Ở lại trong tình yêu.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Người mẹ thường hay nói với con mình: Con không được chạy đi ra xa, nguy hiểm đó con. Con phải luôn ở bên cạnh mẹ!
Hay để an ủi vỗ về người con đang mếu máo khóc tìm mẹ, người mẹ cũng thường nói: An tâm nín khóc đi con. Có mẹ ở bên con rồi!
Những lời nói đó của người mẹ nói lên sâu đậm cùng cần thiết về mối tương quan sự sống cùng tình yêu giữa con người với nhau.
Trong đức tin đạo giáo mối tương quan sâu đậm cùng cần thiết như thế có không?
Đức tin vào Thiên Chúa không là một tòa nhà cơ quan, nhưng là tin vào một Thiên Chúa đã sinh xuống làm người. Người đó là Chúa Giêsu Kitô.
Khi đi rao giảng nước tình yêu Thiên Chúa trên trần gian, Chúa Giêsu Kitô đã nói về mối tương quan đức tin: Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy! ( Ga 15,9).
Đời sống trong xã hội ngày càng trở thành „mobil“ di chuyển thay đổi. Lối sống mobil trở thành biểu tượng một nếp sống tân thời, thích nghi với thời đại trong nhiều lãnh vực đời sống xã hội.
Nhưng càng di chuyển mobil thay đổi, thắc mắc về nguồn gốc, về đích điểm càng đặt ra gay gắt thêm: Tôi thuộc về ai, đi về nơi đâu? Đâu là bờ bến tôi có thể dừng lại như quê hương ?
Nếu không có câu trả lời cho những thắc mắc đó, sau cùng sẽ thành người lang thang ngoài đường, hay đứng giữa giữa trời mưa gío ngoài sân, bên lề đường đời sống xã hội.
Và thực tế có nhiều người không cửa nhà ở khắp nẻo đường sống xã hội trên thế giới, nhất là ở những xứ sở còn thiếu thốn, nghèo đói, chiến tranh tỵ nạn, hay đang trong tình trạng phát triển bùng nổ. Vì nhiều người bỏ vùng thôn quê kéo về vùng thành thị tìm nơi an toàn cùng kiếm kế sinh nhai làm ăn sinh sống….
Không là một đời sống an toàn, nếu người ta không biết nơi nào người ta có thể ở lại cư ngụ. Đây không chỉ là cần có một ngôi nhà ở với những bức tường vây chắn chung quanh, nhưng còn những điều khác hơn thế nữa: người bên cạnh tôi và cùng ở lại với tôi. Ai muốn tiếp tục đi tới vươn lên, người đó cần cho mình sự bảo vệ của người ở bên cạnh mình hằng chống đỡ bênh vực cho mình.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây nho và rễ cây nho gắn nối liền với nhau nói về ý nghĩa „ anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy“.
Cây nho hay bất cứ một cây nào khác trong thiên nhiên cũng có phần thân cây nổi trồi lên khỏi mặt đất và phần chùm rễ cây ẩn chìm ăn sâu dưới lòng đất. Hai phần này phải liên kết gắn liền với nhau cây mới phát triển lớn lên nảy sinh cành lá xanh tươi, ra bông kết trái được.
Hình ảnh này diễn tả sự sống phát triển trong tương quan gắn liền giữa hai thành một.
Nếu thân cây không còn nối gắn liền với rễ cây bên dưới lòng đất, thân cây, cành, lá, hoa sẽ héo tàn, dần sẽ chết đứng, và lúc đó sẽ trở thành củi khô thôi. Không còn mối tương quan gắn liền thân cây với rễ cây, cây không có dòng nhựa sống luân chuyển nuôi cây nữa.
Hình ảnh thân cây (nho) gắn liền với rễ cây diễn tả mối tương quan gắn liền đời sống con người với nhau: cha mẹ với con mình, vợ chồng với nhau, các thành viên một hội đoàn , một xứ đạo với nhau, những tín hữu Chúa Giêsu Kitô trong Giáo Hội với Chúa Giêsu, Đấng là đầu Giáo hội, là nguồn sự sống, nguồn ơn cứu độ con người.
Gắn bó với Chúa Giêsu, ở lại trong tình yêu của Chúa là lắng nghe tuân giữ Lời Chúa trong kinh thánh, trong thiên nhiên và thầm kín trong tâm hồn mỗi người.
Thân cây, cành lá cây không làm ra rễ cây. Nhưng rễ cây làm cho thân cùng cành lá cây phát triển tươi tốt vươn lên.
Cũng vậy, cây đức tin vào Chúa luôn cần phải có rễ Chúa Giêsu mới phát triển đứng vững được.
„Đâu phải bạn mang rễ, mà là rễ mang bạn!“ (Roma 11,18)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Giáo sĩ đi nghỉ hưu
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngày xưa trong Hội Thánh Công giáo có tập tục nếp sống : Linh mục sống chết với xứ đạo nơi mình phục vụ sinh sống!
Và vì thế Linh mục coi sóc xứ đạo thường ở đó cho tới ngày cuối cùng của cuộc đời. Cha xứ qua đời, giáo dân xứ đạo tổ chức lễ an táng cho ngài, như người cha gia đình vậy.
Xứ đạo như gia đình của vị Linh mục. Vị Linh mục chính xứ như người cha tinh thần của xứ đạo. Bên tây phương có suy nghĩ hay quan niệm bình dân: Linh mục „kết hôn“ với xứ đạo mình trông coi!
Nhưng nếp sống, quan niệm đó ngày nay thay đổi ra khác nhiều. Thay vào đó vị linh mục, ít là linh mục giáo phận hay còn gọi là „linh mục triều“, bắt đầu tuổi thất tuần thượng thọ, 70 tuổi, được (hay khuyên) đi nghỉ hưu.
Luật Hội Thánh, luật của các Giáo Phận qui định như thế.
Công việc mục vụ xứ đạo theo dòng thời gian và bước tiến triển của xã hội đời sống ngày càng có những thay đổi, những thách thức mới đặt ra, nhất là về hành chánh quản trị, về mối tương quan đạo đời, về chu vi diện tích xứ đạo, như bên Âu Châu, bên Nam Mỹ Châu, càng xa rộng lớn thêm ra cho nhu cầu mục vụ.
Nên rất nhiều khi trở thành nỗi lo âu không chỉ về tâm trí tinh thần, mà còn cả gánh nặng phần thể xác sức khoẻ cho vị linh mục làm việc mục vụ trông coi xứ đạo.
Và hơn nữa, luật lao động xã hội cũng có những qui định lao động, y tế chặt chẽ về tuổi lao động cho con người..
Và nhiệm vụ tinh thần mục vụ của Linh mục giữa giáo dân không chỉ là việc dâng Thánh lễ, cử hành các Bí tích, như một cỗ máy. Nhưng trong khi thi hành nhịêm vụ đó, ngoài khía cạnh đạo đức như luật dậy, vị Linh mục phải sống tình con người có lòng thương cảm cùng đồng hành chia sẻ với mọi người.
Nên khi tuổi trời đã cao, vượt qua tầng thất thập, sự nhậy bén tinh tế của tinh thần, của tầng thần kinh cũng giảm bớt đi. Đó qui luật tuần hoàn của thiên nhiên. Và nhất là suy nghĩ cùng ngôn ngữ cách cư xử trở nên khác, hay không còn theo bắt kịp tần số làn sóng của xã hội, nhất là thế hệ người trẻ nữa!
Lớp người trẻ hôm nay là tương lai của Hội Thánh, của xứ đạo ngày mai. Vì thế các Đấng bản quyền trong Hội Thánh nhìn nhận ra nhu cầu nghỉ hưu cho các Linh mục, và đồng thôi cũng nghĩ tới lợi ích tương lai sức sống phát triển của Hội Thánh.
Linh mục, tuy là người dấn thân hy sinh cả đời sống cho Hội Thánh Chúa, cho tiếng Gọi của Chúa. Nhưng họ cũng là con người như bao con người khác do Chúa tạo dựng nên. Họ, vì thế, không chỉ có nhu cầu trách nhiệm hoạt động, mà cũng còn có nhu cầu được nghỉ ngơi sau thời gian gánh vác hoạt động khi bước vào thất tuần thượng thọ, hay khi sức khoẻ tinh thần và thể xác yếu kém giảm sút.
Đó là lòng đạo đức, là cung cách lòng nhân đạo!
Linh mục hay vị Giáo Sĩ nào trong Hội Thánh, như đức Giáo Hoàng emeritus Benedictô XVI. hay các Giám mục nghỉ hưu trên thế giới từ 75 tuổi, vẫn luôn là Linh mục, là Giám Mục với chức vụ thánh. Nhưng không có trách nhiệm cai quản việc mục vụ xứ đạo hay Giáo phận nữa.
Các Linh mục đi nghỉ hưu lui vào cuộc sống thầm lặng. Nhưng họ vẫn sống cầu nguyện cho Hội Thánh, nhất là cho những người trong xứ đạo, mà họ đã cùng chung sống làm việc mục vụ ngày xưa.
Các linh mục đi nghỉ hưu, tuy ở xa, nhưng vẫn luôn nhớ đến con chiên bổn đạo xứ đạo ngày xưa của mình trong những kỷ niệm vui buồn với mọi người của xứ đạo khi xưa, lời kinh khấn nguyện nhớ đến xứ đạo.
