Đức Mẹ Maria được đưa về trời.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lần chuỗi mân côi năm sự mừng nơi ngắm thứ tư suy niệm ca ngợi: „Đức Chúa Trời cho Đức mẹ lên trời. Ta hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ.“.
Đâu là ý nghĩa đạo đức thần học: Đức mẹ Maria được Chúa đưa về trời?
Chúa Jesus theo phần thân xác là người sinh ra từ cung lòng Đức mẹ Maria, nhưng Chúa Jesus là Thiên Chúa, nên ngài trở về trời do sức mạnh quyền năng của riêng mình, tiếng Latinh : Ascensio Christi. Giáo hội mừng lễ Chúa thăng thiên hằng năm, 40 ngày sau khi sống lại từ cõi chết .
Đức mẹ Maria trái lại, là loài thụ tạo được Thiên Chúa tạo dựng trong công trình sáng tạo thiên nhiên, không có quyền năng sức mạnh như Thiên Chúa. Nên đức mẹ Maria được Chúa thâu nhận đưa về trời, tiếng Latinh “Assumptio Mariae“. Giáo hội mừng lễ Đức mẹ hồn xác về trời hằng năm vào ngày 15 tháng Tám.
Lễ mừng kính Đức mẹ Maria được đưa về trời theo truyền thuyết thuật lại có nguồn gốc từ năm 431 sau Chúa giáng sinh bên Giáo hội Đông phương, vào khoảng cuối thế kỷ 4. bên Syria, và giữa thế kỷ 5. ở Jerusalem. Vào thế kỷ 6. ngày lễ mừng kính Đức Mẹ Maria có tên theo truyền thuyết là „Dormition - Đức mẹ ngủ!“. Vì tin rằng đức mẹ Maria là đấng rất thánh. Maria là người đầu tiên đã có kinh nghiệm cùng cảm nghiệm về sự thánh thiêng của Thiên Chúa do mang thai sinh hạ nuôi dưỡng Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Vì thế, Maria được Chúa Giêsu trực tiếp đưa về trời ngay cả xác hồn.
Bên Giáo hội Roma lễ này được mừng kính từ thế kỷ 7. Công đồng Trient (1545-1563) đã bàn thảo về Đức mẹ được thâu nhận đưa về trời trong Giáo huấn của Giáo hội, nhưng mãi đến 1950 mới được ấn định là một tín điều dưới thời Đức Giáo Hoàng Pio XII.
Trong Kinh thánh không có chương đoạn nào nói về việc đức mẹ Maria lên trời hay được đưa về trời. Như thế không có chứng từ Kinh thánh nào làm căn cứ cho tín điều Đức mẹ Maria hồn xác về trời. Đức Giáo hoàng Joseph Ratzinger Benedickt XVI. đã chiết giải cắt nghĩa về tín điều này dưới ánh sáng Bí tích rửa tội:
Tôi đã nhờ thần học về phép rửa của thánh Phaolo để hiểu, khi thánh nhân nói: Thiên Chúa đã cho ta sống lại với đức Giesu và cho ta cùng ngồi trên nước trời trong đức Giesu (Epheso 2,6). Có nghĩa là khi lãnh nhận phép rửa, tương lai của chúng ta đã được báo trước rồi.
Như vậy, tín điều chỉ nói lên điều này là hệ qủa của phép rửa: được ở (ngồi) bên Chúa (Chúa là nước trời!)- đã ứng nghiệm đầy đủ nơi Maria. Phép rửa (cùng ngồi với đức Kitô) đã đạt đầy đủ hiệu năng của nó. Nơi chúng ta, việc cùng ngồi với đức Kito, việc được sống lại với Ngài còn bất cập, còn rất mong manh. Nhưng nơi Maria thì khác. Ngài không thiếu gì nữa. Ngài đã bước vào cùng cộng đoàn toàn đầy với đức Kitô. Và một khi ở trong cộng đòan này thì ngài cũng có một cuộc sống thân xác mới, mà chúng ta không thể mường tượng được nó như thế nào.
Tóm lại, căn bản của tín điều này là Maria đã hoàn toàn là một „tín hữu Kito.“ (Joseph Ratzinger Benedickt XVI., Gott und die Welt - Thiên Chúa và trần thế - trao đổi với Peter Seewald , Phong trào Giáo Dân Việt Nam hải ngoại 2008, tr. 314-315).
Mỗi người được Thiên Chúa tạo dựng một lần trong công trình thiên nhiên vũ trụ với những giới hạn. Một trong những giới hạn đó là cuộc sống trên trần gian có ngày khởi đầu sinh ra và cũng có ngày sau cùng qua đời, như Thiên Chúa đã nói “Từ bụi đất con được tạo thành, và sau cùng con sẽ trở về với bụi đất!“ (St 3,19)
Nhưng người Công giáo chúng ta xác tín „Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại“.
Và chúng ta hằng suy ngắm nguyện cầu: „Đức Chúa Trời cho Đức mẹ lên trời. Ta hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ.“.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cửa sổ và cái gương soi
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ những năm tháng qua nhiều vụ Xì-căng-đan xảy ra trong Giáo hội Công giáo trên hoàn cầu nơi hàng giáo sỹ. Những tin tức như vậy gây ra làn sóng hậu qủa tiêu cực, và cả sự bất bình giận dữ nữa, nơi đời sống Giáo hội, nhất là về khía cạnh đức tin vào Chúa, về uy tín của Giáo hội.
Đọc biết những tin tức đó, nhiều người thắc mắc hoài nghi không biết tìm đâu ra câu trả lời thích hợp như thế nào nữa.
Lời cầu nguyện cùng Chúa xin gìn giữ Gíao hội vượt qua cơn khủng hoảng, điều chỉnh đổi mới lại đời sống là điều lúc nào cũng cần thiết, cùng là cách thức tích cực góp phần xây dựng Giáo hội, và củng cố lại đời sống đức tin vào Chúa của chính mỗi người Kiô hữu.
Nhưng dẫu vậy, với lý trí suy nghĩ Thiên Chúa ban cho, con người hằng đi tìm nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng để hiểu cho rõ. Và từ đó có thể kiếm tìm ra cách thức chính đáng thích hợp đổi mới cho tương lai.
„ Một học trò đến hỏi thầy mình: Thưa Thầy, đức tin là gì vậy? . Người Thầy dẫn học trò mình đến đứng trước cửa sổ và hỏi anh ta: Con thấy gì không?. Anh học trò trả lời: Dạ con thấy nhiều người, những ngôi nhà, cây cối hoa trái và còn nhiều cái khác nữa!
Ông thầy lại dẫn học trò đến trước một tấm gương soi và hỏi anh ta: Con thấy gì vậy?. Anh học trò trả lời: Dạ, con thấy chính mình con trong tấm gương!
Ông Thầy nói ngay: Con thấy đó, nếu con để đời sống con như nó là, con nhìn thấu, như nhìn qua cửa sổ, hướng về thiên nhiên trong trời đất, tới tận Đấng Tạo Hoá. Nhưng nếu con cho là tấm gương kính không đầy đủ, và con đặt thêm chút chất bạc vào sau, lúc đó con chỉ nhìn thấy chính mình con thôi.“
Câu chuyện đối thoại thoại giữa thầy và trò trên đây làm sáng tỏ điều mà chất bạc nơi tấm gương soi có thể mang đến cho đời sống con người, và tại sao Chúa Jesus nhìn thấu trước nơi sự giầu có sang trọng, sự dễ dãi chiều theo ý muốn dục vọng riêng tư là một hiểm nguy cho đời sống con người.
Sự giàu sang, dễ dãi, chiều theo ý thích cùng của cải vàng bạc ngăn cản cái nhìn thấu qua hướng về thế giới thiên nhiên, và qua đó hướng về tới Thiên Chúa. Những ngăn cản vướng trở đó dẫn đưa con người tập trung vào chính mình, chỉ biết có thể nhìn ra mình thôi.
Nguy hiểm đó không chỉ có ở nơi một cá nhân nào, nhưng còn cả trong tập thể cộng đoàn Giáo hội. Giáo hội do Chúa Jesus lập ra ở trần gian như một cửa sổ để giúp nhìn thấu hướng về Thiên Chúa, Đấng là nguồn đời sống, nguồn đức tin của con người.
Giáo hội có sứ mạng làm sáng tỏ để Thiên Chúa được nhìn nhận ra, và là tầm hướng nhìn về Thiên Chúa.
Nhưng trong dòng lịch sử Giáo hội Chúa ở trần gian xưa nay hầu như luôn vướng mắc vào cám dỗ đặt thêm pha trộn chất màn bạc vào cửa sổ kính gương của mình, để đến nỗi Giáo hội chỉ còn phản chiếu chính mình trong tấm gương thôi. Và như thế Giáo hội làm sai lạc cùng đánh mất tầm hướng nhìn ra xa bên ngoài thiên thiên nhiên công trình của Thiên Chúa.
