Ngày chúa nhật, ngày lễ mừng
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Thiên Chúa truyền cho dân Israel 10 đều răn làm Giao Ước với họ:
„ 8 Ngươi hãy nhớ ngày Sa-bát, mà coi đó là ngày thánh.9 Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi.10 Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi.11 Vì trong sáu ngày, ĐỨC CHÚA đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, ĐỨC CHÚA đã chúc phúc cho ngày sa-bát và coi đó là ngày thánh.“ ( Xh 20,8- 11).
Hội Thánh Công Gíáo có điều răn: Chớ làm việc xác ngày Chúa nhật và lễ buộc.
Đâu là nguồn gốc cùng ý nghĩa cho đời sống đức tin của ngày này?
Ngày Sabbat theo đức tin cùng niên lịch của Do Thái giáo là ngày thứ bảy, ngày cuối tuần, theo chu kỳ một tuần lễ có sáu ngày.
Nhưng ngày Chúa nhật, theo nếp sống đức của đạo Công giáo không là ngày Sabbat, mà là ngày thứ nhất của tuần lễ , theo chu kỳ một tuần lễ có bảy ngày.
Theo khía cạnh đạo đức thần học, phúc âm Chúa Giêsu viết thuật lại, Chúa Giêsu sống lại ngày thứ nhất của tuần lễ. Vì thế ngày thứ nhất là ngày của Chúa, mừng ngày khởi đầu công trình sáng tạo mới sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô.
Nhưng từ trước khi đức tin đạo Công Giáo được loan truyền lan rộng trên thế giới, trong đế quốc Rama đã có ngày lễ kính thờ Thần Mặt Trời bách thắng- Sol invictus - trong đời sống xã hội Theo truyền thuyết hoàng đế Titus Tatius cùng với anh em Romulus và Remus đã chiến thắng và thành lập xây dựng nên thành Roma, cùng lập nên lễ nghi kính thờ Thần Mặt Trời vào năm 750 trước Chúa giáng sinh hằng tuần.
Năm 312 sau Chúa giáng sinh, Hoàng đế Constantino của Đế quốc Roma ra chiếu chỉ công nhận đạo Công giáo trong toàn đế quốc, cho tự do tôn giáo chấm dứt thời bách hại đạo Công giáo.
Nhà Vua dẫu vậy vẫn theo lễ nghi kính thờ thần Mặt Trời của đế quốc Roma. Nhưng với đức tin Công giáo Mặt Trời trở thành hình ảnh biểu tượng của Thiên Chúa.
Mãi đến năm 321 sau Chúa giáng sinh, Hoàng đế mới ban hành thành luật lệ một tuần lễ có bảy ngày. Và lấy ngày thứ nhất tuần lễ là ngày nghỉ việc, ngày lễ nghỉ. Ngày thứ nhất dành cho Mặt Trời- Sol hay Solis.
Và từ bước ngoặt đó theo dòng thời gian đức tin Công giáo đã „rửa tội“ cho ngày thờ kính Mặt Trời của dân Roma thành ngày thứ nhất của tuần lễ, ngày Chúa nhật kính thờ Thiên Chúa.
Những tín hữu Chúa Kitô đầu tiên - còn gọi là lương dân theo đức tin Chúa Kito - đã dành một ngày của tuần lễ là ngày nghỉ việc, ngày cầu nguyện dành cho Thiên Chúa. Ngày này họ nhớ đến sự sống lại của Chúa Giesu Kitô, ngày kính thờ Mặt Trời. Vì họ căn cứ theo phúc âm thuật lại Chúa Giêsu Kitô sống lại vào ngày thứ ba, sau khi bị đóng đinh vào thập gía. Ngày đó tiếp theo sau ngày Sabbat theo tập tục Do Thái giáo. Nên họ lấy ngày này mừng Thiên Chúa- Dies dominicus , dies dominica.
Ngay từ đầu thế kỷ thứ hai sau Chúa giáng sinh sách Didache, viết vào giữa những năm 80 đến 180 sau Chúa giáng sinh, và sau này các Giáo Phụ Plinius, thư của Barnaba thành Alexandria năm 100, Ignatius thành Antiochia năm 110 ở vùng Á Châu, Justin và Irenaeus thành Lyon năm 180. đã nói đến ý nghĩa đạo đức thần học ngày Chúa nhật dành kính thờ Thiên Chúa.
Sách Didache viết thuật lại:“ Khi anh em tụ họp mừng ngày của Chúa, anh em bẻ bánh và dâng lời tạ ơn, sau khi anh em trước đó đã tuyên xưng sự trở về với Chúa Kitô, để cho lễ dâng tiến của anh em nên tinh tuyền trong sạch.
Vì thế, chúng ta dành ngày thứ tám - ngày Chúa nhật, ngày thứ nhất của tuần lễ mới - trong niềm vui mừng - tưởng nhớ đến sự chết , sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô và sau đó Ngài đã trở về trời.“.
Trong dòng thời gian lịch sử của đời sống xã hội trên thế giới, ảnh hưởng của đức tin Kitô giáo, Giáo hội Công giáo với luật Hội Thánh, ngày Chúa nhật luôn được duy trì là ngày nghỉ việc, ngày các tín hữu Chúa Kitô đi đến thánh đường tham dự thánh lễ Misa.
Nhưng do đời sống kinh tế, chính trị có nhiều thay đổi, nhiều xu hướng ý thức hệ khác nhau, nên ngày Chúa nhật không còn mang ý nghĩa là ngày của Chúa, như Giáo Hội sắp đặt nêu ra. Thay vào đó, ngày Chúa nhật không còn là ngày đầu tuần mừng Chúa Giêsu Kitô sống lại, mà trở thành ngày cuối tuần tự do nghỉ ngơi giải trí.
„ Sine dominico non possumus!“ Không có Thiên Chúa và không có có ngày dành cho Thiên Chúa, đời sống trở nên trống rỗng. Ngày Chúa nhật thay đổi rất nhiều trong đời sống xã hội bên phương tây, nó trở thành ngày cuối tuần cho thời gian tự do. Thời gian tự do lại rơi vào sự hấp tấp vội vàng trong thế giới tân tiến dành cho điều gì là đẹp là cần thiết, như ai cũng biết. Nhưng thời giờ tự do mà không có nội dung thâm sâu là trung tâm điểm hướng dẫn toàn thể, nó sẽ trở thành thời giờ trống rỗng, nó không giúp cùng không thêm gì cho đời sống. Thời giờ tự do vì thế cần một trung tâm điểm dẫn đưa đến gập gỡ với Đấng là nguyên thủy và là đích điểm của thời giờ.“ ( Giáo Hoàng Benedicktô XVI.).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ecce panis angelorum - Này đây bánh của các thiên thần,
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm có hai lễ mừng kỷ niệm Bí tích Thánh Thể Mình Máu Thánh Chúa Kitô: Thứ năm tuần Thánh và ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô.
Lễ trọng mừng kính Mình Máu thánh Chúa Giêsu Kitô vào ngày thứ Năm của tuần lễ thứ hai sau lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống. Nhưng nhiều nơi trên thế giới mừng ngày này vào Chúa nhật.
Ngày lễ trọng được mừng kính từ 1246 ở Giáo Phận Liege bên Bỉ. Nguồn gốc lễ mừng này bắt nguồn từ thị kiến của Thánh nữ Juliana thành Liege , thuộc Dòng Augustino. Năm 1209 Thánh nữ Juliana thuật lại khi cầu nguyện ngây ngất trong một thị kiến đã xem thấy mặt trăng có một điểm đốm tối. Chúa Giêsu Kitô đã cắt nghĩ cho chị biết rằng, mặt trăng mang hình ảnh biểu tượng chu kỳ phụng vụ của Hội Thánh, và điểm đốm tối nơi đó biểu hiện sự còn thiếu ngày lễ mừng kính Bí tích bàn tiệc thánh thể.
Từ thị kiến tường thuật đó của Thánh nữ Juliana, Đức Giám mục thành Liege đã thiết lập ngày lễ mừng Mình Máu Thánh Chúa trong giáo phận của ngài.
Năm 1264 Đức Giáo hoàng Urban IV. đã ban hành tông hiến „Transiturus de hoc mundo“ thành lập ngày lễ mừng này trong toàn thể Hội Thánh Công giáo.
