200 năm Stille Nacht, heilige Nacht 1818-2018
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm vào tháng Mười Hai, trước cùng trong mùa mừng lễ Chúa giáng sinh , bản nhạc Stille Nacht heilige Nacht thần thoại thời danh cùng phổ thông khắp nơi trên thế giới được hát vang lên, không chỉ trong thánh đường Công Giáo ,Tin Lành, mà còn cả ở nhà tư, nơi công cộng nữa.
Bản nhạc thời danh này là bản nhạc thánh ca được hát trong đêm mừng lễ Chúa giáng sinh. Nhưng dần dần trong dòng thời gian bài hát được ưa chuộng hát khắp nơi, cả trong những buổi trình diễn nhạc giáng sinh hay nơi bữa tiệc liên hoan mừng giáng sinh nữa. Nó trở thành bài hát thần thoại thời danh trong dân gian. Lời cùng âm điệu cung nhạc bản nhạc thời danh này gợi gây cảm hứng được dịch ra hay phổ lời bằng tiếng địa phương mỗi quốc gia dân tộc rộng rãi trên thế giới .
Bài nhạc thánh ca này không thể thiếu trong ngày lễ mừng Chúa giáng sinh, đêm 24. tháng 12. và ngày 25. tháng 12. Ngày lễ mừng Chúa giáng sinh mà không hát bài này, như còn thiếu điều gì, hay có người còn cho là chưa mừng lễ Chúa giáng sinh trọn vẹn đầy đủ!!!
Bài hát này tuy được hát hằng năm, hầu như thuộc lòng lời cùng âm điệu khắp nơi trên thế giới, nhưng nó vẫn luôn hằng sống động. Phải, nó luôn luôn có sức hấp dẫn gây mang đến cho người hát cùng người nghe tâm tình, tình cảm rung động cảm kích, cùng cảm giác thư thái bình an. Bản nhạc này đi vào lịch sử âm nhạc và vào trái tim lòng con người.
Tác gỉa bài hát thánh ca thời danh này là một Linh mục được cử sai đến trợ giúp ở xứ đạo Công giáo Thánh Nikolaus vùng Oberndorf bên nước Áo, và Ông thầy giáo đánh đàn nhà thờ Thánh Nikolaus.
Linh mục Joseph Mohr, người sáng tác viết lời bản nhạc Stille Nacht heilige Nacht sinh ngày 11. 12.1792 ở thành phố Salzburg nước Áo - Salzburg cũng là quê quán của nhạc sĩ thiên tài Wolgang Amadeus Mozart - Cha của Joseph đã bỏ vợ con trốn ra đi nửa năm trước khi Joseph sinh ra. Hai ông bà chỉ sống chung với nhau không có lễ cưới về phân đời cũng như phần đạo.
Vào thời lúc đó, cậu bé sau khi chào đời 4 tiếng đồng hồ đã được rửa tội với tên Joseph Mohr . Theo Hlavac viết về tiểu sử của Joseph Mohr đã mô tả cậu Joseph này đã sống trải qua thời thơ ấu trong hoàn cảnh nghèo nàn tội nghiệp. Nhưng dẫu vậy thân phận nghèo nàn thời thơ ấu lại giúp cậu Joseph trở thành người tốt cùng thời danh.
Cha phó nhà thờ chính tòa Johann Nepomuk Hiernle đã nhìn ra nơi Joseph khả năng thiên phú còn tiềm ẩn, nên đã tận tình nâng đỡ Joseph rất quảng đại. Chính cha phó nhận ra tài năng nơi cậu và hướng dẫn dậy học cùng tạo điều kiện cho Joseph có thể từ 1808 đến 1810 vào học ở đại học Kremsmuenster. Nhờ thế Joseph Mohr có cơ hội kiếm tiền nuôi sống mình bằng chơi dạy nhạc cụ và ca hát.
Tổng giám mục Hieronymus von Colloredo đề ra chương trình cải cách đổi mới việc đào tạo linh mục ở chủng viện. Theo đó không chỉ chú trọng huấn luyện về mục vụ , nhưng còn về trí thức, về tâm lý, về sức khoẻ, về thiên nhiên nông nghiệp. Vị Tổng giám mục chú ý nhiều đến thánh nhạc bên nước Đức.
Những điều này đã gây ấn tượng phấn khởi nơi Joseph Mohr rất mạnh, và cậu muốn đem áp dụng vào thực tế. Là người con ngoại hôn không có cha chỉ sống với mẹ, nên Joseph cần phép chuẩn của Giáo Hội để có thể được truyền chức làm linh mục. Và phép chuẩn đã có cho Joseph.
Ngày 20.08.1815 Joseph Mohr được truyền chức Phó tế và một ngày sau đó được phong chức Linh Mục lúc 23 tuổi. Linh mục trẻ Joseph Mohr được sai cử trước hết làm mục vụ ở Ramsau vùng Bayern. Những năm sau đó đổi chỗ làm việc nhiều lần tiếp theo.
Theo những nguồn thuật lại Linh mục Mohr là người có tính tình hài hước vui vẻ, bình dân rất gần với dân chúng xứ đạo, cùng có trái tim tâm hồn với những người nghèo khổ. Ông thích chơi đàn Guitar, ca hát, vũ múa vui nhộn như sở trường của ông.
Năm 1817 được sai cử về trợ giúp nhà thờ Thánh Nocolaus ở Oberndorf, linh mục Mohr quen với Franz Xaver Gruber ( 1787 - 1863), là thầy giáo và là người đánh đàn nhà thờ. Hai người hiểu nhau rất thân tình. Họ trở nên bạn thân thiết với nhau.
Ngày lễ mừng Chúa giáng sinh 1818 Linh mục Mohr đã đưa lời bài hát do ông viết cho Gruber phổ nhạc, và cũng do chính Franz Gruber hát giọng Bass, Joseph Mohr hát giọng Tenor và Joseph Mohr chơi đàn Guitar đệm theo trước hang đá Chúa giáng sinh sau thánh lễ mừng Chúa giáng sinh.
Đó là lần đầu tiên bài Stille Nacht heilige Nacht được hát vang lên trong thánh đường vào ngày lễ mừng Chúa giáng sinh ở thánh đường Thánh Nikolaus bên nước Áo. Bài hát này ngày đó được hát không phải với ba phiên khúc nhưng với sáu phiên khúc. Lời bài hát và âm điệu cung nhạc bài hát thuyết phục làm cảm động say mê mọi người trong nhà thờ từ ngày hôm đó.
Động lực nào đã thúc đẩy Linh mục Mohr sáng tác ra lời bài hát, không có bằng chứng chắc chắn rõ ràng. Một suy đoán tích cực là Fr. Gruber và J. Mohr đã viết bài nhạc này với đàn Guitar chơi đệm trong nhà thờ là điều trước đó chưa xẩy ra. Và trong dòng thời gian có nhiều suy luận, suy đoán mang tính cách trang điểm thêu dệt huyền thoại cũng như lịch sử mang tính cách thi vị của bài Stille Nacht heilige Nacht.
Xưa nay có thắc mắc tại sao bản thánh ca này lần đầu tiên trong đêm thánh vô cùng do chính tác giả viết lời, J. Mohr, hát và chơi đệm đàn Guitar mà không do Fr. Gruber chơi trên phím đàn Orgel trong thánh đường? Người ta đưa ra câu chuyện là chiếc đàn Orgel nhà thờ Thánh Nikolaus đã cũ cần phải sửa chữa điều chỉnh lại âm thanh đã đang đàn ngang cung, và lại thêm con chuột nhà thờ đã chui vào làm tổ cắn phá làm cho tiếng đàn bị sai lạc. Vì thế linh mục J. Mohr, cũng là người có tài chơi đàn Guitar, đã chơi đệm bản nhạc này với chiếc đàn Guitar của riêng Ông.