Những Xì-căng-đan trong Giáo hội tuy có gây ra hậu qủa tiêu cực có khi khốc hại, uy tín bị suy giảm, nhưng không vì thế mà Giáo hội Chúa đến ngày tàn tận cùng. Trái lại, Chúa hằng ban ân đức giúp Giáo hội của Chúa sửa sai những lỗi phạm, cùng giúp Gíao hội có sức mạnh đổi mới lại cho chính đáng, như Chúa mong muốn hướng về thiên nhiên, hướng về con người và hướng về Chúa.
„ Giáo hội tự mình không là thánh thiện. Giáo hội được lập nên từ những con người tội lỗi, điều này chúng ta đều biết cả rồi, và chúng ta cũng nhìn thấy tất cả. Giáo hội luôn luôn được đổi mới lại nhờ Đức Chúa Thánh Thần, và cùng được thánh hóa thanh tẩy nhờ vào tình yêu của Chúa Jesus Kitô.“ ( Đức giáo hoàng Joseph Ratzinger, Benedicto XVI.).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Dominicus, vị Thánh truyền giáo
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh Dominicus - tíếng Việt Nam: Daminh - không được biết đến nhiều như Thánh Franciskus - tíếng Việt Nam: Phanxicô khó khăn - thành Assisi cùng thời với ngài, nhưng công việc của Thánh Dominicus vẫn còn hằng tiếp tục sinh động cho tới ngày hôm nay trong Giáo hội.
Thánh Dominicus có tên Domingo de Guzman Garcias, sinh năm 1170 ở Caleruega vùng thành phố Burgos bên Spania, và qua đời ngày 6.8.1221 ở Bologna bên Italia. Lễ kính ngày 8.8 hằng năm.
Năm 1207 Dominicus cùng với một số chị em đạo đức thành lập Hội Dòng cho ngành nữ ở miền nam nước Pháp gần Toulouse. Tôn chỉ của hội Dòng nữ là ăn chay cầu nguyện để chuẩn bị cho việc truyền giáo tin mừng của Chúa nơi trần gian.
Năm 1215 cùng với sáu anh em đồng chí hướng, Dominicus thành lập hội Dòng ở Toulouse với mục đích rao truyền giáo lý Giáo hội công giáo chống lại lạc giáo Albiger và Waldenser đe dọa Giáo lý Công giáo vùng miền nam nước Pháp.
Dòng do Thánh Dominicus lập theo tôn chỉ luật lệ Thánh Augustinus và được Đức giáo hoàng Honorius III. chấp thuận.
Đời sống Dòng chuyên chăm việc cầu nguyện, sống đời khó nghèo nhờ vào ăn xin, của dâng cúng bố thí, chuyên chú việc nghiên cứu học hành thần học cho việc rao giảng loan truyền lời Chúa. Vì thế Dòng còn có tên Dòng giảng thuyết.
Sau gần bốn năm thành lập Dòng giảng thuyết Dominicus lớn mạnh lan truyền thành lập các chi nhánh khắp nơi ở Spania, Italia, Pháp, rồi lan sang Anh quốc, Đức quốc và vùng Đông Âu Châu.
Về cuộc đời của Thánh Dominicus có nhiều truyền thuyết thuật lại. Mẹ của Thánh Dominicus lúc còn mnag thai Dominicus đã có thị kiến nhìn thấy một con chó miệng ngậm bó đuốc cháy sáng. Vì thế hình tượng Thánh Dominicus ngày nay thường có con chó ngồi bên cạnh với cây đuốc cháy sáng.
Rồi khi trẻ Dominicus chịu phép rửa tội có hình một ngôi sao vàng hiện ra trên trán. Được cho đó là dấu lạ to lớn cho đời sống sau này của trẻ Dominicus.Và vì thế hình tượng thánh Dominucus có ngôi sao vàng vẽ khắc trên trán của ngài.
Một hình ảnh dấu chỉ lạ lùng thánh đức nữa là tượng hình Đức mẹ Mân côi có hình Thánh Dominicus qùy trước mặt Đức mẹ và được Đức mẹ trao cho chuỗi tràng hạt mân côi. Theo tương truyền Đức mẹ đã hiện ra và trao cho Thánh Dominicus chuỗi tràng hạt với trách vụ loan truyền việc lần chuỗi mân côi chống bề rối cùng củng cố đời sống Giáo hội.
Dòng Dominicus phát triển lớn mạnh trên toàn Giáo hội khắp nơi trên thế giới ngành Nữ cũng như ngành Nam. Ở Bên Việt Nam ngành dòng nữ Dominicus phát triển lớn mạnh từ miền Bắc vào miền Nam.
Các Vị Thừa Sai dòng Dominicus từ Spania sang Việt Nam vào thế kỷ 18. góp phần to lớn đáng kể vào việc truyền giáo xây dựng Giáo hội Công giáo Việt Nam, với những sinh hoạt phụng vụ bình dân nhưng thân thiết gần với người giáo dân, nhất là ở miền Bắc Việt Nam, như đọc kinh lần chuỗi mân côi, hát thánh ca, rước kiệu, dâng hoa…
„Vị Thánh vĩ đại Dominicus nhắc nhớ chúng ta rằng đời sống trung tâm của Giáo hội luôn luôn phải bừng cháy ngọn lửa truyền giáo, loan báo tin mừng và cần thiết phải khơi lên việc canh tân nếp sống tin mừng: Chúa Giêsu Kitô là sự toàn mỹ cao cả cho mọi người vào mọi thời đại cùng cho mọi nơi.“ ( Đức giáo hoàng Benedicto XVI.).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Mùa nghỉ hè
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nếp sống văn hóa mùa nghỉ hè càng ngày càng phổ thông trong đời sống xã hội hầu như khắp mọi, đầu tiên cho các học sinh trung tiểu học sau mỗi niên học kéo dài chín tháng .
Nhu cầu nghỉ hè dần lan rộng trong đời sống nhất là ở những đất nước làm việc sản xuất theo công nghiệp kỹ nghệ có đời sống phúc lợi kinh tế cao, có bảo đảm an ninh trật tự. Và theo dòng thời gian người ta càng nhận ra, người lao động làm việc chân tay cũng như tinh thần trí óc cũng cần có nhu cầu nghỉ hè.
Vào thời Trung cổ và thời Cận đại người ta phân biệt thành hai „feriae sacrae - ngày lễ nghỉ thánh thiêng và feriae profanae - ngày lễ nghỉ theo dân sự đời thường.“
Ngày xưa mùa nghỉ hè cũng mang ý nghĩa là mùa tự do, không làm việc lao động theo luật lệ bắt buộc. Ý nghĩa này bắt nguồn từ tiếng Latinh „vacans, vacare“. Trong tiếng Anh „Vacation“ ,và Pháp „vacance“ chỉ mùa nghỉ hè .
Từ năm 1749 kỳ nghỉ hè ở các trường học được chính thức công nhận là những ngày nghỉ không có lớp học giảng dạy, các học sinh được nghỉ học. Và từ thế kỷ 19. ngày nghỉ tạm ngưng làm việc áp dụng cho những người làm việc lao động.
Bây giờ theo niên lịch trong tuần là gọi ngày thứ Hai, thứ Ba, thứ Tư...nhưng trong phụng vụ thần học của Giáo hội gọi những ngày trong tuần là ngày lễ feria prima, feria secunda, feria tertia...Như thế mỗi ngày là ngày lễ mừng. Điều này thật là đặc biệt và có ý nghĩa gì ?
Theo ý nghĩa đạo đức thần học, sự cứu độ của Chúa đã thể hiện nơi trần gian cho nhân loại, có tự do được giải thoát cứu độ khỏi vòng tội lỗi. Vì thế, đó là lý do mỗi ngày là ngày lễ mừng lễ nghỉ. Và điều này biểu hiện cho thời gian và đời sống con người.
Trong đời sống chúng ta không chỉ nguyên được tạo dựng cho trường học, cho lao động làm việc, nhưng còn có điều gì ngoài hơn nữa. Vậy phải hiểu ý nghĩa mùa hè, nghỉ ngơi như thế nào?
Con người cần nghỉ ngơi tĩnh dưỡng sức lực. Chúng ta cần kín múc thu thập sức lực mới. Có thế mới luôn trong trạng thái tỉnh táo khoẻ mạnh (fit) được, để có niềm vui trong đời sống và làm việc có hiệu qủa thành tích tốt.
Con người cần khoảng cách cho thư giãn, để có thể chịu đựng được những căng thẳng trong đời sống hằng ngày. Thư giãn cho tâm trí không bị qúa căng thẳng, giúp tinh thần cũng như gân cốt bắp thịt còn có thể gánh chịu đựng những căng thẳng khác tiếp nối.
Và nếu như vậy thì nghỉ hè có chức năng làm nhẹ bớt gánh nặng do làm việc sinh ra, tựa như vòng bánh xe quay trong khâu sản xuất nâng cao thành tích. Để mang lại thành tích hiệu qủa tốt, con người phải nghỉ ngơi dưỡng sức.
Con người chúng ta có thể làm được nhiều việc, nhiều sự. Nhưng tất cả mọi sự, mọi điều chúng ta không thể làm được. Ý nghĩa của đời sống chúng ta không thể tự mình vẽ tạo ra thúc ép bắt buộc được. Và chúng ta cũng không cần phải như thế. Vì đời sống con người chúng ta nhận được là món qùa tặng. Đời sống của chúng ta đã có bao gồm ý nghĩa trước khi chúng ta đã có thể mang tạo ra thành tích.
