Dâng lên Thiên Chúa
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Hằng năm vào ngày 02. Tháng Hai, Giáo hội mừng kính lễ cha mẹ Chúa Giêsu đem con mình vào đền thờ dâng cho Thiên Chúa.
Lễ mừng kính này có nguồn gốc lịch sử trong Kinh Thánh. Theo luật Cựu ước thời Mose, người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai phải đem con mình kèm theo lễ vật là con chiên non, hay chim gáy hay chim bồ câu còn non ở cửa Lều Hội Ngộ nơi đền thờ làm lễ vật dâng tiến lên Thiên Chúa để xin ơn tha tội và được thanh tẩy cùng xin chúc lành cho cả mẹ lẫn con. ( Sách Levi 12,6-8).
Lề luật nói đến con số 40 là con số thánh. Vì để kỷ niệm nhớ lại ngày xưa Thiên Chúa đã cứu dân đưa ra khỏi cuộc sống nô lệ bên AiCập cách lạ lùng. Cuộc hành trình Xuất hành trở về đất Chúa hứa kéo dài 40 năm trong sa mạc ( Xh 13,14-15). Vì thế, 40 ngày mang ý nghĩa là khoảng thời gian bảo vệ cho sức khoẻ của người mẹ và con thơ. Qua đó mối tương quan mẹ con được trở nên đằm thắm cùng vững chắc thêm.
Đức mẹ Maria mang con mình dâng lên cho Thiên Chúa trong đền thờ, không chỉ làm theo luật ấn định, nhưng còn muốn con mình được Thiên Chúa chúc phúc lành. Vì tin tưởng rằng, hài nhi Giêsu là con Thiên Chúa đã làm người luôn là công trình thuộc sở hữu của Thiên Chúa.
Ngày nay không còn phải theo luật Mose sau 40 ngày sinh con, cha mẹ đem con mình vào đền thờ thánh đường dâng cho Thiên Chúa. Nhưng người mẹ khi đã có sức khoẻ trở lại, cũng đem con mình đến thánh đường không phải chỉ khấn dâng xin Thiên Chúa chúc lành cho mẹ con, mà còn xin cho con mình được nhận lãnh làn nước Bí Tích rửa tội đức tin vào Thiên Chúa cho đời sống tinh thần tâm linh của con mình.
Qua làn nước bí tích rửa tội, em bé gia nhập vào Giáo Hội Chúa Kitô ở trần gian. Và từ bước đó em dần dần bước qua ngưỡng cửa đi vào cùng sống gặp gỡ với Cộng đoàn đức tin vào Thiên Chúa qua việc tham dự cử hành các Bí Tích phụng vụ kính thờ Thiên Chúa trong Giáo hội.
Qua làn nước Bí tích rửa tội, nếp sống đức tin vào Thiên Chúa cùng những tập tục sinh hoạt sống đức tin trong cộng đoàn Giáo hội lớn mạnh thêm với thời gian, giúp em từ từ nhận ra ý nghĩa đời sống mình là con người trong tương quan liên hệ với chiều thẳng đứng vươn lên trời cao là Thiên Chúa, và chiều ngang đường chân trời với con người, với công trình thiên nhiên do Thiên Chúa tạo dựng ban cho.
Làn nước Bí tích rửa tội là làn nước mầu nhiệm thần thánh, nhưng không là làn nước phù thủy ảo thuật. Làn nước bí tích rửa tội múc từ dòng sông suối nước thiên nhiên, nó mang đến sự tươi mát, rửa sạch bề ngoài thân xác cùng bề trong tâm hồn.
Năm nay, ngày 2.2. 2019 ngày lễ mừng kính hài nhi Giêsu được dâng trong đền thờ cũng là ngày 28. tháng Chạp âm lịch năm Mậu Tuất. Những ngày cuối ăn âm lịch theo phong tục văn hóa Á Đông nước Việt Nam là những ngày sửa soạn đón mừng Tết Nguyên Đán năm mới âm lịch, mùa Xuân mới.
Vui mừng sửa dọn đón mừng Tết năm mới. Nhưng người Công giáo cũng luôn nhớ đến những ngày cuối năm cũ cùng ngày thứ nhất trong năm mới, ngày Mùng Một Tết là dịp thuận tiện mang nhiều ý nghĩa dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa đã tạo dựng công trình thiên nhiên, thời gian cùng luôn đổi mới công trình vũ trụ cho đời sống con người. Và cùng dâng lời khấn xin Thiên Chúa chúc lành cho năm mới còn non mới được bình an mạnh khoẻ, vững chãi trên con đường đời sống.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tiễn đưa Ông táo về giời
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm theo phong tục tập quán văn hóa Á Đông Việt Nam, vào ngày 23. Tháng Chạp âm lịch có tập tục cúng tiễn đưa Ông Táo về trời.
Theo tương truyền sự tích Ông Táo hay Táo Quân có nguồn gốc là ba vị Thổ Công, Thổ Địa và Thổ Kỳ theo niềm tin Lão giáo bên Trung Hoa. Nhưng khi vào Việt Nam được chuyển hóa thành sự tích thần Đất, thần Nhà và thần Bếp.
Dân gian xưa nay theo phong tục văn hóa Việt Nam kính trọng Ông Táo là vị thần có lòng chung thuỷ lo việc củi lửa nhà Bếp cho có không khí ngọn lửa nồng ấm cơm chín, canh nóng. Ông biết những mọi việc xảy ra trong nhà. Nên vào ngày cuối năm 23. Tháng Chạp âm lịch hằng năm bày cỗ bàn cùng thờ Ông, tiễn Ông về giời, để khi Ông về thượng giới chầu Ngọc Hoàng Thượng Đế, phù hộ cho gia đình ở hạ giới sang năm mới được bằng an có nhiều may mắn và gặt hái thành công.
Tập tục văn hóa dân gian này tuy vậy cũng ẩn hiện phần nào tâm linh đời sống con người.
Nói đến Ông Táo là nói về nhà bếp nấu ăn. Ngày xưa, và ngày nay ít nhiều nơi vẫn còn, ở vùng thôn quê bên quê nhà Việt Nam, nhà bếp đun thổi bằng rơm rạ, bằng trấu vỏ lúa, bằng củi than. Nên bếp nấu theo cổ truyền có ba trụ hình khối vuông chữ nhật, trên đầu đẽo nghiêng sâu độ ba phân đắp nặn nung bằng đất, hay đẽo gọt bằng đá, quen gọi là „ đầu rau“. Ba trụ đầu rau này cao chừng từ hai tới ba mươi phân. Ba trụ đặt ba góc cách nhau theo hình tam giác rộng to nhỏ tủy theo vòng chu vi cái nồi đặt bên trên ba trụ đầu rau. Mặt trước ba đầu rau là cửa để cho rơm rạ, than củi vào đốt lửa lên đun nấu.
Bếp có ba trụ đầu rau kê lên như thế vững chắc, nồi cơm, canh, nồi nước bên trên không bị lung lay nghiêng đổ.
Vậy hình ảnh ba trụ đầu rau táo quân ở nhà bếp có thể nói gì với chúng ta về đức tin đạo giáo?
Trong dân gian bên tây phương cũng có ngạn ngữ câu: „Con số ba là con số tốt đẹp.“
Ba trụ đầu rau kê chụm gần lại nhau thành một cái bếp cho việc nấu nướng làm liên tưởng đến thuyết tam vị nhất thể. Và với người Công giáo làm nhớ đến mầu nhiệm căn bản của đức tin: Một Chúa Ba Ngôi.
Ngay từ lúc con em mình còn thơ ấu, các người mẹ thường cầm bàn tay nhỏ bé của chúng vẽ hình thánh giá trên trán, trên ngực em và đọc lời kinh:‘‘ Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần .Amen‘‘ trước bữa ăn, mỗi khi uống thuốc và trước khi đi ngủ. Người mẹ làm chuyện này vì thói quen đạo đức tốt lành của mình, và muốn gieo vào tâm hồn con mình thói quen cùng tâm tình đạo đức này.
Đây là việc đạo đức đơn sơ nhưng căn bản biểu lộ tâm tình biết ơn sâu thẳm vào Thiên Chúa, Đấng là chủ vạn vật trời đất và là nguồn sự sống. Và tập quán này cũng còn muốn nói lên: Xin Thiên Chúa chúc lành cho của ăn, cho giấc ngủ và cho cuộc đời của con!
Câu kinh và dấu thánh giá nói lên ý nghĩa gì ?
Câu kinh ngắn gọn này hàm chứa điều căn bản sâu thẳm và rất khó cắt nghĩa của niềm tin: Mầu nhiệm Thiên Chúa ba ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – Một Chúa nhưng có ba ngôi vị.
Trong đời sống có nhiều điều ta không thể nhìn thấy, nhưng chỉ có thể cảm thấy như tình yêu, hạnh phúc, không khí, sự sống và Thiên Chúa.