Một năm sau lễ mừng Chúa giáng sinh 1818 với bài hát thời danh thần thoại Stille Nacht heilige Nacht, Linh mục Joseph Mohr được thuyên chuyển khỏi Oberndorf. Sau đó Ông còn thay đổi nhiệm sở bẩy lần nữa. Nhiệm sở sau cùng của Ông từ năm 1837 ở Wagrain vùng Pongau. Nơi đây Linh mục Joseph Mohr qua đời ngày 04.12. 1848 vào tuổi 56 vì mắc bệnh phổi.
Năm 2018 kỷ niệm 200 năm bản nhạc thời danh cùng phổ thông Stille Nacht, heilige Nacht được 200 tuổi. Vùng thành phố Salzburg bên áo, quê hương của tác gỉa bản nhạc, đã thành lập Hội Stille Nacht. Và năm 2018 Hội sẽ tổ chức lễ hội trọng thể mừng kỷ niệm bản nhạc thần thoại thời danh được 200 tuổi.
Năm 2011 bản nhạc thời danh thần thoại này được công nhận liệt kê vào danh sách Di sản Văn hóa thế giới. Và lời bản nhạc được dịch hay phổ lời ra hơn 200 ngôn ngữ địa phương trên khắp thế giới. Tiếng Việt Nam có bản tiếng có bản Việt ngữ „Đêm thánh vô cùng“ do cố nhạc sĩ Hùng Lân viết lời.
Lúc qua đời Linh mục Mohr, tác giả lời bản nhạc Stille nacht, heilige Nacht là người vô sản không có gì sở hữu. Vì lúc còn sinh thời Ông đã đem những gì mình có trao tặng tất cả, chỉ còn vài bộ quần áo để mặc. Năm 1912 người ta muốn tạc tượng vẽ hình linh mục tác giả J. Mohr, nhưng không tìm được hình ông. Vì tromg suốt đọc đời sống J. Mohr luôn luôn từ chối cho chụp hình mình. Nên sau khi ông qua đời không có một hình nào của ông để lại. Để có hình hài của Ông, người ta đã tìm thấy ngôi mộ Ông ở Wagrain, và cho đào lên lấy bộ xương sọ của ông làm mẫu đễ đúc tượng. Sau khi đã vẽ họa lấy mẫu, xương sọ ông được đưa về an táng ở bức tường nhà nguyện kỷ niệm Stille Nacht ở Oberdorn.
Ông đã qua đời, nhưng bài nhạc thần thoại bất hủ Stille Nacht heilige Nacht ca mừng Chúa giáng sinh của Ông đi vào lịch sử đời sống dân gian cho tới ngàn thu.
Lễ mừng Chúa giáng sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ vùng sa mạc hoang vu
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm vào mùa Vọng khí hậu mùa đông cùng trời tối sớm và đêm dài hơn ban ngày bên Âu châu, theo tập tục nếp sống văn hóa nhiều thành phố tổ chức „ Chợ giáng sinh- Weihnachtsmarkt- Marche de Noel“ suốt bốn tuần lễ mùa Vọng cho tới chiều ngày lễ mừng Chúa giáng sinh. Trong khu Chợ giáng sinh và ở cả ngoài đường phố, nơi các cửa tiệm, cùng nơi nhiều nhà tư đèn nến thắp sáng chiếu tỏa lung linh thi vị hấp dẫn, tạo nên bầu không khí rộn ràng mùa mừng lễ giáng sinh.
Trong không khí sửa soạn đó, Kinh Thánh nói đến Thánh Gioan Tiền hô. Tên Gioan theo nguyên ngữ Do Thái có nghĩa: Thiên Chúa dủ lòng xót thương! Thánh Gioan xác nhận Ông không phải là ánh sáng, nhưng là người làm chứng cho ánh sáng .
Kinh thánh thuật lại Thánh Gioan lớn tiếng rao giảng trong vùng sa mạc: hãy dọn đường bằng phẳng cho Chúa đến!
Tạo sao Thánh Gioan lại rao giảng làm chứng cho ánh sáng của Chúa từ trong sa mạc hoang vu?
Sa mạc theo hình thể địa lý là vùng toàn cát nóng bỏng ban ngày, khí hậu ban đêm xuống lạnh dưới không độ Celcius, vùng hoang vu không cây cối, không có nước không ai vào đây sinh sống được.
Nhưng Ông Thánh Gioan tẩy giả đã vào nơi sa mạc hoang vu bên nước Do Thái ngày xưa chịu đựng cuộc sống kham khổ chay tịnh, như Kinh Thánh thuật lại? ( Mc 1,1-4). Nơi đây Ông không tiếp xúc với ai, chỉ ngoài với Thiên Chúa thôi. Nơi đây Ông thu mình lại hoàn toàn có cuộc sống nội tâm hướng lên tới Thiên Chúa.
Và như thế từ vùng trong sa mạc hoang vu tĩnh lặng , Thánh Gioan tẩy giả đã tìm được hướng đi tinh thần nội tâm cùng thu lượm có được kinh nghiệm nội lực thâm sâu chống trả lại những cám dỗ lôi kéo xa con đường tốt lành thánh thiện.
Từ kinh nghiệm nội tâm đó Ông đã lớn tiếng rao giảng: Hãy dọn con đường cho Chúa đến!
Với đà tiến bộ khoa học, ngày nay nếu ai có đi vào vùng sa mạc hoang vu trọng yếu là làm chuyện nghiên cứu tìm tòi, chuyện kinh tế khai thác mỏ quặng cho việc buôn bán.
Nhưng trong đời sống xã hội, dù ở ngay nơi thành thị, vùng đồng ruộng sông nước, núi rừng trù phú, con người vẫn trải qua cảnh sống sa mạc hoang vu nơi cuộc sống, như đức Thánh Cha Benedicto XVI. đã nhận diện những sa mạc đó:
„Có quá nhiều loại sa mạc. Có những sa mạc của nghèo đói, sa mạc của đói khát, sa mạc của bỏ rơi, của cô đơn, của tình yêu bị huỷ diệt.
Có những sa mạc của đêm đen Thiên Chúa, sự trống rỗng của các linh hồn không còn nhận thức được phẩm giá và mục đích đời người.
Những sa mạc bên ngoài thế giới đang lớn dần vì những sa mạc bên trong đã trở thành quá mênh mông. „ ( Bài giảng lễ khai mạc sứ vụ mục tử ngày 24.04.2005)
Thiên Chúa nguồn đời sống vẫn luôn có mặt trong mọi nơi, nơi mọi hoàn cảnh, kể cả nơi sa mạc hoang vu, mà tưởng chừng như không có Thiên Chúa trong nhiều hoàn cảnh đã, đang cùng có thể xảy đến trong tương lai.
Ngày xưa dân Thiên Chúa đi trong sa mạc hoang vu trở về đất Thiên Chúa hứa ban, Ngài không để họ bơ vơ lạc lõng trong đó, nhưng hằng cùng đồng hành hướng dẫn họ về nơi chốn quê hương bình an.