Năm 1215 Công đồng Latarano IV. đã đưa ra tín lý về Bí Tích Thánh Thể. Hội Thánh Công Giáo tin nhận rằng, trong thánh lễ Bánh và Rượu sau lời truyền phép trở nên Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô, và Chúa Giêsu Kitô luôn hiện diện thât sự nơi Bí Tích Thánh Thể trong hình dạng Bánh và Rượu
Thánh Thomas Aquino đã trước tác lời cầu nguyện ca tụng riêng cho lễ mừng kính này: Panis angelicus, Pange lingua, Adoro te devote, Verbum supernum prodiens và bài ca tiếp liên Lauda Sion.
Bài ca tiếp liên ngày lễ trọng mừng kính có câu: Ecce panis angelorum, factus cibus viatrorum, vere panis filiorum - Đây là bánh các thiên thần biến thành lương thực của khách hành hương; thực là bánh của những người con cái.
Phải, qua nhờ ơn Chúa, chúng ta trở nên con cái Chúa. Bí tích Thánh thể là lương thực nuôi dưỡng con người. Lịch sử dân Israel ngày xưa đi trong sa mạc trở về quê hương đất Chúa hứa, đã được Chúa ban cho họ Manna làm lương thực nuôi dưỡng họ không bị đói khát.
Cũng vậy, Bí tích Thánh Thể mình máu Chúa Giêsu Kitô là lương thưc không thể thiếu cho đức tin tâm hồn mọi thế hệ tín hữu Chúa Kitô.
Lương thực thần linh này mang đến sức sống cho tâm hồn đức tin người tín hữu trên con đường sa mạc trần gian thế giới.
Trong một thế giới vì hệ thống kinh tế, ý thức hệ chính trị đưa đến những yêu cầu thách thức đòi hỏi qúa mức làm cho đời sống bị khô héo mệt mỏi hao mòn.
Trong một thế giới lý luận của sức mạnh uy quyền chiếm ưu thế thống trị, nơi mà sự phục vụ và tình yêu thương bác ái mất chỗ đứng.
Trong một thế giới nền văn hóa sức mạnh và sự tàn bạo phá hủy đưa đến sự chết chiếm lĩnh trên tay chiếm ưu thế không phải là họa hiếm, làm cho đời sống thành ra âu lo hoài nghi.
Dẫu vậy, Chúa Giêsu Kitô không bỏ rơi con người chúng ta. Nhưng Ngài đến, và trao tặng chúng ta sự an ủi tin tưởng: Ngài chính là „Bánh hằng sống“, như Ngài nói trong phúc âm: Thầy là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ có sự sống đời đời.
Thánh sử Marco thuật lại Chúa Giêsu làm phép lạ „ hai chiếc bánh và năm con cá“ hóa ra nhiều làm lương thực cho hằng năm ngàn người ăn no đủ dư thừa, đang lúc họ đói dọc đường ở nơi hoang vắng. ( Mc 6,30-44). Đây là hình ảnh lời tiên báo về Bí Tích Thánh Thể Chúa Giêsu thiết lập ngày thứ năm tuần thánh trước khi hy sinh chịu chết.
Ước muốn của Chúa Giêsu Kitô lập Bí Tích Thánh Thể là lương thực cho tâm hồn con người. Và Hội Thánh Công giáo theo ý muốn đó, xưa nay luôn hằng với lòng tôn kính cao độ duy trì nếp sống Bí Tích Thánh Thể là trung tâm đời sống đức tin, như trái tim là trung tâm luân chuyển sự sống của con người. Vì thế, Thánh lễ Misa được cử hành liên tục hằng ngày khắp nơi trên thế giới.
Trong nếp sống đạo Công giáo nhiều nơi, nhất là bên các xứ đạo Âu Châu có tập tục kiệu rước Mình Thánh Chúa ngang qua đường phố trong xứ đạo ngày lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa muốn nói lên sự tôn kính, và đồng thời cũng muốn nói lên lời cầu xin chúc phúc lành Mình Thánh Chúa cho con người đang sinh sống nơi đây được ân đức bình an, niềm vui và tình yêu thương cho đời sống.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Một Thiên Chúa ba ngôi
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng ngày nhiều lần chúng ta làm dấu thánh gía: nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, vừa tuyên xưng đức tin vào một Thiên Chúa ba ngôi vị, và cũng vừa là lời cầu nguyện.
Dấu thánh gía cùng với công thức lời tuyên xưng là logo căn bản của đức tin Kitô gíao.
Công thức lời tuyên xưng Cha, Con và Thánh Thần là ngôn ngữ hình ảnh biểu tượng của con người diễn tả về Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa không có hậu duệ con cháu nối dõi tông đường như trí tưởng tượng của loài người chúng ta. Và cũng không có thần trí khôn như loài người chúng ta.
Chân nhận Thiên Chúa là Cha muốn nói lên đời sống chúng ta không tự do chính mình chế tạo làm ra. Nhưng đời sống chúng ta được ban cho, được tạo thành. Vì thế chúng ta cám ơn Đấng là „Cha“ đã ban cho ta đời sống, theo suy nghĩ của chúng ta.
Diễn tả Thiên Chúa bằng danh xưng là Con muốn nói lên chúng ta không thể bảo đảm rằng từ đời sống của chúng ta có gì phát sinh ra được. Nhưng hướng tầm nhìn vào đời sống, sự chết và nhất là sức sinh động của Chúa Giêsu thành Nazareth chúng ta cảm nhận được sức lực sự tin tưởng niềm hy vọng.
Tuyên xưng Thiên Chúa là Thánh Thần muốn nói lên trí khôn tinh thần và sinh lực của con người chúng ta không đủ. Nhưng chúng ta tùy thuộc vào một sức lực khác đem lại cho tâm trí ta sự sáng tạo, sáng kiến hứng khởi vươn lên.
Công thức tuyên xưng Thiên Chúa ba ngôi nói ra bên ngoài môi miệng, nhưng là phản ảnh lý luận từ nội tâm.
Đời sống con người cần có một nền tảng căn bản. Đó là hình hài thân xác, sức lực đời sống, khả năng ngôn ngữ, khả năng suy nghĩ, sức năng động, năng khiếu. Những căn bản nền tảng này được ban cho mỗi người, giúp con người hoàn thành đời sống của mình. Những căn bản nền tảng này nói lên hình ảnh biểu tượng sức mạnh sáng tạo của Thiên Chúa.
Ngoài ra đời sống con người cần phương hướng chỉ đường soi dẫn. Chỗ nào là điểm tựa cho đời sống? Con người cần làm gì với sức lực đời sống mình cùng đi về đâu? Và nếu trong trường hợp đời sống gặp trở ngại không thành công như mong muốn, rồi khi sức lực tiêu hao sai lạc, kiệt cùng…ta bơ vơ không biết đi về đâu, xử sự làm sao?
Khuôn mặt hình dạng Chúa Giêsu, mà ta nhận ra gặp được qua Lời của ngài trong phúc âm Kinh Thánh giúp ta tìm ra điểm định hướng cách ngạc nhiên mà trước đó ta không ngờ. Cuộc đời Chúa Giêsu và Lời người giảng dậy phát tỏa con đường định hướng riêng biệt: tình yêu thương bác ái.
Và người tín hữu Chúa Kitô nói đến hiệu qủa làm cho đời sống được hoàn thành tròn đầy là do Đức Chúa Thánh Thần, Đấng cùng đồng dạng với Đấng Tạo Hoá, và Đấng cứu độ ̣ Đấng là tinh thần hướng dẫn làm cho lịch sử đời sống có ý nghĩa.
Hình ảnh con người diễn tả về một Thiên Chúa có ba ngôi vị vượt qúa tầm suy nghĩ, tầm hiểu hiết của trí khôn con người.
„ Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất.5 Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em).( Đệ nhị Luật 6,4-5).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hơi thở trong đời sống
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Em bé đang chạy chơi đụng phải mép bàn ngã té đau nơi trán. Thế là em khóc kêu la inh ỏi…mẹ em chạy đến ôm em thổi hơi vào chỗ đau nơi trán của em. Em cảm thấy dịu mát bớt đau, và từ từ nín không khóc nữa.
Hơi thở của mẹ em mang đến sự tươi mát cùng sự chữa lành an ủi cho em.
Người ta đo lường và đưa ra thống kê mỗi năm hơn tám triệu người chết vì hít thở không khí bị ô nhiễm có nhiều bụi trên thế giới.