Và con chiên giáo dân ngày xưa đã cùng chung sống con đường đời sống đức tin với cha xứ của mình cũng luôn nhớ đến người cha nghỉ hưu với những kỷ niệm thân tình và với lòng biết ơn, cùng cầu nguyện cho các ngài, liên lạc với các ngài.
Đức giáo hoàng emeritus Benedictô XVI. đã tâm sự nói về kinh nghiệm, cảm nghiệm đi nghỉ hưu của mình: „ Không đâu. con đường nghỉ hưu của tôi không chỉ do từ trên cao cùng đồng hành dẫn dắt. Hằng ngày tôi nhận được nhiều thư từ… không chỉ của các vị quyền qúi trên thế giới, nhưng còn từ những người dân bình thường có đời sống khiêm nhường. Họ muốn biết tôi sống thế nào, qua đó họ gần gũi với tôi, và họ cầu nguyện cho tôi. Họ sống tình liên đới với tôi.
Từ những điều đó tôi lớn mạnh thêm trong sự tin tưởng vượt qua những khoảnh khắc khó khăn. Và vững tin rằng Thiên Chúa luôn dẫn dắt nuôi dưỡng Giáo Hội của Người. Ngày xưa Ngài đã trao cho trách vụ đứng đầu Giáo hội Chúa ở trần gian đó cho tôi, và bây giờ tôi có thể trao lại trong tay Ngài. Sự nâng đỡ đó vẫn luôn liên tục, không bị cắt đứt, cả sau khi tôi thoái vị xin rút lui vào sống ẩn dật.
Điều tôi đã đoan hứa cùng Thiên Chúa và cùng mọi người, mà Ngài cũng như mọi người hằng đoan hứa yêu mến nâng đỡ tôi, tôi chỉ có thể nói lên tâm tình tạ ơn Chúa và lời cám ơn mọi người.“ (Elio Guerriero, BENEDIKT XVI., Die Biografie, Herder, Freiburg i. Breigau 2018,Tr. 586-587).
Giữ mối dây liên lạc sống động thân tình với các Linh mục nghỉ hưu là liều thuốc bổ cho tinh thần và cho sức khoẻ thể xác của các ngài rất nhiều.
Thật không gì đạo đức, chan chứa tình yêu mến và cảm động qúy báu hơn nữa!
Chúa nhật Chúa chiên lành cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục
và nhớ về các Giám Mục, các Linh mục đi nghỉ hưu.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hẹn gặp ở Galilaea
- Viết bởi Dân Chúa
Những người phụ nữ đầu tiên đến thăm mộ Chúa Giêsu Kitô lúc tảng sáng, họ liền được Thiên Thần nói cho biết Chúa Giêsu Kitô đã chỗi dậy sống lại từ cõi kẻ chết. Và còn dặn họ „ Xin về nói cho các môn đệ rằng Người sẽ đến Galilaea trước các ông như Người đã nói „ ( Mc 16,7).
Đó là những chi tiết Thánh sử Marcus thuật lại về Chúa Giêsu Kitô đã chỗi dậy sống lại từ nấm mồ người chết.
Nhưng tại sao Chúa Giêsu Kitô phục sinh lại hẹn gặp các môn đệ ở Galilaea?
Địa lý lịch sử Galilaea
Vùng Galilaea ở miền Bắc nước Do Thái. Từ thế kỷ 8. trước Chúa giáng sinh triều đại hoàng đế Omride đã thành lập vương quốc hùng mạnh ở miền Bắc nước Do Thái ngày nay, bao gồm vùng phía Tây Samaria và Galilaea. Vương quốc này có nhiều thành phố và trung tâm văn hóa.
Thành phố quan trọng bậc nhất là Sichem với đền thờ Garizim, sau này bị phân hóa thay thế bởi thành phố Samaria.
Galilaea bị người Assyria chiếm đóng và tầng lớp thượng lưu trí thức Do Thái bị phân hóa đưa đi lưu đày. Trên vùng lãnh thổ này dân chúng từ miền Đông kéo đến sinh sống lập nghiệp. Do đó, vương quốc phía Nam Do Thái thuộc chi tộc Juda trở nên hùng mạnh ở vùng Jerusalem.
Sau khi đế quốc Assyria sụp đổ, đền thờ Jerusalem trung tâm thờ phượng tôn giáo của Do Thái hồi sinh, và vùng Galilaea dưới quyền thống trị của Vua thuộc chi tộc Juda được thử nghiệm đưa nhập vào Jerusalem.
Sau thời kỳ lưu đầy bên Babylon nền chính trị này đã có thể mở rộng, và vùng Galilaea trở nên thành phần của vương quốc Jerusalem.
Trong thời kỳ đế quốc Roma cai trị năm 64 trước Chúa giáng sinh, vùng Galilaea trở thành vùng tự trị riêng.
Dưới thời kỳ Đạo binh thập tự vùng Galilaea là lãnh thổ độc lập lần lượt do các vị Lãnh chúa thủ lãnh cai trị. Từ 1099-1108 lãnh chúa Tanked, từ 1101-1106 lãnh chúa Falkenberg, từ 1106-1108 do lãnh chúa Gervaise Bazoches, từ 1113-1119 do lãnh chúa Joscelin Courenay, từ 1119-1143 do lãnh chúa Wilhelm 1., từ 1143-1150 do lãnh chúa Elinand, từ 1150- 1153 do lãnh chúa Simon, từ 1153-1158 do lãnh chúa Wihelm 1., từ 1159-1174 do lãnh chúa Walter St. Omer, từ 1159-1174 do lãnh chúa Raimund 3. , từ 1174-1187 do lãnh chúa Tripolis và 1187 vùng Galilaea bị Saladin chiếm đóng.
Vùng Galilaea có diện tích bằng một phần ba lãnh thổ đất nước Do Thái. Trong thời kỳ đất nước Do Thái bị đế quốc Roma chiếm đóng cai trị, nước Do Thái được phân chia thành ba vùng: Judaea, Samaria và Galilaea. Vùng Galilaea ở phía bắc và là vùng lãnh thổ có diện tích lớn nhất.
Vùng Galilaea trong Kinh thánh
Vua Salomon, con Vua David - Vua David người lập nước Do Thái cùng là tổ tiên dòng dõi trong gia phả Chúa Giêsu - đã cai trị nước Do Thái 40 năm từ năm 970 trước Chúa Giáng sinh đến 931 trước Chúa giáng sinh, đã nói đến miền Galilaea trong đất nước Do Thái:
„ Khi-ram vua Tia cung cấp cho vua Sa-lô-môn gỗ bá hương, gỗ trắc và vàng tuỳ thích; còn vua Sa-lô-môn thì trao cho vua Khi-ram hai mươi thành trong miền Ga-li-lê“ ( 1. SáchCác Vua 9,11) .
Chúa Giêsu sinh ra ở Bethlehem vùng Judaea, miền Nam nước Do Thái. Nhưng gia đình Chúa Giêsu, sau khi từ Ai Cập trở về đã định cư sống ở làng Nazareth thuộc vùng Galilaea miền Bắc nước Do Thái. Nơi đây Chúa Giêsu đã sinh sống lớn lên thành người trưởng thành, nên được gọi là người Nazareo.
Từ vùng miền Galilaea Chúa Giêsu ra đi đến xin nhận phép rửa của Thánh Gioan bên bờ sông Jordan . ( Mc 1,9).
Trên bước đường rao giảng nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã kêu gọi các Môn đệ đầu tiên ở vùng biển hồ Galilaea. ( Mc 1, 16).
Như thế (Nazareth trong) miền Galilaea là quê hương địa lý và đồng thời là cũng là quê hương văn hóa tinh thần của Chúa Giêsu. Và cũng từ vùng miền Galilaea như điểm nhấn bàn đạp, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai ra đi rao giảng nước Thiên Chúa trong khắp nước Do Thái.
Galilaea, miền đất khởi thủy truyền giáo
Chúa Giesu sau quãng đường ba năm rao giảng nước Thiên Chúa từ quê hương vùng Galilaea, bị kết án chết trên thập gía và được mai táng ở Jerusalem và sau cùng sống lại ở Jerusalem, thuộc miền Nam nước Do Thái.
Nhưng sau khi sống lại từ cõi kẻ chết, Chúa Giêsu không quên quê hương Galilaea, nơi Ngài đã cùng với gia đình mình sinh sống lớn lên, nơi đã học hành làm việc, nơi Ngài khởi đầu công việc truyền giáo, nơi Ngài đã kêu gọi tuyển chọn các Môn đệ cũng là những người thuộc xứ Galilaea. Nên Ngài hẹn gặp lại các Môn đệ của mình ở chính ngay nơi quê hương cũ là Galilaea.
„ Xin về nói cho các môn đệ rằng Người sẽ đến Galilaea trước các ông như Người đã nói „ ( Mc 16,7).
Chúa Giêsu sống lại muốn cho các Môn đệ mình nhận ra chân dung căn tính Chúa Giêsu - thầy mình- khi xưa sinh sống trên mặt đất, đã bị đóng đinh vào thập gía và giờ đã sống lại ngay tại chính nơi quê hương Galilaea của Ngài và cũng của họ đã xuất thân ngày xưa.