Thế giới vũ trụ và chính con người chúng ta được đón nhận trong vòng tay của Thiên Chúa. Đó chính là nền tảng ý nghĩa của đời sống. Trên khía cạnh đó, con người có thể hiểu mùa nghỉ hè hoàn toàn khác.
Mùa nghỉ hè, hay những ngày nghỉ không như là vòng chiếc xe quay trong sản xuất nâng cao thành tích. Mùa nghỉ hè, ngày nghỉ hướng chúng ta đến sự tự do giải thoát khỏi những ràng buộc, mà đích điểm là sự cứu chuộc.
Thời gian nghỉ hè là cơ hội thuận tiện suy nghĩ với tâm hồn thanh thản khi nhìn ngắm những diễn biến trong thiên nhiên. Đó là một cuốn sách chất chứa đầy ngạc nhiên thú vị. Khi tíếp cận với thiên nhiên con người tìm lại chiều kích đích thực của mình. Con người khám phá ra điều mới lạ , dù chỉ là một tạo vật nhỏ bé nhưng đồng thời lại là điều có một không hai. Và từ đó lần tìm nhận ra một Thiên Chúa toàn năng khôn tả. Vì với tâm trí con người đó là một chân trời rộng mở bao la.
Xin kính chúc mọi người mùa nghì hè nghỉ ngơi là thời gian được chúc lành, một nơi chốn dừng chân tốt lành, kín múc lấy sức khoẻ thể xác cùng tinh thần niềm vui cho đời sống hôm hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh Tông Đồ Jacobus
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Kinh thánh thuật lại Chúa Jesus tuyển chọn kêu gọi 12 Tông đồ đầu tiên khi người ra giảng đạo. Trong số đó có hai vị mang tên Jacobus: Jacobus tiền con Ông Zebedeus và Jacobus hậu con Ông Alpheus.
Phân biệt một vị là Jocobus tiền và một vị là Jacobus hậu không phải vì mức độ sự thánh thiện của hai người, nhưng vì họ trùng tên nên để dễ phân biệt thôi theo cung cách suy luận người trần thế.
Tên Jacobus nhắc nhớ đến tên Tổ phụ Jacobus, con Tổ phụ Isaak trong Kinh thánh cựu ước.
Tông đồ Jacobus tiền cùng với hai Tông đồ Petrus và Johannes đã được chính Chúa Jesus đưa lên núi Tabor. Nơi đó Ông được chứng kiến sống cảnh tượng Chúa Jeus biến hình đàm đạo với hai thánh tiên tri Mose và Elija. Và như thế Ông đã tận mắt chiêm ngắm vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa ngay khi còn sống trên trần gian.
Rồi trong vườn Getsemani, Ông được chứng kiến cảnh tượng giờ phút hấp hối của Chúa Jesus trước khi Chúa bị bắt chịu khổ hình. Và như thế Ông đã sống chứng kiến sự đau khổ khiêm hạ của Chúa Jesus cho tới chết trên thập gía.
Ông Jacobus có người em là Ông Johannes cũng được Chúa Jesus tuyển chọn kêu gọi làm Tông đồ đầu tiên của Ngài. Hai anh em Ông thuộc vào vòng thân cận với với Chúa Jesus như Thánh tông đồ Peturs. Nhưng hai anh em ông lại có cung cách khác thường trong lối xử sự.
Một lần hai Ông xin Chúa Jesus cho hai anh em Ông được ngồi bên tả bên hữu Chúa trên nước Chúa vinh quang. Chúa Jesus không bằng lòng với kiểu cách sống muốn trên người khác như hai Ông mong muốn. Và nhân cơ hội đó cắt nghĩa cho họ về sứ mạng của mình, và cũng là dậy cho các ông cung cách sống ở đời trong cương vị là một người có trách nhiệm tinh thần với những con người khác.
„ Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em.Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm người đầy tớ mọi người. Vì con người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm gía chuộc muôn người.“ ( Mc 10,43- 45).
Và một lần Ông Jacobus cùng Johannes với thái độ nóng nảy hung hăng hiếu chiến muốn lấy lửa thiêu hủy những người làng Samaria, vì họ không đón tiếp Chúa Jesus. Nhưng Chúa Jesus đã quay sang quở mắng hai Ông, gọi hai ông là Boeneges, con của thiên lôi. ( Mc, 3,27, Lc 9,54).
Theo sách Tông vụ các Tông đồ, sau khi Chúa Jesus về trời và Đức Thánh Thần hiện xuống, Thánh Tông đồ Jacobus tiền đã giảng đạo sống tại Jerusalem. Và vào khoảng đầu năm 40 sau Chúa giáng sinh, vua Herdes Agrippa đã ra lệnh bắt bớ các tín hữu Chúa Jesus Kito, họ bắt Thánh tông đồ Jacobus và xử chém. ( CV 12,1-2).
Như vậy Tông đồ Jacobus tiền đã chịu tử vì đạo làm chứng cho Chúa Jesus Kitô ở Jerusalem.
Một trình thuật muộn sau này thuật lại Tông đồ Jacobus tiền đã sang tận Spanien (Tây ban nha) giảng đạo.
Lại có truyền thuyết khác thuật lại thi hài của Thánh Tông đồ Jacobus sau khi bị xử trảm quyết ở Jerusalem được đưa di chuyển bằng tầu thuyền đến thành phố Santiago de Compostela nước Spanien và được chôn cất tại nơi đây.
Santiago de Compostela trở thành nổi tiếng , vì có mộ Thánh Tông đồ Jacobus, thu hút khách hành hương không chỉ trong Âu Châu, mà cả các quốc gia khác trên thế giới nữa.
Ở Santiago de Compostela có đền thờ nguy nga rộng lớn kính Thánh Jacobus xây dựng từ thế kỷ 11. Nơi cửa chính ra vào có cổng Portico de la gloria chia làm ba cánh dựa theo cảnh tượng diễn tả của Thánh Johannes tông đồ trong sách Khải huyền ( KH 4,6-8) .
Trong đền thờ trước cung thánh có một bình hương - Botafumeiro - to lớn cao 1,60 mét. Bình hương được đốt khói hương nghi ngút kéo theo một nghi thức vào những dịp lễ trọng, hay theo yêu cầu, cùng vào 12.00 giờ trưa hằng ngày, lên tận nóc đền thờ.
Ngày nay trong nhiều nước Âu Châu có con đường Jacobus với dấu hiệu hình con sò là biểu hiệu hình ảnh lối đi hành hương sang Santiago de Compostela đến đền thờ Thánh Jacobus.
Thánh Tông đồ Jacobus trở thành vị Thánh hành hương, nên hình tượng thánh nhân được chạm trổ khắc vẽ mặc áo nâu dài, một tay có chiếc gậy, và một tay có cuốn sách phúc âm. Nơi cây gậy có treo một bình nước. Những hình ảnh dấu chỉ này diễn tả vị cuộc đời hành hương của một đời sống Kitô hữu.
Ngoài ra khắp các nơi trong ngoài đền thờ Thánh Jacobus nơi các cửa ra vào, cửa sổ ở Santiago de Compostela đều khắc vẽ chạm trổ hình con sò. Đây cũng là hình ành biểu hiệu của Thánh Jacobus thành Santiago Compostela.Vì thế khách hành hương đến nơi đây hầu như ai cũng mua một dây đeo có xỏ vỏ con sò với hình Thánh giá mầu đỏ vẽ trong lòng con sò.
„Theo gương đời sống thánh Tông đồ Jacobus chúng ta có thể học hỏi:
- sẵn sàng nghe theo tiếng Chúa kêu gọi theo Ngài với niềm vui phấn khởi
- Sẵn sàng can đảm làm chứng cho Chúa.
Thánh Jacobus tiền là hình ảnh mẫu gương sống động cho chúng ta về lòng trung thành với trái lòng yêu mến rộng lớn quảng đại cho Chúa Kitô. Thánh Jacobus đã sẵn sàng uống chén cay đắng đau khổ cho đến chết tử vì đạo làm chứng cho Chúa Jesus Kitô.“ ( Đức Giáo hoàng Benedictô 16.).
Hằng năm Giáo hội kính mừng Thánh Jacobus tiền vào ngày 25.07.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tập tục nếp sống hành hương
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong nếp sống đức tin Công giáo có tập tục đi hành hương- tiếng latinh Peregrinatio religiosa. Tập tục nếp sống đạo đức này có gốc rễ từ thời xa xưa trong các tôn giáo dân gian.
Người theo đạo Do Thái, như Kinh Thánh thuật lại, hằng năm phải đi hành hương kính thờ Thiên Chúa Giavê lên đền thờ Giêrusalem,. Từ thời xa xưa thượng cổ người tín hữu Do Thái giáo đã có tập tục hành hương vào những ngày lễ nhất định Passach, Schawuot và Sukkot theo luật định.
