Loan báo Tin Mừng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Sau thời gian học hỏi huấn luyện, các học viên được sai ra đi hoạt động làm việc ở những vùng nơi con người đang sinh sống. Họ có nhiệm vụ sống giữa con người và loan truyền làm chứng cho điều đã học hỏi, để giúp đỡ và thuyết phục con người.
Chúa Giêsu ngày xưa sau quãng thời gian rao giảng nước Thiên Chúa, cùng huấn luyện các Tông đồ và trước khi trở về trời, cũng sai các Tông đồ ra đi: „ Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ , loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.“ (Mc 16,15)
Chúa Giêsu sai các Tông đồ ra đi với sứ mạng truyền giáo. Nhưng truyền giáo là gì ?
Căn cứ vào lời Chúa Giêsu truyền, đầu tiên các Tông đồ từ Jerusalem đã vượt đường bộ hay đường biển trẩy đi khắp nơi trong đế quốc Roma từ vùng Trung Đông sang Âu châu. Và rồi từ Âu Châu các Vị Thừa sai được sai gửi đi tiếp tục công việc truyền giáo ở các đất nước khắp nơi trên thế giới, như cách đây hơn 400 năm các Linh mục, các Tu sỹ từ Pháp, Tây ban Nha, Bồ đào Nha, sang truyền giáo trên các đất nước nơi các lục địa Phi Châu, Á châu, Úc Châu,
Họ là những người được Giáo Hội, được Dòng tu sai đi đến những xứ sở nơi đó sống giữa người dân và làm chứng cho tin mừng tình yêu Chúa không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng chính sự hy sinh dấn thân hội nhập đời sống qua nếp sống bác ái, nếp sống văn hóa, nếp sống khiêm nhượng hòa mình giữa lòng văn hóa xã hội con người.
Các vị Thừa Sai đi truyền giáo nơi xứ sở xa lạ, đầu tiên đã dấn thân vào công việc tìm hiểu phong tục tập quán đất lề quê thói của người dân bản xứ. Dân thân vào lãnh vực đó không phải để xóa bỏ, nhưng để trước hết hiểu con người. Có thế mới đi đến với họ được, và cùng giúp phát triển cho tốt đẹp thêm ra.
Linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) sang truyền giáo ở Việt Nam năm 1627-1645 là một trong những vị thừa sai đã dấn thân đi vào vùng tìm hiểu hội nhập đó. Trong thời gian này vị thừa sai đã sáng lập ra Chữ Quốc Ngữ viết theo mẫu tự Latinh cho nước Việt Nam. Công việc truyền giáo của Cha đã đi đến tận vùng biên giới ngôn ngữ văn hóa dân tộc Việt Nam.
Cha Alelexandre de Rohdes đã đi vào biên giới ngôn ngữ văn hóa Việt Nam như thế nào?
Để giúp mình học tiếng bản xứ thời lúc đó, Cha đã bỏ công phân tích tiếng nói qua nghe hiểu như sau:
„ Mặc dầu tiếng nói thường dân ngày nay phổ thông khắp nước Annam khác với tiếng Tàu, thế nhưng cũng đọc với những cung giọng không qúa khác với cung giọng tiếng Tàu. Tiếng Tàu chỉ có năm giọng nói, còn tiếng Annam thì có những sáu, rất đáp ứng với những dấu nhạc của ta, làm cho các tiếng đều khác nhau về nghĩa, đến nỗi không có tiếng nào mà không ghi thêm một trong sáu dấu là như hồn và đặc tính ý nghĩ của tiếng. Những dấu hay thanh thì không ghi trong chữ viết của họ, nhưng chỉ phô diễn trong giọng nói mà thôi: điều này làm cho chúng tôi rất khó hiểu sách vở của họ. Thế nhưng chúng tôi đã nghĩ cách ghi các giọng khác nhau đó bằng tất cả cách viết của chúng ta, làm cho chúng ta học sự khác biệt trong cung giọng, để hiểu ý nghĩa.
Thanh thứ nhất là thanh trầm, hạ giọng để đọc, như ta hát giọng trầm trong ca nhạc và chúng ta ghi đấu huyền của người Hy Lạp, thí dụ dò có nghĩa là cái bẫy.
Thanh thứ hai là thanh hầu như trầm hoặc gần như trầm, phải có chút cố gắng để đọc, như phát ra từ lồng ngực và chúng tôi ghi bằng một cái chấm dưới nguyên âm theo cách người Hylạp đặt chữ iota, thí dụ rệ , có nghĩa là rễ cây .
Thanh thứ ba là thanh uốn trầm, uốn giọng mà đọc và có một chút cố gắng ở ngực, và chúng tôi ghi bằng dấu uốn của người Hylạp, thí dụ mĩ là tên một gia đình qúi tộc trong xứ.
Thanh thứ tư là thanh bằng đọc mà không cần cung giọng thí dụ fa hay đúng hơn pha có nghĩa là trộn, vì trong tiếng này không có chữ F bật hơi .
Thanh thứ năm là thanh uốn nhưng dịu hơn, đọc như thể chúng ta đặt câu hỏi và chúng tôi cũng ghi bằng dấu hỏi của người Latinh, thí dụ sổ có nghĩa là danh mục, quyển ghi chép.
Thanh thứ sáu là thanh sắc, đọc với giọng bẳn gắt như thể người nào nói khi giận dữ, và chúng tôi ghi bằng dấu sắc của người Hylạp, thí dụ lá có nghĩa là lá cây. Như vậy sáu thanh (như tôi đã nói) có thể đáp ứng với sáu nốt nhạc của ta dò, rẹ, mĩ, pha, sỏ , lá.“ ( Alexandre de Rhodes, Lịch sử vương quốc Đàng ngoài, Histoire du Royaum de Tonquin, Bản Việt ngữ của Hồng Nhuệ, Tủ sách Đại Kết, 1994, tr. 69-70).
