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã tự hạ mình sinh xuống trần gian làm người, và sinh ra trong chuồng thú vật ngoài cánh đồng Bethlehem như phúc âm thánh Luca thuật viết lại. ( Lc 2,1-21)
Mừng lễ với niềm hân hoan phấn khởi. Vì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đến trần gian mang ánh sáng đức tin tình yêu của Thiên Chúa là hướng đi cho đời sống tâm linh con người trên đường hành trình tới đích điểm về với Thiên Chúa.
Nhưng lịch sử ngày lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu có từ bao giờ?
Phúc âm thuật lại khung cảnh Chúa Giêsu sinh ra trên trần gian với những chi tiết lịch sử thời đế quốc Roma cai trị nước Do Thái, và ở ngoài cánh đồng Bethlehem, nhưng không nói tới ngày tháng năm nào.
Những tín hữu Chúa Giêsu thuở đầu tiên của Giáo hội không mừng lễ sinh nhật Chúa Giêsu. Mà mãi đến thế kỷ thứ tư, có sử sách thuật lại, những tín hữu Chúa Kitô mới mừng sinh nhật Chúa Giêsu là một ngày lễ mừng trọng thể.
Vào thời những thế kỷ đầu tiên sau Chúa giáng sinh, những nhà nghiên cứu đã luôn tìm cách khám ra ngày tháng chính xác Chúa Giêsu đã sinh ra. Nhưng họ đã không thành công. Vì không có sử sách nào ghi lại dấu vết đó.
Trước tiên ngày lễ kỷ niệm mừng sinh nhật Chúa Giêsu được mừng vào mùa Xuân. Lý do là Chúa Giêsu qua đời vào mùa Xuân, và nghĩ cho rằng Chúa Giêsu cũng sinh ra vào mùa Xuân.
Một thời gian ngắn sau đó những tín hữu Chúa Kitô ở Roma không mừng lễ vào mùa Xuân khởi đầu năm nữa, nhưng vào mùa Đông, ngày 25. Tháng Mười Hai.
Vào ngày này toàn thể đế quốc Roma mừng lễ Thần Mặt Trời không thể bị chiến thắng.
Đối lại với lễ thờ Thần Mặt Trời bách chiến bách thắng của lương dân, những người tín hữu Chúa Kitô mừng thay vào ngày đó lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Vì tin tưởng rằng Chúa Giêsu Kitô mới là ánh sáng thật, ánh sáng mặt trời công chính. Nên họ đã lấy ngày đó làm ngày lễ mừng sinh nhật Đấng là Thiên Chúa dựng nên mặt trời.
Đồng thời cũng muốn ngăn ngừa những tín hữu Chúa Kitô theo thói quen mừng lễ thờ thần mặt trời theo lễ nghi lương dân Roma. Vì thế họ đã thiết lập lễ nghi riêng: Ngày lễ Chúa Giêsu giáng sinh.
Và từ thế kỷ thứ tư ngày lễ mừng Chúa Giêsu giáng sinh được ấn định vào ngày 25. Tháng Mười hai hằng năm.
Ngày lễ mừng Chúa Giêsu giáng sinh 25. Tháng Mười hai không mang yếu tố lịch sử. Nhưng nhiều hơn sâu xa hơn để thay thế lễ mừng của lương dân thờ thần mặt trời lúc đó của người Roma.
Như thế có thể hiểu được, Giáo hội Công giáo đã „rửa tội“ ngày lễ 25. Tháng Mười Hai thờ Thần mặt trời của lương dân Roma lúc đó cho trở thành ngày lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu.
Một người tín Chúa Kitô vô danh sống vào thời sau này đã viết thuật lại sự việc này: Những người lương dân đã chăm sóc lễ mừng sinh nhật Thần Mặt Trời không bị chiến thắng vào ngày 25. Tháng Mười Hai. Những người tín hữu Chúa Kitô cũng được mời cùng tham dự mừng lễ này . Nhưng Giáo hội nhận ra rằng, những người tín hữu Chúa Kitô có thể vì đó mà suy nghĩ đi sai lạc đường đức tin. Nên Giáo Hội đã quyết định cũng vào ngày 25. Tháng Mười Hai là ngày lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu, Đấng mới là ánh sáng mặt trời công chính không hề bị chiến thắng.
Trong dòng lịch sử thời gian, ngày 25. Tháng Mười Hai mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh trở thành lễ mừng trọng thể trong Giáo hội Công Giáo trên thế giới.
Bên Giáo Hội Công giáo ở bên Phi châu ngay từ thời Thánh giáo phụ Augustino ,thế kỳ thứ năm sau Chúa goaăng sinh, đã mừng lễ Chúa giáng sinh vào ngày 25. Tháng 12. hằng năm.
Mùa mừng lễ Chúa giáng sinh theo lịch phụng vụ của Giáo Hội Công gíao bắt đầu từ Kinh Chiều ngày 24. Tháng 12. , và kết thúc vào ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa ở bờ sông Jordan, chúa nhật sau lễ Chúa Hiển Linh, còn gọi là lễ Ba Vua.
Theo luật phụng vụ ngày lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu có ba thánh lễ: lễ nửa đêm ngày 24. tháng 12., lễ lúc hừng đông còn gọi là lễ chăn chiên, và lễ ban ngày 25. Tháng 12.
Bên Giáo hội Chính Thống Đông phương theo niên lịch Julianer mừng lễ sinh nhật Chúa Giêsu vào ngày 06. Tháng Giêng hằng năm. Đang khi Giáo hội Công giáo Roma mừng ngày 06. Tháng Giêng lễ Chúa Hiển linh, hay còn gọi là lễ Ba Vua đến thờ lạy Hài nhi Giêsu.
Theo lịch phụng của Giáo hội lễ Chúa giáng sinh được sắp xếp theo thứ tự lịch thời gian:
- Ngày 25. Tháng ba là lễ Thiên Thần truyền tin cho Đức mẹ Maria, Chúa Giêsu nhập thể trong cung lòng mẹ Maria bởi quyền phép Đức Chúa Thánh Thần, 9 tháng trước ngày lễ Chúa Giêsu giáng sinh.
- Và lễ sinh nhật Thánh Gioan tiền hô ngày 24. Tháng Sáu, 6 tháng trước lễ sinh nhật Chúa Giêsu. Như thế thứ tự đó hợp ăn khớp với trình thuật trong phúc âm thánh Luca 1,26. Theo đó Đức mẹ Maria sau khi được Thiên Thần truyền tin đã đến thăm Elisabeth chị mình, khi bà Elisabeth đang mang thai Ông Thánh Gioan tiền hô được sáu tháng.
Theo thời tiết, ngày 24.Tháng Sáu và ngày 25.Tháng Mười Hai là những ngày bản lề trong năm. Ngày 24.Tháng sáu là ngày dài nhất vào đầu mùa hè. Từ ngày này ban ngày lại ngắn lại dần, và đêm tối trời dần dần dài thêm ra.
Ngày 25. Tháng12 là ngày ngắn nhất, đêm dài nhất, vào đầu mùa Đông. Cũng từ sau ngày này đêm tối dần ngắn lại, và ban ngày từ từ dài sáng thêm ra.
Và ngày lễ kính Thánh Martino, 11.Tháng mười một cũng có liên quan tới lễ mừng Chúa Giesu giáng sinh: Vào thời Trung cổ từ ngày 11.Tháng 11. bắt đầu sáu tuần lễ ăn chay sửa soạn mừng lễ Chúa giáng sinh. Sau này mùa Vọng mùa chuẩn bị mừng lễ Chúa giáng sinh còn bốn tuần lễ.