Không nhìn thấy, nhưng cảm thấy điều đó nhất là khi nhìn thấy một biểu tượng. Như khi nhìn thấy hình trái tim, ta liên tưởng ngay đến tình yêu, đến sự sống. Khi nhìn thấy chim bồ câu, ta nghĩ ngay đến hoà bình. Khi nhìn thấy hai chiếc nhẫn cưới, đó là biểu tượng của tình yêu hôn nhân giữa hai người nam nữ. Khi nhìn thấy cây nến cháy, ta cảm thấy không khí ấm cúng thi vị hay tấm lòng chân thành đang cầu xin khấn nguyện...
Trong thiên nhiên có những yếu tố, thường là ba, nối liền với nhau để tạo nên một liên đới chung và mang lại sự hài hoà hỗ tương cần thiết cho vạn vật như đất, nước và không khí; chiều sâu, chiều cao và chiều rộng – không gian ba chiều ; quá khứ, hiện tại và tương lai. ( Những) Ba yếu tố này tạo nên một liên kết chung, nếu thiếu một yếu tố, mối liên kết sẽ không thành.
Cũng như những biểu tượng trên đây, một Thiên Chúa mà có ba ngôi, không phải là một người có ba đầu hay ba thân mình, cũng không phải ba Chúa, nhưng là ba Ngôi Vị: Thiên Chúa, Chúa Con và Chúa Thánh Thần tạo nên một Thiên Chúa.
Thiên Chúa Cha, ngôi thứ nhất, Đấng tạo dựng trời đất, con người cùng vạn vật trong hoàn vũ.
Chúa Con, ngôi hai, chính là Chúa Giêsu, Đấng xuống thế làm người mang ơn cứu chuộc, sứ điệp tin mừng tình yêu từ trời cao xuống cho con người.
Chúa Thánh Thần, ngôi thứ ba, là hơi thở sự sống cho công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Các Thánh Giáo Phụ, những bậc học giả lỗi lạc có đời sống đạo đức thánh thiện cao sâu, khi suy niệm về mầu nhiệm Một Chúa mà có ba ngôi, đã dùng hình ảnh mặt trời, tia sáng chiếu toả từ đó và hơi ấm của mặt trời để cắt nghĩa như sau:
Đức Chúa Cha, ngôi thứ nhất, được ví như mặt trời. Mặt trời ai cũng biết to lớn vô cùng tận và rất xa diệu vợi ngoài tầm nhìn của con mắt loài người.
Từ mặt trời phát toả ra luồng tia sáng chiếu dọi xuống trần gian. Ánh quang từ mặt trời chiếu ra là hình ảnh Chúa Giêsu, ngôi thứ hai, xuống thế làm người.
Khi ánh quang chiếu dọi xuống trần gian mọi sinh vật được sưởi ấm và có sự sống. Hơi ấm sự sống là hình ảnh Chúa Thánh Thần, ngôi thứ ba Thiên Chúa.
Chúa Giêsu khi truyền cho các Tông đồ đi giảng đạo và làm phép thanh tẩy cho mọi người tin theo Chúa, ngài trao cho các ông một công thức: Làm phép Rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Phép Rửa niềm tin trong Thiên Chúa Ba Ngôi.
Bà mẹ cầm tay con mình làm dấu thánh giá cho em và mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá bắt đầu từ trên trán và đọc: Nhân danh Cha: Vâng, Thiên Chúa Cha ở trên cao, người hằng giơ tay che chở phù hộ con.
Đoạn đưa tay xuống ngực và đọc: Và Con: Vâng, Chúa Giê su xuống trần gian làm người sống ở giữa trần gian.
Sau đó đưa tay sang hai bên trái và phải nơi hai vai và đọc: Và Thánh Thần: vâng, Chúa Thánh Thần, đấng bao bọc cuộc đời con, mang đến cho con sự sống.
Và sau cùng hai tay chắp lại trước ngực và đọc:Amen: Con xin tin như vậy!
Một công thức ngắn gọn với cử chỉ của đôi bàn tay trên thân mình mỗi người, nhưng hàm chứa điều căn bản sâu thẳm của đức tin vào Một Thiên Chúa Ba Ngôi.
Những hình ảnh biểu tượng này giúp cắt nghĩa suy niệm phần nào về một mầu nhiệm niềm tin vượt quá tầm hiễu biết của trí khôn con người chúng ta. Và lẽ tất nhiên mỗi người, tuỳ theo ân đức của Chúa Thánh Thần ban cho, có những suy tư khác nhau về mầu nhiệm niềm tin này. Cắt nghĩa hay hình ảnh không phải là niềm tin, nhưng giúp soi dẫn hướng về điều tin và giúp cách thực hành niềm tin cho sống động trong đời sống thôi.
Niềm Tin đó không phải là một công thức đọc ngoài miệng, nhưng sống động nơi thân xác con người. Thiên Chúa Ba Ngôi ở trong tâm hồn và hằng đồng hành trong cuộc đời con người.
Tập tục cúng hay tiễn Ông Táo về chầu trời ngày cuối cuối năm âm lịch là cung cách nếp sống văn hóa truyền thống trong dân gian từ xa xưa.
Tập tập nếp sống văn hóa này tuy mang mầu sắc của một Lễ Hội, nhưng cũng gói ghém chất chứa một nội dung có khía cạnh lòng tin trong dân gian.
Với người Công giáo, tập tục lễ hội này nhắc nhớ chúng ta đến khía cạnh thiêng liêng Thiên Chúa ba ngôi vị.
Theo đức tin Công giáo, chúng ta có Đức mẹ Maria, các Thánh bầu cử phù hộ cho đời sống con ngườ trước tòa ngai Thiên Chúa trên trời cao.
Thiên Chúa là nguồn mọi chúc phúc lành cho đời sống con người từ lúc thành hình sự sống trong cung lòng cha mẹ, rồi trong suốt dọc lịch sử đời sống trải qua những mùa Xuân năm mới trên trần gian cho tới ngày sau cùng của đời sống trong công trình vũ trụ thiên nhiên.
Đây là căn bản của đức tin chúng ta.
Ngày tiễn Ông Táo về trời, 23. Tháng Chạp âm lịch Mậu Tuất.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Sứ điệp tiệc cưới Cana
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Kinh thánh thuật lại Chúa Giêsu, mẹ người và các Môn đệ đi dự tiệc cưới Cana. Trong tiệc mừng ngày cưới Chúa Giêsu theo lời yêu cầu của mẹ Maria đã làm phép lạ cho nước lã biến thành rượu , và các Môn đệ tin vào Người( Ga 2,1-12).
Tại sao Chúa Giêsu làm phép lạ ở tiệc cưới Cana, và chất chứa sứ điệp tin mừng gì ?
Mở đầu bài tường thuật, Thánh Gioan viết: „ Ngày thứ ba có tiệc cưới tại Cana“ ( Ga 2,1). Tuy ngắn gọn, nhưng mốc điểm thời gian này lại diễn tả những hình ảnh căn bản trong đức tin Kitô giáo.
Ngày thứ ba sau bốn ngày như Thánh Gioan tường thuật, cũng là ngày Sabbat, ngày lễ nghỉ theo luật đạo Do Thái. Ngày Sabbat là ngày công trình sáng tạo thiên nhiên củaThiên Chúa hoàn thành, nên là ngày lễ nghỉ.
Tiệc cưới Cana nói về mầu nhiệm nhập thể làm người của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu. Nơi Chúa Giêsu con người được khôi phục tạo dựng trở lại, như thuở khai sinh công trình sáng tạo lúc ban đầu. Đồng thời ngày thứ ba nhắc nhớ đến ngày Chúa Giêsu chỗi dậy sống lại từ kẻ chết. Qua sự sống lại của Chúa Giêsu đời sống con người được biến đổi và được hoàn thành với rượu thần linh Thiên Chúa. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa mừng tiệc cưới giữa Ngài với con người. Như người đàn ông và người phụ nữ nối kết với nhau, cũng vậy Thiên Chúa và con người trở nên một trong sự nhập thể làm người và sống lại của Chúa Giêsu.
Và giữa tiệc mừng hết rượu., làm sao có thể mừng tiếp được. Hình ảnh này nói đến điều gì sâu xa hơn nữa: họ không còn tình yêu nữa. Họ không còn khả năng quy hướng về tình yêu. Và như thế con người lâm vào bước đường bối rối khủng hoảng.
Và như thế sự giải thoát cho họ ra khỏi hoàn cảnh khó khăn vì không có khả năng hướng về tình yêu, là quan trọng cần thiết hơn. Sáu chum đá đựng nước có sẵn nơi đó. Con số sáu là con số không toàn vẹn. Cũng vậy đời sống con người đâu có toàn vẹn. Đời sống con người là một chuỗi những làm việc cố gắng vất vả cùng than khóc. Vì thế đời sống trở nên khô cứng mà những chum đá kia là hình ảnh biểu tượng cho.
Nước đựng trong chum đá theo luật lệ dùng cho việc thanh tẩy rửa chân tay. Sự tẩy rửa chính thực không xảy diễn ra theo luật lệ cũ thời xa xưa, nhưng qua sự nhập thể làm người của Chúa Giêsu. Trong đó Thiên Chúa mang đến sự thanh tẩy cho con người. Và sự đẹp thuở ban đầu của con người được khôi phục trở lại.