Galilaea là nơi khởi điềm truyền giáo ngày xưa của Chúa Giêsu, rồi sau đó các Môn đệ đi tản mác khắp nước Do Thái vào miền Nam cho tới khi Chúa Giêsu chịu chết và được mai táng trong lòng đất. Sau khi sống lại Chúa Giêsu muốn tập họp các Môn đệ mình lại tại nơi khởi thủy truyền giáo quê hương vùng Galilaea, để bắt đầu một khởi đầu mới cho công cuộc truyền giáo loan báo tin mừng nước trời cho mọi dân nước trên trần gian.
Galilaea là miền đất khởi thủy công việc truyền giáo của Chúa Giêsu ngày xưa và của các Môn đệ sau khi Chúa Giêsu sống lại.
„Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến.17 Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi.18 Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.19 Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,20 dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.“ (Mt 28,16-20).
Galilaea không chỉ là nơi chốn hình thể địa lý trong đất nước Do Thái xưa nay. Nhưng còn là hình ảnh biểu trưng nơi con người sinh sống, lớn lên, làm việc giữa những con người khác niềm tin tôn giáo với mình, và cả nơi mình nhận ra có khó khăn vướng trở thi hành đức tin của mình vào Chúa Giêsu.
Chính nơi đó con người có thể nhận ra Chúa Giêsu, người đã sống trong đau khổ hy sinh luôn trung thành với Thiên Chúa Cha trên trời cho đến chết. Và Thiên Chúa Cha đã vì thế đã cho Chúa Giêsu sống lại.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
„Ngày thứ ba bởi trong kể chết sống lại“
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lời tuyên xưng đức tin căn bản người Công giáo đọc trong thánh lễ ngày Chúa nhật và ngày lễ trọng: „Ngày thứ ba bởi trong kể chết sống lại“.
Lời tuyên xưng đức tin này được Thánh Phaolo vào khoảng năm 50-51 sau khi Chúa Giêsu về trời viết lại cho Giáo hội thuở ban đầu như bằng chứng: „Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. Người đã hiện ra với ông Kê-pha (Phero), rồi với Nhóm Mười Hai.“ (1 cor. 15,3-5).
Căn cứ vào đó, từ hai ngàn năm nay Giáo Hội hằng năm mừng lễ Chúa Giêsu Kitô sống lại là căn bản cho đức tin vào Chúa Giêsu Kitô.
Lễ mừng Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết được công bố long trọng biểu thị qua Cây nến Chúa Phục sinh.
- 1. Cây nến Chúa Phục sinh.
Trong thánh lễ Vọng ban đêm ngày thứ bẩy tuần thánh sang ngày Chúa nhật phục sinh, Cây Nến Chúa phục sinh được làm phép và đốt thắp từ bên ngoài tiến vào bên trong thánh đường báo tin Chúa Giêsu sống lại: Lumen Christi - Ánh sáng Chúa Kitô. Đây là hình ảnh dấu chỉ nói đến sự chết trước sự sống và bóng tối trước ánh sáng phải lui đi biến mất. Chúa Giêsu Kitô là ánh sáng đến trong thế gian, xua đuổi bóng tối tội lỗi khỏi tâm hồn con người, bóng tối thần dữ tội lỗi và chiếu soi cho đời sống con người.
Cây nến Chúa phục sinh làm bằng chất sáp ong cao to hơn mọi cây nến trong thánh đường. Trên cây nến khắc vẽ hình thánh gía Chúa Giêsu với năm dấu vết Chúa Giêsu bị đóng đinh nơi hai bàn tay, nơi hai bàn chân và cạnh sườn bị đâm thâu qua.
Trên thánh giá có mẫu tự A: Alpha muốn nói Chúa Giêsu là khởi đầu, qúa khứ. Mẫu tự A là mẫu tự đầu trong bảng mẫu tự chữ Hylạp
Dưới chân thánh gía có chữ Ω :Omega muốn nói Chúa Giêsu cũng là tận cùng, tương lai . Mẫu tự Ω là mẫu tự chót trong bảng mẫu tự chữ Hylạp.
Rồi hai bên thánh giá khắc ghi những con số năm mừng lễ (2018) muốn nói chúa Giêsu Kitô luôn hiện trong thời gian hiện tại.
Thánh gía Chúa Giêsu, năm dấu đinh cùng hai mẫu tự và những con số trên cây nến thông thường được tô mầu đỏ nói lên sự chiến thắng, sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô.
Ngay từ thế kỷ 4. khoảng năm 384 Thánh Giáo phụ Hieronimo trong bức thư gửi cho Thầy phó Tế Praedius đã nói đến Cây nến phục sinh.
Tập tục cây nến Chúa phục sinh có nguồn từ truyền thống đã có trước đó trong lễ nghi thờ Thần Thánh của dân ngoại rồi.
Lễ nghi thờ phượng ca tụng các Thần Thánh thời cổ xa xưa có lễ vật dâng tiến hy sinh đền tội. Mà Cây nến phục sinh nguyên thủy là lễ vật dâng tiến hy sinh đền tạ.
Cây nến được làm bằng chất sáp của ong đắt gía tinh tuyền là hình ảnh chỉ về thân xác con người thiên nhiên của Chúa Giêsu, hay cũng nói về thân xác của Chúa đã biến đổi sau khi sống lại, đang khi ngọn lửa cháy sáng là hình ảnh chỉ về thiên tính của Chúa Giêsu. Như thế cây nến phục sinh diễn tả lễ vật hy sinh dâng tiến cho Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô.
Cây nến Phục sinh có hình ảnh nguồn gốc không chỉ từ nơi lễ nghi của dân ngoại, nhưng còn có gốc rễ nơi đạo Do Thái nữa.
Ngày xưa khi Thiên Chúa dẫn đưa dân Do Thái từ nước Ai Cập trở về quê hương Do Thái băng qua sa mạc, vượt qua biển đỏ luôn có cột lửa cháy sáng của Thiên Chúa dẫn đầu. Cũng vậy, ngày nay trong đêm tối ngày phục sinh đoàn người tín hữu Chúa Kitô tiến vào thánh đường theo sau cây nến phục sinh cháy sáng soi đường báo tin Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết.
Cây nến phục sinh là lễ vật dâng tiến Thiên Chúa và là cột lửa soi đường trong giao ước mới.
Cây nến Chúa Phục sinh được thắp sáng suốt tuần lễ tám ngày liền sau lễ Chúa Phục sinh, và cũng được thắp sáng vào những ngày Chúa nhật trong mùa phục sinh 50 ngày cho tới ngày mừng lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Cây nến phục sinh sau đó được dựng bên cạnh giếng nước Rửa tội. Mỗi khi có lễ nghi rửa tội, cây nến được đốt thắp lên, và cây nến rửa tội của em bé được đốt thắp từ ngọn lửa cây nến Chúa Phục sinh: ánh sáng Chúa phục sinh là ánh sáng đức tin cho đời người lãnh nhận bí tích rửa tội.
Và cây nến cũng được đốt thắp lên khi thánh lễ an táng người qua đời được cử hành.
Ánh sáng Chúa Kitô phục sinh hằng dõi theo cho con người từ ngày chịu phép rửa tội đến ngày sau cùng đời sống trở về lòng đất. Ánh sáng Chúa phục sinh soi chiếu hướng dẫn con đường đời sống trên trần gian, và trên con đường cho linh hồn người qua đời về với Chúa, nguồn ơn cứu chuộc cho được cùng sống lại với Chúa.
- 2. Bài kinh ca ngợi Exultet - Mừng vui lên
Khi Cây nến phục sinh được rước tiến vào cung thánh, được đặt trên giá cao nơi cung thánh nổi bật, được xông hương và thầy Phó tế hay Linh mục hát ca tụng long trọng qua bài thánh thi Exultet khởi đầu lễ nghi mừng Chúa Giêsu sống lại.
Bài thánh thi Exultet ca ngợi Chúa Giêsu Kitô là ánh sáng trần gian. Bài thánh thi Exultet nói đến sự sống lại của Chúa là sự nối kết trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa bắt đầu từ thời Cựu ước.
Bản văn tiếng latinh Exultet, như dùng ngày nay, không biết xuất hiện từ thời điểm nào. Nhưng việc ca ngợi Cây nến Chúa phục sinh đã có ngay từ thế kỷ 4. bản văn cổ xưa nhất xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ 4. hay đầu thế kỷ 5. và ở vùng Bắc nước Ý hay Nam nước Pháp.
Không rõ tác giả bản văn Exultet là ai. Nhưng dường như bản văn Exultet có nhiều dấu vết ảnh hưởng của Thánh Ambrosio thành Milano. Vì bản Exultet được cho là khởi thủy từ thành Milano.
Và cũng có lý thuyết cho là bản văn dựa theo một bản nghi thức của Bysantin có trước đó rồi. Vì bản Exultet được trước tác hát theo nhịp điệu bình ca của một bài kinh tiền tụng rao giảng, cung cách này phổ thông trong thời kỳ Bysantin xa xưa.
- 3. Lễ phục sinh
Lễ mừng Chúa Giêsu phục sinh là ngày lễ mừng quan trọng trong đời sống đức tin công giáo. Lễ Chúa Giêsu giáng sinh mừng mầu nhiệm Chúa Giêsu sinh nhập thể ra làm người đến trong trần gian. Lễ phục sinh mừng mầu nhiệm Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết phục hồi sự sống ơn cứu độ mang lại ơn tha thứ va sự sống cho trần gian.