Theo thống kê của Cơ quan y tế bảo vệ sức khoẻ thế giới - WHO- hằng triệu người trên thế giới hít thở hằng ngày không khí dầy đặc vì bụi nhỏ li ti bay đè nặng trong đó. Có tới 80 phần trăm người sống trong các thành phố lớn hít thở không khí bị ô nhiễm nặng.
Ở nhiều thành phố lớn dân cư đông đúc, nhà máy thải những khí khói độc hại , và khói xe hơi thải ra làm ô nhiễm không khí dầy đặc, gây ra những chứng bệnh làm đường hô hấp bị bế tắc rất độc hại nguy hiểm đe dọa sự sống của con người cùng thú vật.
Sau những cảnh cáo của Âu Châu - EU- , Tòa án bên Đức đã có phán quyết đồng ý cấm không cho xe hơi chạy bằng dầu khí đặc „diesel“ vào các thành phố đông dân cư, để tránh không khí bị những bụi nhỏ li ti bay vào đè nặng không khí gây ra ô nhiễm nặng, gây ra bệnh ung thư cho con người, khi hít thở vào phổi.
Vì thế, giữ gìn và làm cho không khí trong lành là vấn đề hàng đầu trong đời sống xã hội trên thế giới ngày hôm nay.
Không khí là yếu tố căn bản cần thiết cho sự sống. Một người hằng ngày hít thở hơn hai mươi ngàn lần với 12,5 khối không khí rất cần thiết cho sự sống tồn tại cùng phát triển.
Ngay từ thời thượng cổ xa xưa, các nhà triết học đã lý giải thế giới được hình thành theo bốn nguyên lý: Nước, đất, lửa và không khí. Anaximenes ( 585-525 trước Chúa giáng sinh) qủa quyết không khí là nguyên lý nguyên thủy có trước và ở trung tâm hình thành nên thế giới, sau không khí mới nảy ra sinh nước và đất.
Không khí là tài nguyên châu báu do Trời ban cho mọi sinh vật trong hoàn vũ , mà không ai phải mua.
Không khí mang đến sự sống không nhìn thấy được bằng con mắt thường của con người. Nhưng trong đó có ẩn chứa yếu tố rất quan trọng mang đến sinh lực sự sống.
Và vì thế không khí trong hoàn vũ, hơi thở của mỗi con người có nguồn rễ căn nguyên trong đức tin Công giáo.
Kinh Thánh thuật lại khi sáng tạo trời đất và con người, ngay từ khởi thủy lúc vũ trụ còn hoang sơ trống rỗng chưa thành hình thể hơi thở của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã được thổi vào cho sự sống được nảy sinh phát triển. Thiên Chúa lấy bùn đất tạo thành con người và Ngài thổi hơi vào mũi truyền sự sống cho con người ( Sáng Thế 2,7). Và từ đó sự sống con người được lưu truyền nảy sinh từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Hơi thở của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá mang đến sự sống cho mọi loài tạo vật trong vũ trụ.
Con người đầu tiên có sự sống nhờ hơi thở của Thiên Chúa. Còn những con người sau đó có phải là công trình tạo dựng với hơi thở của Đấng Tạo Hoá như thế không?
Con người không phải là một hỗn hợp hoá học của hai yếu âm dương phát sinh từ nơi người đàn ông và người phụ nữ chung hợp lại tạo ra một hay hai con người như kiểu phân tích thực nghiệm suy hiểu. Không , không đơn giản như thế. Nhưng con người là một bí ẩn mầu nhiệm được Đấng Tạo Hóa tạo thành về hình hài thân xác, tính tình, đường đời sống và do chính hơi thở của Thiên Chúa thổi vào. Nên mới có sự sống, sự phát triển, cho dù đời sống con người có những giới hạn về mọi mặt.
Hơi thở sự sống của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa là nguyên lý căn bản tạo thành ở trong mỗi con người.
Con người kế tiếp cũng được tạo thành như con người đầu tiên. Họ vẫn mãi mãi là công trình tạo dựng của Đấng Tạo Hóa với hơi thở của Ngài nơi tế bào gốc mầm sống được Ngài tạo dựng ký thác phú bẩm vào con người nơi thân thể người đàn ông và nơi thân thể người phụ nữ.
Chúa Giêsu sau khi sống lại đã theo cách thức Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa dựng nên vũ trụ cùng con người có sự sống, đã thổi hơi vào các Thánh Tông Đồ, vào Giáo Hội, làm cho sức sống đức tin vào Chúa được vững mạnh củng cố: Chúa Giêsu hiện ra thổi hơi vào các Tông Đồ và nói Anh em hãy nhận lãnh Chúa Thánh Thần.( Ga 20,22…)
Hơi thở của Chúa Giêsu sống lại là Đức ChúaThánh Thần, Đấng là tình yêu, sự chân thật, là động cơ cho sức sống đức tin nơi người tín hữu Chúa Kitô vươn lên phát triển qua những Bí Tích Rửa tội, Thêm sức và Giải tội trong đời sống Giáo Hội, nhất là cung cách nếp sống bác ái tình tương thân tương ái giữa con người.
„Lạy Chúa Thánh Thần,
xin hà hơi vào tâm hồn con, để con suy tư điều chân chính thánh thiện,
xin thúc đẩy con con làm điều thiện hảo tốt lành,
xin gợi hứng để con biết yêu mến điều tốt đẹp mỹ miều,
xin ban ân đức để con biết gìn giữ nhữn gì là chân-thiện mỹ,
xin gìn giữ con để con đừng bao giờ lạc xa điệu chân thiện mỹ.“
( Thánh Augustino.)
Lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Lon
Nhớ về mẹ.
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Thời tiết tháng Năm đang là mùa Xuân không khí mát dịu. Con nhớ đến mẹ hằng ngày, nhưng hôm nay con nhớ đến mẹ nhiều hơn. Vì ngày mai, theo tập tục nếp sống văn hóa xã hội là „Ngày của mẹ“, nhưng gọi là „Ngày nhớ ơn mẹ“ hay „ngày hiền mẫu“ thì đúng cùng hay hơn.
Mẹ của con đã khuất núi về bên kia thế giới. Nhưng theo đức tin Công giáo linh hồn mẹ trở về quê hương trên nước Chúa. Như thế mẹ vẫn còn sống trên thế giới bên kia.
Con nhớ lại, khi xưa lúc còn nhỏ mẹ là tất cả, là bầu trời thế giới riêng của con. Mẹ bồng ẵm con trên tay mẹ, hát cho con nghe, mẹ cầm tay con vẽ những hình ảnh con thú vật, cái nhà, đường đi, cây bông hoa... bằng những đường nét đơn sơ nghuệch ngoạch. Thật là một thời gian êm đềm tốt đẹp đã sống trải qua tuổi thơ bé bên mẹ.
Con bây giờ những khi làm điều gì, con nhớ mãi kỷ niệm lúc còn nhỏ tuổi bên mẹ khi xưa, như mỗi tối mẹ ngồi bên giường nói chuyện với con, cùng con tập làm dấu thánh gía, đọc kinh Kính mừng, mẹ quạt ru con ngủ, rồi mơ màng thiếp ngủ đi lúc nào không hay nữa. Và cả những lúc con đau bệnh, mẹ đến ngồi bên giường lau mặt thay quần áo cho con, cầm ly nước dỗ dành con uống thuốc, săn sóc cho con.
Con nhớ lại tất cả những gì mẹ đã dành thì giờ làm cho con, để anh chị em chúng con quây quần bên mẹ.
Con chắc mẹ không sao hiểu biết được thế nào, cùng mức độ tình yêu thương mà chúng con nhờ mẹ mà có được, cùng học hỏi được.
Mẹ là điều gì cao qúi vô gía cho đời chúng con!
Mẹ đã khám phá ra, học hiểu được tình yêu thương trải qua những năm tháng, phải, suốt cả cuộc đời lo lắng nuôi dậy chúng con. Và chúng con học hỏi được tình yêu qua nhờ mẹ. Mẹ đã chỉ dẫn cho chúng con cách thức sống như thế nào để cho đời sống được tốt đẹp.
Con không biết phải làm sao có thể cám ơn mẹ, vì mẹ đã dành cho con thời giờ qúa qúi báu.