Chúa Giêsu là ánh sáng của Thiên Chúa từ trời cao xuống sinh ra vào đêm tối trần gian trong ý nghĩa bóng tối tội lỗi sự chết. Đêm tối càng đen dầy đặc, ánh sáng chiếu tỏa ra càng tỏ hiện lan tỏa rõ ràng cùng mang đến niềm vui, niềm hy vọng cho con người.
Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng mặt trời công chính, không sợ bóng tối. Nhưng Ngài đã đến chiếu ánh sáng ơn tha thứ bình an vào trong bóng đêm tối tội lỗi.
Chúc mừng lễ Chúa giáng sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
„Gloria in altissimo Deo et in terra pax in hominibus bonae voluntatis.“ ( Lc 2,14)
- Viết bởi Dân Chúa
Phúc âm Thánh Luca thuật lại khi Chúa Giêsu sinh ra, các Thiên Thần từ trời cao hiện đến ca mừng: Gloria in altissimo Deo et in terra pax in hominibus bonae voluntatis ( Lc 2,14).
Trong các Thánh lễ ngày Chúa nhật và lễ trọng bài ca này được hát lên ca mừng Chúa, như các Thiên Thần ngày xưa đã ca hát.
Bài ca hát này được chuyển dịch sang các tiếng địa phương. Và phải hiểu thế nào cho đúng ý nghĩa từ ngữ bonae voluntatis?
Bản dịch tiếng Việt Nam có hai bản: „ Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương“ ( Sách lễ Roma 1992, Ủy Ban Phụng tự trực thuộc Hội Đồng Giám mục Việt Nam.)
Đến năm 2005 được dịch lại: „ Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm.“ ( Sách lễ Roma, Nghi thức Thánh lễ, Ủy Ban Phụng tự trực thuộc Hội Đồng Giám mục Việt Nam, Hà Nội 2005).
Bản nguyên ngữ tiếng Hylạp: Eudokia - đẹp lòng, hài lòng.
Thắc mắc nêu ra với câu diễn tả „Cho loài người Chúa thương“: Những người nào được Chúa thương? Phải chăng có những người không được Chúa thương sao? Phải chăng Chúa không thương yêu tất cả mọi người do Chúa tạo dựng nên sao?
Với câu dịch diễn tả “ Cho người thiện tâm“: Ai là những người thiên tâm? Phải chăng có những người không thiện tâm và khi nào, cùng tại sao?
Bản tiếng Hylạp là Eudokia - đẹp lòng, hài lòng - cũng vấp phải những thắc mắc tương tự.
Đức Giáo Hoang Benedictô 16. đưa ra cắt nghĩa về hiểu chữ Eudokia - đẹp lòng, hài lòng theo bản tiếng Hy Lạp:“ Nơi phúc âm thánh Luca tường thuật về Chúa Giêsu chịu phép rửa ở bờ sông Jordan: Đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì tầng trời mở ra và tiếng từ trời phán : Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con, Cha hài lòng về con . ( Lc 3,22).
Về phương diện con người, Chúa Giêsu là người đẹp lòng, hài lòng Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là người như thế. Vì người sống trọn vẹn hướng về Thiên Chúa Cha, chú tâm chiêm ngưỡng Chúa Cha và hoàn toàn sống kết hợp trong tương quan ý muốn hiệp nhất cộng đoàn với Thiên Chúa Cha. Con người sống đẹp lòng là những con người, có cung cách sống như Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, sống đời sống theo mẫu mực của Giêsu Kito.“ ( Joseph Ratzinger, Benedickt XVI., JESUS von Nazareth, Prolog die Kindheitsgeschichten, 3. Kapitel, S. 84., Herder 2012).
Pater Anselm Gruen có suy tư: Nơi sự sinh ra của Chúa Giêsu, Thiên Chúa và con người, trời và đất cùng nhau hòa nhịp đồng thuận một tiếng. Có tiếng vọng đồng thuận giữa Thiên Chúa và con người, giữa tinh thần và vật chất, giữa Thiên Thần và con người. Sự hoà bình này, sự thanh bình, sự hòa nhịp được ban tặng cho con người có đời sống đẹp lòng hài lòng về khía cạnh thần thánh tốt lành.
Eudokia - đẹp lòng, hài lòng của Thiên Chúa trong ý nghĩa chất chứa tình yêu của Thiên Chúa hướng tới con người. Thiên Chúa qua sự sinh ra của Chúa Giêsu đã chứng tỏ tình yêu thương cho con người. Eudokia diễn tả Thiên Chúa luôn đứng về mối tương quan liên lạc với con người. Và qua sự sinh ra của Chúa Giêsu, Con của ngài, mối tương quan liên lạc đó muốn được thể hiện đào sâu thêm.“ ( Anselm Gruen, Jesus - Wege zum Leben, Das grosse Buch der Evangelisten, Herder 2015, Tr. 331).
Tầng trời không thuộc không gian thể lý địa lý, nhưng là hình ảnh trong trái tim. Và trái tim tình yêu thương Chúa đã sinh xuống trần gian trong chuồng thú vật vào đêm thánh vô cùng: sự khiêm nhường của Thiên Chúa là bầu trời.
Cung cách lối sống khiêm nhượng của Chúa Giêsu sinh ra trở thành con người đẹp lòng hài lòng Thiên Chúa Cha.
Cung cách lối sống đó là mẫu gương cho con người trần gian để nhận được đẹp lòng, hài lòng từ Thiên Chúa.
„ Et in terra pax in hominibus bonae voluntatis.“
Mừng lễ Chúa giáng sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Stille Nacht, heilige Nacht…Đêm thánh vô cùng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm vào tháng Mười Hai, trước cùng trong mùa mừng lễ Chúa giáng sinh , bản nhạc Stille Nacht heilige Nacht thần thoại thời danh cùng phổ thông khắp nơi trên thế giới được hát vang lên, không chỉ trong thánh đường Công Giáo ,Tin Lành, mà còn cả ở nhà tư, nơi công cộng nữa.
Bản nhạc thời danh này là bản nhạc thánh ca được hát trong đêm mừng lễ Chúa giáng sinh. Nhưng dần dần trong dòng thời gian bài hát được ưa chuộng hát khắp nơi, cả trong những buổi trình diễn nhạc giáng sinh nữa. Nó trở thành bài thánh ca thần thoại thời danh trong dân gian.
Lời cùng âm điệu cung nhạc bản nhạc thời danh này gợi gây cảm hứng được dịch ra hay phổ lời bằng tiếng địa phương mỗi quốc gia dân tộc rộng rãi trên thế giới .
Bài nhạc thánh ca này không thể thiếu trong ngày lễ mừng Chúa giáng sinh, đêm 24. tháng 12. và ngày 25. tháng 12. Ngày lễ mừng Chúa giáng sinh mà không hát bài này, như còn thiếu điều gì, hay có người còn cho là chưa mừng lễ Chúa giáng sinh trọn vẹn đầy đủ!!!
Bài hát này tuy được hát hằng năm, hầu như thuộc lòng lời cùng âm điệu khắp nơi trên thế giới, nhưng nó vẫn luôn hằng sống động. Phải, nó luôn luôn có sức hấp dẫn gây mang đến cho người hát cùng người nghe tâm tình, tình cảm rung động cảm kích, cùng cảm giác thư thái bình an.