Thánh vịnh 122 diễn tả sâu xa tâm tình vui mừng phấn khởi cuộc hành hương về đền thờ Jerusalem:
„Tôi mừng vui , khi người ta rủ tôi nào ta trẩy lên đền thánh Chúa, Jerusalem“ ( Tv 122, 1)
Tập tục đi hành hương kính viếng thánh địa trong đạo Công giáo ngay từ lúc đầu thời Trung cổ mang mầu sắc đền tội thống hối nhiều hơn.
Hành hương kính viếng thánh địa Jerusalem bên Do Thái, những nơi ngày xưa Chúa Giêsu đã sinh sống, đã đi qua đã chịu chết, đã sống lại là ước vọng của người tín hữu Chúa Kitô. Vì thế xưa nay, khi có điều kiện người tín hữu Công giáo hằng mong muốn đi hành hương đến nơi đó.
Đến hành hương đất thánh Jerusalem không phải để tham quan, nhưng là một cuộc học hỏi Kinh thánh sống động hâm nóng đức tin vào Chúa Giêsu. Vì được đặt chân sống tận nơi ngày xưa Chúa Giêsu đã đứng, đã ngồi, đã nói chuyện rao giảng, đã đi qua, đã làm phép lạ. Cao điểm là những điạ danh quê hương Chúa Giesu sinh sống Nazareth, biển hồ Galilleo, dòng sông Jordan, nơi chúa nhận phép rửa của Thánh Gioan, Bethlehem nơi Chúa sinh ra, Jerusalem, nơi Chúa gỉang đạo và sau cùng chịu khổ hình chết trên thập giá và sống lại hiển vinh, như trong phúc âm Chúa Jesu viết thuật lại.
Từ thế kỷ 15. địa danh hành hương lan rộng sang Vatican bên Roma viếng mộ hai Thánh tông đồ Phero và Phaolo, Santiago de Compostelle bên Tây ban Nha, và nhiều Giáo phận trên thế giới còn xây dựng tổ chức những địa điểm hành hương lớn nhỏ khác như hành hương viếng nhưng nơi có di tích thánh thiêng, tôn kính xương các vị Thánh, đền thánh tôn kính các vị Thánh...
Ngày nay những điạ danh hành hương nổi tiếng trên thế giới thu hút hành trăm ngàn, hàng triệu người đến hành hương như Đức mẹ Lourdes, Fatima, Banneux, Đức mẹ Ban ơn lành bên Paris…
Dần dần trong dòng thời gian, hành hương đến kính viếng những nơi thánh trở thành lễ tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa, một cung cách truyền giáo được nhấn mạnh nhiều hơn. Đây là cơ hội hâm nóng làm sống động đời sống đức tin vào Thiên Chúa.
Ngày nay, những trung tâm hành hương là điểm hội tụ người giáo hữu Chúa Kitô đến hành hương cùng với mục đích trên, và cũng cùng để xin ân đức phù giúp chữa lành những vết thương phần hồn cũng như phần xác qua lời bầu cử của Đức Mẹ Maria và các Thánh.
Đức Thánh Cha Phanxico đã khuyến khích cổ võ việc đạo đức hành hương : ”hành hương là một lòng đạo đức bình dân, là một hình thức chân thực loan báo Tin Mừng, luôn luôn cần được cổ võ và đề cao giá trị. Tại các đền thánh, tín hữu sống một linh đạo sâu xa, một lòng đạo đức từ bao thế kỷ đã nhào nặn đức tin với những lòng sùng mộ đơn sơ nhưng rất có ý nghĩa”.
Ngoài ra đi hành hương cũng còn là cơ hội nhìn ngắm khám phá ra vẻ đẹp thiên nhiên cùng những nếp sống văn hóa muôn mầu của các dân tộc khác. Vẻ đẹp ẩn dấu nơi công trình thiên nhiên do Thiên Chúa tạo dựng nên cùng gìn giữ bảo trì cho sống động là khu vườn cho sự sống con người ( St 2,8-17).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cách chọn kỳ lạ
- Viết bởi Trầm Hương Thơ
HAI THÁNH PHÊRÔ-PHAOLÔ
CÁCH CHÚA CHỌN KỲ LẠ:
Hôm nay giáo hội mừng kính chung hai vị thánh: Phêrô và Phaolô. Hai thánh lớn bậc nhất của giáo hội.
Phêrô là nền đá, Phaolô là trụ đồng. Nhờ nền đá và trụ đồng mà hơn hai ngàn năm trôi qua căn nhà Giáo Hội luôn vững bền. Đây chính là công trình của Đức Kitô con một của Thiên Chúa đã dựng xây.
Chính ngài khi còn tại thế đã tuyên bố, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.(Mt,16,19) Đấy là câu chúa chọn Thánh Phêrô (một chú thuyền chài) để làm nền cho Hội Thánh của Ngài.
Còn Chúa chọn Thánh Phalô cũng lạ lắm, một người học giả cuồng nhiệt, chuyên đi tìm bắt giết những người theo Chúa Giêsu. Chúa quật cho một phát té ngựa nhớ đời:
Saolê bị ngã ngựa vì một thị kiến đặc biệt. Một luồng ánh sáng bao phủ và tiếng Chúa Giêsu gọi: “Saolê! Sao-lê! Tại sao anh tìm bắt tôi?”. Và Sao lê Bị mù vì thị kiến Chúa, phải có người dẫn vào thành phố (tên là phố Thẳng) . (Cv. 9,1-9)
Chúa lại sai Kha-na-ni-a từ thành phố Đa-mát đến chữa và rửa tội cho Sao Lô. Chưa đầy 3 ngày, thanh niên này bình phục và trở nên một thụ tạo mới - một người được tuyển chọn của Thiên Chúa.(Cv.9,10-19)
ĐIỀU CHÚA LÀM KỲ DIỆU:
Việc hai vị thánh được mừng kính chung là sự diệu kỳ của Thiên Chúa xây nên nền tảng đức tin nơi các Kitô hữu. Từ hai nền tảng đức tin này do chính Chúa kiến tạo mà Giáo Hội trường tồn bền vững và mãi cứ phát triển giữa bao sóng gió bão táp của ác thần nơi trần gian.
Chúa Kitô chọn hai ông từ hai thái cực theo cách của Ngài. Một ông "thuyền chài nhiệt thành", một ông "thông thái diệt dạo" Nhưng cái sự tréo cẳng ngỗng này lại làm nên một Giáo Hội rất là hài hòa của ngài.
Việc của Chúa làm thật kỳ lạ. Ngài gọi Phêrô và Phaolô, để làm nên tính đa dạng hài hòa của Hội Thánh. Trong Giáo Hội của ngài phải bao gồm tất cả, từ những người đánh cá ven hồ nghèo nàn dốt nát cho đến những vị rất thông thái học vị cao sang nơi phố thi cung vua.
Anh thuyền chài thì cảm nhận Thiên Chúa bằng trái tim; Người học thức thì cảm nhận Thiên Chúa bằng khối óc. Trái tim của Anh thuyền chài Phêrô luôn rộng mở nhiệt thành nhưng nộng cạn, nên có lắm lúc cũng "anh hùng rơm" tuốt gươm chém đút tai tên đầy tớ. Rồi lại chối Thầy, nhưng vẫn lén bước theo để nhìn và thành tâm sám hối.
Học thức uyên thâm như Phaolô đầy nhiệt thành, kiến thức thâm sâu, nhưng đi lạc đường đến độ Chúa phải quật cho một cú để đổi đời, nên nhanh chóng phục thiện và ngoan ngoãn bước theo đường lối của Ngài.
Nếu chỉ cảm nhận Thiên Chúa bằng trái tim, đức tin có nguy dễ lầm lạc.
Nếu chỉ cảm nhận Chúa bằng khối óc, đức tin có thể chỉ là những lý thuyết trống rỗng, vô cảm.
VIỆC CHÚA LÀM KỲ CÔNG:
Đây là lời của Thánh Phaolô : “Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin” (1 Tm 1,13).
Đây là lời của Thánh Phêrô: cho dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không (Mc 14,19.30-31). Lời nói nghe rất là cương quyết như (đinh đóng cột), nhưng Chúa nhỏ nhẹ nói với ông rằng:
“Thầy bảo thật anh, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần” (Mt 26: 30-35, Mc 14: 26-31 ; Lc 22: 31- 34 ; Ga 13: 36 – 38).
Nhưng Phê-rô đã được ơn hoán cải và hơn thế nữa, được Chúa Giê-su uỷ thác nhiệm vụ củng cố anh em mình.
“ Thầy đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Còn phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin.” (Lc 22,31-32).
Và ông đã trở thành một môn đệ khiêm tốn, chỉ còn thốt lên lời cam kết yêu thương: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy!” (Ga 21,17).
Cuộc đời và sứ mạng của hai vị thánh vĩ đại nhất của Giáo Hội cho chúng ta thấy: không có ơn Chúa chúng ta chả là gì cả.
Tất cả mọi người đều được mời gọi thánh hóa bản thân, lắng nghe và thực thi Lời Chúa, là Lời đem lại cho chúng ta ơn cứu độ của Ngài, để được một cuộc sống tràn đầy niềm vui bình an và hạnh phúc.