Lễ phục sinh Kitô giáo có nguồn gốc ở lễ Passach (Vượt qua) trong đạo Do Thái.. Lễ Passach của Do Thái tưởng nhớ đến biến cố xuất hành của người Do Thái từ nước Ai Cập trở về quê hương Do Thái được thiên Chúa Giave đoan hứa dẫn dắt.
Cho đến đầu thế kỷ 4. không có ngày tháng chính xác mừng lễ phục sinh chung thống nhất trong Giáo hội. Mãi đến Công đồng Nicea 325 có quyết định chung về cách tính ngày lễ: Chúa nhật phục sinh là chúa nhật sau tuần thứ nhất trăng tròn đầy, Sau ngày mùa Xuân bắt đầu từ ngày 21.tháng Ba.
Lễ mừng Chúa phục sinh vào đầu mùa Xuân bên xứ lạnh Âu châu, nên có lý thuyết cho rằng Giáo hội Kitô giáo đã rửa tội hay biến thay đổi nội dung thành ngày lễ mừng Thần mùa Xuân của dân ngoại xưa kia trở thành ngày lễ mừng Kitô giáo.
Giáo hội Chính thống cũng mừng lễ Chúa Phục sinh, nhưng tính theo niên lịch Julianer, nên họ lấy mốc ngày 3. Tháng Tư để tính ngày lễ mừng.
- 4. Trái trứng phục sinh
Bên Giáo hội các nước Âu Châu, bây giờ hầu như ở khắp nơi, vào ngày lễ mừng Chúa phục sinh có tập tục phát tặng Trứng (gà) phục sinh đã luộc chín kỹ và được tô vẽ nhuộm mầu sặc sỡ.
Tập tục này trong dòng thời gian cũng có nguồn gốc từ thời các dân ngoại xa xưa, và rồi được Kitô giáo biến đổi thành tập tục cho đời sống Kitô giáo với nội dung khác.
Trứng theo văn hóa của nhiều Tôn giáo tượng trưng cho sự sống mới hay vòng luân hồi. Từ trong trái trứng con gà con thành hình chui ra, từ một bào thai lòng đỏ không có hình hài phát sinh sự sống mới.
Theo suy nghĩ văn hóa bên Ai Cập, vùng Phoenizien và bên Batư cho rằng trứng là nguyên thủy của thế giới. Tất cả sự sống thoát sinh từ bí ẩn của trái trứng, và rồi một ngày nào đó bầu trời thành hình ngả rơi xuống.
Vào thời Roma xa xưa và bên Hylạp trong khi mừng lễ mùa xuân, những trái trứng vẽ tô mầu sắc được phân phối cho bạn bè như qùa tặng nhau.
Trái lại trong các đền thờ Hylạp và Aicập trứng được dùng để trang trí trong những ngày lễ mùa Xuân.
Ở bên Hylạp và bên Ai Cập vào mùa Xuân đêm ngày ngang bằng như nhau đánh dấu sự khởi đầu năm mới. Những trái trứng vào những ngày này được tôn trọng như hình ảnh dấu chỉ thánh thiêng.
Kitô giáo đã biến đổi tập tục trái trứng mừng ngày lễ mùa Xuân của dân ngoại thành tập tục Kitô giáo về hình ảnh sự sống ngày mừng lễ Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết mang đến sự sống mới cho trần gian.
Theo đó, trái trứng phục sinh Kitô giáo mang ý nghĩa: chiến thắng khải hoàn của sự sống (chú gà con), trên sự chết (vỏ bọc trứng không có sự sống), Chúa Giêsu chỗi sống lại sau khi bị đóng đinh trên thập gía.
Chúa Giêsu sau ba ngay nằm chôn trong lòng đất đã chỗi dậy đi ra khỏi mồ huyệt đá khô cứng nặng nề với sự sống mới.
Lễ Chúa Phục sinh 2018
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nếp sống tưởng nhớ
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong đời sống có những lễ mừng, những biến cố thời sự. Nhưng cũng có những lễ mừng, biến cố đã xảy ra trong qúa khứ được tưởng nhớ ôn lại tùy theo thời gian định kỳ, như những kỷ niệm của một người, của một Hội đoàn, của một quốc gia đất nước…
Sự tưởng nhớ ôn lại không là hoài cổ những gì đã qua. Nhưng là cung cách làm sống động lại việc đã xảy ra. Việc này giúp củng cố tình liên đới, lòng biết ơn, học hỏi cùng không để sự việc đã qua bị rơi vào quên lãng. Như ngạn ngữ dân gian có châm ngôn: Ôn cố nhi tri tân!
Trong đời sống đức tin của người Công giáo, hằng năm có những lễ tưởng nhớ biến cố cuối đời sống của Chúa Giêsu Kitô trên trần gian cách đây hơn hai ngàn năm thu gọn vào những ngày trong tuần thánh.
- 1. Tuần thánh
Trong nếp sống đạo đức của Giáo hội, tuần lễ trước lễ Chúa phục sinh là tuần thánh, dịp lễ Pascha của người Do Thái. Tuần thánh bắt đầu ngày Chúa nhật lễ Lá, rồi ngày cao điểm Thứ Năm và thứ Sáu tuần thánh, kết thúc vào ngày thứ Bẩy tuần thánh.
Ba biến cố Bữa tiệc ly, sự chết trên thập giá và sự phục sinh của Chúa Giêsu đi liền với nhau, nên Giáo Hội thuở ban đầu cho tới thế kỷ 4. mừng chung vào đêm vọng mừng Chúa phục sinh.
Sau đó Giáo Hội mừng tưởng niệm ba biến cố cuối đời Chúa Giêsu trên trần gian vào ba ngày từ ngày thứ năm tuần thánh. Thánh giáo phụ Augustino từ thế kỷ 5,. nói đến tam nhật thánh tưởng niệm Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá, sự mai táng , và sự phục sinh của Chúa Giêsu.
- 2. Chúa nhật lễ Lá
Lễ mừng tưởng nhớ khởi đầu tuần thánh với việc Chúa Giêsu Kitô khải hoàn vào thành Giêrusalem.
Kinh thánh thuật lại Chúa Giêsu Kitô và các Môn Đệ trước ngày lễ Pascha của Do Thái Giáo cùng vào thành Giêrusalem mừng lễ. Nhưng trước khi họ đi vào thành đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu sai hai Môn Đệ vào làng bên cạnh mượn một con Lừa con đem về cho Ngài cỡi. Như thế phù hợp với lời Tiên Tri Sacharia ( 9,9) đã tiên báo nói trước đó cả ngàn năm:
„Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi:Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa,một con lừa con vẫn còn theo mẹ.“
Khi Chúa Giêsu Kitô cỡi trên lưng con lừa đi vào thành Giêrusalem, dân chúng ngỡ là Vị Cứu Tinh đến cứu dân tộc đất nước Do Thái khỏi ách thống trị của Roma, đứng dọc bên đường mừng rỡ hân hoan, tay cầm nhánh cành lá dừa, trải choàng ra đường reo hò tung hô đón mừng Chúa Giêsu như một vị vua, vị cứu tinh: “ Vạn tuế con vua David, chúc tụng đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời.“ ( Mt 21,8-9).
Biến cố tung hô đón mừng Chúa Giêsu cỡi lừa vào thành Giêrusalem không dừng lại trong khung cảnh ý nghĩa đạo đức của một vị vua hoà bình như Tiên Tri Sacharia đã tiên báo và chính Chúa Giêsu muốn. Nhưng đã bị nhìn kéo nghiêng sang phía cạnh ganh tỵ khó chịu của những vị chức sắc trong đạo Do Thái thời đó, và cả giới lãnh đạo chính trị đế quốc Roma lúc đó nữa. Và do đó khởi đầu cho biến cố đau thương dẫn đến cái chết đẫm máu của Chúa Giêsu Kitô.
Và rồi nghi thức tưởng nhớ biến cố này trong dòng thời gian đã dần dần trở thành một nghi lễ phụng vụ trong đời sống đức tin của Giáo Hội Công giáo cũng như Chính Thống giáo.
Từ thế kỷ 4. lễ nghi phụng vụ Đông phương Byzantin đã có cuộc rước kiệu tưởng nhớ Chúa Giêsu Kitô cỡi lừa vào thành Giêrusalem năm xưa.
Từ thế kỷ 6. tập tục rước lá ngày Chúa nhật lễ Lá phổ biến nhiều nơi, nhất là bên vùng Âu Châu.
Và từ thế kỷ 7. theo nghi thức sách lễ phụng vụ bên Ái nhĩ Lan có nghi thức làm phép cành lá ngày Chúa nhật lễ Lá.
Ngày chúa nhật lễ Lá, cành lá được làm phép, và sau đó vị chủ tế, thường là Linh mục mặc phẩm phục áo đỏ cùng với Giáo dân tay cầm cành lá dừa hoặc Oliu biểu hiệu sự sống và sự chiến thắng, đi rước từ bên ngoài tiến vào thánh đường hát ca tụng tôn vinh Chúa , cầu xin Chúa đến trợ giúp. Trong thánh lễ đọc bài tường thuật về cuộc thương khó của Chúa Giêsu được công bố.
Những cành là đã làm phép hôm đó được mọi người mang về cài nơi thánh gía trên tường trong nhà, để xin ơn gìn giữ che chở của Chúa cho gia đình được bằng an.
Theo tập tục nhiều nơi giữ những cành là ngày lễ Lá để đốt thành tro cho ngày thứ Tư lễ Tro năm sau.