Bản nhạc không chỉ đi vào lịch sử âm nhạc, lịch sử dân gian , nhưng còn đi vào trái tim lòng con người.
Tác gỉa bài hát thánh ca thời danh này là một Linh mục được cử sai đến trợ giúp ở xứ đạo Công giáo Thánh Nikolaus vùng Oberndorf bên nước Áo, và Ông thầy giáo đánh đàn nhà thờ Thánh Nikolaus.
Linh mục Joseph Mohr, người sáng tác viết lời bản nhạc Stille Nacht heilige Nacht sinh ngày 11. 12.1792 ở thành phố Salzburg nước Áo - Salzburg cũng là quê quán của nhạc sĩ thiên tài Wolgang Amadeus Mozart - Cha của Joseph đã bỏ vợ con trốn ra đi nửa năm trước khi Joseph sinh ra. Hai ông bà chỉ sống chung với nhau không có lễ cưới về phân đời cũng như phần đạo.
Vào thời lúc đó, cậu bé sau khi chào đời 4 tiếng đồng hồ đã được rửa tội với tên Joseph Mohr .
Theo Hlavac viết về tiểu sử của Joseph Mohr đã mô tả cậu Joseph này đã sống trải qua thời thơ ấu trong hoàn cảnh nghèo nàn tội nghiệp. Nhưng dẫu vậy thân phận nghèo nàn thời thơ ấu lại giúp cậu Joseph trở thành người tốt cùng thời danh.
Cha phó nhà thờ chính tòa Johann Nepomuk Hiernle đã nhìn ra nơi Joseph khả năng thiên phú còn tiềm ẩn, nên đã tận tình nâng đỡ cậu Joseph rất quảng đại. Chính cha phó nhận ra tài năng nơi cậu và hướng dẫn dậy học cùng tạo điều kiện cho Joseph có thể từ 1808 đến 1810 vào học ở đại học Kremsmuenster. Nhờ thế Joseph Mohr có cơ hội kiếm tiền nuôi sống mình bằng chơi dạy nhạc cụ và ca hát.
Tổng giám mục Hieronymus von Colloredo đề ra chương trình cải cách đổi mới việc đào tạo linh mục ở chủng viện. Theo đó không chỉ chú trọng huấn luyện về mục vụ , nhưng còn về trí thức, về tâm lý, về sức khoẻ, về thiên nhiên nông nghiệp. Vị Tổng giám mục chú ý nhiều đến thánh nhạc bên nước Đức.
Những điều này đã gây ấn tượng phấn khởi nơi Joseph Mohr rất mạnh, và cậu muốn đem áp dụng vào thực tế. Là người con ngoại hôn không có cha chỉ sống với mẹ, nên Joseph cần phép chuẩn của Giáo Hội để có thể được truyền chức làm linh mục. Và phép chuẩn đã có cho Joseph.
Ngày 20.08.1815 Joseph Mohr được truyền chức Phó tế và một ngày sau đó được phong chức Linh Mục lúc 23 tuổi.
Linh mục Mohr được sai cử trước hết làm mục vụ ở Ramsau vùng Bayern. Những năm sau đó đổi chỗ làm việc nhiều lần tiếp theo.
Theo những nguồn thuật lại Linh mục Mohr là người có tính tình hài hước vui vẻ, bình dân rất gần với dân chúng xứ đạo, cùng có trái tim tâm hồn với những người nghèo khổ. Ông thích chơi đàn Gitar, ca hát vũ múa vui nhộn, như sở trường của ông.
Năm 1817 được sai cử về trợ giúp nhà thờ Thánh Nocolaus ở Oberndorf, linh mục Mohr quen với Franz Xaver Gruber ( 1787 - 1863), là thầy giáo và là người đánh đàn nhà thờ. Hai người hiểu nhau rất thân tình. Họ trở nên bạn thân thiết với nhau.
Ngày lễ mừng Chúa giáng sinh 1818 Linh mục Mohr đã đưa lời bài hát do ông viết cho Gruber phổ nhạc, và cũng do chính Franz Gruber hát giọng Bass, Joseph Mohr hát giọng Tenor và Joseph Mohr chơi đàn Gitar đệm theo trước hang đá sau thánh lễ mừng Chúa giáng sinh..
Đó là lần đầu tiên bài Stille Nacht heilige Nacht được hát vang lên trong thánh đường vào ngày lễ mừng Chúa giáng sinh ở thánh đường Thánh Nikolaus bên nước Áo. Bài hát này ngày đó được hát không phải với ba phiên khúc nhưng với sáu phiên khúc.
Lời bài hát và âm điệu cung nhạc bài hát thuyết phục làm cảm động say mê mọi người trong nhà thờ từ ngày hôm đó.
Động lực nào đã thúc đẩy Linh mục Mohr sáng tác ra lời bài hát, không có bằng chứng chắc chắn rõ ràng. Một suy đoán tích cực là Fr. Gruber và J. Mohr đã viết bài nhạc này với đàn Gitar chơi đệm trong nhà thờ là điều trước đó chưa xẩy ra. Và trong dòng thời gian có nhiều suy luận, suy đoán mang tính cách trang điểm thêu dệt huyền thoại cũng như lịch sử mang tính cách thi vị của bài Stille Nacht heilige Nacht.
Một năm sau lễ mừng Chúa giáng sinh 1818 với bài hát thời danh thần thoại Stille Nacht heilige Nacht, Linh mục Joseph Mohr được thuyên chuyển khỏi Oberndorf. Sau đó Ông còn thay đổi nhiệm sở bẩy lần nữa. Nhiệm sở sau cùng của Ông từ năm 1837 ở Wagrain vùng Pongau. Nơi đây Linh mục Joseph Mohr qua đời ngày 04.12. 1848 vào tuổi 56 vì bệnh phổi.
Năm 2018 kỷ niệm 200 năm bản nhạc thời danh cùng phổ thông Stille Nacht, heilige Nacht được 200 tuổi. Vùng thánh phố Salzburg bên áo, quê hương của tác gỉa bản nhạc, đã thành lập Hội Stille Nacht. Và năm 2018 Hội sẽ tổ chức lễ hội trọng thể mừng kỷ niệm bản nhạc thần thoại thời danh được 200 tuổi.
Năm 2011 bản nhạc thời danh thần thoại này được công nhận liệt kê vào danh sách Di sản Văn hóa thế giới. Và lời bản nhạc được dịch hay phổ lời ra hơn 200 ngôn ngữ địa phương trên khắp thế giới. Tiếng Viẹt Nam có bản tiếng có bản Việt ngữ Đêm thánh vô cùng do cố nhạc sĩ Hùng Lân viết lời.
Lúc qua đời Linh mục Mohr, tác giả lời bản nhạc Stille nacht, heilige Nacht là người vô sản không có gì sở hữu.
Vì lúc còn sinh thời Ông đã đem những gì mình có trao tặng tất cả, chỉ còn vài bộ quần áo để mặc.
Ông đã qua đời, nhưng bài nhạc thần thoại bất hủ Stille Nacht heilige Nacht ca mừng Chúa giáng sinh của Ông đi vào lịch sử đời sống dân gian cho tới ngàn thu.