Con nghẹn ngào không biết dùng ngôn ngữ lời lẽ nào để diễn tả tấm lòng của mẹ sâu thẳm, mà lại trong sáng cùng cao quí cho đời của con!
Thời ngày xưa con còn bé giờ đây sống trở lại với những kỷ niệm bên mẹ ngày nào.
Con cám ơn mẹ Mẹ đã hằng đồng hành săn sóc tuổi thơ bé của con. Điều này thật chất phác đơn thành. Nhưng lại thật là một bầu trời tràn đầy hạnh phúc!
Ngày nhớ ơn mẹ, con không còn có thể biếu tặng món qùa gì cho Mẹ. Vì mẹ đã ra đi về thế giới bên kia, khoảng cách giữa trời và đất. Nhưng dẫu vậy mẹ vẫn hằng sống động trong trái tim tình yêu mến của con còn ở dưới trần gian. Nhớ về mẹ với những kỷ niệm chan chứa tình yêu mến lòng biết ơn.
Theo đức tin giáo lý đạo Công giáo, sự sống con người được Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng Mẹ đã nhào nặn thân hình con, cho con bơi lội trong cung lòng mẹ, và trong suốt đời tuổi thơ cũng như tuổi trẻ của con trên cánh tay, trong lòng, trên đầu gối mẹ. Mẹ đã cưu mang con trong cung lòng mẹ nằm kề sát ngay bên dưới trái tim của mẹ.
Thân xác con người không chỉ là một hỗn hợp sinh lý hóa của hai yếu tố âm dương phát triển thành. Không, không phải chỉ như thế đâu. Đấng Tạo Hóa đã nắn đúc tạo thành hình thân xác con người có sự sống phát triển. Dẫu vậy, một phần thân thể, một phần trái tim con là do từ dòng máu thân thể và trái tim của mẹ. Đó là ý muốn của Đấng Tạo Hóa khiến làm ra như vậy.
Mẹ là người đầu tiên chứng kiến, khi con mở môi miệng nói tiếng e a đầu đời, khi con khệnh khạng lảo đảo bước đi bước thứ nhất đời con.
Ngôn ngữ, giọng nói, tiếng cười, cùng dáng đi đứng của con phần lớn là những nề nếp thói quen con chịu ảnh hưởng, hay đã được học nơi mẹ.
Đó là những điều, mà không bao giờ có thể dùng tiền bạc mua được. Con cám ơn mẹ, vì mẹ đã luôn có mặt gần kề bên con ngay từ những giây phút khởi đầu đời con.
Như lời cám ơn, con viết những dòng chữ này, để nói lên tâm tình con luôn luôn nhớ đến mẹ, con hằng yêu mến mẹ.
Con muốn sống như mẹ, vững mạnh cùng can đảm! Vì nhờ mẹ mà con có được kinh nghiệm cùng học hỏi được thế nào là tình yêu thương bác ái.
Mỗi khi nhớ đến mẹ, con cảm nghiệm ra tình mẹ hiện thực trong đời sống con người. Nhưng lại qúa thiêng liêng không có hình hài cùng mầu sắc.
Mỗi khi suy nghĩ đến bổn phận của một người mẹ, con hiểu ra rằng, lòng mẹ như đóng khung trong thân thể người mẹ. Nhưng lại bao la sâu thẳm, không sao đo lường được.
Mỗi khi trong niềm vui mừng hòa lẫn trong dòng nước mắt nhớ nhung dâng lời kinh cầu khấn cho linh hồn mẹ, con cảm nghiệm được hương vị tình mẹ êm thắm nhẹ nhàng. Nhưng lại rộn ràng trào dâng, phát đi tín hiệu bừng lên sức phấn khởi cho con.
Ngày nhớ ơn Mẹ.
Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
85 năm dòng suối nước Đức mẹ Banneux
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cách đây 85 năm ( 1933-2018) Đức mẹ Maria đã hiện ra với cô Mariette Beco tám lần từ tháng Một đến tháng Ba 1933 ở Banneux nước Belgium. Đức mẹ đi đàng trước, nhưng quay mặt về phía Mariette Beco và đoàn người đi theo, dẫn tới dòng suối nước nhỏ bên vệ đường trong rừng Banneux và bảo:“ Con hãy nhúng tay vào dòng suối nước này dành cho mọi dân tộc!”
Dòng suối nước Banneux từ ngày đó trở thành dòng suối nước linh thiêng. Ngày nay đi hành hương đến kính viếng Đức mẹ Banneux, ai cũng đều ra đó nhúng tay vào chậu bể nước chảy và đọc kinh cầu nguyện. Hay có những còn người hứng nước ở các vòi nước chảy ra từ dòng suối đem về nhà dùng uống hay rửa mặt…
Nước từ dòng suối Banneux hay từ các dòng suối, sông ngòi, biển cả trong công trình thiên nhiên đều ẩn chứa yếu tố căn bản mang lại sức sống cho mọi tạo vật trong vũ trụ.
Nước là sản phẩm qùa tặng của Trời cao. Nước đem lại sức sống, ẩn chứa sức mạnh gìn giữ cùng phát triển và rửa tẩy rửa chữa lành. Nước là nhu cầu cần thiết cho đời sống con người, thú vật và cây cỏ trong dòng lịch sử thời gian ở khắp mọi nơi trên trái đất.
Và nước cũng còn giữ vai trò quan trọng trong niềm tin tôn giáo.
- 1. Nước trong đời sống con người
Nước chảy thành dòng, và không thể nắm giữ lại được như một vật rắn chắc. Nếu muốn giữ nước lại, phải có ly tách, hay thùng chậu, ao hồ chứa…mới có thể quy tụ giữ nước lại được.
Nhà hiền triết Aristoteles người Hylạp, đã suy nghĩ theo lý luận triết học đi đến kết luận có bốn yếu tố quan trọng nền tảng trong thiên nhiên: đất, nước, lửa và khí. Nước là một trong bốn yếu tố nền tảng đó. Cũng theo nhà hiền triết người Hylạp, Thales, nước là yều tố duy nhất làm nên thân thể.
2/ 3 trái đất được bao phủ bằng nước. Không có nước, sự sống héo khô tàn lụi. Vì tất cả mọi con đường sự sống đều tùy thuộc cần đến nước.
Nước là thành phần chính yếu quan trọng của các cơ quan thân xác con người. Từ 55-60% nước chiếm trọng lượng trong thân thể con người.Nước như viên gạch xây dựng các tế bào trong thân thể. Nước đóng vai trò là dung dịch làm tan biến tiêu hóa những chất nặng hay đặc trong các cơ quan thân thể.
Nước cũng đóng vai trò vận chuyển những chất dinh dưỡng cho các cơ quan trong thân thể. Nước điều hòa nhiệt độ nóng ấm trong thân thể con người.
Vì thế, nước là thành phần chính yếu cùng quan trọng cho cơ thể con người. Và cũng vì thế con người cần phải uống nước hằng ngày, để cho các cơ quan làm việc giúp cho sự sống phát triển và sức khoẻ được điều hòa.
- 2. Nước trong niềm tin các tôn gíao
Trong niềm tin các tôn giáo, nước là điều thánh thiêng cùng quan trọng.
Theo niềm tin Hồi giáo, nước là dấu hiệu khởi nguyên của sự sống, và là mối dây tương quan nối liền với Thần Thánh.
Theo Phật giáo, nước quan trọng. Vì nước là một trong bốn yếu tố trong vũ trụ. Dòng nước chảy trong sông là hình ảnh giáo lý Phật giáo, con đường chiêm niệm đời sống con người cho tới khi đạt được cứu độ nơi Niết Bàn.
Theo Ấn Độ gíao, nước là sức mạnh tẩy rửa thân thể cùng tinh thần con người.
Theo Kyto gíao, nước là khởi nguyên của mọi sự sống. Trong bài tường thuật về sáng tạo vũ trụ, Thần Linh Thiên Chúa bay là là trên nước, và Thiên Chúa sáng tạo trước tiên vũ trụ trái đất từ nước. Từ đó phát sinh nẩy nở sức sống mọi loài trong vũ trụ.
- 3. Nước, hình ảnh Chúa Thánh Thần
Thánh Gioan dùng hình ảnh làn nước sự sống diễn tả về Đức Chúa Thánh Thần (Ga 7,37-39).