- 3. Thứ Năm tuần thánh: Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể
Theo Kinh Thánh thuật lại, đêm trước ngày Chúa Giêsu chịu khổ nạn đã cùng 12 môn Đệ ăn bữa tiệc sau cùng, còn gọi là Bữa tiệc ly. Trong bữa tiệc ly, trước hết Chúa Giêsu rửa chân, như dấu chỉ của tình yêu thương, cho 12 Môn Đệ, lập bí tích Thánh Thể và chức Linh mục. ( Gioan 13,1-15).
Giáo hội hằng năm vào ngày thứ Năm tuần thánh tưởng nhớ đến biến cố tình yêu thương của Chúa Giêsu đã làm khi xưa với 12 Môn Đệ trong bữa tiệc ly.
Bữa tiệc ly là bữa ăn sau cùng, bữa từ biệt của Chúa Giêsu với các Môn Đệ. Nhưng ngài không muốn công việc của mình chấm dứt sau khi không còn trên trần gian nữa, nên đã lập Bí tích Thánh Thể là thực phẩm của ăn nuôi dưỡng tinh thần đời sống đức tin cho những ai tin theo yêu mến ngài.
Ngài đã dùng bánh và rượu là hình ảnh dấu chỉ cho chính thân xác, sự sống của Ngài, làm lương thực tình yêu nuôi dưỡng tâm hồn đức tin cho người tín hữu, và qua đó xin kéo ơn tha thứ cho tội lỗi con người: Đây là Mình Thầy…Đây là Máu Thầy.
Và sau cùng Chúa Giêsu lập Bí tích chức Linh mục, truyền cho các Môn Đệ: Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Thầy.
Theo tập tục nếp sống đức tin đạo đức đó, từ thế kỷ 12. người tín hữu Chúa Kitô mừng bữa tiệc ly ngày thứ năm tuần thánh, tưởng nhớ biến cố tình yêu đó, như biến cố dân Do Thái ngày xưa đêm trước ngày trở về quê hương Do Thái chấm dứt đời tỵ nạn nô lệ từ nước Aicập đã thực hiện bữa tiệc ly giết chiên và ăn với rau đắng. ( Sách Xuất hành 12, 1-8. 11-14).
Vì thế mỗi khi cử hành mừng bí tích Thánh Thể, bữa tiệc ly, là khơi dậy làm sống lại căn lõi của đức tin vào Chúa Giêsu.
Qua việc cầu nguyện cùng mừng kính thánh lễ từ thế hệ này sang thế hệ nối tiếp mầu nhiệm bí tích Thánh Thể bánh và rượu luôn được tin nhận sâu xa hơn. Và như thế căn lõi của đức tin chúng ta luôn hằng sống động cùng thời sự.
Lễ tưởng niệm ngày thứ năm tuần thánh, thường diễn ra vào buổi chiều lúc 18.00 giờ và sau đó có những giờ chầu canh thức ban đêm sang ngày thứ sáu tuần thánh.
- 4. Thứ sáu tuần thánh: tưởng niệm thập giá Chúa Giêsu Kitô
Vào ngày thứ sáu tuần thánh, liền sau ngày thứ năm tuần thánh, Giáo hội tưởng nhớ biến cố đau thương buồn bã sau cùng đời Chúa Giêsu trên trần gian: Bị đóng đinh trên thập gía.
Theo Kinh Thánh thuật lại Chúa Giêsu bị bắt, bị đem ra xét xử vào ban đêm cho tới rạng sáng ngày hôm sau. Và khoảng sau ban trưa bị kết án vác thập gía đi bộ tới đồi núi sọ ngoài thành Giêrusalem. Nơi đó ngài bị đóng đinh vào thập giá cùng với hai người bị kết án tử hình, và qua đời theo kinh thánh truyền thống thuật lại lúc ba giờ chiều. ( Mt 27, 45/51).
Ở Giêrusalem những tín hữu Chúa Giêsu Kitô đã có truyền thống vào tuần thánh, dịp lễ mừng Pascha của người Do Thái, đi lại trên con đường Chúa Giêsu ngày xưa đã vác thập gía đi. Họ tưởng nhớ lại biến cố cảnh tượng đau khổ hãi hùng ngày xưa Chúa Giêsu đã phải chịu đựng. Cung cách này là lối sống đạo đức đã đặt nền tảng cho ngắm chặng đàng thánh giá sau này từ thế kỷ 14.
Đến 1590 chặng đàng thánh gía vẫn có 12 chặng. Đến 1625 Tu sỹ dòng Phanxico người Tây ban Nha Antonio Daza thêm vào hai chặng nữa thành 14 chặng. Bắt đầu thế kỷ 18. những hình ảnh chặng đàng thánh giá được vẽ khắc treo trên tường trong thánh đường. Vào giữa thế kỷ 18. Tu sỹ dòng Phanxico Leonard thành Porto Maurizio lập viết ra những kinh đọc suy niệm khi đi chặng đàng thánh giá.
Vào các ngày trong mùa chay, trong đạo Công giáo có tập tục ngắm chặng đàng thánh gia hoặc riêng hoặc chung trong thánh đường, hay các nơi hành hương. Riêng ngày thứ sáu tuần thánh nhiều nơi tổ chức đi chặng đàng thánh giá trọng thể vừa đi vừa đọc kinh ca hát cầu nguyện. Như ở Giêrusalem trên con đường Dolorosa, ở Roma trong hý trường Colosseum có Đức Giáo hoàng cầm thập gía đi chung.
- 1. Chặng thứ nhất: Chúa Giêsu bị kết án
- 2. Chặng thứ hai: Chúa Giêsu vác thập gía trên vai
- 3. Chặng thứ ba: Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ nhất
- 4. Chặng thứ tư: Chúa Giêsu gặp thân mẫu Maria
- 5. Chặng thứ năm: Simon Cyrene bị bắt vác đỡ thập gía cho Chúa Giesu.
- 6. Chặng thứ sáu: Bà Veronika trao khăn lau mặt cho Chúa Giêsu
- 7. Chặng thứ bảy: Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ hai.
- 8. Chặng thứ tám: Chúa Giêsu dừng chân yên ủi các người phụ nữ đang theo sau khóc thương Chúa bị chịu khổ hình vác thập gía.
- 9. Chặng thứ chín: Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ ba.
- 10. Chặng thứ mười: Chúa Giêsu bị lột áo
- 11. Chặng thứ mười một: Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập gía.
- 12. Chặng thứ mười hai: Chua Giêsu chết trên thập gía
- 13. Chặng thứ mười ba: Thân xác Chúa Giêsu được tháo xuống khỏi thập gía và đặt trong tay nơi cung lòng đức mẹ Maria.
- 14. Chặng thứ mười bốn: Chúa Giêsu được mai táng trong lòng đất.
Nhiều nơi bây giờ lập thêm chặng thứ 15. hoặc như chặng tìm thấy thập gía Chúa Giêsu ngày xưa, hoặc như chặng mừng Chúa Giêsu sống lại hiển vinh sau ba ngày nằm trong huyệt mộ.
- 5. Thứ bẩy tuần thánh
Theo tục lệ nếp sống trong Giáo hội, ngày này là ngày yên lặng. Vì Chúa Giêsu chết nằm trong mồ dưới lòng đất.
Và tảng sáng ngày Chúa nhật phục sinh, Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.
Chúa Giêsu sống lại là căn bản cho đức tin, cho niềm hy vọng được ơn cứu rỗi cho linh hồn con người sau khi chết ở đời này trên trần gian, và cùng được sống lại với Chúa.
Tuần thánh 2018
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh Giuse,người lắng nghe
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh Giuse được sùng kính xưa nay trong nếp sống đức tin của Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô ở trần gian. Nhưng người ta không tìm đọc thấy một lời nói nào của thánh nhân để lại, dù là một lời khuyên tinh thần sống làm người, hay một suy niệm đạo đức.
Thánh Giuse sống trong im lặng.
Thánh Giuse được ca tụng là người cha nuôi Chúa Giêsu trên trần gian. Nhưng lại cũng chỉ được phúc âm nói đến từ biến cố Chúa Giêsu giáng sinh làm người, thuở thơ ấu của Chúa Giêsu và lúc Chúa Giêsu sống trải qua đời niên thiếu. Và sau đó không thấy nói gì đến thánh nhân nữa.
Thánh Giuse có nếp sống âm thầm, chìm ẩn phía sau hậu trường của đời sống Chúa Giêsu.
Thánh Giuse xưa nay được nói đến là người sống theo ý Thiên Chúa muốn. Nhưng phúc âm chỉ nói đến nếp sống của Giuse được hướng dẫn thoát ra khỏi những lo âu khó khăn, giúp Giuse sống hợp với nếp sống đao đức tình nghĩa con người.
Thánh Giuse, người sống lắng nghe tiếng Chúa soi sáng.
Như vậy Thánh Giuse đã nhận ra thánh ý Chúa như thế nào ?
Phúc âm theo Thánh Mattheo nói đến những giấc mơ trong đời sống Giuse.
Trong khi lo âu bối rối không biết đối xử làm sao với người vợ sắp cưới Maria đã có thai, Thiên Thần Chúa hiện ra trong giấc mơ nói cho biết hãy nhận Maria làm vợ, và người con trong cung lòng Maria là Con Thiên Chúa.( Mt 1,20).