Lễ mừng Chúa giáng sinh 2017
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ánh sáng cây nến mùa Vọng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Bốn tuần lễ mùa Vọng trước lễ mừng Chúa giáng sinh, khắp nơi bắt đầu thắp sáng đèn điện, nhất là bên Âu Châu.
Bên xã hội nước Đức có tập tục làm vòng mùa Vọng với bốn cây nến được lần lượt đốt thắp lên vào mỗi tuần mùa Vọng cho tới lễ mừng Chúa giáng sinh.
Tập tục văn hoá xã hội này đã được du nhập và trở thành tập tục đạo đức trong đời sống Kitô giáo, nơi đạo Công giáo và đạo Tin lành.
Vào mùa Vọng nơi các thánh đường Công giáo cũng như Tin lành đều có vòng tròn to lớn, hay có nơi làm thành hình dài tựa như một con đường. Hay cũng có nơi bện vòng mùa Vọng thành hình như một con thuyền. Trên đó có bốn góc bốn cây nến to hoặc mầu đỏ, hoặc mầu tím, hay mầu trắng, cùng được treo dựng hoặc nơi cung thánh trang trọng, hay có nơi dựng trước bàn thờ.
Vòng mùa Vọng tròn hay khúc cây dài được bện trang trí bằng những nhánh cành lá thông xanh nói lên niềm hy vọng vào sự sống đang phát triển vươn lên.
Và ở nhiều nhà riêng cũng có tập tục đặt vòng mùa Vọng nhỏ thôi, ở phòng khách, hay cả nơi công cộng nữa.
Vòng mùa Vọng hình tròn nói lên ý nghĩa trái đất hình tròn do Thiên Chúa tạo dựng, nuôi dưỡng cho luôn có sức đổi mới mang lại sự sống cho mọi loài sống trong đó. Trái đất là quê hương ngôi nhà cho con người, cho mọi thú động vật cùng cây cỏ thảo mộc sinh sống phát triển.
Vòng hình tròn cũng ẩn chứa ý nghĩa sự vĩnh cửu của Thiên Chúa, Đấng không có khởi đầu và không có tận cùng.
Vòng mùa Vọng có nơi kết thành một con đường dài mang ý nghĩa chỉ về đời sống con người là một con đường dài có những khúc lên xuống uốn khúc, và cũng mang ý nghĩa con đường đời sống đức tin vào Thiên Chúa. Trên con đường đời sống con người được soi đường hướng dẫn do ánh sáng của Thiên Chúa, biểu tượng là những cây nến phát tỏa ánh sáng niềm hy vọng. Và sau cùng Chúa Giêsu đến, Đấng là ánh sáng ơn cứu chuộc cho trần gian.
Và hình ảnh con đường dài cũng tương hợp như Thánh Gioan Tiền hô rao giảng trong sa mạc: Hãy dọn sẵn con đường của Chúa, sửa lối đi cho thẳng để Người đi.“ ( Mc 1,3).
Hay cũng có nơi làm vòng mùa Vọng như hình một con thuyền trên sông nước đại dương biển cả. Hình ảnh này cũng ẩn chứa suy tư cuộc hành trình đời sống, nhất là đời sống đức tin vào Thiên Chúa tựa như chiếc tầu thuyền vượt trên sóng nước biển cả, sông hồ. Con thuyền đời sống di chuyển trong tràn đầy niềm hy vọng có ánh sáng Chúa soi đường chỉ phương hướng về bến bờ bình an nơi Thiên Chúa.
Bốn cây nến trên vòng mùa Vọng ẩn chứa nhiều ý nghĩa đạo đức thần học cùng văn hóa đời sống.
- Cây nến thứ nhất là hình ảnh biểu trưng cho trái đất. Đất do Thiên Chúa tạo dựng nên vào ngày sáng tạo thứ ba. ( St, 1,9).
Từ đất con người được tạo thành ( St, 2,7) , sinh sống trên đó, và sau cùng trở về với lòng đất, như Thiên Chúa đá phán bảo: Từ bụi đất con được tạo thành, và sau cùng con người sẽ trở về bụi đất ( St 3, 19).
Và từ lòng đất nẩy sinh sự sống cho mọi loài cây cối thảo mộc. Vì thế dân gian kính trọng đất gọi là đất mẹ.
- Cây nến thứ hai hình ảnh tượng trưng cho nước. Nước là yếu tố căn bản cho sự sống trên trái đất được gìn giữ và phát triển. Thiên Chúa khi sáng tạo trái đất vào ngày sáng tạo thứ hai đã cho nước xuất hiện ( St 1, 6.) làm căn bản cho đời sống thú vật sống trong nước, cho thú động vật sống trên đất khô và cho con người.
- Cây nến thứ ba hình ảnh tượng trưng cho lửa. Đất là hình ảnh người mẹ nảy sinh phát triển sự sống, còn lửa là hình ảnh biểu trưng sự năng động sức mạnh của Thiên Chúa theo khía cạnh người cha. Nước có lúc, có chỗ đục chỗ trong, nhưng lửa một khi chiếu sáng lan toả sẽ phá tan bóng tối.
Thiên Chúa Giave đã hiện ra với Thánh Tiên tri Mose trong bụi gai có lửa cháy sáng ở vùng núi Sinai bên Aicập.
- Cây nến thứ tư hình ảnh tượng trưng cho không khí hay gío. Không khí và gío là ngôn ngữ có trong Kinh Thánh. Ngôn sứ Elia gặp Thiên Chúa trong tiếng gío thổi. Và ngày lễ Ngũ tuần Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống trong làn cơn gío thổi mạnh như cơn bão từ trời cao đổ xuống.
Không khí, gío không có hình hài, nên không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Nhưng con người cảm nhận ra qua tầng thần kinh cảm giác khi cạm tới làn da thịt. Không khí là yếu tố căn bản cho sự sống phát triển tồn tại. Không khí, làn gío tươi mát mang đến sự vui tươi phấn khởi cho đời sống bừng dậy vươn lên. Không có không khí sự sống nơi con người, nơi thú động vật bị tiêu tan ngay.
Không khí mang đến sự sinh động cho con người, cho thú động vật cùng cả cây cỏ.
Mùa Vọng 2017
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lời cầu xin trong Kinh Lạy Cha
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chúa Giêsu dạy các Môn đệ Kinh Lạy Cha khi cầu nguyện. Kinh này có tám phần trong đó có bảy lời cầu xin. (Mt 6, 9-13. Lc 11, 2-4)
- Lạy Cha chúng con ở trên trời
- Xin cho danh Cha cả sáng
- Xin cho Nước Cha trị đến
- Xin ý cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời
- Xin ban cho chúng con lương thực hằng ngày
- Xin tha nợ chúng con…
- Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ - Et ne inducas in temptationem
- Nhưng xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
Lời cầu xin thứ 7.: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ…Et ne inducas in temptationem đang dấy lên làn sóng tranh biện phân tích về ngôn từ dịch thuật cùng ý nghĩa hàm chứa trong đó.
Lý do dấy lên tranh biện
- Hội đồng Giám mục nước Pháp sửa lời cầu xin
„Các vị giám mục Pháp đã quyết định kể từ Chúa Nhật thứ nhất mùa Vọng (03/12/2017), kinh Lạy Cha sẽ được sửa lại một chữ theo đúng bản gốc tiếng Hy Lạp, vì Chúa Nhật thứ nhất mùa Vọng bắt đầu năm phụng vụ. Theo ý kiến của Hội đồng các Hội thánh Kitô giáo tại Pháp, viết tắt CÉCEF, kinh Lạy Cha cần có một bản dịch đại kết chung cho các Hội thánh Kitô giáo trên nước Pháp, theo tinh thần hiệp nhất (Ga 17,21).