Ai chúng ta cũng đều đã có kinh nghiệm cùng cảm nghiệm về sự phấn khởi tươi mát mang đến năng lực cho đời sống. Lúc khát nước hay khi gặp trời nóng nực mà nhận được ly nước uống vào, ngay tức thì cơn khát được hạ dịu bớt, sức sống phấn khởi bừng lên trong thân thể nơi làn da thớ thịt, cùng nơi tâm trí . Lúc đó ly nước mát quan trọng qúy gía biết chừng nào!
Vào mọi thời đại và ở nơi nơi, nước luôn là yếu tố căn bản cho phát triển về ruộng vườn, cây cối ngoài thiên nhiên; cho nhu cầu ăn uống,vệ sinh sạch sẽ của con người cùng thú động vật.
Dòng nước chảy trong dòng suối, khe lạch, nơi sông ngòi đến đâu mang chất phân bón phù sa cho cây cỏ, ruộng vườn được phát triển tươi tốt. Và dòng nước là vùng, là ngôi nhà chỗ ẩn thân sinh sống cho mọi loài cá tôm. Trong dòng nước chúng sinh sản lớn lên phát triển làm thức ăn dinh dưỡng nuôi sống con người từ ngàn xưa.
Đức Chúa Thánh Thần là sức mạnh của Thiên Chúa, tựa như làn nước làm cho sức sống sự xanh tươi chảy thông cuồn cuộn bừng lên.
Chúng ta nhìn thấy dòng nước. Nhưng Thiên Chúa, Đấng dựng nên nước, ký thác sự bí ẩn mầu nhiệm sức sống trong đó, khiến mắt ta không nhìn thấy sức mạnh ẩn dấu trong nước.
Bằng đôi mắt thường chúng ta quan sát dòng nước chảy. Nhưng tâm trí ta, dù có thể dùng phương pháp khoa học thực nghiệm phân tích chất chứa trong nước, cũng không hiểu được mầu nhiệm thâm sâu ẩn chứa sức sống của nước do Trời cao tạo dựng nên.
Sức sống ẩn chứa trong dòng nước mang lại không chỉ sự tươi mát cho da thịt, mà còn sức mạnh cho tâm hồn lẫn gân cốt bắp thịt, sự phấn khởi tỉnh táo cho tâm trí suy nghĩ biểu hiện qua nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt, trên ánh mắt con người.
Giống như mầu nhiệm sức sống ẩn chứa trong dòng nước, Đức Chúa Thánh Thần, Đấng là sức mạnh cho sự sống đức tin vào Thiên Chúa thể hiện theo nhiều phương cách, mà tâm trí ta không sao nhìn thấu cùng thông hiểu nổi, hay không như ta chờ đợi mong muốn.
Đức Chúa Thánh Thần, mà Chúa Giêsu hứa ban gửi đến cho Giáo Hội luôn hằng có mặt trong Giáo Hội. Ngài là Đấng vô hình, nhưng không phải là một „bóng ma thánh“.
Ngài là dòng nước mang sức sống đến cho đời sống thiên nhiên của Giáo Hội.
Dòng nước chảy mang đến sức sống cùng sự đổi mới. Dòng nước sức sống Đức Chúa Thánh Thần tác động âm thầm tiệm tiến trên sự đổi mới trong lòng sự sống Giáo Hội.
Chúng ta chỉ có thể tìm cách cắt nghĩa diễn tả Đức Chúa Thánh Thần bằng hình ảnh, như Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh dòng nước là nguồn sức sống nói về Thần linh Thiên Chúa, Đấng là mầu nhiệm ẩn dấu với tâm trí con người.
Đức thánh cha Phanxico trong bài giáo lý ngày 08.05. 2013 đã có suy tư:
„ Con người như một khách lữ hành, đang băng qua hoang địa cuộc đời, khát một nước hằng sống, vọt lên và tươi mát, có khả năng làm thỏa mãn ước vọng sâu thẳm tận đáy lòng về ánh sáng, tình yêu, vẻ đẹp và bình an của người ấy. Tất cả chúng ta đều cảm thấy ước vọng ấy!
Và Chúa Giêsu ban cho chúng ta nước hằng sống này: đó là Chúa Thánh Thần, Đấng phát sinh từ Chúa Cha, và là Đấng mà Chúa Giêsu đổ vào lòng chúng ta. Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10).
________________________
Đức Mẹ đã hiện ra với cô Mariette Beco, và đã chỉ cho Cô dòng suối nước chữa trị ban ơn lành. Xin Đức Mẹ giúp chúng con đừng bao giờ quên làn nước Bí tích Rửa tội cũng là dòng suối nước ban ơn lành của Chúa, mà ngày xưa khi còn thơ bé chúng con đã lãnh nhận.
Khi hiện ra với cô Mariette Beco, Mẹ đã bảo „hãy nhúng tay vào dòng suối nước dành cho mọi dân tộc“. Xin Mẹ giúp chúng con luôn nhớ chạy đến dòng suối nước nguồn mạch mọi ơn đức là các Bí Tích, nhất là nguồn suối nước Bí Tích Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô.
Khi hiện ra Đức Mẹ đã nói với Mariette Becco rằng: Mẹ đến để xoa dịu những đau khổ thương tích cho con người. Là con cháu Evà đang còn trong thung lũng đầy nước mắt đau khổ nơi trần gian, thân xác hay đau yếu bệnh tật. Đời sống rất cần sự an ủi xoa dịu của Đức Mẹ cho cuộc đời mình.
Đức Mẹ Maria khi hiện ra ở Banneux đã xưng mình là Mẹ của người nghèo khổ. Con người loài thụ tạo trong công trình tạo dựng của Chúa trên trần gian. Đời sống chúng ta là những con người nghèo khổ. Vì cuộc đời có nhiều vướng trở vấp phạm khiếm khuyết tội lỗi, yếu đuối , giới hạn nghèo nàn tinh thần và thể xác.
Chạy đến dưới bóng áo từ bi của Đức Mẹ, xin Đức Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho đời sống hôm nay và ngày mai.
Ngày hành hương Thánh Mẫu Âu Châu, 13.05.2018
Kỷ niệm 85 năm Đức Mẹ Banneux 1933-2018
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cầu xin cho mùa màng
- Viết bởi Dân Chúa
Trong nếp sống đức tin người Công giáo có tập tục đọc kinh cầu mùa.
Có những xứ đạo ở Việt Nam tổ chức rước kiệu cầu mùa vào ngày lễ kính Thánh Vincentê Ferrer ngày 5.4. hằng năm, xin cho mùa màng được mưa thuận gío hòa.
Và cũng có tập tục đọc kinh cầu mùa vào ngày lễ mừng kính Chúa Giêsu lên trời. Tập tục này sống động ở nơi các xứ đạo, nhất là ở miền quê nơi nông nghiệp là công việc sinh sống chính yếu.
Vào lúc 12 giờ trưa ngày lễ mừng Chúa Giêsu lên trời, mọi người giáo hữu kéo về thánh đường đọc 33 kinh Tin Kính, tưởng nhớ lại 33 năm Chúa Giêsu sinh sống trên trần gian. Và qua đấy xin Chúa ban cho công việc đồng áng mùa màng được có mưa gío thuận hòa trúng mùa. Tập tục này có lẽ do các Vị Thừa Sai ngày xưa hồi thế kỷ thứ 17. 18. sang truyền giáo phổ biến nơi vùng các xứ đạo. Thật là một cung cách sống đức tin đậm nét sâu thẳm cùng sống động gây lòng phấn khởi cho con người.
Bên các xứ đạo Công giáo nước Đức có tập tục rước kiệu cầu mùa. Tập tục rước kiệu cầu mùa ở những xứ đạo, phần lớn ở miền thôn quê nông nghiệp kéo dài ba ngày trước lễ Chúa Giêsu lên trời.
Lễ Chúa Giêsu lên trời vào ngày thứ Năm trong tuần, theo như Hội Thánh quy định, 10 ngày trước lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Vào ba ngày liên tiếp - thứ hai, thứ ba và thứ tư- trước lễ Chúa Giêsu lên trời có buổi rước kiệu với Thánh giá Chúa Giêsu đi đầu, đang khi đọc kinh cầu các Thánh người giáo hữu đi qua cánh đồng trong xứ đạo, hay qua những con đường chung quanh xứ đạo, - tùy theo tổ chức của mỗi xứ đạo- rồi tiến vào nhà thờ dâng Thánh Lễ Misa cầu xin cho những nhu cầu sinh sống của con người.