Ngày nay trong những cơn khủng hoảng trầm trọng xảy ra trong lòng Giáo hội tưởng chừng như một sa mạc hoang vu không còn sự sống niềm tin vào Chúa nữa. Dẫu vậy Thiên Chúa không rời xa Giáo hội của Ngài, trái lại Ngài vẫn hằng luôn bên cạnh., và cho dù có hồ nghi về Ngài.
Ở giữa sa mạc cát nóng bỏng, cùng giá lạnh lạnh thấu xương vào ban đêm, Thánh Gioan Tẩy giả đã chỉ hướng đi đến nguồn đời sống đang ở giữa con người: Chúa Giêsu, Ngài là ánh sáng đang đứng ngay bên cạnh sa mạc đời sống.
Ánh sáng ngọn nến trong đêm tối trời mùa Vọng mang đến không khí nồng ấm, biểu hiệu về Chúa Giêsu, đấng là ánh sáng soi chiếu vào đêm tối trần gian, đêm tối cuộc đời đang trong sa mạc hoang vu, đang trong bơ vơ thất vọng, có được hơi nồng ấm niềm hy vọng vực dậy vươn lên.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đức Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thời buổi ngày nay, nếu ai có vết tỳ thẹo, vết nám… trên khuôn mặt, khoa phẫu thuật thẩm mỹ có thể cạo sửa và đắp cho lành cho sạch , cho trẻ trung trắng lại. Kể cã mũi bị cong hay tai bị vẹo khoa phẫu thuật thẩm mỹ cũng có thể sửa lại cho cao ngay đẹp được.
Nhưng vết tỳ ố, nếp nhăn trong tận thâm tâm của tâm hồn con người thì sao, có thể dùng khoa phẫu thuật thẩm mỹ sửa lại cho hết vết tỳ ố được không?
Lẽ dĩ nhiên vết nhăn, vết tỳ ố bên ngoài trên khuôn mặt, trên làn da bên ngoài có thể nhờ khoa phẫu thuật thẩm mỹ cạo sửa lại được. Nhưng vết nhăn, vết tỳ ố tinh thần trong sâu tận tâm hồn con người khoa phẫu thuật thẩm mỹ đâu có thể với đụng chạm tới được để cạo sửa chữa.
Vết nhăn, vết tỳ ô bên trong tâm hồn con người mà Giáo hội, các nhà thần học nói đến. Đó là tội „tổ tông“ hay đó là „tội của trần gian“, như trong phúc âm thánh Gioan đã nói đến (Ga 1,29).
Điều này muốn nói đến cung cách sống sai lạc lầm lỗi, kéo theo hệ qủa làm cho con người đi vào con đường bị cám dỗ phạm tội lỗi.
Điều này muốn nói đến con người chúng ta khởi đầu từ Ông Bà nguyên tổ Adong-Evà trong dòng lịch sử kéo dài đã bị vướng mắc vào tội lỗi quay mặt lại với Thiên Chúa, thiếu lòng tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa.
Dấu ấn hình ảnh vị trí nền tảng này khắc ghi từ khi con người thành hình sự sống trong cung lòng mẹ cha làm cho chúng ta bị suy yếu với tính ghen tương tỵ nạnh, , sợ sợ hãi lo đời sống ngắn ngủi, tính ích kỷ, cảm giác tự ty mặc vảm và nhiều sự tiêu cực khác nữa.
Những vết nhăn tỳ ố này không là bên ngoài , nhưng nằm tận sâu thẳm tâm hồn trái tim tính tình con người, cùng làm cho đời sống không còn vẻ đẹp trong sáng nữa.
Để chữa lành khỏi những vết nhân tỳ ố đó, như Giáo hội dậy, Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã xuống trần gian, mang ơn cứu độ chữa lành cho con người.
Qua làn nước Bí tích rửa tội, Thiên Chúa nhận chúng ta làm con của Chúa, qua chúa Giêsu Kitô nhờ sự chết và sống lại của Người, chúng ta được rửa cho khỏi tội tổ tông, vết nhơ tỳ ố do tội được chữa lành. Và như thế được giải thoát khỏi vị trí nền tảng vướng mắc không được Chúa chúc phúc do tội lỗi gây ra. Từ căn bản đó con người có lại khả năng quyết định về điều thiện, điều đẹp tốt lành thánh thiện.
Hình ảnh Bí tích rửa tội được so sánh ví như phẫu thuật thẩm mỹ, giải thoát cạo sửa khỏi vết nhơ tỳ ố nằm sâu trong thâm tâm con người, và làm cho họ được đổi mới.
Mọi thế hệ con người từ Ông Bà nguyên tổ Adong-Evà tất cả đều bị vướng vào vết nhăn tỳ ố tội lỗi trong tâm hồn, duy chỉ trừ Maria thành Nazareth nước Do Thái. Điều này năm 1854 đã được đức thánh cha Pio IX. long trọng công bố trong tín điều Đức mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội.
Tín điều qủa quyết ngay từ đầu lúc thành hình sự sống là con ngpười trong cung lòng mẹ cha, Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn gìn giữ cho không bị vướng mắc vết nhăn tỳ ố của tội tổ tông Adong-Evà.
Trong Kinh Thánh không nói đến việc đức mẹ Maria không bị vướng mắc vết nhân tỳ ố của tội tổ tông, nhưng căn cứ vào lời Thiên Thần Gabriel, sứ giả của Thiên Chúa, chào Maria, khi hiện đến báo tin ngôi hai, Chúa Giêsu con Thiên Chúa xuống làm người trong cung lòng Maria: Chào Maria, chị được Thiên Chúa chúc phúc, Thiên Chúa ở cùng chị! (Lc 1,28).
Lễ mừng kính Đức mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội có nguồn gốc từ thế kỷ 8. bên Giáo hội Chính Thống lễ nghi Byzantin bên Đông phương. Họ mừng lễ thụ thai của bà Thánh Anna vào ngày 09. Tháng Mười Hai. Lễ này được mừng rộng rãi ra ở bên Anh quốc và nước Pháp.
Đến thời đức giáo hòang Sixtus IV. vào năm 1476 lễ có tên Sự thụ thai của đức mẹ đồng trinh Maria, viết tắt là Lễ đức mẹ thụ thai. Đến thời đức Giáo haòng Clemens XI. vào năm 1708 ngày lễ này lan tỏa rộng rãi trong toàn thể Giáo hội Công giáo. Và từ năm 1854 dưới thời đức giáo hoàng Pio IX. ngày lễ này càng trở nên có nghĩa hơn với tín điều công nhận Đức mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội. Và Giáo hội mừng kính lễ này vào ngày 08. Tháng Mười hai hằng năm.
Theo tín điều của Giáo hội, Maria là hình ảnh nguyên thủy của con người được cứu chuộc. Vì Maria không bị vướng mắc vào vết nhăn tỳ ố do tội tổ tông truyền lại.
Maria là con người , như Thiên Chúa từ khởi thủy đã tạo dựng nên cùng mong muốn: nguyên tuyền quy hướng về tình yêu Thiên Chúa, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa.
Maria là con người ngay khởi thủy ban đầu lúc thành hình sự sống đã được Thiên Chúa cứu độ, chứ không như con người chúng ta được Thiên Chúa ban ơn cứu độ qua làn nước bí tích rửa tội.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Sương trời ban mai
- Viết bởi Dân Chúa
Vào mùa Vọng chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giesu giáng sinh xuống trần gian làm người, phụng vụ Giáo Hội nói đến hình ảnh sương trời, như lời Ngôn sứ Isaia đã có tâm tình cầu nguyện: „ Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính“ ( Isaia 45,8).