Mẹ Chúa Giêsu cũng cùng đến tham dự tiệc cưới. Thánh sử Gioan viết thuật lại lúc bắt đầu sứ mạng của Chúa Giêsu ở Cana có mặt mẹ người. Và lúc kết thúc cuộc đời sứ mạng của Chúa Giêsu , mẹ người cũng có mặt đứng dưới chân thập gía. Như thế đức mẹ Maria đóng một vai trò quan trọng trong sứ mạng, một biểu tượng thâm sâu trong cuộc đời Chúa Giesu.
Mẹ Chúa Giêsu đã như người khởi động cho phép lạ được hiện thực. Mẹ Maria đã thực hiện cho phép lạ xuống thế làm người của Chúa Giêsu con mình được sinh ra trên trần gian. Mẹ Maria trở nên cổng để cho Chúa Giêsu bước qua đi đến với con người. Mẹ Maria đã dẫn đưa chúa Giêsu đi đến với con người. Là người phụ nữ, mẹ Maria đã có trực giác nhậy bén cảm nhận ra sự thiếu thốn đầu tiên: thiếu rượu mừng.
Dù câu trả lời của Chúa Giesu: „Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và con? Giờ con chưa tới“, nhưng mẹ maria không hiểu câu nói theo kiểu lạnh lùng từ chối, mà tin rằng Chúa Giêsu con mình là rượu làm cho trái tim lòng con người được có niềm vui, và Chúa Giêsu sẽ làm phép lạ ban cho họ rượu. Vì thế mẹ Maria nói với những người giúp việc: Hễ người bảo gì, các anh cứ làm theo!
Các Thánh giáo phụ hiểu cắt nghĩa trình thuật lịch sử này theo hai hình ảnh trái ngược nhau giữa sáu chum đá đựng nước trở thành rượu. Những chum bằng đá là hình ảnh khô cứng sống theo luật lệ thói tục, còn rượu là hình ảnh biểu tượng cho sự vui mừng, sự linh hoạt sống động. Đời sống con người nhận được hương vị mới nhờ việc Chúa Giêsu nhập thề sinh xuống làm người trên trần gian. Với nước không thể ăn tiệc mừng lễ được. Lễ mừng cần có rượu tạo mang đến niềm vui, niềm hoan lạc cho lòng con người. Sáu chum này ở Cana hướng chỉ về chum thứ bảy của Người bị treo trên thập gía được mở ra, khi người lính lấy cây giáo đâm thủng qua cạnh sườn Người chết treo trên đó máu và nước chảy tuôn trào ra. Đây là hình ảnh tình yêu Thiên Chúa đã nhập thể trở thành người nơi trần gian.
Các Giáo phụ nhìn ra nơi tiệc cưới Cana mầu nhiệm của Đức mẹ Maria là mẹ Giáo hội. Phép lạ nước biến hoá thành rượu là do đức mẹ Maria đã xin cùng Chúa Giêsu con mình thực hiện. Maria được nói bằng danh xưng „Bà“ ( Ga 2,4) như ngày xưa Evà cũng được Thiên Chúa gọi xưng là„Bà“ thời cựu ước trong vườn địa đàng ( St 3,15) và trong giờ phút sau cùng nơi thập gía, Chúa Giêsu cũng gọi mẹ mình đứng dưới chân với danh xưng „ Bà“ ( Ga 19,26) với ý nghĩa „ mẹ của mọi loài chúng sinh“.
Trình thuật tiệc cưới phép lạ Cana trong kinh thánh không là một truyện thần thoại cổ tích. Vì nó không thuộc vào những chuyện thần tiên có chi tiết hấp dẫn ngọan mục, nhưng ẩn chứa một mầu nhiệm sâu xa hơn nhiều.
Tiệc cưới Cana là hình ảnh chất chứa niềm hy vọng của một bức tranh mầu sắc ngày Chúa phục sinh mang lại một tạo dựng mới cho đời sống tinh thần con người với những thiếu thốn bất toàn, với những khát vọng cho đời sống được tràn đầy có ý nghĩa.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh con chim Bồ câu
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Bồ câu thuộc loại thú vật giống chim có hai cánh bay cao trên trời cùng có nhiều chủng loại khác nhau trên thế giới.
Theo niềm tin tôn giáo và dân gian chim Bồ câu có đóng giữ vai trò gì không?
Theo nền văn hóa bên Đông phương chim Bồ câu là con vật thánh. Nên có luật cấm không được giết sát hại loài chim này
Trong Kinh thánh nơi sách Sáng thế ký thuật lạị hình ảnh chim Bồ câu là sứ giả của Tổ phụ Noe:
„ Từ trong tàu ông lại thả con bồ câu, để xem nước đã giảm trên mặt đất chưa.9 Nhưng con bồ câu không tìm được chỗ đậu chân, nên trở về tàu với ông, vì còn nước trên khắp mặt đất. Ông bèn giơ tay bắt lấy nó mà đưa vào trong tàu với ông.10 Ông đợi thêm bảy ngày, rồi thả con bồ câu ra khỏi tàu một lần nữa.11 Vào buổi chiều, con bồ câu trở về với ông, và kìa trong mỏ nó có một nhành lá ô-liu tươi! Ông Nô-ê biết là nước đã giảm trên mặt đất.12 Ông lại đợi thêm bảy ngày, rồi thả con bồ câu ra, nhưng nó không trở về với ông nữa“.( St 8, 8-12).
Như thế chim Bồ câu, sứ gỉa của tổ phụ Noe là hình ảnh trong ý nghĩa sự hòa giải, hòa bình và ơn cứu độ. Vì nhờ chim bồ câu đi dò đường mang tin tức báo cho Ông biết trận lụt đại hồng thủy, án phạt của Giavê Thiên Chúa đổ xuống trên mặt đất, đã qua, cơn mưa kéo dài 40 ngày đêm đã chấm dứt, nước đã rút không còn bao phủ tràn ngập mặt đất nữa, và gia đình ông cùng xúc vật được cứu độ còn sống sót.
Hình ảnh con chim Bồ câu bay trở về tầu với tổ phụ Noe ngậm mang cành lá Oliu nói cho biết Thần Linh Thiên Chúa, sức sống niềm hy vọng đang bừng lên trên địa cầu con người.
Chim bồ câu như thế là hình ảnh chỉ về đức Chúa Thánh Thần trong niềm tin đạo Công giáo.
Trước khi vũ trụ thành hình, Thần Linh Thiên Chúa bay là là trên nước. ( St 1,2).
Sau khi Giêsu lên khỏi dòng nước sông Jordan đễ chịu phép rửa do Thánh Gioan làm, Thánh Thần Thiên Chúa hiện thân là một con chim Bồ câu đáp xuống trên Chúa Giêsu. Mt 3,16, Ga 3,22). Và trong
dòng lịch sử đời sống Giáo hội, hình ảnh chim Bồ câu luôn dương rộng đôi cánh với vòng triều thiên thánh thiêng là hình ảnh nói về Đức Chúa Thánh Thần.
Chim bồ câu theo luật lệ lễ nghi thời Cựu ước của ngườ Do Thái là con vật được dùng làm lễ tế hy sinh đền tội dâng lên Giavê Thiên Chúa ( Sách levi 5,7-10. 14,21-23) cùng làm lễ vật thanh tẩy ( Levi 15, 13-15. 28-30, Lc 2,22-24).
Vì thế thời Chúa Giêsu, người ta đem chim gáy, bồ câu vào bán trong khu sân bên ngoài đền thờ Gierusalem, để dân chúng nhất là người nghèo mua làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa. ( Mt 21,12, Mc 11,15 và Ga 2,14.16).
Với người Hylạp và người Do Thái chim Bồ câu là hình ảnh mẫu gương về sự hiền hòa ngây thơ, trong trắng thanh sạch. Vì thế, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh của chim Bồ câu nói về đức tính ngay thẳng thành thực làm ví dụ cho dễ hiểu.
Tiếng rầm rì lục cục của chim Bồ câu phát tỏa ví tựa như tiếng than thở về nỗi đau khổ của con người. ( Isia 38,14. Isaia 59,11).
Người cầu nguyện mong sao mình có đôi cánh của chim Bồ câu bay cao xa thoát khỏi cảnh chao đảo hỗn độn đầy đe dọa , để tìm đến nơi bình an.
( Tv 55,7).
Từ thế kỷ thứ 6. sau Chúa giáng sinh hình ảnh chim Bồ câu không chỉ là hình ảnh tượng trưng chỉ về đức Chúa Thánh Thần, nhưng còn trở thành dấu hiệu tượng trưng cho phong trào hòa bình trên thế giới, và cũng là hình ảnh nói về tình yêu. Vì đặc tính hiền hòa của loài chim này.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Cuộc hành hương đến hang đá Bethlehem
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm vào ngày 6. Tháng Giêng Giáo hội Công giáo mừng kính lễ Chúa Hiển linh, mà vẫn quen gọi là lễ Ba Vua. Trái lại Giáo hội Chính Thống theo lễ nghi Đông phương ngày này là ngày mừng lễ sinh nhật Chúa Giêsu.
Đâu là nguồn gốc lịch sử và đạo đức thần học ngày lễ Ba Vua theo lễ nghi Giáo hội Công giáo ?