Hôm nay chúng con mừng kính các Ngài. Kính xin Hai Thánh cả cầu bầu cùng Chúa cho Giáo Hội Việt Nam thân yêu của chúng con, được biến đổi cuộc đời giống như các Ngài, để nhiệt thành bước theo giáo huấn của Chúa Kitô Chúa chúng con Amen.
Trầm Hương Thơ 29.06
Thánh Phero, vị Giáo hoàng tiên khởi
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh Phero, vị Giáo hoàng tiên khởi
Trong dòng lịch sử Giáo hội Công giáo ở trần gian từ hơn hai ngàn năm nay có tất cả 266 vị Giáo Hoàng kể từ Thánh Phero, vị Giáo Hoàng thứ nhất, cho tới đức đương kim Giáo Hoàng Phanxico , được bầu chọn từ ngày 13. 03. 2013.
Trên tường chung quanh bên trong đền thờ Thánh Phaolo ngoại thành ở Roma có khắc vẽ hình các Vị Giáo Hoàng từ Thánh Phero, vị Giáo hoàng tiên khởi, tới Đức đương kim Giáo hoàng Phanxico.
Từ xưa nay có nhiều sách lịch sử về Giáo hội Công giáo viết thuật lại lịch sử của mỗi vị Giáo Hoàng cùng những nét đặc thù của các ngài trong công
việc mục vụ kế vị Thánh Phero điều khiển Giáo Hội Chúa Giêsu ở trần
gian.
Tông đồ Phero
Thánh Phero, vị Giáo hoàng tiên khởi của Giáo hội Chúa Giêsu ở trần gian không có bút tích lịch sử ghi chép về ngài. Nhưng trong các phúc âm Chúa Giêsu, Thánh Phero là nhân vật được nhắc kể đến nhiều hơn 11 Tông đồ khác của Chúa Giêsu.
Lần dựa theo Phúc âm Chúa Giêsu, sách Kinh Thánh Công vụ các Tông đồ, cùng một vài chứng cứ truyền thuyết, lịch sử về con người cùng đời sống đức tin của Thánh Phero, vị Giáo Hoàng tiên khởi, được tìm ra biết đến và viết ghi chép lại thành văn bản.
Phero, có tên do cha mẹ đặt cho là Simon con của Ông Jona người vùng Bethsaida. Ông là anh của Andre, người được Chúa Giêsu kêu gọi đầu tiên làm môn đệ, anh em Phero sinh sống bằng nghề chài lưới đánh cá ở biển hồ Galileo. Phero có gia đình và sau này sinh sống ở vùng Carphanaum.
Tên Phero là tên do Chúa Giêsu đặt cho, theo tiếng Aramai là Kefa, tiếng latinh Petrus, có nghĩa là „tảng đá“.
Phero là người sống nghề chài lưới có đời sống là một nông dân đơn giản, tận tụy với công việc căn bản sinh sống bằng chân tay. Ông không được hấp thụ nền đào tạo giáo dục trí thức uyên thâm, nên có lối suy nghĩ và ngôn ngữ của một người nông dân chài lưới miền thôn quê, cộng thêm nét tính tình bộc trực, nóng nảy đôi khi qúa thẳng thắn mộc mạc.
Các Phúc âm Chúa Giêsu nói thuật lại nhiều biến cố đời Chúa Giêsu, trong đó Phero là người trực tiếp can dự vào. Biến cố Chúa Giêsu chữa lành cơn sốt rét cho nhạc mẫu của ông là một trong những phép lạ đầu tiên Chúa Giêsu thực hiện ở Nazareth.
Rồi nơi biển hồ Genezareth, sau những lời của Chúa Giêsu nói thúc dục anh em Phero ra ngoài khơi thả lưới, phép lạ đã xảy ra là các ông bắt được mẻ cá nhiều đến nỗi lưới gần rách, mà trước đó suốt cả đêm anh em Ông không thành công bắt được con cá nào. Biến cố này đã thức tỉnh Phero lần đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Phero qúa bỡ ngỡ ngạc nhiên đến độ sợ hãi van xin Chúa Giêsu: Xin Thầy xa con, vì con là kẻ tội lỗi.!
Tông đồ Phero cùng với hai vị tông đồ Johannes và Jacobus là những người được Chúa Giêsu dẫn đưa lên núi Tabor chứng kiến biến cố Chúa Giesu biến hình, và là những nhân chứng có mặt trong vườn Gethsemane khi Chúa Giêsu trải qua những giờ phút cầu nguyện hấp hối trong đau khổ buồn phiền cùng cực.
Trong bữa tiệc ly Phero đã có cuộc đối thoại với Chúa Giêsu gần như cự tuyệt. Vì Ông không muốn chịu để cho Chúa Giesu rửa chân cho cho mình.
Trong vườn Gethsemane khi Chúa Giêsu bị bắt, Phero đã nóng tính muốn bảo vệ Thầy mình, nên rút gươm chém đứt tai của người đầy tớ thầy cả thượng phẩm.
Phero đã đoan hứa với Chúa Giêsu không bao giờ phản bội bỏ Thầy. Nhưng vài giờ sau đó Ông đã chối Thầy mình tới ba lần. Sau khi nghe tiếng gà gáy và cái nhìn của Chúa Giêsu, Phero đã ăn năn hối lỗi khóc lóc thảm thiết.
Ông Phero đã cùng với các người phụ nữ chạy ra mộ chôn Chúa Giêsu, và đã tận mắt chứng kiến ngôi mộ trống không có xác của Chúa Giêsu. Vì Chúa Giêsu đã sống lại.
Sau khi Chúa Giesu sống lại và Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, Ông Phero đã lần đầu tiên mạnh dạn trước hàng ngàn dân chúng rao giảng làm chứng về Chúa Giêsu Kitô đã sống lại vào ngày lễ Ngũ Tuần ở Jerusalem.
Giáo hoàng Phero ở Roma
Thánh tông đồ Phero đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin Chúa Giêsu là con Thiên Chúa trước mặt Chúa Giêsu và toàn thể anh em các Tông đồ. Chúa Giêsu đã đặt Phero đứng đầu các Tông đồ, và trao cho trách vụ là Giáo Hoàng điều khiển Giáo Hội thay mặt Chúa Giêsu ở trần gian.
Và khi tiên báo Phero sẽ chối Chúa trước khi gà gáy sáng, Chúa Giêsu cũng đã ủy thác cho Phero một sứ mạng tinh thần đi củng cố đức tin vào Chúa nơi anh em. Sứ mạng có trách nhiệm đứng đầu phục vụ Giáo hội:
:“Thầy cầu nguyện cho con để con đứng vững vàng trong đức tin. Phần con, một khi đã trở lại, con hãy củng cố làm cho Thánh Ignatius thành Antiochia đến thăm thành Roma vào năm 112 cũng đã được dân thành thuật kể lại Thánh Tông đồ Phero và Phaolo đã sống ở Roma vùng Vatican cho tới khi chết.
Đền thờ Thánh Phero ở Vatican được xây năm 1506 - 1626 ngay trên mộ Thánh tông đồ Phero. Những cuộc đào bới khảo cổ học đã tìm thấy dấu vết ngôi mộ chôn Thánh Phero ở ngay dưới chân bàn thờ chính trong đền thờ Thánh Phero.
Chung quanh bên trong mái vòng tròn đền thờ Thánh Phero chỗ bàn thờ chính có khắc viết câu kinh thánh bằng tiếng latinh lời của Chúa nói với Phero phong Ông làm giáo hòang tiên khởi: „Tu es Petrus et super hanc petram aedificabo ecclesiam meam. - Phero , con là đá, trên đá này Ta sẽ xây dựng Giáo Hội của Ta“ ( Mt 16,18).
Người Công giáo Việt Nam xưa nay khi Chầu Thánh Thể , trước Mình Thánh Chúa cung kính hát trọng thể bài Này con là đá cầu nguyên cho Giáo Hội và Đức Giáo Hoàng thật sốt sắng cảm động.
Lời bài hát chan chứa tâm tình lòng yêu mến nguyện cầu là những lời Chúa Giêsu nói với Thánh Phero phong ngài làm Giáo hoàng còn ghi chép trong Kinh Thánh.
Nói đến Thánh Phero, vị Giáo hoàng tiên khởi, có 4 đặc điểm, hay đúng hơn là những hình ảnh biểu tượng gắn liền với ngài:
1. Chiếc chìa khóa là biểu hiệu quyền mà Chúa Giêsu Kitô trao ngài lúc phong ngài làm Giáo hoàng đầu tiên của Giáo hội trên trần gian: „Thầy trao cho con chìa khóa nước trời: dưới đất con cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất con thào cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.“ ( Mt 16. 19)
2. Quyển sách phúc âm Chúa Giêsu, như Chúa Giêsu truyền sai ông đi thi hành sứ mạng truyền giáo làm chứng gieo vãi tin mừng Chúa Giêsu cho trần gian.
3. Con gà trống. Tiếng gà gáy ban đêm xưa nay trong dân gian báo hiệu đổi giờ canh thức. Nhưng tiếng gà gáy đêm Chúa Giêsu bị xử án lại là tiếng thức tỉnh lương tâm Phero làm ông nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói trước đó: Trước khi gà gáy con đã chối Thầy ba lần rồi. ( Ga 13,38 và Ga 18, 27).