Từ căn bản phân tích tìm hiểu đó trước hết cho việc học tiếng Việt Nam phục vụ công việc truyền giáo đi vào biên giới nếp sống văn hóa xã hội đất nước Annam thời lúc đó, đã giúp cha cùng những nhà truyền giáo anh em thừa sai thành công trong công việc truyền giáo hiểu con người và con người hiểu các ngài.
Và không ngờ công trình nghiên cứu của cha đã dần dần trở thành căn bản cho việc phát triển sáng tạo ra Chữ Quốc Ngữ góp phần căn bản quan trọng vào nền văn hóa đất nước Việt Nam.
Đi làm công việc truyền giáo nơi đâu, ở vào thời gian nào, việc đầu tiên căn bản người Thừa Sai phải làm là học ngôn ngữ tiếng nói nơi đó. Ngôn ngữ văn hóa tiếng nói như chiếc chìa khóa mở cửa đi vào biên giới đời sống xã hội con người nơi đó.
Và ngày nay, việc phát triển bùng nổ các phương tiện truyền thông tin tức tiếng nói hình ảnh nhanh chóng vượt qua mọi biên giới, việc chu du tìm hiểu các nơi trên thế giới trở nên phổ thông dễ dàng, như thế việc truyền giáo phải như thế nào?
„ Các bạn trẻ thân mến, ngày nay, những tận cùng trái đất thì lại khá tương đối và luôn “có thể điều hướng” cách dễ dàng. Thế giới số - các mạng xã hội vốn quá phổ biến và luôn sẵn sàng – làm tan biến hết mọi biên giới, loại bỏ hết những khoảng cách và giảm thiểu những khác biệt. Mọi thứ đều ở trong tầm với, quá gần gũi và tức thời. Nhưng rồi việc thiếu quà tặng chân thành của cuộc sống của chúng ta, chúng ta có thể có vô số các mối liên hệ nhưng không bao giờ chia sẻ một sự hiệp thông sự sống thật sự. Để chia sẻ về mặt truyền giáo cho đến tận cùng trái đất đòi hỏi một quà tặng về bản thân trong ơn gọi mà Thiên Chúa, Đấng đã đặt để chúng ta trên mặt đất này, chọn để ban cho chúng ta (x. Lc 9:23-25). Cha dám nói rằng, đối với một người trẻ nam hay nữ là người muốn theo Đức Kitô, thì điều thiết yếu nhất là tìm kiếm, khám phá và duy trì trong hơn gọi của mình.“ ( Đức Giáo Hoàng Phanxico, Thông điệp về ngày thế giới truyền giáo 2018).
Khánh nhật truyền giáo 2018
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh Luca, người đồng hành trung thành và vị viết sử tuyệt vời
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh sử Luca là một trong bốn vị thánh sử viết phúc âm Chúa Giêsu. Có lẽ Luca sinh trưởng ở Antiochia bên Syria thuộc gia đình quyền qúi học thức cao, và Luca là bạn thân với Thánh Phaolo, như chính Phaolô viết trong thư gửi Giáo đòan Colosseo( Col. 4,14).
Luca là người duy nhất viết tường thuật sự sinh ra của Chúa Giêsu trên trần gian, mặc dù ông không biết Chúa Giêsu khi ngài còn trên trần gian.
Theo lưu truyền trong Giáo hội, Thánh sử Luca là người cùng đồng hành với thánh Phaolo trên mọi bước đường truyền giáo, cùng đi rao giảng với Phaolo ở Jerusalem và Roma, và là người bạn đồng hành trung thành duy nhất với Thánh Phaolo cho tới khi Phaolo qua đời ( 2 Timotheo 4,11).
Sau khi Thánh Phaolo qua đời ở Roma, Luca đi khỏi kinh thành muôn thuở Roma, có lẽ đi đến Achja bên Hylạp. Thánh Luca qua đời bên Hylạp thọ 84 tuổi. Di tích xương thánh của ngài được đưa về Constantinopel quãng năm 357 và được an táng trong thánh đường các Tông đồ. Một phần di tích xương thánh của ngài cũng có ở vương cung thánh đường Padua bên Ý. Thủ cấp của thánh Luca được mai táng gìn giữ ở trên núi Athos trong tu viện Panteleimon của Chính Thống giáo Nga.
Thánh sử Luca viết phúc âm tường thuật về cuộc đời Chúa Giesu từ khi sinh ra đến khi Chúa Giêsu trở về trời . Ông viết sách phúc âm theo các nhà chú giải kinh thánh có lẽ vào khoảng giữa những năm 70. và 90. sau Chúa giáng sinh có 24 chương . Và Luca cũng được cho cũng là tác giả viết sách Công vụ các Tông đồ.
Thánh Phaolo đã nói rõ Luca là một thầy thuốc ( Col 4,14). Và trong phúc âm Luca đã tường thuật những câu chuyện Giêsu chữa lành bệnh cho nhiều người trên đường rao giảng nước Thiên Chúa. Ông viết tường thuật sự chữa lành bệnh của Chúa Giuêsu cho con người không phải để minh chứng dậy bảo, nhưng nói lên khía cạnh nghệ thuật của một đời sống khoẻ mạnh. Vì nghệ thuật đời sống lành mạnh với các vị thầy thuốc thời cổ xa xưa là một trong những việc bổn phận quan trọng. Qua đó Chúa Giêsu trong phúc âm Luca được trình bày là người dẫn đường về nghệ thuật của một đời sống lành mạnh. Và như thế Luca muốn loan báo tin mừng để đạt được đời sống lành mạnh nhờ tin vào Chúa Giêsu.