Theo kinh thánh thuật lại , sau khi Chúa Giêsu sinh ra ở Bethlehem, các nhà Đạo sĩ từ bên phương đông tìm đến nơi Chúa sinh ra bái kiến thờ lạy. Vì họ cho rằng hài nhi mới sinh là vị Vua . ( Mt 2, 1-2).
Và họ còn qủa quyết đã thấy ngôi sao của vị vua xuất hiện ở phương Đông. Thế là cuộc hành trình của họ vượt đường xa trở thành cuộc hành hương tìm đến hài nhi Giêsu, vị Vua mới sinh ra trên trần gian ở cánh đồng Bethlehem..
Ngay từ thế kỷ 2. sau Chúa giáng sinh, bên Đông phương lịch sử các nhà đạo sĩ thiên văn này hay còn gọi là nhà chiêm tinh rất được yêu mến trọng vọng trong xã hội. Những vị này theo truyền tụng trong dân gian nguyên thủy họ là những Vị Tư Tế bên Ba Tư, và cũng là những học giả ngành thiên văn nghiên cứu về ý nghĩa dấu chỉ các ngôi sao trên trời. Họ được cho là những người có khả năng hiểu biết những sự vượt qúa khỏi lãnh vực tự nhiên, khi nhìn sao trời nhận ra tín hiệu sứ điệp gửi phát ra từ đó.
Trong thế giới cổ xưa vì sao Saturn được hiểu là ngôi sao của dân Israel, cũng gọi là sao Sabbat. Trong khi ngôi sao Jupiter là ngôi sao của vị Vua. Theo khảo cứu của khoa học ngành thiên văn , trong năm 7. trước Chúa giáng sinh hai vì sao này cùng xuất hiện sáng tỏ trên nền trời.
Ở Roma sự xuất hiện lạ lùng của vì sao này được hiểu cắt nghĩa là hình ảnh chỉ về Hoàng đế Augustus, vị hòang đế mang đến hòa bình cho toàn đế quốc Roma.
Ở vùng Babylon sự xuất hiện của ngôi sao lạ lùng này lại được hiểu cắt nghĩa là hình ảnh dấu chỉ sự xuất hiện của đấng Cứu Thế. Vì người ta nhớ lại lời hứa cho dòng dõi Bileam được thể hiện qua các nhà chiêm tinh từ phương đông đến: „ Một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp,một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en“ ( Sách Dân số 24,17).
Phái Qumran so sánh sự xuất hiện của đấng Cứu Thế ( Messiah) với sự xuất hiện của ngôi sao: Trên nền trời ngôi sao của Người chiếu sáng như một vị Vua.
Các Giáo Phụ đã suy tư theo tầm nhìn chung hợp Chúa Giêsu với một ngôi sao khác: ngôi sao ban mai đồng thời cũng là ngôi sao hôm.
Các nhà Đạo sĩ thiên văn khi tìm đến Bethlehem , họ vào thăm viếng bái lạy vị hài nhi Giêsu và dâng ba tặng phẩm làm lễ vật dâng mừng Vua hài nhi Giêsu: Vàng, nhũ hương và mộc dược. Ba tặng vật này xưa kia Ngôn sứ Isaia đã nói tới (Is.60,6) như tặng vật cho vị vua mặt trời . Nơi Chúa Giêsu Kito mặt trời công chính đã mọc lên soi chiếu ánh sáng vào đêm tối trần gian.
Các Giáo Phụ đã suy niệm về dấu chỉ ý nghĩa của ba tặng vật đó: Vàng cho hài nhi Giesu là vị vua chính thực, Nhũ hương chỉ về thiên tính của Vua Giêsu, và Mộc dược dấu chỉ nói về sự chết của Chúa Giêsu trên thập gía.
Hay ba tặng vật dâng tiến Vua hài nhi Giesu đó cũng hình ảnh những tặng vật đời sống của chúng ta: Vàng nói về tình yêu của chúng ta. Nhũ hương chỉ về khát vọng chờ mong của chúng ta. Và Mộc được nói về sự đau khổ, những vết thương của chúng ta. Chúng ta không cần phải mang đến hang đá Chúa Giêsu thành tích tặng phẩm gì, ngoài những sự chúng ta luôn có: tình yêu mến, lòng khát vọng trông mong và những vết thương đau đời sống chúng ta.
Mộc dược không chỉ là hình ảnh của vết thương đau. Như thảo mộc cây thuốc có sức chữa lành xoa dịu những vết thương đau đớn. Đến trước hang đá hài nhi Giêsu xin ơn chữa lành những vết thương đau khổ, và như thế khát vọng trông mong của chúng ta đạt tới đích điểm địa chỉ.
Chúng ta cũng không chỉ mang đến tình yêu mến, nhưng chúng ta cảm nhận nơi Chúa Giêsu tình yêu Thiên Chúa đã sinh xuống làm người là một trẻ thơ giữa con người. Tình yêu Chúa đã mang lại cho con người không còn phải bơ vơ, nhưng có sự che chở và quê hương nơi thung lũng nước mắt trần gian.
Ngay từ thế kỷ thứ 2. sau Chúa giáng sinh bên Đông phương đã mừng lễ Chúa hiển linh. Ngày lễ này có nguồn gốc từ thời xa xưa trước Chúa giáng sinh để tôn thờ hoàng đế trong xã hội quốc gia.
Từ thế kỷ 4. sau Chúa giáng sinh, sau khi đạo Công giáo được hoàng đế Constantino công nhận năm 312 cho hưởng tự do thực hành, Giáo hội Công giáo đã rửa tội lập ra ngày lễ Hiển linh này để kính thờ tôn vinh Chúa Giêsu, thay thế cho ngày lễ hiển linh tôn thờ hoàng đế trần gian. Sau nhiều lần thay đổi, ngày lễ này được ấn định vào ngày 6. Tháng Giêng hằng năm.
Phúc âm Thánh sử Mattheo nói đến các nhà bác học Đạo sĩ từ phương đông tìm đến hành hương kính viếng hài nhi Giêsu, nhưng không nói đến bao nhiêu vị. Con số ba sau này được nói đến, vì căn cứ vào ba của lễ tặng vật các vị mang tới dâng kính cho hài nhi Giêsu: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Con số ba trong nhiều nền văn hóa là con số thánh thiêng và chỉ về sự nối kết thần linh trong nhiều tôn giáo cũng như thần thoại. Trong Kitô giáo có Ba ngôi Thiên Chúa, người Roma nói đến ba vị thần: Juno, Jupiter và Minerva, người Aicập có ba vị chính thần: Horus, Isis và Osiris. Triết lý tôn giáo bên Ân Độ nói đến bản thể, tư tưởmg và niềm vui cao cả nhất, hay cảm giác hạnh phúc.
Ba Vua thánh đến Bethlehem là biểu tượng nói đến ba giai đoạn đời sống con người: tuổi trẻ, tuổi trưởng thành và tuổi cao niên. Và con số ba Vua, hay ba nhà Đạo sĩ cũng nói đến dòng dõi những người con trai của Tổ phụ Noe: Sem, Kham và Giaphet, trong Kinh Thánh Cựu ước. ( Sáng Thế 9, 18).
Kinh thánh chỉ nói đến các nhà Bác học đạo sĩ không nói đến tên của họ, nhưng trong dòng thời gian ba vị này được nói đến với tên Caspar, Melchior và Balthasa. Ngày nay hình tượng ba vị Vua này không thể thiếu trong hang đá Chúa giáng sinh.
Caspar theo tương truyền có gốc gác từ nước Batư và mang ý nghĩa“ Người quản thủ kho tàng“ và là vị mang tặng vật Mộc dược.
Tên Melchior là tên có gốc gác từ tiếng Do Thái và biểu hiệu cho „ Vua ánh sáng“. Và vị Melchior mang tặng vật vàng.
Balthasar có nguồn gốc từ Do Thái và mang ý nghĩa „ Thiên Chúa bảo vệ đời sống, hay Thiên Chúa cứu giúp hộ phù.“ Vị Melchior mang tậng vật Nhũ hương.
Trong cuộc hành hương đi tìm hài nhi Giesu của các nhà Đạo sĩ bác học, ngôi sao lạ trên nền trời đã đóng vai trò quan trọng: Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện trên nền trời . Ngôi sao lạ này đã soi chiếu dẫn đường cho các nhà Đạo sĩ bác học vượt đường xa hành hương tìm đến Bethlehem , nơi vua Giesu sinh ra. Đức Giáo hoàng Benedicktô XVI. có suy tư về mối tương quan của ngôi sao với hài nhi Giesu con Thiên Chúa đã sinh ra làm người:
„ Trong tù Thánh Phaolo viết thư mục vụ cho giáo đoàn Colosseo và Epheso nhấn mạnh đến khía cạnh Chúa Giêsu Kitô phục sinh đã chiến thắng những quyền lực và sức mạnh trong không gian khí trời, và đã làm chủ thống trị tất cả không gian. Lịch sử về ngôi sao của các nhà đạo sĩ chiêm tinh cũng thuộc vào biên cương con đường đó: không phải ngôi sao quyết định số phận của của hài nhi, nhưng hài nhi đã điều khiển hướng dẫn ngôi sao. Người ta có thể theo hướng xoay chiều về khoa nhân chủng học nói được rằng : Đấng là Thiên Chúa đã chấp nhận làm người thì lớn cao cả hơn mọi quyền lực của thế giới vật chất và nhiều hơn cả toàn thể không gian vũ trụ.“ ( Joseph Ratzinger, Benedickt XVI. JESUS von Nazareth, Prolog, Die Kindheitsgeschichten, Herder Freiburg, Basel 2012, trang 110)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tâm tình ngày cuối năm
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lễ Chúa giáng sinh, người tín hữu Chúa Kitô mừng sứ điệp mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Đây là mầu nhiệm tình yêu cao cả, mà Thiên Chúa qua Chúa Giêsu, Con của Người đã mặc khải tỏ ra cho nhân loại.