Vậy hình ảnh sương trời mang ý nghĩa thần học đạo đức gì trong nếp sống đức tin ?
Thi ca văn chương dân gian xưa nay nói nhiều về sương trời lúc sáng sớm. Vì thế có thành ngữ: sáng tinh sương.
Những giọt hay làn Sương trời ban mai sáng sớm mang đến khí lạnh dịu mát cho cây cỏ, cho đất đai cùng cho cả lòng người nữa.
Bên vùng Trung Đông sương trời ban mai là một hình ảnh biểu tượng rất có ý nghĩa cho đời sống. Vào ban đêm không báo trước gây chú ý, làn sương trời âm thầm nhẹ nhàng như những giọt nước mưa mỏng nhẹ đổ xuống tưới mặt đất đồng ruộng khô cằn làm cho trở nên dịu mát. Vùng sa mạc cát khô cằn vào sáng sớm được tưới phủ thấm ướt bởi lớp sương trời.
Những giọt sương trời ban mai rơi đọng mặt đất hay trên cây cỏ khi ánh sáng mặt trời buổi bình minh xuất hiện, chúng chiếu tỏa ánh sáng óng ánh, như những viên hạt ngọc chiếu tỏa vẻ trong sáng rực rỡ.
Người Hylạp ca ví giọt sương trời ban mai như hình ảnh biểu tượng về tình yêu . Nền văn hóa Batư cho sương trời ban mai là hình ảnh biểu tượng của người trinh nữ.
Hình ảnh biểu tượng tình yêu của sương trời ban mai tưới gội cho miền đất ,cho trái tim khô héo, xơ cứng bắt đầu linh động, phong phú trở lại.
Sương trời ban mai ví tựa như hình ảnh biểu tượng cho người trinh nữ diễn tả vẻ đẹp trong trắng trinh nguyên vẹn tuyền, còn mới khoẻ mạnh không có vết nhơ tỳ vết.
Chúa Giêsu Kitô được sinh ra do người trinh nữ, như sương trời ban mai theo nền văn hóa Batư , là hình ảnh biểu tượng cho sức mạnh luôn đổi mới và mang đến ơn cứu chuộc của Thiên Chúa.
Thiên Chúa sáng tạo sự khởi đầu trở lại qua sương trời ban mai. Khi sự nóng bức của ban ngày làm cho đời sống trở nên khô cằn tàn héo, thì vào ban đêm Thiên Chúa cho sương trời đổ xuống khiến mọi sự được đổi mới tươi thắm trở lại. Và sự sống mới bừng phát lên.
Với nền văn hóa Do Thái sương trời ban mai là hình ảnh chính Thiên Chúa nuôi dưỡng săn sóc con người. Và sự héo tàn khô cứng nơi con người được trở nên phong phú mầu mỡ do sương trời tình yêu của Ngài ban đổ xuống tưới gội. Nhờ thế, sức sống mới nơi ta bừng phát lên.
Vào buổi sáng sớm mùa hè đi dạo băng qua vùng đồng cỏ còn đọng lớp sương trời ban mai, tuy bàn chân có chút cảm giác hơi lạnh lạnh, nhưng hít thở được không khí trong lành, cùng cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng tươi mát.
Nên vào mùa Vọng đón chờ lễ Chúa Giêsu giáng sinh, toàn thể Giáo hội hát cầu nguyện xin trời đổ sương mai, mây mưa Đấng công chính ( Isaia 454,8) nói lên khát vọng trong ý nghĩa con người đang sống trông mong chờ đợi sương trời ban mai đổ xuống làm cho trái đất, cho đời sống con người không còn bị khô cứng héo tàn, và qua đó được trổ sinh hoa trái sự sống mới trở lại.
Lời cầu khẩn khát vọng trông mong Đấng Công Chính là người chính thực nguyên tuyền, không vướng mắc vào lỗi lầm tội lỗi, không là bản sao phó bản. Đấng đó là vị thủ lãnh dẫn đường đời sống cho con người.
Khát vọng của Dân Do Thái ngày xưa như lời Ngôn Sứ Isaia diễn qua hỉnh ảnh sương trời ban mai về Đấng Cứ Thế đến giải thoát họ khỏi ách nô lệ của tội lỗi, của thống trị đè nặng trên họ.
Ngày nay mỗi năm bốn tuần lễ trước lễ Chúa Giêsu giáng sinh ngày 25. Tháng Mười hai, mùa Vọng mang ý nghĩa thời gian chuẩn bị tâm hồn đón mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người.
Bốn tuần lễ mùa Vọng nhắc nhớ đến bốn ngàn năm dân Thiên Chúa trông mong chờ đợi Đấng Cứu Thế từ khi vườn địa đàng bị đóng cửa cấm ra vào cho tới khi Chúa Giêsu giáng sinh xuống trần gian làm người.
Ngày xưa dân Do Thái cầu xin sương trời ban mai xin vị Cứu tinh đến mang ơn giải thoát.
Ngày nay người tín hữu Chúa Giesu Kito cũng cầu nguyện xin sương trời ban mai là xin ân đức của Thiên Chúa ban bình an cho đời sống còn đang trên đường lữ hành trần gian không bị vướng mắc vào những khó khăn cám dỗ về mọi khía cạnh.
Cầu xin sương trời ban mai đổ xuống là xin ơn tha thứ làm hòa cho thoát khỏi bị hình phạt do tội lỗi khi nay và trong giờ sau cùng của đời sống.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tông đồ Andre, vị Thánh với thập gía chéo hình chữ X
- Viết bởi Dân Chúa
Ông Andre là một trong 12 Tông đồ được chính Chúa Giêsu tuyển chọn kêu gọi theo sát Chúa Giêsu ba năm để trở thành cột trụ xây dựng Giáo hội Chúa ở trần gian.
Tông đồ Andre là ai?
Theo phúc âm Thánh Mattheo ( Mt 4,18-19) và Thánh Marco ( Mc 1,16-17) Chúa Giêsu khi ra giảng nước Thiên Chúa đã kêu gọi Andre là anh của Ông Phero làm tông đồ đầu tiên ở bờ hồ Galile vùng Nazareth nước Do Thái.
Căn cứ theo tường thuật đó Ông Andre là ngư phủ sinh sống bằng nghề chài lưới đánh bắt cá. Và Chúa Giêsu đã nói với hai ông câu kêu gọi thời danh đi làm việc tinh thần thiêng liêng tương tự như nghề các ông đang làm: „Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá“. ( Mc 1,17).
Theo sử sách cũ viết để lại Tông đồ Andre sinh thành ở Bethsaida vùng miền Galilee nước Do Thái vào khỏang năm 5. trước Chúa giáng sinh, là anh cùng dòng máu ruột thịt với Tông đồ Phero.
Theo Phúc âm Chúa Giêsu Thánh Gioan ( Ga 1,35-42) Ông Andee đã là môn đệ của Thánh Giaon tẩy giả. Và Thánh Gioan tẩy giả đã giơ tay chỉ giới thiệu với câu nói thời danh cho Ông Andre về Chúa Giêsu: „Đây Chiên Thiên Chúa“.
Ông Andre theo Chúa Giêsu và đã hỏi lại Chúa Giêsu: Thưa Thầy , Thầy ở đâu? Và lặp tức Ông nhận được câu trả lời thời danh của Chúa Giêsu: Đến mà xem!