Tiếng gà gáy báo giờ ngày sáng đang tỏ hiện đã soi sáng giúp Phero nhận ra bóng tối tội lỗi của mình đã chối bỏ Chúa.
4. Bị đóng đinh ngược. Hình ảnh Thánh Phero chịu chết vì Chúa Giêsu Kitô bị đóng đinh vào thập giá ngược, đầu dốc ngược xuống đất, hai chân lên phía trên, theo truyền thuyết thuật kể lại, là ý muốn của chính Thánh Phero. Vì Ông nghĩ rằng mình không xứng đáng như Thầy Giesu của mình ngày xưa bị đóng đinh xuôi vào thập gía hai tay dang ra ôm lấy trần gian.
Còn Thánh Phero xin được đóng đinh ngược đầu dốc xuống đất, hai tay dang ra ngước lên trời cao như van cầu xin ơn tha thứ.
Nhân danh Chúa Giêsu
Thánh tông đồ Phero cùng với 11 Tông đồ, được Chúa Giêsu truyền cho chức Linh mục đầu tiên trong bữa tiệc ly trước khi Chúa chịu chết. Được Chúa Giêsu trao ban cho chức linh mục, Thánh Phero đã thi hành chức vụ thánh thiêng nhân danh Chúa Giêsu.
Sách công vụ các Tông đồ (3,1-10) viết thuật lại khi Thánh Phero và Thánh Gioan tông đồ vào đền thờ Jerusalem thì thấy một người bị tê liệt ngồi nơi cửa đền thờ ăn xin. Anh ta xin tiền để sinh sống. Vì anh ta không thể tự làm việc kiếm tiền mua cơm bánh nuôi sống chính mình được. Anh ta xin tiền như một cái gì thay thế cho sự tự do của anh ta, cho đời sống của mình mà anh không thể tự làm được.
Hai vị tông đồ Phero và Gioan đi đến với tay không„ vàng bạc tôi không có“, nhưng hai vị lại có điều giầu sang khác mà anh ta không hỏi xin: “
Điều tôi có, nhân danh Chúa Giêsu thành Nazareth, anh hãy đứng dậy và đi lại.“.
Điều được ban cho là chính đời sống riêng của anh. Anh đứng dậy đi lại làm việc được. Sự tự do anh có trở lại để sống theo con đường đời sống của anh, như Đấng Tạo Hóa sinh thành ban cho đời anh.
Hai Thánh tông đồ Phero và Gioan đã cho anh bị tê liệt ăn xin không tiền bạc thức ăn. Nhưng đã cho anh ta điều nhân danh Chúa Giêsu thành Nazareth chính là nội dung căn bản của chức linh mục Chúa Giêsu ban trao cho.
Theo truyền thuyết thuật kể lại vào thời hoàng đế bên Roma ra lệnh cấm đạo Công giáo cho thi hành lệnh bắt giết những người Công gíao vào những năm 60. Vì sợ Thánh Phero bị bắt tra tấn giết, nên các tín hữu Công giáo đã khuyên răn Ông trốn đi khỏi Roma.
Trên đường đi trốn, Thánh Phero đã nhìn Thấy Chúa Giêsu Kitô đi ngược chiều đến gần mình. Qúa ngạc nhiên vui mừng cùng hoảng hốt nên cây gậy nơi tay Phero tuột rơi xuống, mắt mở to từ từ Ông qùy gối xuống mặt đường hai tay dang ra và miệng kêu lớn tiếng:
„Lạy Thầy Giêsu! Lạy Thầy Giêsu!“
Rồi Phero cúi mặt xuống đất. Sau một lúc lâu yên lặng, Phero lên tiếng hỏi Chúa Giêsu:
„Quo vadis, Domine? Lạy Chúa, Thầy đi đâu?“
Có tiếng nói trầm buồn đầy lòng thương xót rót vào tai Phero:
„ Con bỏ rơi dân của Thầy. Ta đi vào Roma, để chịu đóng đinh vào thập
gía!“.
Tông đồ Phero qúa xúc động nằm xấp mặt xuống nền đất dính đầy bụi bặm không cử động… Người theo dẫn đường thấy thế sợ hãi tưởng là Phero ngã qụy chết… Nhưng Phero chỗi dậy tay còn run rẩy nắm nhặt cầm lấy cây gậy trên mặt đất quay trở lại đi vào Roma.
Người cùng đồng hành hỏi nhắc lại lời của Phero: Quo vadis, Domine? Thánh Phero trả lời nhỏ nhẹ: “ Trở về Roma!“
Theo gương và nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Giáo hoàng Phero quay trở về Roma để được chết vì Chúa. Sau đó Ông bị bắt và chịu chết tử vì đạo bị xử đóng đinh ngược vào thập gía như Ông mong muốn.
Nhân danh Chúa Giêsu, Phero đã từ nước Do Thái ra đi rao giảng nước Thiên Chúa cho con người, và đến thành Roma vùng đồi Vatican lập Cộng đoàn Kitô giáo, rồi sau này trở thành tòa thánh Vatican thủ đô của Giáo hội Công giáo hoàn cầu.
Kính thưa Cha cố Phero Nguyễn trọng Qúi,
Từ 90 năm nay, 1928-01.-2018, Thiên Chúa tạo dựng sinh thành ban cho Cha cố đời sống trường thọ trên trần gian qua những chặng khúc thời gian khác nhau trên các nẻo đường thế giới.
Sinh ra lớn lên ở miền Bắc Việt Nam trong Giáo phận Bắc Ninh, du học bên Roma giáo đô Vatican, giáo sư thần học đại chủng viện Vĩnh Long, và Giám đốc Đại chủng viện Thánh Toma Long Xuyên ở miền Nam Việt Nam, sinh sống làm việc mục vụ bên Pháp quốc, và sang sinh sống làm việc mục vụ xứ đạo cho người Công giáo Viêt Nam từ 1980 bên Đức quốc
nơi Tổng giáo phận Paderborn và giáo phận Essen. Và từ 16 năm nay đi nghỉ hưu ở Herne.
Từ 60 năm nay, Thiên Chúa đã ban cho Cha cố thiên chức Linh mục vào đúng ngày Giáo hội mừng lễ kính Thánh Phero, vị linh mục, vị Giáo hoàng đầu tiên của Giáo Hội, 1958-29.06.- 2018. và cũng là thánh bổn mạng của cha cố.
Như Thánh Phero ngày xưa, Cha cố cũng nhân danh Chúa Giêsu ban các Bí tích cho những ai muốn xin lãnh nhận với trái tim lòng yêu mến và đôi bàn tay thánh hiến đời Linh mục.
Nhân danh chúa Giêsu Kitô, Cha cố đã truyền lại cho thế hệ chủng sinh. linh mục học trò, trong đó có con, những kiến thức căn bản cần thiết về giáo lý thần học đức tin vào Thiên Chúa tình yêu.
Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Cha cố đã luôn mang niềm an ủi tinh thần cho những ai gặp bước đường đau khổ lo âu phiền muộn. Và cùng chung vui với những ai có niềm vui thành công.
Xin cùng với Cha cố dâng lời ca ngợi tạ ơn Thiên Chúa về những ân đức Ngài ban cho đời sống của Cha cố từ 90 năm qua, về những chúc lành Thiên Chúa đã ban xuống gìn giữ đời Linh mục của Cha cố từ 60 năm nay:
Te Deum laudamus !
Xin cùng mừng vui cám ơn Cha cố đã cách này cách khác làm ơn giúp đỡ những ai cần được giúp đỡ, trong đó có con: Deo gratias!
Xin cùng chúc mừng Cha Cố dịp mừng kỷ niệm 90 tuổi trường thọ, ngọc khánh chức Linh mục và ngày kính Thánh bổn mạng Phero , 29.06. của Cha Cố: Ad multos annos!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Học trò cũ của Cha Cố Phero Nguyễn trọng Qúi
Tên của một người.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Có thời ở vùng thôn quê người ta hay gọi thân mật đứa con trai nhỏ là „thằng cu“, cô bé gái là „cái tí“. Cách gọi như thế tuy nói lên sự thân thương, nhưng lại qúa rút gọn người được gọi vào trung tâm giới tính của họ, và cũng nói lên khía cạnh „vô danh“, người được gọi không có tên hay chưa được biết đến tên.
Có phải như vậy không?
Xưa nay ai cũng vậy từ khi mở mắt chào đời đều được cha mẹ đặt cho một tên. Tập tục truyền thống này nói lên không chỉ là ước muốn tốt đẹp của cha mẹ sinh thành ra con mình, nhưng còn diễn tả khía cạnh rất quan trọng: Tên của một người gắn liền với đời sống con người của họ.
Tên của một người để được gọi, chào mừng, tôn trọng, phân biệt với người khác trong mọi lãnh vực đời sống xã hội. Khi một người có tên không lẫn lộn với người nào khác còn nói lên họ là một đặc thù cá thể được Đấng Tạo Hóa tạo dựng một lần, là phiên bản chính không phải là phiên bản sao chép, không thể cắt xén trao đổi với ai được. Và tên của một người cũng còn cụ thể gói ghém nói lên cả giới tính của họ nữa.