Thiên Chúa làm người, và qua đó con người được tham dự vào đời sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa từ trời cao qua Chúa Giêsu xuống sinh sống trên mặt đất sống tình liên đới với con người.
Đó là lý do chúng ta nói lên lời cám ơn Thiên Chúa. Cám ơn Ngài đã trao tặng con người tình yêu , và không bao giờ rút lấy lại.
Trước ngưỡng cửa năm cũ đang dần đi vào qúa khứ và chuẩn bị bước vào ngưỡng cửa thời gian năm mới, con người hầu như ai cũng có tâm tình pha lẫn vừa mừng vui, cũng vừa tư lự nhìn lại năm cũ đang kết thúc.Và tâm tình pha lẫn đó cũng đồng hành với khi bước sang năm mới nhìn về phía trước.
Vui mừng và tư lự, nhưng cũng ẩn hiện tâm tình biết ơn về những gì đã nhận được và sẽ nhận được trong đời sống.
Cha Dòng Phil Bosmans đã có suy tư về tâm tình cám ơn trong tương quan khi nhìn lại thời gian năm cũ sắp qua và năm mới đang tiến tới. Tâm tình lòng biết ơn trải rộng cùng ẩn hiện nơi tình yêu Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá trao tặng con người.
„ Tôi cảm nhận ra điều gì rất đỗi ngạc nhiên cùng thú vị trong thiên nhiên. Đó là điều bí ẩn của tình yêu được Đấng Tạo Hóa tạo dựng gieo cấy khắc ghi nơi đó. Nơi con người tôi, hằng ngày trái tim đập hàng ba trăm ngàn lần, mà không tốn phí một giọt nhiên liệu, một chút năng lượng, hay một đồng cent nào.
Thật là điều không thể tin nổi, mỗi ngày tôi hít thở hai mươi ngàn lần, và thu nhận 137 khối không khí cần thiết cho sự sống mà không phải thanh toán một chi phí nào. Những sự cần thiết cho căn bản sự sống tồn tạo cùng triển nở đều miễn phí. Những điều này hoàn toàn được trao ban cho không.
Tôi tự hỏi, bao nhiêu chuyến bay của bao nhiêu con Ong cần để chuyên chở mật cho một muỗm ăn khi tôi ăn bữa sáng quệt vào bánh mì? Và bao nhiêu bông hoa đã bung nở nhả mật ra? Rồi trái táo thơm ngon do công sức của cây táo phát sinh sản xuất ra .
Mỗi miếng bánh mì tôi ăn cũng là do người nào đó đã nhọc công gieo trồng hạt lúa mì xuống ruộng đất, mới có những chùm hạt bông lúa chín vàng để xay thành bột nướng làm bánh mì. Tôi yêu mến hạt lúa mì được ôm phủ trong lòng đất, và nẩy nở phát triển thành cây lúa mang hạt nặng trĩu để làm lương thực cơm bánh nuôi sống con người. Tôi yêu mến bánh mì do người thợ làm bánh với tình yêu mến nhào nặn nướng làm ra. Cơm bánh là lương thực qùa tặng của Trời cao và của Đất, mà Thiên Chúa qua bàn tay công sức của con người trao ban cho. Tôi cảm nhận ra mình được yêu thương từ đỉnh đầu xuyên suốt thân thể xuống tới tận mười đầu ngón chân.
Tôi muốn nói lời cám ơn, nhưng tôi phải cám ơn ai! Không phải vị Tổng Thống nào, không phải vị Tướng lãnh nào, không phải vị Giáo sư nào, hay một vị kỹ sư nào…Không, tôi chỉ muốn nói lời cám ơn Thiên Chúa. Thiên Chúa tình yêu. Lề luật của Thiên Chúa là lề luật tình yêu thương. „
Trên mặt đất này không có không gian nào không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã tạo dựng cùng luôn đổi mới trẻ trung hóa địa cầu do chính Ngài tạo thành.
Không có nơi chốn nào trong vũ trụ mà không có dấu vết sự khôn ngoan quan phòng và tình yêu của Thiên Chúa bao phủ. Thiên Chúa không bỏ rơi trần gian. Vì Ngài biết sự giới hạn, sự bất toàn và hay sai lỗi của con người chúng ta.
Những dấu vết do con người gây ra làm hư hại công trình thiên nhiên càng nhiều, càng sâu, lúc đó sự can thiệp của Thiên Chúa càng cần thiết cùng càng quan trọng để mang lại chúc lành chữa trị cho đời sống con người và cho mặt đất. Đây cũng là dấu chứng phép lạ của tình yêu Thiên Chúa hiển thị ra cho nhân loại.
Thiên Chúa hằng tỏ hiện mình cho con người qua tình yêu của Ngài, mỗi khi gặp gỡ Người. Lòng tin vào Ngài là câu trả lời của chúng ta đối với lời mời gọi tình yêu của Ngài. Kinh Tin kính vào Thiên Chúa chúng ta đọc trong thánh lễ ngày Chúa nhật là nội dung căn bản của đức tin vào Thiên Chúa tình yêu nguồn sự sống.
Những Bí Tích là những dấu chỉ về sự chúc lành, về tình yêu và sự gần gũi của Thiên Chúa. Những điều này mang đến niềm hy vọng, sự an ủi, cùng lòng can đảm phấn khởi cho đời sống vươn lên.
Bí Tích Rửa tội là Bí tích nền tảng của mọi Bí Tích, mà người Công gíao đã lãnh nhận từ khi còn thơ bé hay cũng có người khi đã trưởng thành. Và hằng năm tháng, các cha mẹ Công giáo khi có con thơ bé, họ cũng bồng mang em bé mình tới xin Giáo Hội cho con mình nhận lãnh làn nước Bí Tích Rửa tội, đức tin vào Thiên Chúa tình yêu, như điểm tựa, hướng đi tinh thần đạo giáo cho đời sống tâm hồn của em hôm nay và ngày mai.
Mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa từ thuở thơ bé dần dần được cảm nghiệm khám phá tỏ hiện ra qua những hướng dẫn giảng dạy giáo lý về Thiên Chúa, về Giáo Hội, về con người…Khi các bạn trẻ lớn lên vào lứa tuổi 9 hay 10 tuổi, lần đầu tiên trong đời họ bước lên cung thánh bàn thờ Thiên Chúa lãnh nhận Tấm bánh Thánh Thể mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa cho đức tin tâm hồn đời sống mình. Tấm bánh Thánh Thể tình yêu Thiên Chúa mỏng nhỏ chỉ to bằng đồng 50 cent, không mùi vị gì, nhưng trong đó chính Chúa Giêsu hiện diện. Chúa Giêsu trở thành lương thực cho đời sống đức tin con người.
Bạn trẻ lớn lên vào lớp tuổi 13 trở lên, họ lãnh nhận Bí Tích Thêm sức. Qua Bí tích này Đức Chúa Thánh Thần, Đấng là động cơ sự sống của Thiên Chúa vô hình, giúp gây lòng phấn khởi cho tâm hồn về mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa.
Mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa tỏ hiện rõ sắc nét hơn nữa lúc hai người bạn trẻ nam nữ bắt gặp được tần số tình yêu của nhau. Họ muốn cùng nhau qua Bí tích hôn nhân trước bàn thờ Thiên Chúa và cộng đoàn Hội Thánh suốt đời sống gắn bó với nhau trong một mái nhà.
Đời sống chung hợp của vợ chồng là hình ảnh mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa với Giáo hội của Người ở trần gian.
Qua đời sống vợ chồng, sự sống mới là những người con được nẩy nở phát sinh ra. Vợ chồng, cha mẹ không là người chế biến tạo ra con của mình, nhưng là người đón nhận sự sống, tính tình cùng hình hài thân xác con của mình. Qua truyền sinh, vợ chồng cùng góp công sức vào việc tìm hiểu khám phá mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống.
Chúng ta tin tưởng rằng đời sống tinh thần cũng như thân xác là do sức mạnh của tình yêu được Thiên Chúa trao tặng ban cho. Tình yêu Thiên Chúa không bao giờ xa lìa bỏ rơi con người cùng công trình tạo dựng của Thiên Chúa.
Chính vì thế, chúng ta có lý do để bày tỏ tâm tình lòng biết ơn Thiên Chúa.