Chúa Giêsu gọi Ông qua sự tôn trọng tự do của Ông Andre, và trao cho Ông sự tin tưởng trong tương quan chặt chẽ thân mật.
Theo Chúa Giêsu, nhưng Andre không dừng lại chỗ đó, Ông đi rủ dẫn em mình là Ông Simon Phero cùng đi theo Chúa Giêsu:„ Chúng tôi đã gặp Đấng Mesia (Đấng cứu thế)“( Ga 1,40).
Như thế ngay từ giây phút đầu tiên Ông Andre đã có tinh thần truyền giáo làm công việc mục vụ tông đồ cho Chúa Giêsu.
Andre là người đầu tiên được Chúa Giêsu kêu gọi theo Ngài làm tông đồ trong nhóm 12 Tông đồ của Chúa Giêsu. Căn cứ vào đó, phụng vụ Giáo hội Chính Thống Đông phương đã tôn kính Ông cho Ông thêm tên Protoklitos, có nghĩa Người được kêu gọi trước hết.
Thánh Tông đồ Phero, em Tông đồ Andre, được Chúa Giêsu cắt cử làm thủ lãnh Giáo hội Chúa ở trần gian. Và Phero sang Roma thành lập Giáo hội. Và có tên là Giáo hội Công giáo Roma.
Còn Tông đồ Andre theo tương truyền sang giảng đạo ở vùng biển Đen, ở vùng Thrakien và nước Hy Lạp. Có tương truyền thuật lại Tông đồ Andre làm Giám mục Patras và ngày 30.Tháng Mười Một năm 60. sau Chúa giáng sinh đã chết tử vì đạo ở đó.
Khi bị hành hình Tông Đồ Andre đã xin cho được đóng đinh vào thập gía chéo theo hình chữ X. Vì thế ngày nay hình Thánh nhân được vẽ khắc trình bày với cuốn sách Phúc âm Chúa Giesu trên tay với cây thập tự chéo hình chữ X bên cạnh.
Cây thập tự chéo hình chữ X đã trở thành một biểu tượng phổ thông thời danh trong văn hóa dân gian, và có tên là dấu thập tự Andre.
Di tích thân xác Thánh Tông đồ Andre năm 356 được đưa rước tôn kính ở thánh đường các Tông đồ thành Constantinopel, nay thuộc đất nước Thổ nhĩ Kỳ.
Nhưng thủ cấp của Thánh tông đồ Andre lại được đưa về Roma năm 1462, và năm 1964 dưới thời đức Thánh Giáo hòang Phaolô VI. thủ cấp thánh Andre trong tinh thần Đại kết được di chuyển trả về cho Giáo hội Chính Thống thành Patras, theo tương truyền nơi Thánh nhân bị đóng đinh vào thập gía chéo hình chữ X.
Một Chúa, một đức tin, nhưng lại có hai nhánh Giáo hội: Công giáo và Chính Thống - tách ra khỏi Giáo hội Công giáo năm 1054.
Giáo hội Công giáo bên Roma với Thánh Tông đồ Phero, và Giáo hội Chính Thồng bên Hylạp thành Constantinopel tôn kính Thánh tông đồ Andre trọng thể đặc biệt. Vì thế, Hai Giáo hội Công giáo và Chính Thống là Giáo hội anh em trong tương quan hai vị thủ lãnh là anh em ruột thịt với nhau, hai vị thủ lãnh cùng là tông đồ Chúa Giêsu, và hai Giáo hội cùng có một đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Thánh tông đồ Andre rất được tôn kính là quan thầy của Gíáo hội Chính Thống nước Nga. Quan thầy vùng Achajas bên Hy lạp, quan thầy của nước Rumania, nước Spanien.
Ngoài ra Thánh Tông đồ Andre cũng được nhận làm thánh quan thầy cùa các ngư phủ, của người buôn bán cá.
Hằng năm Giáo Hội Công giáo mừng kính lễ Thánh Tông đồ Andre vào ngày 30. Tháng Mười Một.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Biểu tượng về Chúa Giêsu Kitô
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Người Công giáo biết tên Chúa Giesu thành Nazareth, nhưng trong thánh đường, hay đó đây lại thấy có những hình ảnh biểu tượng huyền bí nhiệm mầu. Hỏi ra mới rõ đó là chỉ về Chúa Giêsu Kitô.
Đâu là ý nghĩa những biểu tượng đó?
Biểu tượng thường viết vẽ khắc thêu trong thánh đường, nơi chén thánh, , nơi nhà tạm hay nơi áo lễ phụng vụ, nơi trướng cờ hội đoàn Giáo hội với ba chữ viết tắt: IHS
IHS là những chữ viết tắt của câu „ In hoc signo - Nơi dấu chỉ này“. Câu này liên quan đến câu tin tưởng của Hoàng đế Constantino trước trận giao chiến ở cầu Milvischen chống chọi với Maxentius. Năm 312 Hoàng đế trước đó trong một thị kiến đã được nhìn thấy cây thập tự chiếu sáng và nhà vua đã lấy những dòng chữ đó biểu lộ lòng tin can đảm: „ In hoc signo vinces - Nơi dấu chỉ này anh sẽ thắng trận.!“.
Về sau trong dòng thời gian theo nguyên ngữ dân gian những chữ IHS được đọc thành „ Iesus hominum salvator - Chúa Giêsu, vị cứu tinh con người., hay Iesus homo sanctus- Chúa Giêsu, một vị thánh“, hay : Iesus hyos soter, Chúa Giêsu, người con, Đấng cứu thế.“
Vào thuở Giáo hội lúc ban đầu lúc còn bị theo dõi nghi kỵ bắt bớ chữ viết IHS là biểu tượng huyền nhiệm Kito giáo của người tín hữu Chúa Giêsu Kitô, và chữ viết biểu tượng này được khắc viết vẽ trên phần mộ của những người Kitô giáo.
Mẫu tự IHS - mẫu tự Hylạp :IHΣ Iota, Eta, và Sigma - viết tắt từ dòng chữ Hylạp chỉ về tên Chúa Giesu Ι Η Σ Ο Υ Σ, mẫu tự Σ Sigma theo tiếng latinh viết thành S.
Vào thế kỷ 15. Thánh Bernhardin thành Siene rao giảng kêu gọi người tín hữu Chúa Giêsu Kitô tôn kính tên Chúa Giêsu Kitô và viết, vẽ hay khắc ghi biểu tượng IHS nơi cửa nhà của mình để biểu lộ lòng tin kính.
Một thế kỷ sau đó, thế kỷ 16. Thánh Ignatio thành Loyola đã lấy biểu tượng IHS làm dấu hiệu biểu tượng Logo cho Dòng tên Chúa Giêsu, mà Thánh nhân thành lập trong Giáo hội, và IHS được đọc thành Iesum habemus socium - Chúng ta có Chúa Giêsu cùng đồng hành, hay „Iesu humilis societas - Cộng đòan nhỏ ( khiêm hạ) của Chúa Giêsu.“.
Đức giáo hoàng đương kim Phanxico đã lấy những biểu tượng IHS trên dấu hiệu giáo hoàng của mình.
Ngoài chữ biểu tượng IHS người tín hữu Chúa Giêsu Kitô ngày xưa còn dùng biểu tượng hình con Cá để chì về Chúa Giêsu nữa.
Theo tiếng Hylạp con Cá : ΙΧΘΥΣ , tiếng latinh: ICHTHYS là hình ảnh dấu chỉ về Bí tích Mình Thánh Chúa Giêsu Kitô.