Đây là cung cách sống đức tin, nhưng càng ngày càng có ít người tham dự. Dẫu vậy cũng nói lên tâm tình tạ ơn Thiên Chúa. Xin Thiên Chúa nhờ lời bầu cử của các Thánh ban cho đời sống được bằng an khoẻ mạnh, cho có công ăn việc làm, cho mùa màng được tốt đẹp có của ăn nuôi sống con người.
Tập tục cầu mùa ba ngày trước lễ Chúa Giêsu về trời có truyền thống từ thời xa xưa trong Hội Thánh Công gíao.
Có lẽ vào thế kỷ thứ 4. đã có tập tục rước kiệu cầu mùa vào mùa phục sinh trong Hội Thánh công giáo rồi, với mục đích „rửa tội“ Kitô giáo hóa thay thế cho tập tục của dân ngoại không Công giáo lúc đó cũng đã có tập tục rước kiệu ở các hành lang hay ngoài phố kính thờ Thần Robigus.
Năm 469- 470 đức Giám mục thành Viena, Mamertus đã lập ra cung cách rước kiệu ở hành lang nhà thờ cầu xin cho được bằng an khỏi tai nạn động đất và không bị mất mùa vào ba ngày liên tiếp trước lễ Chúa Giêsu lên trời. Vào những ngày này không chỉ rước kiệu đọc kinh, mà còn ăn chay đền tội nữa.
Vào năm 800 thời đức Giáo hoàng Leo III. tập tục ba ngày cầu mùa được đưa vào phụng vụ theo lễ nghi Roma.
Ngày nay, nơi các xứ đạo miền thôn quê còn giữ tập tục đọc kinh rước kiệu cầu mùa ba ngày trước lễ mừng kính Chúa Giêsu lên trời thường vào buổi sáng sớm đi xuyên qua hoặc cánh đồng lúa, đồng ruộng trồng hoa mầu hay qua các con đường nhà ở quanh thánh đường.
Việc cầu mùa ngày nay trong các xã hội đất nước kỹ nghệ, công nghiệp hóa không mấy chú trọng nhắm vào mùa màng lúa mạ hoa mầu được trúng mùa có kết qủa thu hoạch tốt.
Nhưng chú trọng nhiều hơn đến nhu cầu sức khoẻ con người, cho khỏi phải sống trong những thiên tai sự dữ, bệnh dịch, cùng xin chúc lành của Thiên Chúa cho những công việc con người làm được có kết qủa tốt đẹp bình an. Nhất là cho không bị chiến tranh đe dọa phá hoại môi trường sinh sống. Cầu xin cho sự phát triển thịnh vượng, cùng cho đời sống hòa bình của con người.
Lễ Đức Chúa Giêsu lên trời
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đức Bà như hòm bia Thiên Chúa
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Kinh cầu Đức mẹ Maria có câu ca ngợi cầu xin : Đức Bà như hòm bia Thiên Chúa!
Hòm bia Thiên Chúa là gì vậy, và tại sao lại ca ngợi Đức mẹ Maria như vậy?
Hòm bia Thiên Chúa, tiếng Do Thái : Aron habrit, là một cái hòm thánh nhiệm mầu của dân Do Thái. Hay cũng còn được gọi là Nhà Tạm.
Trong chiếc hòm nhiệm mầu này có hai tấm bảng bằng đá khắc ghi 10 Giới Răn của Thiên Chúa, mà ngày xưa Thiên Chúa trên núi thánh Sinai đã truyền cho dân qua thánh tiên tri Mose trên đường từ Aicập trở về đất Chúa hứa quê hương Do Thái. 10 Giới Răn đó được coi là Giao ước Thiên Chúa ký kết với dân Do Thái. Vì thế có tên là hòm bia giao ước.
Hòm bia giao ước theo Kinh Thánh thuật diễn tả: "Chúng phải làm một Hòm Bia bằng gỗ keo, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi.11 Ngươi sẽ lấy vàng ròng mà bọc, ngươi sẽ lấy vàng mà bọc cả trong lẫn ngoài. Ngươi sẽ làm trên đó một đường viền chung quanh bằng vàng.12 Ngươi sẽ đúc cho Hòm Bia bốn chiếc vòng bằng vàng và gắn vào bốn chân Hòm Bia: bên này hai vòng, bên kia hai vòng.13 Ngươi sẽ làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng.14 Ngươi sẽ xỏ đòn vào những vòng bên sườn Hòm Bia để khiêng.15 Đòn để xỏ vào vòng của Hòm Bia thì không được rút ra nữa.16 Ngươi sẽ đặt vào Hòm Bia Chứng Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi.
17 Ngươi sẽ làm một cái nắp xá tội bằng vàng ròng, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi.18 Ngươi sẽ làm hai tượng thần hộ giá bằng vàng gò, ngươi sẽ làm các tượng ấy ở hai đầu nắp.19 Ngươi sẽ làm một tượng ở đầu này, một tượng ở đầu kia; ngươi sẽ làm các tượng thần hộ giá gắn liền với nắp, ở hai đầu.20 Các tượng thần hộ giá có cánh giương lên và phủ trên nắp. Hai tượng đối diện với nhau, cùng cúi mặt xuống nắp.21 Ngươi sẽ đậy nắp xá tội trên Hòm Bia, và ngươi sẽ đặt vào đó Chứng Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi.22 Ở đó Ta sẽ gặp gỡ ngươi. Từ trên nắp, giữa hai tượng thần hộ giá đặt trên Hòm Bia Chứng Ước, Ta sẽ nói với ngươi tất cả những gì Ta truyền cho ngươi để ngươi nói lại cho con cái Ít-ra-en.„ ( Xh 25, 10-22)
Hòm Bia Giao ước là đền thánh của người Do Thái. Theo Tora kinh thánh của họ, Hòm bia thánh chứa đựng 10 Giới Răn Thiên Chúa được khiêng đặt trong Lều đền thờ khi còn đang lưu lạc trong sa mạc về đất Chúa hứa. Sau này Hòm bia được đưa đến đặt nơi vùng Silo ở khoảng gữa nước Do Thái.
Vua David đã rước Hòm bia thánh về Jerusalem lên trên núi Sion. Và khi đền thờ Jerusalem hoàn thành dưới thời vua Salomon Hòm bia được rước về đặt trong cung thánh đền thờ trên núi Moria, hay còn gọi là Núi đền thờ.
Hòm bia giao ước được đặt trong nơi cực thánh của đền thờ Jerusalem, và chỉ Vị Tư Tế thượng phẩm mỗi năm một lần vào ngày lễ Đền tội - Jom Kippur - được phép vào nơi đó nhân danh Thiên Chúa nói lời cầu nguyện , dâng tiến lễ vật cầu xin ơn tha thứ tội lỗi cho toàn dân.
Vào khoảng năm 1050 trước Chúa giáng sinh Hòm bia Giao Ước ( 1 Sách Các Vua 4) trong trận chiến ở Aphek bị quân Philitinh chiếm đoạt. Theo sách Samuel ( 1 Samuel 5) người Philitinh chiếm được Hòm bia giao ước từ tay người Do Thái, đã đem về Aschdod và đặt trong đền thờ kính Thần Dagon của họ. Nhưng sau khi nhiều biến cố bất ưng đem lại những bất hạnh hoạn nạn, bệnh tật xảy ra, người Philitinh đem Hòm bia Giao Ước đó trả lại cho người Do Thái. ( 1 Samuel 6).
Hòm bia được gìn giữ nhiều năm ở Kirjat-Jearim trên một ngọn đồi. Sau những năm lưu lạc sau cùng Hòm bia được rước đưa trở về Jerusalem như ngày trước.( 2 Samuel 7).
Vào khoảng năm 587-585 trước Chúa giáng sinh, Vua Nebukanezar II. chiếm Jerusalem bắt người Do Thái đi lưu đày bên Babylon. Đền thờ Jesusalem bị cướp phân tán, một phần lớn kho tàng đền thờ với cả Hòm bia giao ước bị phá hủy.
Sách kinh thánh Macabeo thuật lại, Tiên tri Jeremia trước khi Vua Nebukagdnezar đến xâm chiếm cướp Jerusalem, đã cho di dời Hòm bia giao ước cùng với bàn thờ tế lễ mang đi dấu trên núi Nebo trong một hang động.