Câu ‘‘Ne nous soumets pas à la tentation’’ từ ngày 03/12/2017 sẽ được đổi lại là ‘‘Ne nous laisse pas entrer en tentation’’, theo bản gốc tiếng hy lạp: Καὶ μὴ εἰσενέγκῃς ἡμᾶς εἰς πειρασμόν (Mt 6,13 và Lc 11,4)“.(Lê đình Thông, bản tin Vietcatholic ngày 08.11.2017)
- Đức Giáo Hoàng Phanxico cũng muốn sửa như thế.
„Trả lời cuộc phỏng vấn vào hôm thứ Thứ Tư 6 tháng 12 năm 2017, một giới chức cao cấp của Tòa Thánh cho biết Đức Giáo Hoàng muốn chỉnh sửa một vài từ trong kinh Lậy Cha mà bản Anh ngữ dịch là “lead us not into temptation,” chúng tôi dịch sát nguyên văn là “đừng đưa dắt chúng tôi vào cơn cám dỗ”. Theo giới chức Tòa Thánh câu trên rất dễ làm cho người ta hiểu lầm là Chúa dắt người ta phạm tội (it too strongly suggested that God leads people to sin)
Trong một chương trình truyền hình Công Giáo TV 2000 của Italia, Đức Giáo Hoàng nói dịch như trên “lead us not into temptation” không phải là dịch đúng và thay vào đó Ngài đề nghị dùng “do not let us fall into temptation” nghiã là “đừng để chúng tôi rơi vào chước cám dỗ.“
Ngài giải thích thêm: „Chính tôi, con người sa vào chước cám dỗ chứ không phải Chúa đẩy con người vào chước cám dỗ.“
ĐGH cũng cho biết Giáo Hội Công Giáo Pháp đã sửa đổi và nay đang áp dụng câu “do not let us fall into temptation”. Ngài cũng khuyến cáo các giáo hội khác trên thế giới nên theo cách dịch của người Pháp.“ (Nguyễn Long Thao, Vietcatholic ngày 08.12.2017)
- Bản kinh bằng tiếng Việt Nam
Bản dịch Kinh lạy Cha bằng tiếng Việt Nam đã có từ lâu, trong đó lời cầu xin thứ 7. dịch: „Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ“ đúng với bản văn Kinh Thánh.
- Bản văn bằng tiếng Đức: Und führe uns nicht in Versuchung- tạm dịch: Và xin đừng dẫn chúng con sa vào cám dỗ! - Bản dịch này có từ 1971 được đúc kết do hai Giáo Hội Công Giáo và Tin Lành cùng làm việc dịch chung.
Giám mục Peter Kohlgraf, Giáo phận Mainz, cho rằng bản dịch tiếng Đức như thế này phù hợp đúng với bản gốc Kinh thánh bằng tiếng Hylạp trong phúc âm theo Thánh Mattheo và Thánh Luca. Và Ông còn suy nghĩ tiếp: Khi chúng ta cầu xin, chớ gì xin Ngài đừng dẫn đưa chúng ta sa vào cám dỗ không phải vì những cám dỗ nhỏ, nhưng nói lên hoàn cảnh của một quyết định căn bản theo Chúa hay không theo Chúa. Nên tiếp tục giữ bản dịch như thế để cầu nguyện.
Hồng Y R. Marx, Chủ tịch hội đồng Giám Mục Giáo hội Công Giáo nước Đức bày tỏ quan điểm: Tôi thấy không cần thiết phải thay đổi lời cầu xin như bản dịch bằng tiếng Đức đang có „Und Führe uns nicht in Versuchung“. Và tôi nghĩ phần lớn các vị Giám mục khác nơi đây cũng đồng nghĩ như vậy. Và còn nhấn mạnh rằng Kinh Lạy Cha là chương trình cầu nguyện tối thiểu hằng ngày của người tín hữu Kitô giáo.
Giám mục Ackermann, Giáo phận Trier, Chủ tịch Ủy ban Phụng Vụ của Hội Đồng Giám mục Đức cũng lên tiếng giữ nguyên bản dịch đang hiện hành. Vì bản dịch phù hợp với bản gốc tiếng Hylạp. Ông nhấn mạnh „Khỏanh khắc của cám dỗ thử thách trong hiện tại giúp mối tương quan liên lạc với Thiên Chúa được đào sâu sa thêm ra, và giúp đức tin trở nên chín mùi trưởng thành. Vị Giám mục phụ trách Phụng vụ nghĩ rằng Đức Giáo hoàng Phanxico sẽ không nói là bản dịch bằng tiếng Đức như thế không được chấp nhận cho tồn tại!“ ( kath.net 16.12.2017).
Nhiều học giả Kinh Thánh lẫn thần học phía nói tiếng Đức cũng đồng quan điểm giữ nguyên bản dịch đang có, chứ không dịch đổi như bên tiếng Pháp hay như đức Giáo hoàng Phanxico mong muốn.
Bỏ qua khía cạnh ngôn ngữ nơi các bản dịch, ở đây còn ẩn chứa khía cạnh căn bản của thần học nữa: hình ảnh Thiên Chúa và giáo lý Kitô học.
Ý nghĩa của thử thách, của cám dỗ
Con người chúng ta nào ai muốn sa vào cơn cám dỗ hay bị thử thách đâu. Nhưng ngay từ nguyên thủy, dù Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, đã cảnh báo nói trước rõ ràng, thế mà Ông Bà nguyên tổ Adong Evà cũng sa vào cơn cám dỗ của ma qủi ăn trái cây Chúa cấm. Ông Bà vì thế đã không vượt qua được thử thách, để chứng tỏ lòng trung thành với Thiên Chúa, Đấng tạo Hóa. Và hậu qủa là tội lỗi đã đi vào trong trần gian, lưu truyền cho mọi thế hệ con người.
Kinh Thánh thuật lại truyện Ông Gíop bị ma qủi cám dỗ thử thách phải chịu nhiều đau khổ bệnh tật thân xác, mất hết của cải cùng đức tin lòng trung thành của Ông vào Thiên Chúa. Nhưng Ông đã vượt qua vẫn giữ trung thành với Thiên Chúa.
Lời kêu khấn hay đúng hơn lời tuyên xưng đức tin thời danh của Ông là căn bản đời sống con người trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Bấy giờ ông Gióp trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói:
"Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ,
tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng.
ĐỨC CHÚA đã ban cho, ĐỨC CHÚA lại lấy đi:
xin chúc tụng danh ĐỨC CHÚA!„ (Sách Gióp 1,20-21)
Sự đau khổ của Ông Gíóp là lời chứng biện minh cho con người. Ông đã kinh qua đau khổ thử thách giữ vững đức tin, Vì thế vinh dự của con người được vinh danh trở lại…
Sách truyện Ông Gíop có thể giúp ta nhận rõ ra giữa thử thách và cám dỗ.
Để trở nên trưởng thành vững chãi, nhất là lòng đạo đức sâu thẳm vào Thiên Chúa cùng tìm nhận ra ý Chúa muốn, con người cần có thử thách. Như nước của trái nho phải lên men mới có thể trở thành rượu ngon qúi gía. Cũng vậy con người cần phải được thanh luyện, biến đổi. Có khi những điều đó có phần nguy hiểm, cùng có thể làm sa ngã, nhưng dẫu vậy nó giúp ta tìm về chính mình và tìm đến Chúa.