Thiên Chúa trong giấc mơ đã cho Giuse nhận ra chương trình Thiên Chúa muốn thực hiện, và cứu Giuse thoát khỏi cảnh lo âu bối rối đứng giữa ngã ba đường. Và qua đó giúp ông có quyết định khôn ngoan nghiêng về đạo đức sống tình nghĩa con người: chấp nhận Maria làm vợ, không bỏ rơi Maria.
Sau khi Chúa Giêsu sinh ra, vua Herode vì lo sợ ngai báu ngôi của mình bị thử thách có nguy cơ bị chiếm đoạt, nên đã ra chiếu chỉ giết tất cả mọi trẻ em trong lứa tuổi như Giêsu mới sinh ra. Thiên Chúa lại sai Thiên Thần đến báo tin cho Giuse trong giấc mơ đang khi ngủ về nguy cơ này, và thúc giục Giuse đem gia đình trốn tỵ nạn sang Aicập. (Mt 2,13).
Trong giấc mơ Giuse đã nhận ra con đường Chúa muốn thế nào, để gia đình có cuộc sống an ninh về nơi ăn chốn ở. Qua đó đã giúp Giuse sống làm trọn bổn phận người trưởng gia đình. Và cũng qua giấc mơ gia đình Giuse được cứu thoát khỏi cảnh lùng bắt chết chóc.
Cuộc sống tỵ nạn bên xứ Aicập tuy có an ninh bảo đảm, nhưng chỉ là tạm thời, không phải là quê hương an cư lạc nghiệp của gia đình Giuse. Nên lần nữa Thiên Chúa lại sai Thiên Thần đến báo cho Giuse trong giấc mơ lúc ông ngủ: đem gia đình trở về quê quán nước Do Thái. ( Mt 2,19-22).
Lần nữa Giuse nhận ra ý Thiên Chúa muốn, và biết đâu cũng là ước vọng của chính Giuse nữa là trở về quê hương của mình, chấm dứt đời sống tạm thời, và xây dựng lại đời sống mới trên quê hương của tổ tiên cha ông mình.
Giuse đã đem gia đình trở về quê hương, và quyết định chọn đến Nazareth định cư sinh sống. Nơi đây Chúa Giêsu lớn lên thành người trưởng thành đi vào đời sống. Và sau này Chúa Giêsu được gọi là người Nazareo.
Phải chăng những giấc mơ đó là những sứ gỉa cứu giúp đời sống Giuse? Phải chăng giấc mơ là trung gian khai mở mầu nhiệm ý muốn của Thiên Chúa?
Không dám qủa quyết như thế. Nhưng trong kinh thánh xưa kia cũng có những giấc mơ giúp giải cứu, mang gía trị quyết định hiện thực sau này cho con người.
Giấc mơ của Giuse con Tổ phụ Giacóp thấy bó lúa của mình đứng ờ giữa và những bó lúc của các anh em đứng chung quanh như thần phục tôn kính bó lúa của mình. Và sau này anh em ông đã đến với Giuse tỏ lòng thần phục kính sợ xin được cứu giúp . ( Sáng thế 37,5-11)
Rồi trong nhà tù bên Aicập, Giuse đã giải nghĩa những giấc mơ của hai viên cai tù về sốn phận đời sống của họ, và rồi của chính Vua Pharao xứ Aicập về những năm được mùa, cùng những năm mất mùa đói kém đe dọa. Nhờ thế, Joseph được nhà Vua trọng dụng, phong cho trở nên người quản lý cứu giúp dân Aicập, và cả gia đình anh em ông thoát khỏi cảnh đói kém lúc những năm mất mùa xảy ra sau này. ( Sáng Thế 40 - 42).
Hay giấc mơ bà vợ của quan tổng trấn Philato, người đứng ra xử Chúa Giêsu, đã nhận ra những khúc mắc khó khăn, nên muốn khuyên can chồng bà là Philato đừng nhúng tay vào chuyện xử Chúa Giêsu. ( Mt 27,19).
Không phải giấc mơ nào cũng là một sứ điệp thông tin. Nhưng cũng có những giấc mơ tiên báo một điều gì sẽ xảy ra, như những giấc mơ của Giuse con Tổ phụ Gicóp khi xưa, những giấc mơ của Giuse thành Nazareth, cha nuôi Chúa Giêsu.
Thiên Chúa không nói thành lời thành tiếng nghe được bằng tai. Nhưng tiếng nói Thiên Chúa âm thầm vang lên tận trong nội tâm sâu thẳm trái tim tâm hồn con người.
Xưa nay có nhiều người đã nghe nhận ra tiếng Chúa muốn mình sống làm sao, sau thời gian suy nghĩ cầu nguyện trong thinh lặng lắng nghe tiếng Thiên Chúa nói thầm trong tâm hồn.
Mỗi người có con đường đời sống riêng của mình. Họ nhận ra ơn kêu gọi con đường đời sống riêng của mình qua suy nghĩ tìm hiểu cầu nguyện, cảm nhận lắng nghe tiếng âm thầm vang lên trong tâm hồn mình.
Giuse thàng Nazareth đã nghe nhận ra tiếng Thiên Chúa trong âm thầm thinh lặng. Ông đã lắng nghe tiếng Chúa trong nội tâm của mình.
Lễ Thánh Giuse 19.03.2018
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nhìn lên con rắn đồng!
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Nói đến loài Rắn hầu như ai cũng có cảm gía ớn ớn sợ hãi. Vì loài rắn sống bò trườn nhanh lẹ ẩn dưới đất, trong hang nơi tối tăm, hay ẩn dưới cành lá cây rậm rạp, và tìm mồi tấn công ăn thịt.
Loài rắn cắn phun nhả nọc rất độc hại, làm con mồi bất tỉnh rồi ăn thịt nuốt vào bụng. Khi bị rắn cắn nọc độc nó lan truyền vào máu gây tê liệt nguy tử cho người hay thú vật bị cắn.
Dân gian có ngạn ngữ: Qủy quyệt như loài rắn! Vì loài rắn đối với con người xa lạ và thân thể nó uốn khúc cũng như cách sống của nó ẩn chứa đầy bí hiểm.
Loài rắn lột da thân xác theo từng năm tháng thời kỳ. Điều này cũng biểu hiệu sự gian manh qủy quyệt.
Ngòai ra lưỡi của nó không là một miếng như các loài thú vật khác, mà phân chia ra thành hai hay ba miếng nhọn , luôn nhả thò đưa ra phía trước để đe đoạ tấn công. Vì thế dân gian cho là nó độc ác nguy hiểm, tìm cách đánh lừa tấn công bất ngờ.
Trong nhiều nền văn hóa xa xưa con rắn trở thành biểu tượng. Như ở bên Phi Châu rắn nơi nhiều lớp nền văn hóa khác nhau được tôn kính như thần thánh.
Theo nền văn hóa ở Trung hoa ngày xưa, rắn được xem như nối kết đất và nước lại với nhau theo cả hai nguyên lý Yin Yang. Nguyên lý Yin nói về sự tiêu cực, giống cái, sự tối tăm, về đất, sự thụ động. Còn nguyên tắc Yang chỉ về sự tích cực, về sự sáng, giống đực, về trời, , sự năng động, sự khô ráo.
Thần thoại bên Ân Độ biết đến thần rắnNagas như một vị trung gian làm việc tốt hay cũng mang đến sự bất hạnh giữa các thần thánh và con người.
Nền văn hóa miền Mesopotamien khoảng cuối thế kỷ 3. trước Chúa giáng sinh có hình cây gậy với biểu tượng hình con rắn theo thần thoại của thần chữa bệnh Asklepios. Hình cây gậy có hình con rắn là hình ảnh nói lên sự chống lại nọc độc chữa lành bệnh.
Ngày nay nơi các hiệu bán thuốc tây có biểu tượng hình con rắn vẽ hay gắn nơi bảng hiệu nhà bán thuốc, nói lên ý nghĩa đó.
Loài rắn cũng được nhìn xem như biểu tượng của ánh sáng mặt trời. Vì nó có cuộc sống chui rúc ẩn dưới đất ẩm ướt, nên yêu thích ánh nắng mặt trời hay trườn bò tìm đến chỗ có ánh sáng chiếu tới đó.
Loài rắn thay đổi da, tự lột da để phát triển, nói lên khía cạnh tiêu cực tinh ranh qủy quyệt, và cũng nói lên khía cạnh tích cực trở thành biểu tượng nói về sự trẻ lại, sự phục sinh đổi mới.
Về khía cạnh tiêu cực của loài rắn được thể hiện nói đến trong Kinh Thánh. Theo sách Sáng thế ký, con rắn là loài vật tinh khôn, được cho là ma quỉ, đã cám dỗ Ông Bà nguyên tổ Adong Evà phạm tội không vâng lời Thiên Chúa, và bị Thiên Chúa chúc dữ:
„ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa phán với con rắn:"Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi.“ ( Sáng Thế 3,14).
Trong sách Khải huyền của Thánh Gioan nói đến con rắn ngày xưa hiện hình là một con rồng to lớn, bị đánh đuổi xô đẩy xuống trần gian. ( Khải huyền 12,9).
Thánh Tiên Tri Mose trong sa mạc khi đưa dân Do Thái từ bên Ai Cập trở về quê hương Do Thái, theo lệnh của Thiên Chúa đã truyền đúc con rắn bằng đồng treo trên cao. Vì dân chúng không trung thành kêu rêu chống lại Thiên Chúa, nên bị rắn bò đến cắn bị thương, bị trúng độc chết. Và ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng treo trên cây cao thì được chữa lành. ( Sách Dân số 21,6-8).