Trong đời sống xã hội ngày hôm nay, tên của một người cùng với con số ID của từng người càng trở nên quan trọng trong vấn đề hành chánh giấy tờ thuộc mọi lãnh vực lúc còn sinh sống khoẻ mạnh học hành, làm việc, lúc đau yếu bệnh nạn cũng như lúc qua đời.
Khi sinh ra cha mẹ đặt tên cho con mình như lòng mong muốn yêu thương của cha mẹ. Rồi khi cha mẹ bồng ẵm con mình đến thánh đường để nhận lãnh làn nước Bí tích rửa tội, tên của con em một lần nữa được vị chủ tế hỏi và cha mẹ hãnh diện nói lên cho cộng đoàn hiện diện tham dự biết đến tên em bé con mình.
Thiên Chúa, Đấng sinh thành tạo dựng nên em bé, chúc lành cho em cùng với tên của em, như tiên tri Isaia nói: Thiên Chúa yêu thương và quả quyết Ta gọi con bằng chính tên của con, con là con của Ta. (Isaia 43,1). Và Thiên Chúa đã nhắc đến tên ngay từ trong cung lòng mẹ, lúc chưa sinh ra (Isaia 49,1).
Mỗi con người được tạo dựng sinh ra trên trần gian là một qùa tặng, một ân đức của Trời cao, đồng thời cũng có một bổn phận trách nhiệm trong đời sống, mà Thiên Chúa, đấng Tạo Hóa đã trao đặt cho.
Hằng năm vào giữa năm, ngày 24. Tháng Sáu, ngày mừng sinh nhật Thánh Gioan Tẩy gỉa. Sau khi mở mắt chào đời, họ hàng gia đình cũng hỏi đến tên của em bé, cha em bé, thầy cả Zacharia, viết đặt tên cho em là Gioan. (Lc 1,63).
Ngày mừng sinh nhật Thánh Gioan Tẩy gỉa, theo lịch phụng vụ Công giáo, là ngày bản lề bắt đầu mùa Hè trong thiên nhiên, ngày này ban ngày dài nhất, đêm ngắn nhất. Và từ sau ngày này, ban ngày có ánh sáng mặt trời ngắn lại dần, và đêm tối dài dần cho tới cao điểm là ngày đầu mùa Đông, ngày 24. Tháng Mười hai, ban ngày có ánh sáng mặt trời ngắn nhất, trái lại đêm dài nhất.
Thánh Gioan có biệt hiệu Tẩy gỉa vì Ông làm phép rửa ờ bờ sông Jordan cho những ai đến tỏ lòng thông hối ăn năn. Chúa Giêsu Kitô khi trưởng thành ra đi rao giảng nước Thiên Chúa cũng đến xin Gioan làm phép rửa cho ở bờ sông Jordan, rất có thể là địa điểm Qasr al-Zahud, (Theo Phúc âm Thánh Gioan 1,28), bên bờ phía Đông của dòng sông gần biển chết.
Thánh Gioan Tẩy gỉa, hay còn gọi Gioan Tiền hô, là người giới thiệu Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Nên hình ảnh tượng ông có một ngón tay chỉ về phía trước, hay chỉ lên trời cao.
Thánh Gioan là vị tiền hô đi trước dọn đường tâm hồn cho Chúa Giêsu đi vào trần gian bằng những lời rao giảng đanh thép kêu gọi con người bỏ đường tội lỗi ăn năn thồng hối trở về với Thiên Chúa.
Danh hiệu tiền hô gắn liền với cung cách nếp sống dọn đường trước, là người có suy nghĩ trước vụ việc. Những suy tư lời rao giảng mang tính cách tiên tri dọn đường có thể mang hiệu qủa tích cực cho người nghe tiếp nhận. Vì họ nhận ra một làn gío mới mang đến thay đổi mới hấp dẫn. Nhưng cũng có thể gây ra sự khó chịu, phản bác hay do dự nơi nhiều người. Vì nó còn mới xa lạ có tính khiêu khích kết án, hay không muốn thay đổi, hay biết đâu nghĩ rằng cũng chỉ như ngọn lửa cháy bùng lên rồi lại lịm tắt đi thôi…
Đó là đời sống xưa nay trong trần gian. Nhưng Thánh Gioan với cung cách nếp sống tiền hô cộng với lời rao giảng đanh thép kết án về tinh thần chỉ ra cho con người gía trị của những tiên báo nói trước.
Những lời đó không là những lời không có ý nghĩa gì. Trái lại mang chiều kích to lớn toàn thể, khi một đời sống tinh thần hướng về Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn mọi sự trong đời sống con người.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh bổn mạng World Cup 2018.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Giải bóng đá World Cup 2018 đang diễn ra từ 14. tháng Sáu đến 14. thánh Bảy 2018 ở nước Nga với 32 đội tuyển của 32 quốc gia trên thế giới.
Đây là biến cố tranh tài thể thao tầm vóc thế giới. Niềm tin tôn giáo không ở nơi sân thi đấu, nhưng ẩn hiện nơi tâm hồn các cầu thủ, có khi cả giới hâm mộ, và nơi đất nước có đội tuyển đại diện đi thi đấu trên sân cỏ.
Không ai được nói đến niềm tin tôn giáo của riêng mình, hay của hội đoàn đất nước mình chen vào biến cố World Cup. Nhưng đội tuyển thi đấu nào cũng được ủng hộ tinh thần của khán giả hâm mộ, nhất là của người dân đất nước mà đội tuyển đại diện thi đấu.
Sự ủng hộ tinh thần có nhiều phương cách khác nhau. Một trong những phương cách đó là sự khấn khứa cầu nguyện mong xin ơn chúc lành phù hộ từ Trời Cao cho đất nước quê hương .
32 đội tuyển tham dự thi đấu World Cup của 32 quốc gia đất nước trên thế giới, nơi đó có nhiều luồng nếp sống đạo giáo tinh thần khác nhau.
Nơi đất nước nếp sống đạo giáo đức tin Công giáo được loan truyền trong dân chúng, rõ hơn đức tin Kitô giáo, thường có tập tục nhận cùng tôn kính những vị Thánh bổn mạng cho cá nhân, cho đoàn thể, cho quốc gia đất nước có truyền thống trong dòng lịch sử ăn rễ sâu nơi nếp sống xã hội văn hóa. Vì đó là một nhu cầu tinh thần của đời sống con người theo niềm tin của họ.
Vì thế, với người Kitô giáo thường cầu nguyện xin Vị Thánh bổn mạng quốc gia đất nước họ phù hộ cho dân tộc quê hương mình, và cũng cho đội tuyển quốc gia mình được bình an khoẻ mạnh và thành công.
- 1. Nước Ai Cập có Thánh Marco là Vị Thánh bổn mạng phù hộ. Thánh Marco viết phúc âm Chúa Giêsu đầu tiên vào khoảng năm 80 sau Chúa giáng sinh. Theo sử sách Thánh Marco là học trò của Thánh Phero tông đồ Chúa Giêsu. Và Thánh Marco là người đến truyền giáo thành lập Giáo đoàn Alexandria ở Aicập , nơi là quê hương của Chính Thống giáo Kopt. Theo lịch sử của Chính Thống Kopt, các Vị Giáo chủ của Chính Thống giáo Kopt trong dòng thời gian xưa nay là những người liên tục kế vị Thánh Marco.
- 2. Nước Argentina là một quốc gia có lịch sử thi đấu bóng đá với nhiều kinh nghiệm, cùng sản xuất ra những cầu thủ tài năng xuất sắc, và cũng có nhiều lần chiếm giải World Cup. Quốc gia đất nước Nam Mỹ với truyền thống Kitô giáo có Đức mẹ Maria Lujan là vị Thánh bổn mạng phù hộ cho. Mầu áo của đội tuyển có mầu xanh sáng và mầu trắng. Đây là mầu hình Đức mẹ Lujan ban ơn lành được sùng kính từ năn 1630 của nước Argentina.
- 3. Nước Úc đại lợi nhận Thángh Phanxico Xavie làm quan thầy phù hộ cho đất nước mình. Đội tuyển quốc gia nước Úc đại lợi là đội tuyển duy nhất duy nhất của châu Đại Dương tham dự World Cup 2018.
- 4. Vương quốc Bỉ nhận Thánh Giuse, cha nuôi Chúa Giêsu thành Nazareth làm Thánh quan thầy cho đất nước. Thánh Giuse được tôn kính như vị Thánh thầm lặng, nhưng có đời sống của ngài phản chiếu lòng bền chí kiên nhẫn cao cả nhất cho mọi cảnh ngộ đời sống.