Chúa Giêsu Kitô đã làm phép lạ biến hoá năm chiếc bánh và hai con cá thành lương thực nuôi hàng ngàn người ăn no đủ khi họ kéo đến nghe Người giảng dậy ngày xưa ờ bên bờ hồ Galileo nước Do Thái ( Ga 6,1-15). Đây là hình ảnh dấu chỉ về Bí tích Mình Thánh mà Chúa Giêsu thiết lập trước khi chịu khổ hình chết sau này. Và Chúa Giêsu củng đã nhấn mạnh“ Ngài là bánh hằng sống từ trời xuống: ( Ga 6,51).
Hình ảnh con cá giữ vai trò ý nghĩ khi Chúa Giêsu kêu gọi Thánh Phero làm tông đồ tiên khởi. Ông Phero là người làm nghề chài lưới đánh bắt cá ngoài biển hồ, và Chúa Giêsu nói với Ông:“ Con đừng sợ, từ bây giờ con thành người đi rao giảng tin mừng cho con người, giống như người ngư phủ đánh bắt cá. ( Lc 5,10).
Hình ảnh biểu tượng con cá ẩn chứa lòng tuyên tín về Chúa Giesu Kitô. Công thức ICHTHYS: I(esous) Ch(ristus) Th(eou) Hy(ios) S(oter): Chúa Giesu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng cứu tinh nói lên ý nghĩa này.
Giáo phụ Tertuliano cũng nói đến Chúa Giêsu Kitô như là một con cá, và những người tín Chúa Kitô như là những con cá nhỏ, Vì qua làn nước bí tích rửa tội đã sinh thành con cá.
Một biểu tượng nữa chỉ về Chúa Giesu Kitô: ☧ của hai mẫu tự Hylạp X(chi) và P( Rho), hay cũng được gọi là thập gía hoàng đế Constantino.
Biểu tượng Chi-Rho: Χριστός, Christós (Christus) sau cây thập gía Chúa Giêsu Kitô và hình con cá là biểu tượng được dùng nhiều để chỉ về Chúa Kitô.
Trên cây thập gía Chúa Giesu Kitô có bảng viết những chữ INRI. Dòng chữ này do quan tổng trấn Pilatus truyền viết là bản án Chúa Giêsu Kitô và đóng vào đầu cây thập gía đóng đinh Chúa Giêsu năm 33. .
Những mẫu tự thời danh này viết tắt của dòng chữ: „ Iesus Nazarenus Rex Iudaeorum - Giesu thành Nazareth., vua dân Do Thái.“ ( Phúc âm Thánh Gioan 19,19).
Những mẫu tự hình ảnh biểu tượng trên đây ẩn chứa mầu nhiệm nói chỉ về Chúa Giêsu Kitô.
Và những mẫu tự hình ảnh đó cũng diễn tả nói lên lòng tin của người tín hữu Chúa Giêsu Kitô vào Chúa Giesu Kitô, Đấng là Con Thiên Chúa, vị Cứu tinh và là vị Vua tình yêu của con người.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đức Mẹ thành Jerusalem
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong năm phụng vụ của Giáo Hội có nhiều ngày lễ về đức mẹ Maria, cùng được biết đến nhiều cùng mừng trọng thể. Nhưng lễ đức mẹ Maria dâng mình vào đền thờ: Praesentatio Beatae Mariae Virginis, ngày 21. 11. hằng năm hầu như không được phổ biến biết đến nhiều.
Đâu là nguồn gốc lịch sử cùng ý nghĩa thần học đạo đức ngày lễ này?
Ngày lễ này theo sử sách có nguồn gốc ở Jerusalem. Hoàng đế Justinianus đã cho xây thánh đường Maria Nova vào thế kỷ 6. và ngày 21. 11. 543 được làm phép thánh hiến. Giáo hội bên Đông phương đã lấy ngày này mừng kính Đức mẹ, mẹ Thiên Chúa dâng mình vào đền thờ. Ngày lễ này là một trong 12 lễ lớn trong của phụng vụ Giáo hội bên Đông phương, và được mừng kính từ chiều ngày 21. đến ngày 25. Tháng Mười Một.
Bên Giáo hội Tây phương lần đầu tiên mừng lễ này vào thế kỷ 9. bên nước Anh. Giáo hội bên Tây phương ( Roma) không công nhận lễ này, vì không có nền tảng trong Kinh Thánh. Mãi đến thế kỷ 14. ngày lễ này được bên Giáo hội Roma công nhận có tên là lễ Đức mẹ Maria dâng mình.
Từ 1472 dưới thời đức giáo hoàng Sixtus IV. ngày lễ đức mẹ dâng mình được liệt kê mừng trong toàn thể Giáo hội Công giáo.
Đức Giáo hoàng Sixtus V. năm 1585 đã chính thức công nhận lễ này trong lịch phụng vụ của Giáo hội.
Và Công đồng Vaticano II. đã lấy ngày 21. Tháng Mười Một hằng năm là ngày lễ kính nhớ Đức mẹ thành Jerusalem.
Tên ngày lễ kính nhớ Đức Mẹ thành Jerusalem nhắc nhớ đến đức mẹ Maria ngày xưa đã đem hài nhi Giêsu vào đền thờ Jerusalem dâng cho Thiên Chúa, và đã cùng theo sát chân Chúa Giêsu lên Jerusalem trong cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu, như thánh Giaon viết thuật lại trong phúc âm: „ Đứng dưới chân thập gía Chúa Giêsu có mẹ người và chị của mẹ người.“ ( Ga 19,25).
Nhưng do từ đâu có lịch sử huyền thoại về cuộc đời thơ ấu của đức mẹ Maria?
Thánh Giacobe tông đồ Chúa Giêsu đã viết một bản giáo lý phúc âm vào thời Giáo hội sơ khai lúc ban đầu. Phúc âm của Thánh Giacobê không được liệt kê chính thức vào bản Canon của Giáo hội. Trong đó viết thuật lại về cuộc đời đức mẹ Maria, mẹ Chúa Giêsu.
Bản phúc âm thánh Giacobus viết: Anna và Joachim là cha mẹ sinh thành ra Maria, đã đem con gái mình lúc 3 tuổi vào đền thờ. Thầy cả Thượng phẩm đã chào mừng con trẻ và chúc phúc lành bằng những lời chúc tụng: Thiên Chúa đã làm cho con nên cao trọng. “.
Và trong đền thờ hôm đó, một người ẩn danh còn thuật kể lại rằng Maria được bồng ẵm nâng niu như một con chim bồ câu. Maria đã tiếp nhận thức ăn từ bàn tay của Thiên Thần.
Một trình thuật khác thuật kể lại: Maria lúc 07 tuổi đã bước vào đền thờ để học hỏi lo việc phục vụ trong đền thờ. Lại có thuật kể rằng Maria đã vào phục vụ lo việc vệ sinh giữ gìn sạch sẽ, đồ lễ phụng vụ trong đền thờ, nhất là việc khâu vá giữ gìn đồ áo lễ phụng tự thờ kính Thiên Chúa cho mỹ thuật trang trọng.
Không vì những trình thuật huyền thọai đó mà Giáo hội công nhân sự tôn kính Đức Mẹ Maria.
Nhưng Giáo hội tôn kính lập ngày lễ mừng kính nhớ Đức mẹ vì sự hy sinh dấn thân của đức mẹ cho Chúa Giêsu. Sự hy sinh dấn thân khởi đầu từ lúc Maria nói lời xin vâng với chương trình của Thiên Chúa, do Thiên Thần Gabriel mang đến, để cho Chúa Giêsu,con Thiên Chúa nhập thể làm người trong cung lòng mình.