Đón mừng năm mới đến với lòng tin tưởng rằng chúng ta có thể xây dựng phát triển đời sống do từ nguồn sức mạnh tình yêu Thiên Chúa.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Giữ trong trái tim tâm hồn
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Khi có con, người mẹ nào cũng có niềm vui thần thánh trào dâng từ trong tận đáy tâm hồn. Vì người con là qùa tặng của Trời cao ban cho gia đình, cho đời sống người mẹ. Vì người con là tác phẩm hoa trái phúc lộc lòng người mẹ.
Người mẹ nuôi dưỡng ăn sóc nâng niu con mình và giữ những kỷ niệm đời con mình từ lúc chào đời. Có những người mẹ cẩn thận giữ lại những chiếc quần áo, chiếc giầy nhỏ xinh của con mình lúc tuổi thơ, một hai đồ chơi, những tấm hình ảnh chụp ghi lại đời sống em bé mỗi thời kỳ, mỗi biến cố mừng ngày sinh nhật, ngày đi chơi giải trí bên ông bà, ngày bắt đầu đi học, ngày rửa tội, ngày lãnh nhận Bí tích Mình Thánh Chúa, ngày lễ Thêm sức…Vì với bà, những kỷ vật hình ảnh đó quan trọng. Những hình ảnh, vật dụng kỷ niệm đó người mẹ lưu cất giữ trong kho tủ, cùng trong tâm hồn. Và đến khi người con khôn lớn đi sống ở riêng, trao lại cho con mình làm hành trang kỷ niệm đời sống.
Những vật kỷ niệm lưu giữ đó là những lời nói thắm thiết sâu đậm của lịch sử đời sống người con vượt qua không gian cùng thời gian.
Người mẹ thu góp gìn giữ những báu vật kỷ niệm đó với niềm vui mừng hãnh diện. Người con sau này khôn lớn, khi nhìn lại lịch sử đời sống mình qua những kỷ vật qúi gía đó, không khỏi có những vui mừng ngạc nhiên, và trong dòng nước mắt cảm động rộn lên lòng biết ơn mẹ mình ngày xưa không chỉ đã sinh thành, nuôi dưỡng cho mình khôn lớn nên người, mà còn thu thập gìn giữ những biến cố kỷ niệm đó cho đời mẹ mình lúc đó, và bây giờ cho đời sống mình. Cuốn phim lịch sử đời sống ngày xưa còn thơ ấu, còn tuổi thiếu niên qua những vật kỷ niệm đó quay hiện trở về trong tâm hồn…
Ngày xưa cách đây hơn hai ngàn, năm Đức Mẹ Maria đã sinh hạ hài nhi Giêsu, con Thiên Chúa, lúc đó không có máy ảnh ghi lại những biến cố đời thơ ấu cùng niên thiếu của hài nhi Giêsu. Và chắc lúc đó vì hòan cảnh nghèo túng cùng bơ vơ dọc đường, cùng nếp sống văn hóa khác lạ, đâu có gì còn giữ lại trong kho tủ. Nhưng không vì thế Đức mẹ không giữ những kỷ niệm về đời sống con mình.
Phúc âm Thánh Luca ( Lc 2,19) viết thuật lại: Đức mẹ Maria gìn giữ tất cả những gì xảy ra về Hài nhi Giêsu trong trái tim tâm hồn mình và hằng suy niệm nhớ lại.
Chắc Đức mẹ ghi nhớ biến cố sinh hạ con mình, hài nhi Giesu trong hang chuồng súc vật ngòai cánh đồng, cảnh các Thiên Thần xuất hiện ca hát chúc mừng, cảnh các mục đồng nghèo nàn đến thăm viếng hài nhi Giesu cùng trò truyện với Thánh Giuse và Đức Mẹ, cảnh các nhà Bác học ( Ba Vua) đến thăm viếng…
Trái tim tâm hồn không chỉ là một cơ quan bơm lưu chuyển máu sự sống trong thân thể con người, nhưng còn là hình ảnh biểu tượng cho phần thâm sâu đời sống tâm linh tinh thần con người nữa. Và từ nơi thâm sâu tinh thần này tình yêu xu hướng về người khác lan tỏa ra.
Cũng vậy Maria như bao người mẹ khác cũng có những cảm nghiệm niềm vui, tình yêu thương, niềm tự hào hãnh diện về con mình. Nên mẹ Maria không muốn những gì xảy ra cho đời hài nhi Giêsu bị trôi rơi vào quên lãng mất đi. Vì thế mẹ Maria gìn giữ tất cả trong trái tim tâm hồn mình, và luôn luôn suy nghĩ nhớ đến những kỷ niệm đó, cho dù có những buồn tủi đau thương.
Và trong suốt dọc đời sống Chúa Giêsu con mình, mẹ Maria hằng có mặt trong cùng sống trải qua những biến xảy ra trong đời Chúa Giêsu: Tỵ nạn sang Aicập, về quê hương Nazareth, hành hương lên đền thờ Jerusalem, bước đường chúa Giêsu đi giảng đạo, cuộc khổ nạn sự chết trên thập giá và sống lại của Chúa Giêsu.
Mẹ Maria đã không để Chúa Giêsu con mình, một mình. Nhưng trong những giờ phút vui mừng hạnh phúc, cũng như những giai đoạn đau buồn, Mẹ Maria luôn có mặt bên cạnh con mình.
Đức mẹ Maria là gương mẫu cho mọi người về cung cách sống tình mẫu tử với Chúa Giêsu con mình, Đấng là Con Thiên Chúa từ trời cao xuống thế làm người. Và mẹ Maria cũng trở thành người mẹ niềm tin tinh thần của tất cả mọi tín hữu Chúa Giêsu Kitô.
Lễ mừng kính đức mẹ, mẹ Thiên Chúa
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh gia đình Kito giáo
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Xưa nay trong xã hội vẫn hiểu gia đình là một tổ ấm, trong đó căn bản có cha, có mẹ và một hay nhiều người con do cha mẹ sinh ra nuôi dưỡng giáo dục. Cha mẹ có cưới hỏi giấy tờ hôn thú theo luật đời và đạo.
Nhưng hình ảnh gia đình như thế trong xã hội ngày hôm nay đang biến thể theo nếp lối sống văn hóa xã hội có nhiều thay đổi.
Có hình ảnh kiểu mẫu gia đình, tuy có cha có mẹ, có con. Nhưng cha mẹ chỉ là hai người nam nữ sống chung với nhau không có giấy tờ chứng hôn theo luật lệ đời và đạo, không có khế ước hôn nhân gì với nhau. Các người con hoạc theo họ mẹ, hoặc theo họ người cha. Người con có cha mà không có mẹ, hay có mẹ mà không có cha.
Có hình ảnh kiểu mẫu gia đình giữa hai người cùng phái tính sống chung với nhau, và họ nhận một em bé, một bạn trẻ khác làm người con nuôi. Gia đình với họ là tình yêu giữa hai người, và nơi nào có con trẻ nơi đón là gia đình.
Hay có kiểu mẫu hai người nam nữ sống chung với nhau không có gì ràng buộc theo luật đời hay đạo, và không muốn có con.
Vậy hình ảnh gia đình theo nếp sống đức tin Công giáo chân thực là gì?
Theo giáo lý Công giáo định nghĩa:
„Gia đình là tế bào căn bản của đời sống xã hội, là xã hội tự nhiên, nơi đó, người nam và người nữ được mời gọi tận hiến cho nhau trong tình yêu và trong việc thông truyền sự sống. Quyền bính, sự ổn định và đời sống tương giao nơi gia đình là nền tảng cho tự do, an ninh và tình huynh đệ của xã hội.
Gia đình là cộng đoàn, nơi đó từ thời thơ ấu, con người được học biết tôn trọng những giá trị luân lý, tôn thờ Thiên Chúa và biết sử dụng tự do. Ðời sống gia đình chuẩn bị cho đời sống xã hội.“ ( Sách Giáo lý Công giáo số . 2207)
Đức giáo hoàng Benedicto XVI. đã có suy tư về hình ảnh gia đình trong thông điệp Ngày hòa bình thế giới 01.01 2013: „Cũng cần phải nhìn nhận và thăng tiến cơ cấu tự nhiên của gia đình, là sự kết hợp của một người nam và một người nữ, chống lại những toan tính đồng hóa về mặt pháp lý cơ cấu tự nhiên này với những hình thức hoàn toàn khác biệt; những nỗ lực đồng hóa như thế thực sự làm thương tổn và góp phần làm xáo trộn nền tảng của hôn nhân, che khuất bản chất đặc biệt và làm lu mờ vai trò của nó trong đời sống xã hội.“ ( số 4.)
Gia đình theo khía cạnh nền tảng sinh vật học có chức năng sinh sản con cái cùng qua đó bảo đảm cho việc lưu truyền sự sống được nối tiếp giữa các thế hệ.
Gia đình là không gian đời sống xã hội tiên khởi cho trẻ thơ, người trẻ phát triển lớn lên thành người trưởng thành. Trong không gian này trẻ thơ, người trẻ không chỉ nhận được sự đùm bọc yêu thương của cha mẹ, nhưng họ còn được chỉ dậy uốn nắn về mặt tinh thần, về cung cách nếp sống văn hóa. Đây là điều cần thiết xây dựng phát triển nhân cách riêng của họ ở trường đời sống sau này trong xã hội.