Hình ảnh con rắn đồng treo trên cao thời Mose trong sa mạc mang lại sự chữa lành cho những ai bị rắn cắn khi nhìn lên đó trở thành hình ảnh tiên báo về ơn cứu chuộc của chúa Giêsu Kitô sau này bị đóng đinh treo trên thập gía mang lại ơn cứu chuôc chữa lành cho con người khỏi hình phạt vì tội lỗi. ( Gioan 3,14- 21).
Chúa Giêsu Kitô khi đi rao giảng nước Thiên Chúa cũng đã nói : „ Vậy anh em phải khôn như rắn!“ ( Mt 10,16). Có thể vì thế, nơi cây gậy mục tử của các vị Giám mục Chính Thống giáo theo nghi lễ Byzantin và Koptic có hình con rắn.
Theo truyền thuyết thuật lại, Thánh Benecdicto, vị sáng lập Dòng Benedictô với nguyên tắc nền tảng cho đời sống tu trì : „ Ora et labora“ , hồi thế kỷ 5. sau Chúa giáng sinh, ở bên Ý đại lợi tu viện Dòng Vicovaro, bị anh em trong Dòng không bằng lòng với nếp sống kỷ luật đạo đức do ngài là Tu viện trưởng đề ra. Nên họ âm mưu pha thuốc độc vào chén nước hại ngài. Khi thánh nhân cầm chến lên uống, một con rắn trồi lên khỏi miệng chén, và chén rơi xuống vỡ tan tành. Thế là ngài thoát khỏi bị đầu độc hãm hại.
Biến cố này trở thành hình ảnh biểu tượng cho đời ngài. Bây giờ khi vẽ in hình Thánh Benedicto một tay cầm gậy là Tu viện trưởng, và một tay cầm chén nước với hình con rắn trồi nổi lên khỏi miệng chén.
Người tín hữu Chúa Giêsu Kitô ngày nay không nhìn lên con rắn đống treo trên cao như thời Mose dân lưu lạc trong sa mạc. Nhưng nhìn lên thập gía Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chịu nhiều đau khổ cực hình về thể xác lẫn tinh thần.
Sự hy sinh chịu chết của Chúa Giêsu Kitô mang lại ơn chữa lành cứu chuộc cho tâm hồn con người khỏi hình phạt tội lỗi.
Và qua đó học hỏi gương sống hy sinh khiêm hạ của Chúa, cùng nhận ra gía trị thiêng liêng của hy sinh chịu đau khổ.
„ Khi đau khổ cực độ, con hãy nhìn lên Thánh gía, ôm choàng lấy Thánh gía và con sẽ thinh lặng đứng vững như Đức Mẹ.“ ( Tổng Giám Mục Phanxico Xavie Nguyễn văn Thuận, Đường hy vọng, số 694.)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đời sống cầu nguyện
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cách đây 05 năm, ngày 11.02.2013 đúng vào ngày lễ kính Đức Mẹ hiện ra ở Lộ-Đức, và cũng là ngày Thế giới Bệnh nhân, Đức giáo Hoàng Benedicto XVI. trước mặt các Đức Hồng Y trong Hội Thánh về họp công nghị ở Vatican, đã công khai nói lên tâm tư sâu kín của mình:
„Sau khi nhiều lần xét mình trước mặt Thiên Chúa, tôi đã đi tới sự chắc chắn rằng sức lực của tôi, vì tuổi cao, không còn thích hợp nữa để thi hành sứ vụ Phêrô một cách thích đáng nữa. Tôi ý thức rõ sứ vụ này, do yếu tính thiêng liêng, phải được chu toàn không những bằng hoạt động và bằng lời nói, nhưng còn bằng đau khổ và cầu nguyện.
Tuy nhiên, trong thế giới ngày nay, đang chịu những biến chuyển mau lẹ và bị giao động vì những vấn đề có tầm quan trọng lớn đối với đời sống đức tin. Để cai quản con thuyền của Thánh Phêrô và loan báo Tin Mừng, cần có nghị lực cả thể xác lẫn tâm hồn, nghị lực mà trong những tháng gần đây bị suy giảm nơi tôi đến độ tôi phải nhìn nhận mình không có khả năng thi hành tốt sứ mạng đã được trao phó cho tôi.
Vì thế, với ý thức rõ ràng về hành vi hệ trọng này, với tự do hoàn toàn, tôi tuyên bố từ bỏ sứ vụ Giám Mục Roma, người kế vị Thánh Phêrô, được ủy thác cho tôi do tay các Hồng Y ngày 19 tháng 4 năm 2005.“.
Lời công bố đó tựa hồ tiếng sấm sét đánh ầm vang từ trên trời vụt lao xuống trần gian, như lời Đức hồng Y Sodano đã nói lên tâm tư của mình hôm đó.
Có người còn ví nó tựa như một trái bom nổ vang trời dậy đất không chỉ trong vùng Vatican, mà còn vang dội lan rộng ra khắp mọi nơi trong Giáo hội Công giáo hoàn cầu
Và các Vị Hồng Y có mặt trong căn phòng họp hôm đó, như lời Đức Hồng Y Joseph Cordes kể lại: ai cũng sững sờ bối rối hốt hoảng căng thẳng!
Năm năm đã trôi qua, đức Giáo hoàng emeritus Benedickt XVI. từ ngày 28.02.2013 lui vào cuộc sống không phải như một người đi nghỉ hưu dành thời giờ du lịch hay sống theo sở thích hobby riêng của mình. Không, không như thế. Nhưng Joseph Ratzinger Benedickt XVI. sống như là một Tu Sỹ ẩn dật thầm lặng chỉ chuyên lo việc cầu nguyện trong ngôi nhà tu viện Mater Ecclesia ở ngay nội thành Vatican.
Năm năm trôi qua Joseph Ratzinger Benedikt XVI. không viết sách báo thần học đạo đức, suy tư viết sách báo thần học là sở thích sở trường của ngài rất nổi tiếng, ngài không xuất hiện công khai cử hành những nghi lễ phụng vụ như một „giáo hoàng“. Không, ngài không sống như thế. Nhưng ngài sống một nếp sống âm thầm khiêm nhượng, không gây phiền hà vấn đề cho ai, hoàn toàn trung thành vâng phục vị Giáo hoàng đương nhiệm Phanxico của Giáo Hội.
Năm năm trôi qua có nhiều suy diễn, nhiều nghi hoặc có cả phê bình chỉ trích về việc ngài từ chức. Nhưng ngài không nói hay viết lời nào vào việc tranh biện đó. Ngài sống âm thầm trung thành với ý Chúa đã soi sáng cho ngài biết việc mình phải làm.
Cung cách sống như thế biểu hiện một tâm hồn con người chân tu đích thực, lấy ý Chúa làm trung tâm cho đời sống riêng mình và cho Giáo Hội.
Lối sống đó của ngài phản chiếu cung cách của một người trí thức thâm sâu, có tầm nhìn xa trông rộng cùng biết phản tỉnh nhìn lại con người chính mình.
Thái độ sống của ngài như thế là một bài giảng chan chứa tình tự đạo đức, một bài thuyết trình thâm sâu về tình yêu mến và lòng trung thành hướng thượng lên với Thiên Chúa, và hướng hạ chiều ngang đường chân trời với con người trên mặt đất , với Giáo hội Chúa ở trần gian.
Gíao hoàng emeritus Benedikt XVI. lui vào ẩn dật với nếp sống thầm lặng khiêm nhượng chăm lo việc đọc kinh cầu nguyện cho Giáo Hội ở Tu viện Mater Ecclesia nằm trên đồi Vatican.
Hình ảnh gương sống này gợi nhắc nhớ tới thánh Tiên tri Mose ngày xưa đã leo lên núi cầu nguyện cho dân Israel đang chiến đấu chống quân của Amalek tấn công, như Kinh Thánh thuật lại:
„ A-ma-lếch đến đánh Ít-ra-en tại Rơ-phi-đim.9 Ông Mô-sê bảo ông Giô-suê: "Anh hãy chọn một số người, và ngày mai ra đánh A-ma-lếch. Còn tôi, tôi sẽ đứng trên đỉnh đồi, tay cầm cây gậy của Thiên Chúa."10 Ông Giô-suê làm như ông Mô-sê đã bảo: ông đã giao chiến với A-ma-lếch, còn các png Mô-sê, A-ha-ron và Khua thì lên đỉnh đồi.11 Khi nào ông Mô-sê giơ tay lên, thì dân Ít-ra-en thắng thế; còn khi ông hạ tay xuống, thì A-ma-lếch thắng thế.„ (Sách Xuất hành, 17, 8-11).
Con thuyền Giáo Hội Chúa ở trần gian trong cơn thử thách chao đảo, vì bị tấn công về đức tin, về luân lý, về cơ cấu tổ chức, về những lạm dụng từ bên ngoài và cũng từ bên trong nội bộ. Nhưng Giáo Hội của Chúa do Chúa thành lập và luôn được Chúa hướng dẫn từ hơn hai ngàn năm nay. Nên Giáo hội phải qui hướng về Chúa trong bước đường dù trong thanh bình hay trong sóng gío gặp thử thách chao đảo. Do đó việc cầu xin khấn nguyện cùng Thiên Chúa là hơi thở sức sống của Giáo Hội và lương thực cho Giáo Hội.