Và trong suốt dọc cuộc đời Đức mẹ Maria đã âm thầm nuôi dưỡng chịu đựng đau khổ với Chúa Giêsu trong công cuộc cứu độ loài người, lúc nào Đức mẹ cũng ở bên cạnh Chúa Giêsu cho tới khi Chúa sống lại trở về trời: từ Nazareth, rồi Bethlehem, tỵ nạn bên Aicập và Jerusalem.
Trái tim cung lòng đức mẹ Maria đã trở thành đền thờ thánh đức cho Chúa Giêsu , con Thiên Chúa. Và cũng trong đền thờ đó Đức Chúa Thánh Thần đã hiện xuống.
Và như thế, Đức mẹ Maria đã dâng chính cuộc đời mình làm đền thờ cho Thiên Chúa cư ngụ.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngày tận thế?
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Xưa nay thỉnh thoảng có truyền khẩu nói đến ngày tận thế: tối ba ngày ba đêm! Và còn khuyên mua nến đốt thắp để không phải sống trong đêm tối.
Không biết tin tức như thế căn cứ do đâu. Dẫu vậy, nghe thế cũng gây hoang mang chút lo sợ. Nhưng sự việc đã không xảy ra như truyền tụng rỉ tai nhau.
Tạ ơn Chúa.
Thế giới ngày 11.11.2018 vừa mới kỷ niệm 100 năm chấm dứt chiến tranh thế giới thứ nhất 1918 -2018.
Chiến tranh gây ra đổ nát, tàn phá chết chóc kinh hoàng, mất đất đai quê hương nhà cửa cho hàng triệu người. Sự kiện biến cố chiến tranh đó tưởng chừng như ngày tận thế ụp xuống trên thế giới. Nhưng thế giới công trình sáng tạo của Thiên Chúa không chấm dứt ở đó. Năm 1918 nước Đức thua trận đã cùng ký hiệp ước chấp nhận chấm dứt gây chiến tranh và xây dựng hòa bình trên đống tro tàn đổ nát.
Thế giới đã trải qua kinh hoàng sợ hãi, nhưng không phải là ngày tận thế.
Và trong dòng lịch sử thời gian trên thế giới xưa nay từ cổ chí kim đã xảy rất nhiều biến cố tai ương động đất, sóng thần lụt lội, cháy rừng, chiến tranh tàn phá gây chết chóc khinh hoàng tưởng chừng như đến ngày tận cùng đời sống rồi! Nhưng dẫu vậy chưa là ngày tận thế.
Niềm hy vọng sự sống vẫn phát mọc bừng lên trong đêm tối kinh hoàng tàn phá do chiến tranh, những biến cố tai ương gây ra.
Hằng năm vào cuối niên lịch phụng vụ, Chúa nhật 33. mùa thường niên Giáo Hội nhắc nhớ đến hình ảnh trong phúc âm Chúa Giesu : “Trong những ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển„ ( Mc 13, 24).
Nhắc đến những lời Chúa Giesu nói tiên báo không phải để gieo rắc sợ hãi, và lời Chúa không chấm dứt dừng lại chỗ này, mà còn tiếp tục loan báo muốn nói hướng đến ánh sáng niềm hy vọng bừng lên ở cuối con đường hầm tăm tối kinh hoàng:
„ Và bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất.“ ( Mc 13, 25).
Con người có kinh nghiệm đời sống: có khởi đầu và cũng có tận cùng. Điều này có đúng với công trình sáng tạo thiên nhiên của Thiên Chúa không? Không ai là con người có thể biết được, cùng qủa quyết được điều này.
Nhưng chúng ta tin rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nuôi sống công trình sáng tạo thiên nhiên của Ngài từ thuở tạo thiên lập địa cho sự sống phát tiển tồn tại nơi cây cỏ, thú vật và con người. Ngài sẽ dẫn dắt hướng đến đích điểm tốt lành hoàn thiện, dù có trải qua những biến cố kinh hoàng khó khăn.
Thánh sử Marco viết phúc âm Chúa Giêsu muốn khơi lên nuôi dưỡng niềm hy vọng, lòng can đảm nơi người tín hữu Chúa Gisu Kito. Đó là thức ăn tnuôi dưỡng đời sống đức tin vào Chúa cho hôm qua, hôm nay và ngày mai trong đời sống trên trần gian.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lễ cầu cho các Linh Hồn
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm vào ngày 02. Tháng Mười Một Giáo hội Công giáo kêu mời mọi người tín hữu tưởng nhớ cầu nguyện cho các Linh hồn, họ là thân nhân của gia đình, họ là những người đang còn chịu thanh luyện trong lửa luyện tôi. Vì nào ai biết được số phận đời sống của người đã qua đời ra sao.
Nên tưởng nhớ cầu nguyện cho họ là lòng bác ái đạo đức cùng thể hiện lòng hiếu thảo biết ơn người xưa kia đã cách này cách khác đã cầu nguyện làm ơn cho ta.
Ngay từ thế kỷ thứ nhất sau khi đạo Kitô giáo thành hình trong xã hội đã không thể có ngày lễ mừng kính riêng cho các vị Thánh. Dần dần trong thời gian bắt đầu có nhiều lễ mừng kính các Thánh hơn là lễ mừng Chúa Giesu Kitô, với mục đích tôn kính các Thánh Tử Đạo.
Trước hết, Các Thánh, và các Linh hồn được tưởng nhớ chung , như Đức thánh cha Bonifatius IV. đã ấn định vào ngày 13.05.610 để tưởng nhớ chung các Vị đã qua đời là Thánh.
Lễ cầu cho các Linh hồn vào năm 998 do Đức Viện phụ Odilo của tu viện Cluny chọn ngày 2. Thánh Mười Một để tưởng nhớ cằu nguyện cho tất cả các người đã qua đời mà linh hồn họ còn đang chịu thanh luyện trong lửa luyện tội.
Lễ này trước hết mừng cử hành trong vòng Tu viện Cluny thôi. Nhưng từ đầu thế kỷ 14. Giáo hội bên Roma bất đầu công nhận, Và từ đó ngày lễ cầu cho các Linh hồn được lan rộng mừng trong toàn thể Giáo hội.
Theo tiếng latinh ngày lễ Cầu cho các Linh Hồn có tên: In commemoratione omnium fidelium defunctorum.
Các Tín hữu Chúa Giêsu Kitô từ chiều ngày 01. Thánh Mười Một thăm viếng phần mộ người qúa cố nơi nghĩa trang, đốt thắp hoa nến đọc kinh cầu nguyện. Có nhiều xứ đạo tổ chức viếng nghĩa trang chung cùng với nghi lễ có Linh mục đi đến các phần mộ đọc kinh làm phép rẩy nước Thánh nơi mộ tưởng nhớ cầu nguyện cho người qúa cố.
Ngày 02. Tháng Mười Một ngày lễ cầu nguyện cho các Linh Hồn, theo luật Phụng vụ có ba thánh lễ trong ngày này với phẩm phục mầu đen hoặc mầu tím.
Giáo hội khuyến khích người tín hữu cầu nguyện thăm viếng, cầu nguyện cho người qúa cố qua việc dâng Thánh lể, đọc kinh, ăn chay hãm mình , làm việc bác ái bố cầu chỉ ch các linh hồn.