Tình yêu luôn luôn là một cuộc thanh luyện, cuộc từ bỏ, dẫn đến thay đổi đau đớn của chính bản thân ta và là con đường chín mùi trưởng thành.
Thánh Phanxico Xaviê đã cầu nguyện cùng Chúa: „Lạy Chúa con yêu mến Chúa, không phải vì thiên đàng hay hỏa ngục, nhưng vì Chúa. Lạy Chúa là vua của con, là Thiên Chúa của con.“ ( Joseph Ratzinger, Benedickt XVI., JESUS von Nazareth I., Herder 2007, Chương 5, tr. 197).
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, trước khi ra đi rao giảng nước Thiên Chúa, đã vào sống trong sa mạc và để chịu thử thách bị ma qủi cám dỗ. Như thế ma qủi là nguyên do của, hay là người bày ra cám dỗ, thử thách, chứ không phải Thiên Chúa.
Chúa Giêsu chịu để bị cám dỗ trải qua những thử thách, và người đã chống trả lại chúng. Và như thế có thể nói được rằng: Lửa thử vàng, gian nan thử đức! Kinh qua thử thách, Chúa Giêsu đã được rèn luyện cùng minh chứng lòng trung thành với sứ mạng Thiên Chúa Cha trao cho ngài đến trong trần gian mang ơn cứu chuộc cho con người khỏi hình phạt tội lỗi.
Và Kinh Thánh còn nói về cuộc đời vị Thượng Tế Giêsu đã trải qua những cám dỗ đau khổ thử thách. Chính những kinh nghiệm trải qua đó đã giúp Ngài sống cảm thông với thân phận con người phàm trần chúng ta.
„Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giê-su, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội.“ (Thư Do Thái 4,15).
Các Vị Tu Sỹ sống đời nhiệm nhặt khổ tu thời xa xưa đã nhìn ra giá trị tích cực nơi cám dỗ, như sự thử thách giúp con người trưởng thành đứng vững. Gió bão thổi đến bắt cây cối phải bén đâm mọc rễ càng sâu xuống lòng đất, để có thể đứng vững không bị ngả nghiêng gẫy đổ bật gốc trước gió bão. Cũng vậy cơn cám dỗ nhắc người Tu Sỹ tỉnh thức phải dùng sức mạnh thiêng liêng cùng tự nhiên chiến đấu chống trả lại, để đạt tới sự tốt lành thánh thiện.
Ai dẫn vào thử thách cám dỗ?
Thánh Giacobê đã xác định: „Khi bị cám dỗ, đừng ai nói: "Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ", vì Thiên Chúa không cám dỗ làm điều xấu, và chính Người cũng không cám dỗ ai“ (Thư Giacobe, 1,13)
Là con người khi bị vướng mắc vào cám dỗ thử thách, hầu như ai cũng hoài nghi hoang mang. Nhưng trong những hoàn cảnh đó, con người chúng ta tin tưởng rằng Thiên Chúa không bỏ rơi hay quên chúng ta, như lời Thánh Phaolo viết lại với lòng xác tín:
„Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng.“ (1 cor. 10,13)
Tâm tình lời cầu xin
Với lời cầu xin : Xin đừng dẫn chúng con sa chước cám dỗ! trong kinh Lạy Cha, chúng ta muốn nói cùng Thiên Chúa: „Lạy Chúa, con biết rằng, đời sống con cần những thử thách, để con được nên thanh sạch. Nhưng khi những thử thách Chúa gửi đến cho con, như nơi Ông gióp, Chúa để cho sự dữ, sự xấu một khoảng không gian tự do. Con xin Chúa nhớ đến sức lực giới hạn của con. Con không dám tin vào con qúa nhiều đâu. Xin đừng để vòng biên giới xa rộng, và xin bàn tay phù hộ che chở của Chúa ở gần bên con, nhất là khi cám dỗ thử thách qúa nhiều xảy đến cho con“
Cũng trong ý nghĩa đó Thánh Cypriano đã có suy tư về lời cầu xin: Khi chúng ta cầu xin “xin đừng để chúng con sa vào cơn cám dỗ„ là chúng ta muốn nói lên sự hiểu biết nhận thức „kẻ thù địch ma qủi không có gì có thể chống lại chúng ta, nếu trước đó nó đã không được phép, để đến nỗi sự sợ hãi, sự hy sinh và sự tỉnh thức của chúng ta quy hướng về Thiên Chúa, vì không có gì đã cho phép sự dữ, nếu nó không được ủy ban cho quyền hành làm.“
Và Thánh Cypriano còn suy tư theo khía cạnh tâm lý, tại sao Thiên Chúa để cho sự dữ sự cám dỗ một quyền hành giới hạn. Điều này có thể xảy ra để chúng ta ăn năn thống hối, để ngăn chặn hãm lại lòng kiêu hãnh tự cao tự đại của con người chúng ta. Và như thế chúng ta cảm nghiệm nhận thức ra được sự nghèo nàn của đức tin, của niềm hy vọng cậy trông và của tình yêu thương chúng ta. (Joseph Ratzinger, Benedickt XVI., JESUS von Nazareth I., Herder 2007, Chương 5, trang 198).
‘’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’
Ngôn ngữ trong lời cầu xin thể hiện ra bên ngoài tâm tình của trái tim tâm hồn người cầu nguyện.
Nhưng có khi ngôn ngữ nói ra diễn tả sai lệch hay không đúng hẳn như mong muốn, nhất là với dạng phân tích chiết tự của khoa (học) ngôn ngữ, hay cả với khoa thần học triết lý suy tư nữa.
Vì thế, con người vào mỗi thời đại, mỗi hoàn cảnh muốn cùng cố gắng trong giới hạn của mình, hay do điều kiện thúc đẩy điều chỉnh sửa đổi lại ngôn từ dịch thuật trong kinh nguyện cho phù hợp không chỉ với bản văn gốc Kinh Thánh, nhưng còn với văn hóa, với ý nghĩa đạo đức thần học nữa.
Lời cầu xin số 7. trong Kinh Lạy Cha là một trong những trường hợp như thế.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ðức Mẹ vô nhiễm nguyên tội.
- Viết bởi Lm. Ðaminh Nguyễn ngọc Long
Lòng sùng kính Đức mẹ Maria xưa nay trong đời sống đức tin luôn được chăm sóc cùng đề cao. Tuy Đức mẹ không phải là người ban ơn, nhưng tin tưởng Đức Mẹ là người trung gian bầu cử cho trước tòa Thiên Chúa.
Và vì thế trong dòng lịch sử Giáo hội, Đức Mẹ Maria được ca ngợi với nhiều danh hiệu khác nhau có ngày lễ mừng kính riêng. Một trong những danh hiệu ngày lễ mừng kính được xếp nâng lên hàng tín điều là Đức mẹ vô nhiễm nguyên tội.
1. Lịch sử ngày lễ
Ngược dòng lịch sử, ngay từ thế kỷ thứ 10. đến thế kỷ thứ 12. các Giáo Hội Ðông phương đã mừng „Lễ Mẹ Thiên Chúa, thánh thiện trong các vị Thánh, được thụ thai trong cung lòng bà Thánh Anna“.