Đức giáo hoàng emeritus Benedickt XVI. thoái vị lui vào ẩn dật cùng chung tay góp nhận thi hành công việc đó, như thánh Tiên tri Mose ngày xưa đã dang tay trên núi cầu nguyện cho dân Israel.
Hình ảnh vị Giáo hoàng emeritus trong âm thầm cầu nguyện xin ơn Thiên Chúa phù hộ gìn giữ Giáo Hội khác nào như cây cột thu lôi, cây Ăngten thu kéo làn sóng ân đức chúc lành của Thiên Chúa từ trời cao xuống trần gian cho Giáo Hội.
Khi được hỏi phải chăng đức giáo hoàng lui vào ẩn dật chăm lo việc cầu nguyện là một an ủi thiêng liêng chăng?
Đức giáo hoàng emeritus Benedickt XVI. nói ngay: „ Không đâu. con đường nghỉ hưu của tôi không chỉ do từ trên cao cùng đồng hành dẫn dắt. Hằng ngày tôi nhận được nhiều thư từ… không chỉ của các vị quyền qúi trên thế giới, nhưng còn từ những người dân bình thường có đời sống khiêm nhường. Họ muốn biết tôi sống thế nào, qua đó họ gần gũi với tôi, và họ cầu nguyện cho tôi. Họ sống tình liên đới với tôi.
Từ những điều đó tôi lớn mạnh thêm trong sự tin tưởng vượt qua những khoảnh khắc khó khăn. Và vững tin rằng Thiên Chúa luôn dẫn dắt nuôi dưỡng Giáo Hội của Người. Ngày xưa Ngài đã trao cho trách vụ đứng đầu Giáo hội Chúa ở trần gian đó cho tôi, và bây giờ tôi có thể trao lại trong tay Ngài. Sự nâng đỡ đó vẫn luôn liên tục, không bị cắt đứt, cả sau khi tôi thoái vị xin rút lui vào sống ẩn dật.
Điều tôi đã đoan hứa cùng Thiên Chúa và cùng mọi người, mà Ngài cũng như mọi người hằng đoan hứa yêu mến nâng đỡ tôi, tôi chỉ có thể nói lên tâm tình tạ ơn Chúa và lời cám ơn mọi người.“ (Elio Guerriero, BENEDIKT XVI., Die Biogrfie, Herder, Freiburg i. Breigau 2018,Tr. 586-587).
Khiêm nhường cùng đạo đức thâm sâu và trí thức hơn, tưởng không hơn được.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Con đường mùa chay
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong lịch phụng vụ hằng năm vào nửa cuối mùa Đông bắt đầu con đường mùa chay kéo dài 40 ngày sang đến mùa Xuân mừng lễ Chúa Giêsu sống lại.
Con đường sống mùa chay đòi hy sinh từ bỏ, tập luyện chế ngự bản thân. Đó là con đường trở về với điều tốt lành thiện hảo , về với Thiên Chúa. Nhưng không phải là con đường buồn bã, khổ cực.
Từ bỏ hay chế ngự tính nết con người mình là việc đạo đức, nhưng còn là việc tập luyện giáo dục chính bản thân mình cho trở nên có nếp sống kỷ luật, có văn hóa nữa. Kinh nghiệm này phần chắc ai cũng đã có ngay từ khi còn trẻ tuổi.
Ăn chay cũng không là nhịn ăn, nhịn khát. Nhưng là giảm bớt tiêu thụ ăn uống như ý thích muốn xưa nay.
Ăn chay không phải là không được nói. Nhưng là nói những điều bác ái tình yêu thương, xây dựng tình người.
Ăn chay không phải là không được tiêu xài. Nhưng là giảm bớt để cùng chia sẻ giúp đỡ những người sống trong hoàn cảnh thiếu thốn đang cần được giúp đỡ.
Như Đức Giáo hoàng Phanxico nhắn nhủ: „Ăn chay là biết giúp đỡ tha nhân trong niềm vui và nụ cười. Ăn chay cũng là khiêm nhường sám hối tội lỗi và nài xin ơn tha thứ của Chúa.“ ( Vatican 16.02.2018).
Mùa chay mở ra con đường tập sống chế ngự từ bỏ, giúp thức tỉnh mở tầm nhìn ra vươn gần tới tình yêu Thiên Chúa và tới những người khác.
Nếp sống đạo đức con đường ăn chay không dừng lại nơi mình, nhưng vươn hướng về Thiên Chúa và tới những con người khác nữa.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Với lòng cậy trông bước vào mùa Xuân năm mới
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm theo phong tục tật quán nếp sống văn hóa Á Đông, dù bây giờ ở xa quê hương Việt Nam, chúng ta vẫn sống giữ nếp phong tục văn hóa mừng ngày Tết Nguyên Đán đầu mùa Xuân mới.
Nếp sống phong tục văn hóa này đã in khắc sâu vào đời sống tinh thần tâm trí con người Việt Nam chúng ta.
Cung cách đón mừng ngày Tết Nguyên Đán có thể khác với thời gian những năm tháng ngày xưa. Nhưng tâm tình tinh thần nếp sống văn hóa ngày Tết thiết tưởng không thành ra khác.
Vui đón mừng mùa Xuân mới, đón mừng ngày Tết Nguyên Đán, nhưng không quên tâm tính cám ơn Trời Đất. Với người Công giáo chúng ta cám ơn Thiên Chúa, Đấng sáng tạo nên trời đất, nên thời giờ tứ thời bát tiết cho con người sinh sống trong vũ trụ.
Như nếp sống người Công giáo Việt Nam có tập tục từ thời các Vị Thừa Sai sang truyền giáo đã lập ra dành ngày Mồng Một Tết Nguyên Đán là ngay kính thờ tạ ơn Thiên Chúa.
Con người chúng ta cám ơn Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ, những người đã sinh thành đào tạo dậy dỗ chúng ta nên người ở đời. Vào ngày mừng Tết Nguyên Đán, con cháu mang qùa lễ vật tết mừng tuổi Ông Bà cha mẹ mình.
Dịp mừng Tết Nguyên Đán cũng là dịp tốt gia đình anh chị em tụ họp bên Ông Bà Cha Mẹ mừng tuổi năm mới cho nhau. Dịp này cũng còn là cơ hội bạn bè gặp lại nhau, học trò nhớ đến thầy cô giáo cùng những người đã sống làm ơn cho ta trong đời sống.
Sống tâm tình vui mừng, nhưng cũng không quên nhớ đến những người thân yêu trong đời sống mà nay đã ra đi trước về đời sau. Người còn đang sinh sống trên trần gian và người đã ra đi thành người thiên cổ vẫn hằng liên kết nhớ đến nhau trong tâm tình lòng nhớ nhung biết ơn nhau.
Hướng về thời gian tương lai năm mới đang đến, chúng ta vui mừng, nhưng cũng phần nào có ưu tư suy nghĩ. Vì không ai biết trước được tương lai sẽ như thế nào.
Tư lự suy nghĩ, nhưng không vì thế mà bi quan đầu hàng bỏ cuộc. Trái lại vẫn sống tâm tình niềm hy vọng cậy trông.
Hy vọng cậy trông vào Chúa, Đấng là nguồn sự sống cùng mọi niềm hy vọng của con người.
Hy vọng cậy trông vào Chúa, Đấng là người sắp đặt nuôi dưỡng công trình ngài tạo dựng nên, trong đó có con người chúng ta.
Hy vọng cậy trông vào Chúa, Đấng là chủ thời gian năm tháng biên cương thế kỷ.
Nhờ lời bầu cử của Đức mẹ Lavang, năm nay cũng kỷ niệm 220 năm Đức Mẹ hiện ra ở Lavang (1798- 2018), của Đức Mẹ Lourdes, năm năm kỷ niệm 160 năm ( 1958-2018), cùng với niềm tin tưởng vào Chúa chúng ta tiến bước vào đường đời sống thời gian năm mới Mậu Tuất.
Nhờ lời bầu cử của các Thánh tử đạo Việt nam, mà năm nay mừng kỷ niệm 30 năm các Ngài - 117 Vị - được tôn phong lên hàng Hiển Thánh của Giáo hội (1988-2018), chúng ta lòng cậy trông phó thác vào bàn tay quan phòng của Chúa, bước sang năm mới Mậu Tuất hân hoan phấn khởi sống đức tin người Công giáo giữa lòng thế giới trong những tương quan ràng buộc và trong những thử thách, niềm vui có và cả đau khổ cay đắng cũng không ít.
Năm mới mở ra thời gian tương lai cho kiến tạo vươn lên.
Và đời sống năm mới cũng thúc đẩy đòi buộc chúng ta sống hy sinh cố gắng. Có thế đời sống mới có ý nghĩa, nhất là trong tương quan chiều thẳng đứng vươn lên tới Thiên Chúa trên trời cao.
Mừng Xuân Mậu Tuất, 2018.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Chút tâm tình của Chó ngày đầu năm mới
- Tản Mạn Đời Tha Hương: Đón Xuân Này Nhớ Xuân Xưa
- Từ bụi đất được tạo thành ( St 3,19)
- Lễ Đức Mẹ Lourdes - Ngày cầu nguyện cho bệnh nhân
- Thế vận hội – Olympia mùa Đông
- Phép lành Thánh Blasius.
- Lễ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ
- Giúp chữa lành bệnh tật
- Thời giờ trong đời sống
- Giai điệu đời sống con người