Theo phương diện kinh tế, gia đình đóng vai trò quan trọng trong đời sống. Gia đình mang đến sự săn sóc bao bọc che chở cho trẻ con và cho cả người bệnh đau yếu trong gian đình. Gia đình cung ứng nhu cầu nhà ở, thức ăn nuôi dưỡng, quần áo cho các thành viên trong gia đình.
Theo khía cạnh chính trị, gia đình được luật pháp xã hội chính thức công nhận hợp pháp trong lòng xã hội. Gia đình có chỗ đứng hợp pháp cùng được bảo vệ.
Gia đình theo khía cạnh tôn giáo còn là trường học cùng nơi thực hành những tập tục thói quen tốt lành đạo đức, những gía trị tinh thần cho con người, từ khi còn tuổi thơ ấu trên cánh tay đầu gối của cha mẹ.
Mối tương quan liên hệ trong gia đình đặt trên ba tương quan giữa cha và mẹ, giữa cha mẹ với những người con, cùng những người con anh chị em với nhau, và giữa gia đình với Thiên Chúa.
Căn bản của mối tương quan là tình yêu, như Thánh Phao lo đã viết diễn tả: „ Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại.13 Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau.14 Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. ( Col 3, 12-14)
Trong chuyến hành hương lên Giêrusalem, như trong phúc âm thuật lại, nảy sinh một hình ảnh mới về mối tương quan giữa Chúa Giêsu và cha mẹ của ngài. Trẻ Giesu cho cha mẹ - Thánh Giuse và Đức mẹ Maria - biết, ngài còn có bổn phận với Thiên Chúa trên trời nữa. Nhưng tình yêu bao giờ cũng vẫn là sợi dây trong gia đình của ngài với Thánh Giuse và Đức Mẹ Maria ở Nazareth: „Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.52 Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.“ ( Lc 2, 51-52.)
Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse qua đó đã hiểu ra rằng: mỗi người con thuộc về Thiên Chúa. Người con không phải là sở hữu của cha mẹ, dù họ là người sinh thành ra con mình. Cha mẹ có chức năng bổn phận đào tạo giáo dục con mình trong tương quan hướng về Thiên Chúa, và đến thời gian lúc nhất định phải buông con mình ra để họ sống tự lập.
Bao lâu con cái còn ở nhà sống chung với cha mẹ, họ cần học hỏi sống yêu mến, vâng lời cha mẹ mình.
Đó là hình ảnh gia đình trong ý nghĩa Kytô giáo.
Lễ thánh gia thất
Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Mặt Trời trong niềm tin
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Mặt trời là hành tinh lớn trên bầu trời chiếu tỏa ánh sáng soi chiếu ban ngày như Thiên Chúa muốn khi tạo dựng nên trong công trình thiên nhiên đã tạo dựng nên cùng xác định như thế:
„14 Thiên Chúa phán: "Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm.15 Đó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất." Liền có như vậy.16 Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao.“ ( St 1,14-16).
Từ ngàn xưa con người không thể nhìn thẳng vào mặt trời, vì ánh sáng chiếu ra tỏa hơi nóng cùng làm chói đau mắt và có nguy cơ bị hỏng mắt, nhưng con người hằng rất ngạc nhiên thích thú về mặt trời cùng hằng muốn tìm hiểu khám phá cơ cấu mặt trời như thế nào.
Cũng xưa nay nhiều dân tộc tôn kính thờ mặt trời như Chúa tể Thần Thánh.
Mặt trời , như ý muốn của Đấng Tạo Hóa, có nhiệm vụ chiếu tỏa ánh sáng ban ngày cho vũ trụ. Ánh sáng từ mặt trời chiếu tỏa ra nóng như lửa cháy, nhưng mang đến hơi nồng ấm cùng sức sống cho vạn vật trên trái đất phát triển.
Mặt trời là một hành tinh ở cách xa mặt đất, trái đất xuay chung quanh mặt trời. Ánh sáng mặt trời chiếu tỏa cần thiết cho đời sống. Vì thế con người cảm nhận ra mình có họ hàng liên quan với mặt trời.
Thánh Phaolo tông đồ cho rằng những người tín hữu Chúa Giêsu Kito là con của ánh sáng mật trời.
Niềm tin tôn giáo huyền bí ngày xưa gợi cho con người cảm giác họ là con của thần thánh mặt trời. Trước hết con người gìa cũ phải chết, để họ có thể nhìn thấy Thần Mặt Trời. Giữa đêm khuya tối tăm nhà thần bí nhìn thấy mặt trời và cho rằng mình được ánh sáng thần linh soi chiếu.
Người tín hữu Chúa Giêsu Kitô nhìn vào Chúa Giêsu nhận ra Ngài là mặt trời chính thực, như phúc âm thánh Luca viết tường thuật là câu trả lời cho sự tôn kính của người Hylạp với Thần mặt trời Helios.
Đấng cứu thế đang đến, với Thánh sử Luca là „ sol salutis - Mặt trời cứu độ chữa lành.“
Các Giáo phụ Hylạp diễn tả sự sinh ra của Chúa Giêsu trong bối cảnh trông mong chờ đợi sự cứu độ giải thoát, như niềm tin tôn giáo Thần Mặt Trời tin tưởng. Người Hylạp ca mừng sự sinh ra trong đêm tối của ánh sáng Thần Mặt trời Aion. : Người trinh nữa đã hạ sinh và ánh sáng phát tỏa bừng lên.!
Thánh Giáo Phụ Ephraem người Syria đã có suy tư trả lời về khát vọng này qua bài thánh ca: Thiên Chúa, ánh sáng của trời cao xuống trần gian như ánh mặt trời chiếu tỏa từ cung lòng người mẹ …Mặt trời chiến thắng chế ngự bóng tối mùa Đông, chế ngự thần dữ qủy satan. Mặt trời xuất hiện loan tin vui mừng chiến thắng Đấng đã sinh ra.
Ngày 25. tháng Mười Hai là ngày mừng mặt trời chuyển hướng. Với người tín hữu Chúa Kitô hình ảnh thời cổ xưa này nói lên, Chúa Giêsu Kitô, đấng là mặt Trời chính thực, đã thay đổi chuyển hướng số phận con người chúng ta thành sự chữa lành ơn cứu độ.
Chúa Giêsu Kito sinh ra, như mặt trời mọc đang lên, làm cho con đường bóng đen tội lỗi bị xóa tan. Phụng vụ ngày lễ Chúa giáng sinh luôn luôn mừng kính dưới hình ảnh ánh sáng mặt trời.
Về ngày sinh ra cùng năm sinh của Chúa Giêsu không có sử sách nào ghi lại. Chỉ biết trước khi đạo Công giáo truyền sang đế quốc Roma, từ thời xa xưa ở nhiều nền văn hóa dân gian, ngày 25.12. là một ngày đặc biệt, là ngày bản lề chuyển tiếp sang mùa Đông với thời tiết gía lạnh cùng tối tăm. Theo văn hóa người Roma, họ kính thờ Thần Saturn, vị Thần mặt Trời không hề bị chiến thắng vào ngày này.
Những tín hữu Chúa Kitô từ năm 217 sau Chúa Giáng sinh, dưới thời Đức giáo hoàng Hippolytus, Giáo Hội Công giáo thành Roma đã tìm cách lấy ngày này thay vì thờ thần mặt trời theo nghi lễ xã hội của dân ngoại Roma, làm ngày mừng sinh nhật Chúa Giesu sinh xuống làm người trên trần gian.
Hội Thánh Công giáo muốn „rửa tội“ ngày 25.12. theo nghi lễ tôn giáo dân ngoại Roma, thành ngày lễ Chúa Giesu giáng sinh làm người, Đấng là Mặt Trời công chính thay cho Thần mặt trời không hề bị chiến thắng của dân Roma.
Tiến trình cố gắng này kéo dài cùng nhiều thử thách tưởng chừng như thất bại. Nhưng đến thế kỷ thứ 4. khi đạo Công giáo được chính thức công nhận trong toàn đế quốc Roma dưới thời hoàng đế Constantino, cố gắng „rửa tội“ ngày thờ thần mặt trời theo nghi lễ ngoại đạo thành ngày theo nghi lễ đạo Công giáo mới chính thức thành công được công nhận.
Và cho đến thế kỷ thứ 8. sau Chúa Giáng sinh, ngày 25.12. hằng năm là ngày lễ trọng mừng sinh nhật Chúa Giêsu trở thành ngày lễ chung cho Hội Thánh Công giáo trên hoàn cầu.
Căn cứ theo Phúc âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu là ánh sáng chân thật đến trong trần gian (Ga 8,9), ̣ và theo sách Tiên tri Maleachi, Chúa Giêsu, Đấng Mặt Trời công chính (3,2).
Nên „rửa tội“ lấy ngày 25.12. theo ý nghĩa văn hóa của dân Roma ngày xưa cho trở thành ngày kính thờ Chúa Giêsu, Đấng là Mặt Trời đến trong trần gian là điều rất thuận tiện thích hợp cùng phải lẽ và chính đáng.
Mừng lễ Chúa giáng sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nơi sinh ra của Chúa Giêsu Kitô.