- 5. Nước Brazil truyền thống xưa nay là một nước có nhiều ngôi sao bóng đá sáng chói. Đội tuyển nước này hầu như luôn có mặt tham gia những giải World Cup và họ đã đạt giải hạng nhất nhiều lần. Quốc gia đất nước Brazil có vị Thánh bổn mạng phù hộ. Đó là bức tượng Đức Mẹ nặn đúc bằng đất sét được tìm thấy vớt lên từ một dòng sông. Từ đó dân chúng tôn kính cầu nguyện xin Đức mẹ phù hộ cho đời sống mình: Nossa Senhora Aparecida. Chắc chắn dân Brazil cùng hòa nhịp thở lên xuống với đội tuyển quốc gia của họ trên sân cỏ thi đấu, và chắc chắn họ hằng hướng tâm hồn tha thiết cầu xin Nossa Senhora Aparecida phù hộ cho tuyển tuyển đất nước của họ.
- 6. Nước Costa Rica có lòng sùng kính Đức mẹ rất tha thiết. Người dân đất nước nhỏ bé Costa Rica xưa nay sùng kính Đức trinh nữ Virgen de los Angelos. Bức tượng nhỏ „Nữ vương các Thiên Thần - Virgen de los Angelos“ năm 1635 được một bé gái khám phá tìm thấy trong rừng. Dù là một quốc gia nhỏ, nước Costa Rica cũng có vé đi tham dự World Cup, và chắc chắn họ cũng xin Virgen de los Angelos cùng đi phù hộ cho đội tuyển của mình.
- 7. Nước Danemark có vua thánh Knut IV. ( 1043-1086). Vị vua thánh này đã ra chiếu chỉ thời gian lễ mừng Chúa giáng sinh kéo dài 20 ngày tới ngày 13, Tháng Một. Vị Vua Thánh này là bổn mạng phù hộ che chở tinh thần cho đất nước Danemark, chắc chắc ngài phù hộ cho đội tuyển đất nước của ngài từ trên cao.
- 8. Nước Đức được Thánh Bonifatius (1043-1086) từ bên Anh quốc sang loan truyền tin mừng vào Chúa Giêsu Kitô. Thánh Bonifatius trở thành quan thầy phù hộ cho nước Đức.
- 9. Nước England là quê hương nôi sinh của nền bóng đá thế giới. Thánh Georg thành Kappadokia tử đạo thời đạo Kito giáo bị bách khoảng năm 303 thời Diokletian được biết đến, và tôn kính là vị thánh chiến thắng thần dữ đã giết chết con rồng. Vị Thánh này trở nên quan thầy của đất nước.
- 10. Nước Pháp có nhiều vị Thánh trong Giáo hội Công giáo. Thánh Martin, Giám mục thành Tours (316-397) người gốc Ungarn là vị Thánh nổi tiếng ở nước Pháp với lòng bác ái thương người.
- 11. Nước Iran là một quốc gia Hồi giáo, nhưng có vị Thánh Maruthas là giám mục thành Sophene và Tagrith. Vị Thánh này xưa kia là một sinh viên ngành y khoa được hoàng đế của triều đình đại đế vương quốc Batư sai đi đến với dân chúng, và ông đã sống lòng khoan dung rộng lượng với với những người Kitô giáo nơi đó.
- 12. Nước Island có Thorlak Thorhallsson (1133 -1193) giám mục thành Skalholt, là người được đào tạo ở Paris và Loncoln đã có đường lối rất mực theo kỷ luật.
- 13. Nước Nhật bản có vị Thánh truyền giáo thời danh Phanxico Xavie Dòng tên Chúa Giêsu, người đã đem tin mừng phúc âm Chúa Giêsu sang xứ mặt trời, biểu hiệu trên lá cờ quốc gia của Nhật Bản.
- 14. Nước Columbia ở miền nam Châu Mỹ Latinh có thánh Petrus Claver (1580 -1654) cũng thuộc Dòng Tên đã suốt đời tận tụy lo giúp người dân sống vùng bờ biến, và những người bị bắt sống cảnh nô lệ. Từ năm 1985 ngài được sùng mộ như vị Thánh quan thầy cho quyền sống của con người.
- 15. Nước Croatia có Thánh quan thầy, giáo phụ Hieronymus thành Stridon (347-420), một học gỉa uyên thâm về Giáo hội. Thánh nhân sống ẩn dật trong một hang động bên cạnh đền thờ Chúa giáng sinh ở Bethlehem dịch trọn bộ Kinh thánh Vulgata từ tiếng Hylạp sang tiếng Latinh.
- 16. Nước Maroco bên Phi châu một nước sống theo luật Hồi Giáo nghiêm ngặt. Dẫu vậy cũng có khoảng hơn kém 25.000 ngàn tín hữu Chúa Kitô sống đức tin vào Chúa giữa một đất nước theo Hồi Giáo.
- 17. Nước Mexico vào năm 1531 bốn lần Đức mẹ Maria đã hiện ra với một người thổ dân tên là Juan Diego Cuaunhtlatoatzin. Ngày nay bức ảnh Đức Mẹ „ Virgen de Guadalupe“ được hàng triệu người kéo đến hành hương kính viếng hằng năm.
- 18. Nước Nigeria bên Phi Châu, một nước đông dân cư tôn kính rước Thánh Patrick quan thầy của họ với áo choàng mầu xanh.
- 19. Nước Panama có Franz von Solano (1549-1610), người thực hiện phép lạ cho thế giới mới, được tôn kính là vị thánh bổn mạng chống tai ương động đất.
- 20. Nước Peru bên Nam Mỹ có vị Thánh nữ Rosa Lima (1586-1617) là thánh nữ quan thầy của những người làm vườn gieo trồng ươm cây, và những người bán hoa.
- 21. Nước Polen có Thánh Giám mục Stanislaus thành Cracowia (1030-1079) đã anh dũng can đảm vì lòng xác tín chống phản biện lại nhà vua và vị trưởng giáo Balan.
- 22. Nước Portugal có Thánh Anton thành Padua (1195-1231) thuộc dòng Phanxico, sinh trưởng ở thủ đô Lisboa nước Portugal, nhưng sang giảng đạo nổi danh nhập dòng sống ở bên Padua nước Ý.
- 23. Nước Nga, nước chủ nhà đăng cai tổ chức World Cup 2018, một nước theo Chính Thống Giáo Moscau, có Thánh Anre tông đồ Chúa Giêsu
là vị Thánh quan thầy.
- 24. Nước Saudi Arabia bên vùng Trung Đông là một quốc gia Hồi giáo, nơi việc thực hành Kitô giáo bị cấm
- 25. Nước Schweden có Thánh nữ Birgitta (1303-1373) làm tất cả vì lợi ích cho Giáo hội. Thánh nữ Birgitta thiết lập nhiều Tu viện và đã từng nói chuyện với Đức Giáo Hoàng thẳng thắn theo tiếng lương tâm.
- 26. Nước Thụy sĩ có Thánh Nicolaus miền Flue (1417-1487). Vị Thánh này là một nông dân, có gia đình, nhưng lại có đời sốnng tinh thần thiêng liêng cao độ, như là một nhà thần bí. Lúc sinh thời ngài luôn lên tiếng bênh vực đức tin vào Chúa.
- 27. Nước Senegal ở miền Tây Phi Châu có vị Thánh Hồi giáo: Amadu Bamba (1854-1972).
- 28. Nước Serbia theo Chính Thống giáo có vị Thánh Sava (1174-1236). Vị Thánh này là một nhà luật học, sống đời tu sĩ ở Cộng hòa Chính Thống bán đảo Athos, đồng thời là vị Tổng giám mục và là người xây dựng thiết lập nhiều Tu viện. Ngài là người có tiếng tăm được kính nể trong cộng đồng tinh thần ở bên Âu Châu.
- 29. Nước Spanien có Thánh tông đồ Giacobê (qua đời khoảng năm 44 sau Chúa giáng sinh) là vị Thánh quan thầy. Trung tâm hành hương Santiago, nơi có mộ Thánh Giacobe và đền thờ kính Thánh Giacobe nổi tiếng bên Âu Châu và thế giới.
- 30. Nước Nam Hàn có 52 triệu dân số, nhưng khoảng 9 người dân có một người theo đức tin Công giáo. Đức mẹ vô nhiễm nguyên tội là bổn mạng của người Công giáo nước Nam Hàn.
- 31. Nước Tunesien có Thánh giáo phụ Cypriano, Giám mục thành Carthago (khoảng 200 - 258) đã chết tử vì đạo.
- 32. Nước Uruguay ở miền Nam châu mỹ latinh sùng kính mẫu hình Đức mẹ „Virgen de los Treinta y Tres - Đức trinh nữ của 33“ từ năm 1825 ở thành phố Florida với vòng Triều thiên bằng vàng to lớn.
( Dựa theo Kirchen Zeitung fuer das Erzbistum Koeln, ngày 15.06.2018, trang 47.)
Hân hoan vui mừng phấn khởi đến cuồng nhiệt, khi đội tuyển của mình thắng trận thi đấu. Và cũng buồn thất vọng đến độ không còn muốn ăn uống gì…khi đội tuyển của mình thua cuộc bị đội đối thủ đá trái banh phá thủng lưới khung thành.
Đó là tâm lý tình cảm con người. Nhưng trong thâm tâm ai cũng âm thầm cầu kinh khấn khứa cùng vị Thánh quan thầy bổn mạng của đất nước cho đội tuyển đất nước mình được bằng an và gặt hái được thành công.
Mùa World Cup 2018
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long