Thánh Luca cũng được cho là người có năng khiếu vẽ hình ảnh bằng ngôn ngữ chữ viết. Luca thuật lại cảnh đức mẹ Maria đến thăm Elisabeth, lúc hai chị em gặp nhau em bé (Gioan) còn đang là bào thai Gioan trong cung lòng Elisabeth đã vui sướng nhảy mừng. Một hình ảnh sống động đầy huyền bí nhiệm mầu. (Lc 1,39-45)
Trong bài tường thuật về cảnh hài nhi sinh Giêsu sinh ra trong đêm ra ngoài cánh đồng Bethlehem, Luca bằng ngôn ngữ đã vẽ ra bức tranh vửa huyền bí nhiệm mầu trong khung cảnh thanh vắng đơn sơ nghèo nàn chuồng súc vật, vừa sống động với đoàn các Thiên Thần, đoàn người mục đồng, các con thú vật, và cùng với ánh sáng chiếu tỏa vinh quang Thiên Chúa trên nền trời trong đêm tối Chúa Giêsu giáng sinh. (Lc 2, 1-20)
Những thông tin Luca có được về Chúa Giêsu là do những người theo Thánh Phaolo thuật kể lại cho ông nghe. Chính Luca qủa quyết là nhân chứng mất thấy tai nghe và cũng thường với đức mẹ Maria, mẹ Chúa Giêsu, mà Luca có lòng sùng kính cách đặc biệt.
Có nhiều lưu truyền kể lại chính Luca đã vẽ bức tranh đức mẹ ban ơn „Salus populi Romani“ trong đền thờ Maggiore ở Roma. Và Bức tranh Đức mẹ đen ở đền thánh Częstochowa bên Polen cũng do Luca vẽ.
Là người viết tường thuật Thiên Thần hiện ra báo tin cho Thầy cả thượng phẩm Zacaria trong đền thờ đang khi tế lễ Giave Thiên Chúa ( Lc,5-24 ), và khung cảnh huyền bí Chúa Giêsu sinh ra trên trần gian. Nên Thánh sử Luca có biểu hiệu hình ảnh là một con bò với đôi cánh, mà trong sách Khải Huyền có nói tới ( Kh 4, 7).
Những ngành nghề thầy thuốc chữa bệnh, họa sĩ, nhà tạc đúc tượng, nhà in sách nhận Thánh sử Luca là quan thầy phù hộ cho ngành nghề của minh.
Lễ kính Thánh Luca hằng năm vào ngày 18. Tháng Mười.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tháng kinh mân côi
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong nếp sống đức tin Công giáo việc lần chuỗi mân côi là một cung cách cầu nguyện sống động hướng tâm hồn cùng cả cơ quan thân xác trí khôn, môi miệng, hơi thở, đôi con mắt, đôi bàn tay, đôi chân qùi gối hay đứng hướng về Thiên Chúa qua 4 mùa: Vui, Thương, Mừng và Sự sáng gợi nhớ suy niệm những chặng đường đời sống của Chúa Giêu Kitô xưa kia trên trần gian.
Đức mẹ Maria đóng giữ vai trò quan trọng chính yếu trong chương trình cuộc đời Chúa Giêsu trên trần gian khi xưa. Vì thế, 50 chục lời kinh Kính mừng Ave Mria ca ngợi cùng cầu xin Đức mẹ phù hộ cho mang tâm tình lòng vui mừng biết ơn, lòng thương cảm với cuộc Đức mẹ đã sống khiêm nhượng chịu đựng những đau khổ, để cho chương trình của Thiên Chúa được thực hiện nơi con người trần gian.
Kinh mân côi đã có từ thời Trung Cổ ở các nhà Dòng, và từ thế kỷ 12. sang 13. chuỗi kinh mân côi được gọi là chuỗi kinh lạy Cha.
Theo truyền thuyết thuật kể lại Thánh Dominicus, người lập Dòng Thuyết giảng Dominicus, được Đức mẹ Maria hiện ra năm 1208 đã trao cho ngài sứ mạng cổ vũ lòng sùng kính lần hạt mân côi như vũ khí chống lại lạc thuyết Albigenser đang hoành hành chống đạo thời đó.
Tháng Năm 1479 Đức giáo hoàng Sixtus IV. ấn định việc đọc kinh mân côi cầu nguyện hằng ngày.
Tháng Chín 1569 Đức giáo hoàng Pius V. ấn định công thức đọc kinh lần chuỗi mân côi như ngày hôm nay trong toàn thể Giáo hội: sau mỗi ngắm đọc một kinh lạy Cha và 10 kinh kính mừng, cùng Kinh Sánh danh sau mỗi 10 kinh Kính mừng.
Đức giáo hoàng Pio V. đã thành lập lễ kính Đức mẹ chiến thắng để tưởng nhớ đến trận hải chiến năm 1571 ở Lepanto. Vì trước đó trước Đức giáo hoàng đã kêu gọi mọi người tín hữu Chúa Kitô cầu nguyện xin Đức mẹ Maria phù giúp ngăn cản để khỏi bị quân đội phía Hồi giáo bên Thổ nhĩ Kỳ tiến đánh xâm chiếm.