„. Khi đến đó, ông Giê-rê-mi-a gặp thấy một cái nhà giống hình một cái hang; ông đưa Lều, Hòm Bia và bàn thờ dâng hương vào đấy, rồi bít cửa lại.6 Sau đó, một số người đồng hành với ông tính trở lại để ghi dấu đường, nhưng không tìm ra.7 Biết chuyện ấy, ông Giê-rê-mi-a trách mắng họ: "Nơi ấy chẳng ai được biết cho đến khi Thiên Chúa tập hợp dân lại và tỏ lòng thương xót họ.“ ( 2. Macabe 5-7)
Năm 63 sau Chúa giáng sinh, Tướng Pompejus của quân Roma tiến chiếm Jerusalem. Ông cho khám xét đền thờ Jerusalem để phát hiện nơi cực thánh tìm Hòm bia giao ước, và sau cùng đã cắt nghĩa Hòm bia giao ước đã mất không tìm thấy dấu vết ở đây.
Trải qua hơn 2000 năm nay, người ta nỗ lực đi tìm Hòm Bia Giao ước đã bị mất. Nhưng không có kết qủa thành công nào. Từ khi Hòm bia Giao ước bị biến mất nảy sinh nhiều huyền thoại cùng thần thoại cho rằng Hòm Bia Giao Ước vẫn còn tồn tại đâu đó. Năm 2009 Vị Thượng Phụ Abuna Pauolos, Giáo chủ của Chính Thống giáo Aethiopia đã cho biết“ Hòm Bia Giao Ước hiện ở bên Axum nước Aethopia, Phi châu. Từ hằng trăm năm nay Aethiopia là ngai nơi chốn của Hòm Bia Giao Ước. Chính Tôi đã nhìn ngắm Hòm Bia Giao Ước“.
Vị Thượng phụ Pauolos còn xác quyết:“ Sự thánh thiêng vẫn còn đó. Hòm bia Giao Ước không do con người làm ra. Đó là một mầu nhiệm“. Nhưng không có bằng chứng công khai về Hòm Bia giao ước thật sự đang ở bên Axum nước Aethopia, Phi Châu.
Cho tới bây giờ ngoài các bản văn tôn giáo Kinh Thánh, không có một bằng chứng chữ viết nào về sự hiện hữu của Hòm Bia Giao ước.
Thánh Gioan trong sách Khải Huyền nói về thị kiến đã nhìn thấy Hòm Bia Giao ước trên trời khi Giao ước mới thành hình. Đây là hình ảnh nói về sự hiện diện của Thiên Chúa, và chúc phúc lành của Ngài trên Giao Ước mới:
„ Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và Hòm Bia Giao Ước xuất hiện trong Đền Thờ. Và có ánh chớp, tiếng sấm tiếng sét, động đất và mưa đá lớn.“ ( KH 11,19).
Đức Mẹ Maria được ca ngợi là Hòm Bia Thiên Chúa của Giao ước mới. Giao ước cũ được biều dương qua Tấm bảng đá 10 giới răn Thiên Chúa.
Giao ước mới của Thiên Chúa với dân của ngài, với Giáo hội, là chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng mang đến cho con người chúng ta ơn cứu chuộc.
Hòm bia Giao ước cũ được bao bọc bằng vàng, bên trong chứa đựng Tấm bảng đá 10 điều răn của Thiên Chúa viết cho dân người Do Thái.
Cung lòng, tâm hồn Đức Mẹ Maria, người mẹ cưu mang sinh thành nuôi dưỡng Chúa Giêsu, được Thiên Chúa gìn giữ cho nguyên tuyền không mắc tội tổ tông truyền, đức tin của đức mẹ Maria hoàn toàn vâng theo ý Thiên Chúa nhiệm mầu, và sau cùng sau khi cuộc đời trên trần gian chấm dứt đức mẹ được đưa rước về trời cả hồn lẫn thân xác, là những trang điểm cao qúy trong sáng ngời của hòm Bia giao ước mới.
Đức Mẹ Maria không là Giao ước mới. Nhưng „Hòm bia cung lòng „đức Mẹ Maria đã cưu mang thân xác con người Chúa Giêsu Kitô vào trong trần gian, Đấng thiết lập Giao Ước mới với dân Chúa, với Giáo hội.
Nơi trận chiến ngày xưa ở Aphek, Hòm bia Giao Ước cũ của dân Do Thái đã bị mất vào tay người Philitinh .
Ngày nay cũng có thể đánh mất Chúa Giêsu Kitô, Giao ước mới , nếu người tín hữu, Giáo hội bỏ quên đức Mẹ Maria „ Hòm bia cưu mang chứa đựng Giao Ước mới“.
Tháng Hoa kính Đức mẹ Maria.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tháng hoa mừng kính Đức mẹ Maria
- Viết bởi Dân Chúa
Hằng năm vào tháng Năm, bên xứ lạnh vùng Bắc Mỹ châu và Âu châu thời tiết vào giữa mùa Xuân, theo nếp sống đạo Công giáo còn đang trong mùa phục sinh. Trong tháng này các cây cối bông hoa bung nở đẹp tươi thắm, và ánh sáng mặt trời chiếu sáng còn dịu mát không nóng như vào mùa hè.
Tháng Năm, tiếng latinh „ Maius“, là tháng thứ năm theo lịch Gregorien, tháng này có 31 ngày. Tên gọi maius bắt nguồn từ Nữ Thần Maius của người Ý thời cổ xưa. Vị nữ Thần Maia được người thời cổ xưa bên nước Ý tôn sùng là vị nữ Thần bảo vệ sự phát triển sinh sôi nẩy nở, hay theo thần thoại Hy Lạp Vị nữ thần này tượng trưng cho người mẹ nhỏ. Thần Maia là vị thần đất và của mọi phát triển sinh sản.
Dưới thời chế độ hoàng đế Nero Claudius Caesar Augustus Germanicus thời Roma cổ ( 37. - 68 sau Chúa giáng sinh) tháng Maius được đổi thành tên thành Claudius, theo tên của hoàng đế, nhưng tên Claudius dẫu vậy cũng không trở thành hiện thực như Nero mong muốn.
Hòang đế Lucius Aurelius Commodus, thời Roma cổ ( 161-192 sau Chúa giáng sinh) đổi tên tháng này thành Lucius, tên này cũng là tên của hoàng đế. Nhưng sau khi hoàng đế Commodus qua đời, tên này bị rút lại không còn nữa, mà trở lại Maius như nguyên thủy.
Trong nếp sống đức tin Công gíao, tháng Năm là tháng dành riêng kính Đức mẹ Maria, người mẹ sinh hạ nuôi dưỡng Chúa Giêsu trên trần gian.
Khi đạo công giáo phát triển từ năm vào thế kỷ thứ 4. sau Chúa giáng sinh trở đi ở Roma và các nước Âu Châu, những ngày lễ hội tôn kính Thần Thánh của dân ngoại được Giáo hội dần „ rửa tội“ biến thành lễ nghi phụng vụ với nội dung đức tin đạo Công giáo. Tục lệ kính Đức mẹ tháng Năm cũng có nguồn gốc từ lễ hội tập tục của dân ngoại bên Roma mừng kính Thần Maia thời xa xưa trước đó.
Theo sử sách còn lưu thuật lại vào thế kỷ 18. bắt đầu có giờ thánh kính Đức mẹ đầu tiên ở vùng Ferrara bên Ý. Từ đó phong trào này lan rộng khắp Âu châu và toàn thế giới.
Vào tháng năm bàn thờ kính Đức mẹ có tượng hay ảnh Đức mẹ Maria được trưng bày với nụ bông hoa mới nở tươi cùng ngọn nến cháy sáng không chỉ trong các thánh đường, mà còn ở nhiều gia đình nữa. Điều này nói lên niềm vui mừng, lòng sùng kính yêu mến, sự phát triển nẩy nở, cũng là hình ảnh biểu tượng giữa thảo mộc cây cỏ và Đức mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa, một người mẹ sinh hạ Chúa Giêsu nguyên tuyền như hoa hồng không vướng gai tội lỗi.