Mỗi khi nhớ đến người thân yêu đã qúa cố không chỉ hình ảnh, lời nói cử chỉ, những biến cố, những kỷ niệm ngày xưa đã cùng chung sống trải qua với nhau như cuốn phim xuất hiện trở lại trong trí óc tâm hồn người còn sống trên trần gian, nhưng còn cả sứ điệp của họ như lời nhắn nhủ vang lên trong tâm trí ta:
„- Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, hay đã được thiêu thành tro bụi. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Ðấng sinh thành ra tôi.
- Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này. Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ tôi và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.
- Tôi bây giờ nằm chôn sâu trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá, hay thân xác tôi đã được thiêu ra thành tro bụi. Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi, vì ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.
Và tôi tâm niệm rằng:
- Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại.
- Những gì ngày xưa tôi thu góp tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.
- Nhưng chỉ những gì ngày xưa tôi đã cho đi, bây giờ tôi nhận lãnh trở lại.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lễ mừng kính các Thánh nam nữ
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm vào ngày 01. Tháng Mười Một, Giáo hội Công giáo mừng kính trọng thể lễ các Thánh nam nữ trên trời.
Lễ trọng mừng kính này có nguồn gốc trong dòng lịch sử đạo đức thần học từ thế kỷ thứ tư nơi Giáo hội Hylạp, họ mừng lễ chung kính các Thánh vào ngày Chúa nhật sau lễ Đức Chúa Thánh Thần, để nhắc nhớ tôn kính các Thánh tử đạo.
Ngày 13.05.609 Đức giáo hoàng Bonifatius IV. đã khánh thành, hay đúng hơn „ rửa tội“ đền thờ Pantheon ở Roma, nơi người Roma thời xưa kính thờ các Thần người Roma, cho trở thành thánh đường Công giáo nhận Đức mẹ đồng trinh Maria và toàn thể các Thánh là quan thầy phù trợ.
Từ ngày đó hằng năm có lễ mừng kính vào ngày thứ Sáu sau lễ Phục sinh tưởng nhớ tất cả các Thánh.
Đến thời đức giáo hoàng Gregor III. (thế kỷ thứ tám) đã khánh thành nhà nguyện trong đền thờ Thánh Phero ở Roma dâng kính tất cả các Thánh, và qui định ngày 01. Tháng Mười Một hằng năm là ngày lễ kính các Thánh.
Từ thế kỷ thứ Tám lễ mừng này được mừng các nơi trong nước Pháp. Và đến năm 839 thời Đức giáo hoàng Gregor VI. lễ mừng này phổ biến khắp nơi trong toàn thể Giáo hội Công giáo.
Lễ trọng mừng toàn thể các Thánh thể hiện tâm tình lòng cung kính của con người, nhưng nội dung ngày lễ vượt qua các ranh giới về thời gian và không gian với tâm trí con người. Vâng, ngày lễ mừng kính trải rộng dài lên tới tận trên trời cao.
Ngay từ thưở Giáo hội sơ khai lúc ban đầu, những thành phần trong Giáo hội được xưng tụng là „Thánh", như Thánh Phaolo đã viết gửi Giáo đoàn Côrinthô: „Kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, những người đã được hiến thánh trong Đức Ki-tô Giê-su, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta, Đức Giê-su Ki-tô, là Chúa của họ và của chúng ta. ( 1 Cor 1,2).
Người tín hữu Chúa Kitô trở nên thánh nhờ bí tích rửa tội trong Chúa Giêsu Kitô đã chết và sống lại.
Tất cả mọi người được kêu gọi nên thánh, vì Thiên Chúa là đấng Thánh đã tạo dựng con người giống hình ảnh của ngài.
Căn bản là như thế. Nhưng làm thế nào nhận ra đời sống thánh thiện nơi một vị Thánh? Hay thế nào là một đời sống thánh thiện.
Câu chuyện ngụ ngôn về một người có lòng kính sợ Thiên Chúa giúp phần nào trả lời cho vấn nạn thắc mắc này.
„ Một ngày kia, Thiên Thần đến gặp người đạo đức có lòng kính sợ Thiên Chúa và nói với anh ta: Thiên Chúa sai ta đến gặp anh. Vậy anh có mong muốn điều gì , Ngài sẽ cho anh được toại nguyện. Anh có muốn có được khả năng chữa lành không?
Anh ta trả lời “ Không, chính thiên Chúa ra tay chữa lành thì tốt hơn.“
Thiên Thần : Vậy anh có muốn có khả năng thuyết phục đưa kẻ có tội trở về đường chính nẻo ngay không?
Anh ta cũng nói: Không, tôi không thể đụng chạm tới được trái tim tâm hồn con người. Điều này các Thiên Thần làm được.
Vậy anh có muốn trở nên một mẫu gương tốt, để những người khác bắt chước noi theo không?
Không, như thế tôi sẽ kéo những người khác chú ý tập trung vào chính tôi thôi.
Thiên Thần hỏi tiếp: Vậy anh muốn gì? Phải chăng ơn Chúa.
Anh ta đáp: Nếu tôi có được điều đó, là tôi có tất cả. Đó là điều tôi mong muốn.
Thiên Thần: Nhưng anh phải mong muốn một điều gì khác lạ thường chứ! hay là điều gì cần thiết cho đời sống của anh.
Anh ta đáp: Vậy thì tôi mong muốn điều này: Xin cho sự tốt đẹp xảy ra qua đời sống tôi, mà tôi không nhận biết ra điều đó!
Sau cùng đi đến quyết định, nơi bóng rợp của con người thánh thiện này phát toả ra sức mạnh chữa lành. Luôn luôn khi bóng của anh ta phủ xuống đâu, sự chữa lành phát tỏa ra , người bệnh được lành mạnh trở lại, ruộng vườn trở nên mầu mỡ tươi tốt, những lo âu buồn phiền biến đổi thành niềm vui mừng. Nhưng vị sống thánh thiện này không hay biết gì về điều xảy ra. Vì sự chú ý của những người khác tập trung vào bóng phủ rợp của vị thánh, đến nỗi họ quên luôn vị thánh . Và như thế điều mong muốn của vị thánh được thực hiện tròn đầy: Xin cho những điều tốt xảy ra qua đời sống mình, mà chính mình không biết.“ ( Theo chuyện kể suy tư của Anthony de Mello).
Sự thánh thiện không là một tình trạng đạo đức khẩn trương bất bình thường. Sự thánh thiện xảy ra ngay trong đời sống hằng ngày. Sự thánh thiện làm cho đời sống hằng ngày từ mầu đen tối u buồn biến thành mầu sắc ánh sáng rực rỡ mang lại niềm vui niềm hy vọng cho đời sống.
Mỗi người trong nghề nghiệp sinh sống, trong gia đình, nơi cộng đồng xã hội được Thiên Chúa tạo dựng nên, kêu mời cùng ban cho khả năng trở nên thánh qua việc chu toàn bổn phận trong đời sống của mình cho hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Loan báo Tin Mừng
- Thánh Luca, người đồng hành trung thành và vị viết sử tuyệt vời
- Tháng kinh mân côi
- Thánh Franziscus, người yêu mến thiên nhiên
- Tổng lãnh Thiên Thần của Thiên Chúa
- Matthaeus, người thu thuế
- Đây là cây thánh gía
- Vai trò của tình yêu và tính dục
- Thánh Augustinus và con đường trở lại
- Batholomeus, vị Tông đồ chất phác trung thành