Ở bên Giáo hội tây phương giám muc Anselm von Canterbury cũng mừng lễ này trong giáo phận của ngài từ năm 1100. Ðức giáo hoàng Sixtus IV. từ năm 1477 đã mừng lễ này ở thành Roma vào ngày 08.12. hằng năm. Ðức giáo hoàng Clemens XI. năm 1708 đã lấy ngày lễ mừng kính Ðức Mẹ Maria thụ thai này là ngày lễ mừng trong cả Giáo hội toàn cầu.
Năm 1854 Ðức Giáo hoàng Pio IX. đã long trọng tuyên bố tín điều Ðức Mẹ vô nhiễm nguyên tội. Ðức mẹ Maria là mẹ Thiên Chúa không vướng tì ố tội tổ truyền, sinh hạ Chúa Giêsu mà vẫn còn đồng trinh. Lễ kính mừng trọng thể vào ngày 08.12. hằng năm bắt buộc trong toàn thể Giáo hội công giáo hoàn vũ.
Tín điều đạo đức này xưa nay gây ra nhiều suy nghĩ tranh cãi và cả chống báng phản đối nhất là từ phía Giáo hội Tin Lành và Chính Thống giáo. Là người Công giáo, chúng ta tin nhận những gì Giáo Hội trong lãnh vực đức tin và luân lý ấn định. Dưới ánh sáng suy nghĩ của con người thời đại, xin rút tỉa ra từ tín điều mừng kính Ðức Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội một vài suy tư.
2. Thắc mắc về niềm tin
Mỗi khi đọc kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng niềm tin vào ngôi vị và nguồn gốc xuất xứ của Chúa Giêsu: "Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng trinh nữ Maria".
Tin trong lòng và tuyên xưng niềm tin ra bên ngoài là điều chính đáng. Nhưng nếu có thắc mắc về điều mình tin, cũng là điều hợp lý lẽ tự nhiên. Vì thắc mắc có thể giúp hướng dẫn và củng cố niềm tin sâu xa hơn. Vậy đâu là ý nghĩa của lời tuyên xưng:"Mẹ đồng trinh Maria"đối với niềm tin?
Thắc mắc về Đức Mẹ Maria sinh hạ Chúa Giêsu mà vẫn còn"đồng trinh" không thể có câu trả lời theo khía cạnh thể lý, khía cạnh sinh học được. Vì niềm tuyên tín đâu có dựa theo đó. Nhưng phải hiểu theo khía cạnh niềm tin đạo giáo, khía cạnh "đầy ân phúc" của Đức Mẹ Maria.
3.Thế nào là đầy ân phúc?
Đức Mẹ Maria được Thiên Thần của Chúa xưng tụng là người "Gracia plena - đầy ân phúc". Vì Thiên Chúa, Đấng sinh thành, nuôi dưỡng đời bà, hằng đồng hành, chúc phúc cho Bà (Lc 1, 30-31). Khía cạnh đầy ân phúc của Đức mẹ Maria thể hiện qua việc chấp nhận ý Thiên Chúa muốn: làm mẹ Chúa Giêsu!
Chấp nhận làm mẹ con Thiên Chúa như cánh cửa mở ra cho tình yêu Thiên Chúa đến với con người, và cùng chia sẻ cuộc sống con người.
Cuộc sống của Chúa Giêsu, con Thiên Chúa khởi đầu như bao trẻ em khác, hồi hộp lo lắng vì yếu đuối bệnh tật, chạy loạn tỵ nạn sống tha hương, lớn lên, đi học, làm nghề thợ mộc bên cha mẹ để có miếng cơm manh áo. Rồi cuộc đời nay đây mai đó, rao giảng tin mừng tình yêu nước Thiên Chúa.
Đức mẹ cũng cùng trải qua những lúc vui và buồn sầu đau khổ của cuộc đời Chúa Giêsu, lúc thất vọng, lúc ngài được tung hô vạn tuế, lúc sống giữa đám đông dân chúng, lúc một mình, lúc bị khinh khi. Và cuộc đời Chúa Giêsu kết thúc với cái chết tức tưởi nhục nhã, bị hành hình đóng đinh trên thập giá...
Khía cạnh đầy ân phúc nơi Đức Mẹ Maria còn thể hiện qua lòng tin tưởng vào Thiên Chúa. Vì thế Đức Mẹ Maria được Thiên Chúa tuyển chọn khỏi vòng liên lụy của tội lỗi làm dấu chỉ tình yêu, của trọn hảo tinh tuyền giữa trần gian.
Sự trọn hảo tinh tuyền khỏi vòng liên lụy của tội lỗi của Đức Mẹ trở thành dấu chỉ ơn cứu độ khỏi tội lỗi cho tâm hồn con người.
4. Sự tinh tuyền thánh thiện của Đức Mẹ Maria
Trong truyền thống đạo đức của Gíáo hội, các Giáo phụ đã có những suy tư đạo đức xác tín về sự tinh tuyền thánh thiện của Đức Mẹ Maria.
Thánh giáo phụ Ephrem đã suy tư cầu nguyện: Chúa Giêsu và mẹ của ngài, hai vị là những người duy nhất trong mọi khía cạnh tốt đẹp vẹn toàn . Nơi Ngài, lạy Chúa không có dấu vết sự nhơ bẩn, và cả nơi mẹ của Ngài cũng không có tì vết sự vướng mắc gì.
Thánh giáo phụ Augustino đã nhìn nhận tất cả mọi con người vướng mắc vào vòng tội lỗi, chỉ trừ ra mẹ rất thánh Maria, là mẹ Thiên Chúa không vướng mắc vào vào liên lụy của dục vọng tội lỗi.
Thánh Giáo phụ Ephraem đã đưa ra sự tương đồng và sự khác biệt giữa Đức mẹ Maria và bà Eva. Maria một bên là hình ảnh một Eva trong sạch tinh tuyền không vướng mắc vào tội nguyên tổ, một bên khác là hình ảnh trái ngược của Eva, người là nguyên do đưa đến sự tội, sự chết. Còn Maria là nguyên do đưa đến sự cứu rỗi chữa lành.
Và Thánh giáo phụ suy tư rút ra hệ luận: Hai người vô tội, hai người sống đơn giản, Eva và Maria rất tương tự giống nhau. Nhưng sau này một người trở thành nguyên nhân dẫn đưa tới chết cho chúng ta, còn một người thành nguyên nhân dẫn đưa tới sự sống cho con người chúng ta.
5. Lòng tuyên tín
Tin Đức Mẹ Maria đồng trinh không phải là tin điều gì mới lạ phi thường hay điều gì nhảm nhí do lòng đạo đức sùng kính sợ sệt quá đáng. Nhưng là tin vào sự trọn hảo thánh thiện của Thiên Chúa.
Tin Đức Mẹ Maria đồng trinh cũng không là điều vượt khỏi tầm mức hiểu biết của con người. Nhưng nhìn nhận sự sống bị ràng buộc trong vòng liên lụy của tội lội, của sự xấu. Vì nào đã có ai là con người như chúng ta khẳng định mình là người hoàn hảo vô tội đâu? Và đã có thời gian nào hoàn toàn không có tội ác, sự xấu hoành hành trên trần gian đâu? Ân đức của Thiên Chúa giải thoát con người khỏi vòng liên lụy đó.
Tin Đức Mẹ Maria đồng trinh không là cách sống của người tự ty mặc cảm vì hèn kém yếu thế. Nhưng muốn noi gương lối sống của Đức Mẹ, người có lòng khiêm nhường, sống tình liên đới và cần sự trợ giúp của Thiên Chúa.