Từ năm 1573 ngày lễ tạ ơn này được đổi thành lễ mân côi. Và từ 1913 được ấn định mừng vào ngày 07. Tháng Mười hằng năm. Như thế tháng Mười dành riêng việc đọc kinh mân côi trong niềm tin tưởng cầu nguyện cho những hoàn cảnh khủng hoảng khó khăn của Giáo hội và thế giới, của bản thân riêng mỗi người và của các gia đình, cùng cho các người bệnh nạn yếu đau.
Ngoài chuỗi đọc kinh mân côi với 50 chục kinh Kính mừng Maria, kinh Lạy Cha và kinh Sáng danh phổ biến trong Giáo Hội xưa nay, ngày nay còn có thêm kinh chuỗi kinh mân côi khác nữa:
- 1. Kinh mân côi suy ngắm bảy sự thương khó Đức mẹ
- 1. Khi nghe Simêon nói tiên tri (Lc 2,34-35).
- 2. Khi trốn sang Ai Cập (Mt 2,13-21).
3 Khi lạc mất Đức Giêsu ở Jesusalem trong ba ngày (Lc 2,41-50).
- 4. Khi Đức Mẹ gặp Đức Giêsu trên đường đến núi Sọ.
- 5. Khi Đức Giêsu bị đóng đinh.
- 6. Khi Xác Đức Giêsu được tháo xuống khỏi Thánh Giá.
- 7. Khi chôn xác Đức Giêsu trong mồ.
Sau mỗi ngắm suy niệm đọc một kinh Lạy Cha, bảy kinh kính mừng.
Hằng năm vào ngày 15.Tháng Chín trong toàn thể Giáo hội có lễ kính nhớ bảy sự thương khó Đức Mẹ, hay còn gọi lễ Đức mẹ sầu bi. Lễ mừng kính bảy sự thương khó Đức mẹ có nguổn gốc từ năm 1668 trong Dòng Tôi tớ Đức mẹ, và sau được phổ biến rộng rãi trong Giáo hội
- 2. Kinh mân côi kính lòng Chúa thương xót
Chuỗi kinh này cũng có năm chục và không đọc kinh Kính mừng. Nhưng thay vào đó chú trọng vào lòng Chúa thương xót. Vì thế câu kinh cầu nguyện: Vì cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, với câu thưa: Xin cha thương xót chúng con và toàn thế giới, ở mỗi chục kinh được đọc lên thay cho 50 kinh Kính mừng Maria.
Kinh mân côi này đật nền tảng trên thị kiến của nữ tu Faustyna Kowalska (1905-1938) bên Polen.
Qua các triều đại Giáo hoàng xưa nay trong Giáo hội, các ngài luôn đều cổ võ việc lần chuỗi đọc kinh mân côi theo cung cách truyền thống xưa nay với bốn mừa ngắm về cuộc đời Chúa Giêsu gắn liền với Đức mẹ và 50 chục kinh Kính mừng Ave Maria là lời Thiên Thần Gabriel chào mừng Đức mẹ, cùng kinh lạy Cha do chính Chúa Giêsu dậy.
Năm 1917 khi hiện ra với ba trẻ chăn chiên bên Fatima, Đức mẹ đã trao cho sứ điệp: Mọi người hãy siêng năng lần hạt mân côi!
Việc lần hạt mân côi kính Đức mẹ cầu xin ơn phù giúp kéo ân đức chúc lành an ủi của Chúa cho con người, cùng cho thế giới luôn thời sự sống động trong đời sống đức tin người Công giáo, nhất là những khi gặp cảnh ngộ khó khăn về mọi khía cạnh.
„ Chuỗi mân côi là lời cầu nguyện chiêm niệm cho hết mọi người: lớn, bé, giáo dân , giáo sỹ, mọi thành phần địa vị trong xã hội.
Chuỗi mân côi là mối liên hệ tinh thần với Đức mẹ Maria, để cùng kết hiệp ở lại với Chúa Giêsu Kitô.
Chuỗi mân côi là thứ vũ khí tinh thần chống lại sự dữ, chống lại thế lực sức mạnh cường quyền, để xây dựng bình an trong tâm hồn, trong gia đình, trong đời sống xã hội và trên thế giới.“ ( Đức Giáo hoàng Benedickt XVI. , 19.10.2008).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh Franziscus, người yêu mến thiên nhiên
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
„Thánh Phanxicô thành Assisi đã hát lên: “Con xin chúc tụng Chúa, lạy Chúa của con”. Trong bài thánh ca tươi đẹp này, ngài nhắc cho chúng ta nhớ, ngôi nhà chung của chúng ta phải được xem như người chị của chúng ta, mà chúng ta được chia sẻ cuộc sống, và như người mẹ ôm lấy chúng ta. “Con xin chúc tụng Chúa, lạy Chúa của con! Vì người chị của chúng con, người mẹ trái đất của chúng con, mẹ nâng đỡ chúng con và mang lại nhiều hoa trái, những bông hoa tươi đẹp, những cây cỏ xanh tươi” (Giáo hoàng Phanxico, Laudato Si, Nr. 1).
Đức Giáo hoàng Phanxico đã viết mở đầu thông điệp về môi trường sinh sống Laudato Si bằng những lời tình tự yêu mến thiên nhiên của Thánh Franzicus, người yêu mến thiên nhiên.
Franziscus sinh năm 1182 ở thành phố Assisi bên nước Ý trong một gia đình giàu có. Theo tương truyền Franziscus vào cầu nguyện trong ngôi thánh đường nhỏ San Damiano, được Chúa Giêsu từ trên cây thập gía nói vọng xuống: „Franziscus, con hãy xây cho cha một ngôi nhà, vì ngôi nhà này có nguy cư bị tàn phá sụp đổ!“.