Tập tục đạo đức sùng kính Đức mẹ Maria tháng Năm trong toàn thể Giáo hội Công giáo phát triển thịnh hành từ 1850 đến 1950. Đức Giáo hoàng Phaolô VI. vào ngày 01. tháng Năm 1965 đã viết thông điệp „Mense Maio“ - Trong tháng Năm - cách đặc biệt cổ võ việc tôn sùng Đức mẹ Maria. Trong thông điệp đức giuáo hoàng viết: „ Đây là một tập tục tốt cao qúy của các vị tiền nhiệm đã dành chọn tháng Năm, kêu mời người tín hữu Chúa Kitô cầu nguyện chung hợp công khai, nhất là những khi Giáo hội gặp thử thách khó khăn hay thế giới trong cơn nguy hiểm bị đe dọa, lời cầu nguyện xin Đức mẹ phù giúp càng cần thiết.“
Vào tháng năm nơi nhiều xứ đạo Công giáo, những nơi hành hương kính Đức mẹ, đều có những cuộc rước kiệu, giờ thánh kính đức mẹ long trọng.
Trong nếp sống đức tin của người Công giáo Việt Nam có tục lệ đạo đức các em nhỏ dâng hoa kính Đức Mẹ và giờ thánh kính Đức mẹ vào các ngày thứ bẩy trong tháng Năm. Tập tục sống đạo này bình dân, nhưng sống động được phát triển ngày càng có nhiều khởi sắc. Có những nơi vì hòan cảnh tổ chức dâng hoa vào ngày Chúa nhật nữa.
Giáo hội Công giáo Việt Nam có nhiều bài thánh ca hát kính Đức mẹ cho mọi dịp „mùa nào thức nấy!“. Lời những bài thánh ca kính Đức mẹ này chứa đựng không chỉ về phương diện thần học đạo đức, nhưng cả âm điệu là lời cầu nguyện chan chứa tâm tình của con người với người mẹ thiêng liêng trên trời nữa.
Ngoài kinh Lạy Cha, kinh Kính mừng Ave Maria, trong suốt mùa phục sinh hằng ngày Kinh Lạy nữ vương thiên đàng - Regina coeli - được đọc lên thay cho Kinh Đức Chúa Trời sai thánh thiên thần truyền tin cho Đức mẹ Maria. Tháng Năm, tháng hoa kính mừng Đức mẹ vẫn còn trong mùa phục sinh. Vì thế kinh Regina Coeli đọc trong mùa tháng này mang ý nghĩa đạo đức sâu đậm ca tụng Đức mẹ.
„ Kinh truyền tin chứa đựng những lời Thiên Thần nói với Đức mẹ khi xưa. Nhưng kinh Regina coeli không là những lời của Thiên Thần, mà là của con người tín hữu chúng ta muốn mời Đức mẹ hãy vui mừng lên . Vì Chúa Giêsu, người con của mẹ đã sống trong nơi cung lòng mẹ khi xưa, đã sống lại sau khi chết., như Người đã đoan hứa trước như vậy.
Khi xưa lời „hãy vui mừng“ là sứ điệp từ trời cao đã được Thiên Thần mang đến nói với Đức mẹ Maria ở Nazareth“ Mừng vui lên Maria, Con Thiên Chúa sinh hạ làm người trong cung lòng Chị. Và bây giờ lời kinh „ Lạy nữ vương thiên đàng hãy vui mừng“ sau cuộc khổ nạn đau thương vang lên lời chào mừng vì niềm vui mừng đã đến“ Gaude et laetare, Virgo Maria, alleluia, quia surrexit Dominus vere, alleluia - Mừmg vui lên hỡi Mẹ đồng trinh Maria alleluis, vì Chúa đã sống lại thật, alleluia.“ ( Papst Benedict XVI., Regina Coeli, 2008).
Tháng Hoa kính mừng Đức mẹ Maria
Lm. Dainh Nguyễn ngọc Long
Ở lại trong tình yêu.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Người mẹ thường hay nói với con mình: Con không được chạy đi ra xa, nguy hiểm đó con. Con phải luôn ở bên cạnh mẹ!
Hay để an ủi vỗ về người con đang mếu máo khóc tìm mẹ, người mẹ cũng thường nói: An tâm nín khóc đi con. Có mẹ ở bên con rồi!
Những lời nói đó của người mẹ nói lên sâu đậm cùng cần thiết về mối tương quan sự sống cùng tình yêu giữa con người với nhau.
Trong đức tin đạo giáo mối tương quan sâu đậm cùng cần thiết như thế có không?
Đức tin vào Thiên Chúa không là một tòa nhà cơ quan, nhưng là tin vào một Thiên Chúa đã sinh xuống làm người. Người đó là Chúa Giêsu Kitô.
Khi đi rao giảng nước tình yêu Thiên Chúa trên trần gian, Chúa Giêsu Kitô đã nói về mối tương quan đức tin: Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy! ( Ga 15,9).
Đời sống trong xã hội ngày càng trở thành „mobil“ di chuyển thay đổi. Lối sống mobil trở thành biểu tượng một nếp sống tân thời, thích nghi với thời đại trong nhiều lãnh vực đời sống xã hội.
Nhưng càng di chuyển mobil thay đổi, thắc mắc về nguồn gốc, về đích điểm càng đặt ra gay gắt thêm: Tôi thuộc về ai, đi về nơi đâu? Đâu là bờ bến tôi có thể dừng lại như quê hương ?
Nếu không có câu trả lời cho những thắc mắc đó, sau cùng sẽ thành người lang thang ngoài đường, hay đứng giữa giữa trời mưa gío ngoài sân, bên lề đường đời sống xã hội.
Và thực tế có nhiều người không cửa nhà ở khắp nẻo đường sống xã hội trên thế giới, nhất là ở những xứ sở còn thiếu thốn, nghèo đói, chiến tranh tỵ nạn, hay đang trong tình trạng phát triển bùng nổ. Vì nhiều người bỏ vùng thôn quê kéo về vùng thành thị tìm nơi an toàn cùng kiếm kế sinh nhai làm ăn sinh sống….
Không là một đời sống an toàn, nếu người ta không biết nơi nào người ta có thể ở lại cư ngụ. Đây không chỉ là cần có một ngôi nhà ở với những bức tường vây chắn chung quanh, nhưng còn những điều khác hơn thế nữa: người bên cạnh tôi và cùng ở lại với tôi. Ai muốn tiếp tục đi tới vươn lên, người đó cần cho mình sự bảo vệ của người ở bên cạnh mình hằng chống đỡ bênh vực cho mình.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây nho và rễ cây nho gắn nối liền với nhau nói về ý nghĩa „ anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy“.
Cây nho hay bất cứ một cây nào khác trong thiên nhiên cũng có phần thân cây nổi trồi lên khỏi mặt đất và phần chùm rễ cây ẩn chìm ăn sâu dưới lòng đất. Hai phần này phải liên kết gắn liền với nhau cây mới phát triển lớn lên nảy sinh cành lá xanh tươi, ra bông kết trái được.
Hình ảnh này diễn tả sự sống phát triển trong tương quan gắn liền giữa hai thành một.
Nếu thân cây không còn nối gắn liền với rễ cây bên dưới lòng đất, thân cây, cành, lá, hoa sẽ héo tàn, dần sẽ chết đứng, và lúc đó sẽ trở thành củi khô thôi. Không còn mối tương quan gắn liền thân cây với rễ cây, cây không có dòng nhựa sống luân chuyển nuôi cây nữa.
Hình ảnh thân cây (nho) gắn liền với rễ cây diễn tả mối tương quan gắn liền đời sống con người với nhau: cha mẹ với con mình, vợ chồng với nhau, các thành viên một hội đoàn , một xứ đạo với nhau, những tín hữu Chúa Giêsu Kitô trong Giáo Hội với Chúa Giêsu, Đấng là đầu Giáo hội, là nguồn sự sống, nguồn ơn cứu độ con người.
Gắn bó với Chúa Giêsu, ở lại trong tình yêu của Chúa là lắng nghe tuân giữ Lời Chúa trong kinh thánh, trong thiên nhiên và thầm kín trong tâm hồn mỗi người.
Thân cây, cành lá cây không làm ra rễ cây. Nhưng rễ cây làm cho thân cùng cành lá cây phát triển tươi tốt vươn lên.
Cũng vậy, cây đức tin vào Chúa luôn cần phải có rễ Chúa Giêsu mới phát triển đứng vững được.
„Đâu phải bạn mang rễ, mà là rễ mang bạn!“ (Roma 11,18)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long