///////////////////
Trên con đường mùa Vọng đến ngày lễ mừng Chúa Giêsu giáng sinh, ngôi sao đời sống của Đức mẹ Maria chiếu sáng soi đường, ngôi sao không bị lu mờ vì tội lỗi của tổ tông, là dấu chỉ niềm hy vọng và là sự an ủi cho con người.
„ Đời người như một hải trình trên đại dương của lịch sử, thường tối tăm và giông tố, một hành trình trong đó chúng ta tìm kiếm những ngôi sao dẫn đường. Những ngôi sao chính thật trong cuộc sống chúng ta là những người đã sống tốt lành. Họ là những ánh sáng của hy vọng. Chắc chắn, Chúa Giêsu Kitô là ánh sáng thật, là mặt trời đã lên cao vượt trên tất cả các bóng tối của lịch sử. Nhưng muốn đến được với Người, chúng ta cũng cần đến những ánh sáng gần bên – của những người đang phản chiếu ánh quang của Ngài và dẫn đường cho chúng ta. Còn ai hơn được Mẹ Maria, là ngôi sao hy vọng cho chúng ta? Với tiếng “Xin Vâng” Mẹ đã mở cửa thế giới chúng ta cho chính Thiên Chúa; Mẹ đã trở nên Hòm Bia Thiên Chúa sống động, trong đó Thiên Chúa nhập thể, trở nên một người giữa chúng ta, và dựng lều của Ngài giữa chúng ta (x. Ga 1:14)“ (GH Benedictô 16., Thông điệp Spe Salvi số 49.)
Lm. Ðaminh Nguyễn ngọc Long
Thánh Nikolaus, mang tạo không gian cho đời sống
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Bên Giáo Hội Chính Thống Đông phương Nikolaus là một vị thánh lớn, và được sùng kính xếp ngay sau Đức Mẹ Maria.
Bên Giáo hội Tây phương Roma vị Thánh này được các trẻ em yêu mến biết đến nhiều hơn cả..
Hằng năm vào đầu mùa Vọng, ngày 06.Tháng 12. là ngày lễ Thánh Nikolaus được mừng kính nhớ với nhiều tập tục. Trong ngày này các trẻ em được tặng qùa. Nikolaus trở nên là „người cha“ phân phát qùa cho các trẻ em.
Nikolaus Giám mục thành Myra sinh ra ở Patara khoảng giữa năm 270 và 286, Ông qua đời ngày 6.12. khoảng những năm 326,345,3521 hay 365. , là một vị Thánh được biết đến và rất được sùng mộ mến ờ bên Giáo hội Đông phương và cả bên Giáo hội Tây phương.
Ngày 06. 12. hằng năm là lễ kính nhớ Thánh Nikolaus trong toàn thể Kitô giáo bên Đông phươmg cũng như bên tây phương với nhiều tập tục bình dân phổ biến trong dân gian.
Nikolaus là Giám mục thành Myra vào nửa đầu thế kỷ thứ 4.. Thành phố Myra thuộc vùng miền tiểu Á Lykien, ngày xưa vùng này nằm trong đế quốc Roma, nhưng sau này thuộc vương quốc Byzantino, và ngày nay thuộc lãnh thổ quốc gia Thổ nhĩ Kỳ.
Năm 325 Giám mục Nikolaus tham dự Công Đồng Nicea, nơi đây Nikolaus đã mạnh mẽ bênh vực Giáo Hội chống lại lý thuyết Arianismus do Arius khởi xướng đưa ra lý thuyết thần học chối bỏ không công nhận Ba ngôi Thiên Chúa.
Trong lịch sử đời sống của Thánh Nikolaus có nhiều truyền thuyết nổi tiếng về lòng bác ái cứu giúp con người truyền tụng trong dân gian xưa nay.
Truyện kể một gia đình nghèo có ba người con gái để cho các cô đi làm nghề mãi dâm kiếm tiền nuôi sống gia đình. Biết được chuyện đó Nikolaus lặng lẽ ném ba lần liên tiếp vào ban đêm bao tiền vàng qua cửa sổ vào phòng các cô này , để họ có thể có tiền cho gia đình. Nikolaus đã cứu ba cô gái này khỏi không gian đời sống tội lỗi.
Truyện cũng kể, các thủy thủ trên đường vượt biển gặp tai nạn sóng to gío bão làm tầu thuyền họ chao đảo gặp như bị chìm. Họ đồng thanh cầu khấn Giám mục Nikolaus đến giúp đỡ. Ngay lập tức Nikolaus hiện đến giúp họ và dẫn đưa tầu thuyền họ đi vào bến bình an.
Truyện kể lại, ba quân sĩ bị hoàng đế phân xử bất công không đúng phải chịu hậu qủa tù tội, vì tội phản bội, và bị xử tử. Họ kêu cầu Nikolaus. Trong đêm trước ngày xử tử, Nikolaus đã hiện đến với hoàng đế trong giấc mơ, và nói cho biết là ba người này bị xử bất công không đúng với luật pháp. Thức dậy hoàng đế truyền thả tự do cho ba người này khỏi bị tù tội. Một không gia đời sống mới được giải oan cứu giúp Nikolaus đã phù giúp trao tặng những người bị hàm oan này.
Cũng có truyện kể, một bà mẹ vì không chú ý, nên để con mình bị cháy, bà than khóc kêu cầu Nikolaus, và Nikolaus đã cho em bé con bà sống trở lại.
Những câu chuyện truyền thuyết đó nói lên, Nikolaus ra tay xuất hiện cứu giúp con người khi sức lực, sự khôn ngoan của họ tới chỗ ngõ bí tận cùng.
Nikolaus trở thành người cha đích thực trao tặng ba cô gái nhân vị đời sống mới, mà chính người cha ruột thịt các cô không có thể bảo vệ các cô được. Nikolaus đã tạo cho các cô này không gian đời sống xứng hợp với nhân phẩm con người.
Các người thủy thủ gặp tai nạn trên biển họ kêu cầu Nikolaus. Và Nikolaus đã cứu giúp họ. Ông trở nên người cứu giúp những ai gặp hoạn nạn. Nikolaus đã mang đến cho họ một không gian khung trời đời sống bình an trong cơn hoạn nạn nguy biến.
Nikolaus đã cho em bé đời sống mới, vì mẹ em bất cẩn để con mình bị cháy bỏng. Như thế Nikolaus đã trở nên người cha sinh thành cho em đời sống mới, cho em sống lại. Nikoluas đã đem lại cho em bé và mẹ em một khung cảnh không gian niềm vui hạnh phúc đời sống được chữa lành cứu thoát.
Trong đời sống, không chỉ trẻ em luôn luôn cần đến bàn tay, tình phụ tử của người cha, nhưng tất cả mọi người.
Người cha Nikolaus có thể là một tấm gương cho mọi người trong đời sống, với trái tim lòng thương cảm lãnh nhận với trách nhiệm bổn phận là người cha bảo vệ gia đình mình.
Chiếc mũ đỏ, như hình mái lều, mà Nikolaus trao tặng các em bé, và cả người lớn nữa, ngày lễ Nikolaus, theo tập tục văn hóa dân gian nói lên „người cha Nikolaus“ bảo vệ săn sóc đến sự no ấm cho con cái mình.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long