Thế là Franziscus bắt tay đi xây sửa lại ngôi thánh đường đang hư hại San Damiano. Nhưng chẳng lâu sau đó Franziscus cảm nhận ra, sứ mạng Chúa Giêsu trao cho mình to lớn hơn. Đó là ngôi nhà toàn thể Giáo hội.
Lòng thôi thúc, Ông ra từ bỏ khỏi gia đình. Trả lại tất cả quần áo cho cha mẹ mình với lời quyết tâm “Từ hôm nay con không còn cha nào khác, ngoài người Cha trên trời!“.
Franziscus đi kêu gọi thu thập những người cùng chí hướng sống chung một đời sống đơn giản. Việc cầu nguyện là nếp sống chính của cộng đoàn, và luôn luôn di chuyển qua các làng mạc để loan báo tin mừng. Họ làm việc ngoài đồng ruộng để kiếm miếng ăn sinh sống. Tiền bạc họ không có, họ chỉ nhận thức ăn như lương được trả công.
Franziscus sống nếp sống một người anh em hèn mọn khiêm nhượng, nhưng tâm hồn đời sống vui tươi hát ca tụng Thiên Chúa, và qua lời rao giảng giúp con người hướng về Thiên Chúa.
Năm 1209 Đức giáo hoàng công nhận cho Franziscus thành lập. Sau vài năm trời Dòng Franziscus đã có tới hơn 5000 hội viện. Dù có nhiều anh em gia nhập dòng, nhưng cũng có nhiều người không thể chấp nhận nổi lý tưởng cao vời do Franziscus đề ra. Một vài thành viên muốn hội Dòng phải có một cấu trúc rõ ràng minh bạch. Nhưng Franziscus không muốn làm hiến pháp luật riêng cho dòng của mình. Căn bản cho luật Dòng là sách Kinh Thánh.. Vì thế, Franziscus rời bỏ việc quản trị Dòng và lui vào nếp sống khổ hạnh ẩn dật .
Qua đau khổ chịu đựng Franziscus đã trưởng thành lớn lên trong tình yêu mến. Chúa Giêsu Kitô đã tỏ cho Franziscus tình yêu của người, ông được tiếp nhận khắc ghi những vết thương của Chúa nơi con người ông. Đau khổ thể xác nhưng Franziscus đã sáng tác ra bài ca tuyệt diệu chan chứa tâm tình yêu mến thiên nhiên: Bài ca mặt trời, ca ngợi chúc tụng công trình thiên nhiên của Thiên Chúa cho con người trần gian.
Bài ca cầu nguyện này được Franziscus sáng tác vào cuối năm 1224 hay đầu năm 1225 ở năm cuối đời của ngài.
Có nhiều truyền thuyết về Franziscus trong dân gian. Không chỉ tất cả mọi con người, nhưng cả những con thú vật cũng được Franziscus gọi là anh chị em.. Như con chó rừng vùng Gubbio trở nên thuần thục hiền hoà qua lời nhắn nhủ giáo dục của Franziscus. Franziscus yêu mện mọi loài cây cỏ thảo mộc, mọi thú vật . Franziscus kêu gọi mọi loài thụ tạo nhận ra tình yêu của Thiên Chúa và quay trở về với Đấng Tạo Hoá dựng nên mình.
Franziscus giảng thuyết cho loài chim chóc và chúng cũng để cho ông vuốt ve chúng. Franziscus là một trong những người biểu lộ tình yêu mến của mình không chỉ đối với con người mà còn đối với cả loài thú vật.
Có lẽ vì thế, Thánh Franziscus ngày nay được phong trào bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ xúc vật chọn làm quan thầy bảo trợ. Nhưng Thánh Franziscus đã không bao giờ là người chiến đấu qúa khích trong lãnh vực này. Trái lại, Thánh Franziscus là người yêu mến kính trọng thiên nhiên. Vì thánh nhân nhận ra tình yêu thiên Chúa trong công trình sáng tạo thiên nhiên.
Thánh Franziscus vui với sức nóng ấm mặt trời, với sự tươi mát của nước, với ánh sáng dịu mát của mặt trăng. Khắp nơi thánh nhân nhìn ra Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Người cho con người qua những công trình sáng tạo. Qua đó Thánh Franzicus muốn nói chỉ cho thấy việc bảo vệ thiên nhiên cần chiều khích thiêng liêng, cần kinh nghiệm về tình yêu đối với mọi loài thụ tạo trong thiên nhiên.
Chọn nếp sống khó nghèo đơn giản, nhưng Thánh Franzicus luôn có trái tim tâm hồn của một người có đời sống vui tươi thanh thản, chan chứa tình yêu mến với thiên nhiên, với con người, nhất là với Đấng Tạo Hóa. Tinh thần đó Thánh Franziscus đã nhận được từ nơi Chúa Giêsu.
Thánh Franziscus năm 1223 cùng với anh em trong Dòng ở khu rừng vùng Grecco dựa theo phúc âm Thánh sử Luca tường thuật về sự sinh ra của Chúa Giêsu, đã xây dựng hang đá Chúa Giêsu giáng sinh đầu tiên với những con thú vật bò, lừa mừng lễ Chúa giáng sinh với tâm tình lòng yêu mến cung kính.
Nhưng từ sự tích nguồn gốc mang tính cách thần thoại thánh thiêng đó do sáng kiến cảm hứng của Thánh Franziscus, hang đá mừng lễ Chúa giáng sinh được phát triển xây dựng trong toàn thể Giáo hội trên thế giới. Hang đá mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh từ đó không thể thiếu trong ngày mùa mừng lễ hằng năm.