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Trên giấy tờ khai sinh của mỗi người không chỉ có ngày tháng năm mà còn ghi viết cả địa điểm sinh ra ở đâu nữa.
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, cách đây 2018 năm sinh ra trên trần gian, nhưng không có giấy khai sinh bút tịch chứng từ lưu lại.
Vậy làm sao biết được nơi sinh ra của Ngài ở đâu?
Ngôn sứ Micha vào thế kỷ thứ 8. trước Chúa giáng sinh đã tiên báo về điều này:
„ Phần ngươi, hỡi Bethlehem Ephrata, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Juda, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel. Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa. ( Micha 5, 1-2)
Và Thánh sử Luca viết thuật lại chi tiết khung cảnh lịch sử nơi sinh ra của Chúa Giêsu:
„ Thời ấy, hoàng đế Augustus ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.2 Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quirinus làm tổng trấn xứ Syria.3 Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi.4 Bởi thế, ông Giu-se từ thành Nazareth, miền Galile lên thành vua David tức là Bethlehem, miền Juda, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua David.5 Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai.6 Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa.7 Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.“ ( Lc 2, 1-7).
Như vậy nơi của Chúa Giêsu đã được loan báo chứng thực trong Kinh Thánh từ thời xa xưa và cùng vào thời điểm ngài chào đời ở thành Bethlehem.
Bethlehem là địa điểm như thế nào trong lịch sử đất nước Do Thái cùng ẩn chứa ý nghĩa đạo đức thần học gì ?
Bethlehem là một thành phố nằm sát ranh giới với thành phố Jerusalem, vùng phía Nam nước Do Thái, cụ thể là vùng phía Tây sông Jordan với khoảng hơn kém 30.000 dân số. Về phương diện chịnh trị hành chánh Bethlehem bây giờ thuộc vùng tự trị của chính phủ Palestina.
Theo nguyên ngữ nguồn gốc tiếng Do Thái chữ „Beth“ có nghĩa là „ngôi nhà“- Lehem hay cũng viết là Lechem có nghĩa là „ bánh mì“ . Bánh mì là thực phẩm cho đời sống người dân. Như thế Bethlehem mang nghĩa là ngôi nhà bánh mì.
Theo tiếng Arabe thành phố này có viết là Beit Lahm , mà Lahm mang ý nghĩa là „thịt“ và nơi một số tiếng địa phương vùng miền Nam của Arabe thì Lahm mang ý nghĩa là „cá“.
Như thế Bethlehem mang ý nghĩa thực phẩm cho con người: ngôi nhà bánh mì, hay thịt hay cá. Và thịt hay cá cũng đều là thức ăn thực phẩm căn bản cho con người.
Trong Kinh Thánh Cựu ước, Bethlehem được nhắc đến trong sách Sáng thế ký ( St 35,19): bà Rahel vợ của tổ phụ Jacob được an táng ở Efrata bây giờ là Bethlehem.
Sau khi các Chi tộc Do Thái từ Aicập trờ về và chiếm ngự vùng Kanaan, Bethlehem được phân chia cho chi tộc Juda ( Josua 15,59 - 1 Sách Biên niên sử 4,22).
Ngôn sứ Samuel được Thiên Chúa sai đến Bethlehem tìm David và phong ông làm Vua Israel ( 1 Samuel 16,1) , mà Vua David là tổ tiên của Chúa Giesu.
Cả ba thánh sử viết phúc âm Chúa Giêsu là Mattheus 2,1, Luca 2,4-11 và Gioan 7,42 đều thuật lại Chúa Giesu Kito sinh ra ờ Bethlehem, rất có thể trong một hang động.
Bethlehem trở nên thánh địa linh thiêng lịch sử nơi sinh ra của Chúa Giesu. Những người tín hữu Chúa Giesu Kito ngay từ thời thế kỷ thứ 2. đã rất tôn kính nơi thánh địa này. Và năm 333 sau Chúa giáng sinh thánh đường kỷ niệm Chúa giáng sinh dưới thời hoàng đế Constantino và Thánh nữ Helena đã được xây dựng ở đây để ghi dấu tưởng nhớ cùng cho mọi người tôn kính hành hương cầu nguyện.
Năm 386 Thánh giáo phụ Hieronimus đến Bethlehem sống trong một hang động sát liền bên cạnh đền thờ Chúa giáng sinh, nơi đây Thánh giáo phụ đã dịch bản kinh thánh Vulgata từ tiếng Hylạp sang tiếng Latinh. Trong thư số 46 chương 11 câu 3. Thánh giáo phụ khẳng định: „ Nơi đây trong một vùng nhỏ của trái đất đấng Tạo Hoá của trời cao đã sinh ra.“
Vương cung thánh đường thời hoàng đế Constantinus xât dựng, vào năm 529 bị hư hại nặng trong cuộc chiến nổi dậy của người Samariter. Sau đó vào đầu thế kỷ 6. đền thờ này bị phá hủy hoàn toàn. Sau đó hoàng đế Justinianus I. cho xây thánh đường chúa giáng sinh mới rộng lớn hơn thay thế đền thở cũ bị phá đổ trước đó. Đền thờ mới được khánh thành dâng kính Mẹ Thiên Chúa.
Năm 614 quân đội Batư chinh chiến sang Israel chống lại đế quốc Byzantin đã phá hủy các đền thờ thánh đường khác, nhưng ngôi thánh đường Chúa Giáng sinh ở Bethlehem không bị người Batư phá hủy. Vì họ tìm thấy nơi cổng vào đền thờ có vẽ khắc ghi hình nổi Ba Vua với phẩm phục người Phương đông giống như người Batư. Đó là lý do tại sao họ không phá đền thờ Chúa giáng sinh còn tồn tại cho tới ngày nay.
Năm 1717 Giáo hội Công giáo tham gia vào việc trùng tu sửa đền thờ ngay chính nơi hài nhi Giesu được đặt nằm sau khi sinh ra có khắc vẽ hình ngôi sao bằng bạc 14 cánh với dòng chữ „ Hic de virgine Maria Christus natus est - Nơi đây Chúa Giêsu Kitô sinh ra từ cung lòng đức mẹ đồng trinh Maria.“. Ngôi sao có 14 cánh là hình ành biểu tượng nói đến 14 thế hệ trong gia phả Chúa Giêsu Kitô.( Mt 1, 1-17).
Chúa Giesu sinh ra ở Bethlehem như Kinh thánh sử sách ghi viết thuật lại. Theo ý nghĩa của ngôn ngữ Do Thái hay Palestina Bethlehem là „ ngôi nhà thực phẩm bánh mì, cá hay thịt“ cho con người.
Chúa Giêsu sau này đi rao giảng nước Thiên Chúa có đến nơi cũ mình đã sinh ra hay không, không thấy Kinh thánh nói đến. Nhưng Chúa Giêsu đã giảng: „ Ta là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ có sự sống đời đời. Bánh ta ban chính là thịt ta hiến thân cho trần gian.“ ( Ga 6,51)
Như thế có thể nói được rằng Chúa Giesu trở nên thực phẩm căn bản cho sự sống đời đời.
Nhưng còn cá ? Chúa Giêsu cũng đã làm phép lạ hai con cá và năm chiếc bánh biến hóa thành thực phẩm với số lượng nhiều đến nỗi dư thừa cho hàng ngàn ăn no đủ, khi họ kéo đến nghe giảng để không bị đói.
Chúa Giêsu đã kêu gọi Ông Andre và Ông Phero là những người sống bằng nghề chài lưới đánh bắt cá làm môn đệ đầu tiên, và tấn phong Phero làm giáo hòang đầu tiên của Giáo hội Chúa ở trần gian. Những vị giáo hoàng kế vị Thánh Phero đều mang đeo chiếc nhẫn ngư phủ tượng trưng quyền bính giáo hoàng.
„ Chúng ta không có nguồn thông tin nào khác về sự sinh ra của Chúa Giêsu Kitô ngoài lịch sử đời thơ ấu chúa Giêsu được thánh sứ Matthaeus và Luca viết thuật lại . Hai vị thánh sử tường thuật khác nhau về phương diện đạo đức thần học cũng như tin tức theo khía cạnh kịch sử.
Thánh sử Matthaeus không nói đến hoặc không biết về Thánh Giuse và đức mẹ Maria trước hết ở Nazareth. Nên Thánh Giuse muốn từ Aicập trở về trước hết đến Bethlehem, và sau đó có tin người con trai của vua Herode lên ngôi cai trị vùng miền xứ Juda , do đó mới đem gia đình về Galilea.
Thánh sử Luca trái lại ngay từ đầu đã rõ ràng sau khi Chúa Giêsu sinh ra gia đình thánh gia trở về Nazareth.
Hai vị thánh sử với hai tường thuật khác nhau, nhưng nói đến chung một thông tin giống nhau: Chúa Giesu sinh ra ở Bethlehem. Dựa vào những nguồn thông tin tường thuật này, chúng ta biết được Chúa Giêsu Kitô sinh ra ở Bethlehem và lớn lên trưởng thành ở Nazareth.“ ( Joseph Ratzinger, Benedickt XVI. JESUS von Nazareth, Prolog die Kindheitsgeschichten, Herder 2012, tr. 75.)
Mừng lễ Chúa giáng sinh 2018
Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long