Từ năm 1209 Franziscus đã được phép Giáo hội cho thành lập Dòng. Hội Dòng Franziscus lớn mạnh từ ngày đó trong toàn thể Giáo hội hoàn cầu. Cho tới ngày nay Dòng Thánh Franziscus đã phát triển thành ba cấp hội dòng:
- Cấp thứ nhất Dòng Nam gồm ba hội Dòng:
- Tu sĩ Hèn mọn ordo fratrum minorum conventualium (OFM Conv) mặc tu phục mầu đen.
- 2. Dòng Tu sĩ hèn mọn ordo fratrum minorum - OFM, mặc tu phục mầu nâu.
- 3. Franziscus Capucino - OFM Cap - Ordo Fratrum minorum Cappucinorum, tu phục mầu nâu nhưng mũ nhọn dàng sau lưng dài hơn.
- Cấp hai: Dòng nữ có hai nhánh: Dòng nữ Thánh Clara và Dòng nữ Capucin.
- Cấp ba Dòng ba dành cho mọi giáo dân.
Nếp sống từ bỏ, chọn sự khó nghèo đơn giản, lòng vui tươi yêu mến thiên nhiên vạn vật hướng về Đấng Tạo Hoá, bài ca mặt trời, kinh hòa bình và hang đá mừng lễ Chúa giáng sinh là những nét đặc thù thiên phú Đấng Tạo Hóa đã qua Thánh Franziscus mang đến cho Giáo hội, cho con người trần gian.
Thánh Franziscus qua đời ngày 3.10.1226 được an táng ở Assisi. Và hai năm sau đó ngày 16.07.1228 được Đức giáo hoàng Gregor IX. tuyên phong là vị Thánh trong Giáo hội.
Hằng năm Giáo Hội mừng kính lễ Thánh Franzicus vào ngày 4.10.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tổng lãnh Thiên Thần của Thiên Chúa
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong giáo lý Công giáo ba ngôi Thiên Chúa là nền tảng căn bản của đức tin vào Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần.
Nhưng trong nếp sống đức tin vào Thiên Chúa có đề cập tới ba vị Tổng lãnh Thiên Thần.
Vậy họ là ai, và có vai trò gì trong nếp sống đức tin đạo Công giáo?
Ba vị Tổng lãnh Thiên Thần: Michael, Gabriel và Raphael là những vị Thiên Thần do Thiên Chúa tạo dựng nên. Các Thiên Thần là loài thụ tạo thiêng liêng . Họ có hình dạng, nhưng không có xương thịt vật thể như con người.
Họ đứng trước Thiên Chúa, luôn hướng về Thiên Chúa và là Sứ gỉa được sai đi mang tin mừng của Chúa cho con người trên trần gian. Theo suy niệm của Đức Thánh cha Gregor thứ nhất ( + 604) những vị Sứ giả được sai đi loan báo tin mừng nhỏ bé được gọi là Thiên Thần, còn những vị Sứ giả loan tin mừng trọng đại được gọi là Tổng lãnh Thiên Thần.
Tên Ba vị Tổng lãnh Thiên Thần có chữ „El“ ở cuối, mà chữ El có nghĩa „ Thiên Chúa“. Như thế Thiên Chúa được viết khắc ghi nơi tên cùng trong bản chất của họ. Điều này diễn tả họ là những sứ giả mang Thiên Chúa đến cho con người. Họ mở cánh cửa trời và đất ra.
- 1. Tổng lãnh Thiên Thần Michael: Quis ut Deus?
Tổng lãnh Thiên Thần Michael được xưng tụng với danh xưng bằng tiếng Latinh: Quis ut Deus? – Ai bằng Thiên Chúa?.
Theo tương truyền:
-Thiên Thần Michael được liệt vào hàng Thiên Thần quân đội chiến đấu đã đánh thắng Thiên Thần quỉ dữ Lucifer.
-Thiên Thần Michael đã vâng lệnh Thiên Chúa cầm gươm đuổi Ông Bà nguyên tổ Adong-Evà ra khỏi vườn địa đàng, sau khi Ông bà phạm tội bất phục tùng Thiên Chúa.
- Thiên Thần Michael cũng là vị Thiên Thần thổi kèn Posaune đánh thức gọi những người đã qua đời sống lại ra khỏi mồ.
Hình ảnh cùng tượng Thiên Thần Michael được vẽ phác họa hay khắc chạm là một người mặc quân phục thời cổ Lamã có hai cánh bay sau lưng với bắp thịt gân cốt dũng mãnh, một tay cầm gươm như vũ khí, một tay cầm chiếc lá chắn, và chân đứng đạp trên con khủng long hình ảnh của qủi dữ.
Hình ảnh chiếc gươm trên tay Tổng lãnh Thiên Thần Michael là hình ảnh nói lên sức mạnh của tình yêu trong ý nghĩa cánh tay của Thiên Chúa được dương ra. Tổng lãnh Thiên Thần Michael giúp đỡ chỉ cho chúng ta tìm lại nẻo chính đường ngay, khi tầm nhìn con mắt chúng ta lạc mất hướng về trời cao.
Theo Kinh Thánh cựu ước Michael là vị Thiên Thần có đẳng cấp cao nhất trong các Thiên Thần bên ngai Thiên Chúa ( Sách Tiên tri Danien 10,13; 12, 1) có nhiệm vụ che chở bảo vệ dân Israel trước các quân thù địch, cùng cho khỏi cảnh khó khăn thử thách.
Thiên Thần Michael vào thời cựu ước ngày xưa được trình bày là một vị Thiên Thần trong sáu hay bảy vị Thiên Thần đẳng cấp chỉ huy cai trị, được Thiên Chúa tin tưởng các đặc biệt trao cho nhiệm vụ giữ chìa khóa nuớc trời, cùng là vị Thiên Thần chỉ huy tối cao các Thiên Thần.
Theo Kinh Thánh tân ước , Michael là Tổng lãnh Thiên Thần chống lại ma qủi.
„Cả những người mê sảng kia cũng vậy, họ làm cho thân xác ra ô uế, khinh dể chủ quần của Chúa, nói phạm đến các Bậc uy linh. Khi bàn cãi và tranh luận vói qủy về thi hài ông Môsê, ngay cả tổng lãnh thiên thần Michael cũng không dám đưa ra một phán quyết nào phạm đến nó, mà chỉ nói: Xin Chúa trừng phạt ngươi! (“ ( thư Giuda 8-10)
„Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Micaen và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến. Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không có chỗ trên trời nữa.“ ( KH 12, 7-8)
Trong thời Tân ước, Tổng lãnh Thiên Thần Michael được trình bày là sứ gỉa của Thiên Chúa với uy quyền sức mạnh đặc biệt, như người cầu khẩn phù hộ cho con người bên ngai Thiên Chúa, như Thiên Thần của dân Chúa Kitô, như người cùng đồng hành với người đang hấp hối, với linh hồn những người đã qua đời.
Đó đây trong các nghĩa trang, tượng Tổng lãnh Thiên Thần Michael được xây dựng trên nấm mồ hay tường thành, tay cầm loa thổi kèn gọi người qua đời chỗi dậy ra trình diện Thiên Chúa. Đây là hình ảnh nói lên niềm hy vọng và sự công bằng cùng lòng thương xót trứơc mặt Thiên Chúa, khi con người trong giờ phút lịch sử ra trước thánh nhan Ngài.
Hình ảnh Tổng lãnh Thiên Thần trên tay cầm chiếc cân đo lường nói lên vị Thiên Thần này quan tâm săn sóc về luật pháp, về sự công bằng chính trực. Trong nhiệm vụ này Tổng lãnh Thiên Thần Michael là người phục vụ đi tìm chân lý sự thật, sự công bằng.
Nơi bức ảnh Đức mẹ hằng cứu giúp ở hai bên phía trên bức có hình hai Thiên Thần. Hình Thiên Thần phía bên trái cầm chiếc đòng ngọn giáo có hàng chữ chú thích: „ O AR M“ = O Archangelos Michael= Tổng lãnh Thiên Thần Michael. Vị tổng lãnh thiên thần này chỉ huy các Thiên Thần chống lại qủy dữ Satan nổi loạn chống Thiên Chúa, như sách Khải huyền diễn tả ( Kh 12,7).
Thiên Thần Michael cầm chiếc bình nước đắng cùng với cây gậy có quấn miếng bọt biển thấm nước, mà người lính đưa lên cho Chúa Giêsu nhắp uống lúc Ngài bị treo trên thập gía ( Mt 27,48). Tay ông cũng cầm cây một cây đòng nhọn, thứ khí cụ này quân lính dùng đâm thủng cạnh sườn Chúa Giêsu thâu vào trái tim khi chết trên thập gía( Ga 19,28-36).
Năm 1947 những cuộn giấy sách chép Kinh Thánh được tìm thấy ở Qumran gần bờ Biển Chết, trong đó có đoạn ghi lại coi Thiên Thần Michael là „vị thần ánh sáng“, chỉ huy đoàn quân của Thiên Chúa chống lại thần dữ. Và Thiên Thần Michael được mang tước hiệu „ Phó vương trên trời“.
Danh xưng của Tổng lãnh Thiên Thần Michael „ Quis ut Deus? – Ai bằng Thiên Chúa? –„ có lẽ cần được dịch sang ngôn ngữ con người ngày hôm nay: „ Có điều gì khác hơn thay thế Thiên Chúa được không ?“.
Câu trả lời theo lương tâm nghiêm chỉnh sẽ là: Tất cả đều có giới hạn, không có ai, không có sự gì như Thiên Chúa là Đấng hòan hảo toàn năng được!
- 2. Tổng lãnh thiên thần Gabriel
Tên cùng hình ảnh Vị Sứ giả, tổng lãnh Thiên Thần Gabriel được biết nhiều, vì vị Sứ giả này đã mang tin mừng trọng đại của Thiên Chúa cho Maria: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xuống thế gian làm người trong cung lòng trinh nữ Maria ( Lc 1,26-38).
Ngoài ra theo tương truyền, cũng chính vị Sứ giả Gabriel đã hiện đến báo tin cho Thầy cả thượng phẩm Zacaria về Thánh Gioan tẩy giả đang thanh hình trong cung lòng bà Elisabeth.
Cũng chính vị Sứ giả này đã hiện ra cùng Ông Giuse ba lần: Hãy nhận Maria làm vợ!. Sau Chúa Giêsu giáng sinh: Hãy đem gia đình sang sinh sống bên AiCập!. Và lần sau cùng : Hãy trở về quê hương Nazareth!
Và cũng chính vị Sứ giả Gabriel đã hiện đến báo tin cho các Mục đồng đêm Chúa Giêsu sinh ra:„ Ta báo cho anh em một tin mừng hôm nay Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa giáng sinh làm người!
Sứ giả Gabriel như thế là vị Sứ giả loan báo tin Thiên Chúa xuống trần gian làm người. Vị Sứ giả đã gõ cánh cửa lòng thiếu nữ Maria, và qua Sứ giả Gabriel, Thiên Chúa mời gọi Maria chấp nhận chương trình của Thiên Chúa, trở thành mẹ hạ sinh Đấng cứu chuộc: Ngôi Lời của Thiên Chúa cùng là Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người trong cung lòng Maria.
Sứ giả Gabriel của Thiên Chúa đã gõ cánh cửa trái tim tâm hồn Maria. Cũng thế Thiên Chúa luôn gõ cánh cửa trái tim mỗi người. Như trong sách Khải Huyền thuật lại Thiên Chúa nói với Thiên Thần Hội Thánh Laodizea:“ Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta.“ ( Kh 3,20)
Trong Kinh Thánh Cựu ước nơi sách ngôn sứ Daniel nói đến Thiên Thần Gabriel trong nhiều thị kiến. Và xin Gabriel cắt nghĩa những thị kiến mình đã xem thấy. ( Daniel 8,16 và 9,21…)
Hình Thiên Thần bên phải trên bức ảnh Đức mẹ hằng cứu giúp với dòng chữ „O AR G“ O Archangelos Gabriel= Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel. Vị tổng lãnh Thiên Thần này đã đến truyền tin cho Đức mẹ, báo tin Chúa Giêsu xuống làm người trong cung lòng Đức Mẹ Maria (Lc 1,28). Trong tay Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel cầm cây thánh gía và 4 chiếc đinh sắt. Những dụng cụ này nói lên cuộc đời Chúa Giêsu sẽ phải chịu đau khổ chết trên thập gía thế nào.
Trong ngành nghệ thuật trang trí Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel thường được trình bày với một cành hoa huệ trắng nơi tay trong ý nghĩa chỉ về sự trong trắng tinh tuyền người trinh nữ, và cùng nói lên vị Tổng lãnh Thiên Thần này đã hiện đến truyền tin cho Maria thành Nazareth.
Cũng theo văn hóa dân gian Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel được nhận là vị bổn mạng của ngành bưu điện mang đưa thư.
Và tên Gabriel theo tiếng Do Thái có ý nghĩa: Sức mạnh của Thiên Chúa.
- 3. Tổng lãnh Thiên Thần Raphael
Tổng lãnh Thiên thần Raphael được nói đến trong sách Tobia là một Thiên Thần được Thiên Chúa sai đi cùng đồng hành với và có sứ mạng chữa lành. ( Sách Tobia 5,4 - 12, 22).
Tổng lãnh Thiên Thần Raphael chữa lành mối quan hệ tình yêu giữa Tobias và Sara gây ra hoang mang sợ hãi. Thiên Thần Raphael chữa lành tình yêu của họ giữa người nam và người nữ. Raphael đã nhân danh Thiên Chúa xua đuổi ma
quỉ tấn công quắy nhiễu tình yêu giữa hai người. Điều này mang đến bình an sự xum họp cho hai người.
Sách Tobia thuật lại Thiên Thần Raphael chữa lành vết thương bệnh mù lòa cho cha của Tobias được sáng mắt trở lại.
Thiên Chúa Đấng tạo hóa đã dựng nên cho con người và cả nơi súc vật hai con mắt để nhìn xem nhận ánh sáng bóng tối cùng những dấu chỉ ẩn hiện trong đời sống. Khi con mắt không còn nhìn nhận ra được nữa thì thật là một thảm họa đầy nguy hiểm cho đời sống người đó, làm tâm tính họ mất thăng bằng.
Tổng lãnh Thiên Thần Raphael được Thiên Chúa sai đi làm Sứ giả chữa lành tầm nhìn con mắt thể xác cùng tinh thần cho con người qua việc loan truyền tin mừng đức tin và nhân chứng cho tình yêu.
Theo tương truyền Tổng lãnh Thiên Thần Raphael là quan thầy hộ mạng cho những thầy thuốc chữa bệnh, cho người hành hương hay những người du lịch thám hiểm.. Và tên Raphael có ý nghĩa: Thiên Chúa chữa lành.
Theo lễ nghi phụng vụ Giáo hội, cả ba vị tổng lãnh Thiên Thần Michael, Raphael và Gabriel được mừng kính chung ngày 29.09. hằng năm trong toàn thể Giáo hội.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Matthaeus, người thu thuế
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chúa Giêsu khi đi rao giảng giáo lý nước Thiên Chúa ở trần gian vào khoảng năm 30. đã tuyển chọn kêu gọi 12 môn đệ để xây dựng nền tảng Giáo Hội sau này. Trong số 12 Môn đệ có tên Matthaeus. ( Mt 10,3 Mc 3,18, Lc 6,15 và CV 1,13).
Về nguồn gốc lịch sử đời sống của Matthaeus không có bút tích nào ghi chép để lại. Nhưng trong phúc âm Chúa Giêsu thuật kể lại tên cùng hình ảnh về Ông. Nên căn cứ theo đó người ta có thể lần tìm ra lai lịch về con người của Ông.
Tên Matthaeus theo nguồn gốc tiếng Do Thái mang ý nghĩa là “ qùa tặng của Thiên Chúa“. Phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh Matthaeus (10,3) nói rõ về nghề nghiệp của Mathhaeus là người thu thuế. Dựa vào chi tiết đó Matthaeus được nhận diện ra là người ngồi nơi cửa thuế quan và được Chúa Giêsu kêu gọi:“ Hãy theo Ta!“ ( Mt 9,9, Mc 2,13, Lc 5,27 ).
Dựa theo trình thuật phúc âm thánh Marcô, Chúa Giêsu đến rao giảng , làm phép lạ ở Carphanaum vùng biển hồ Galilaea, nơi đây Chúa Giêsu đã kêu gọi Matthaeus, như thế có thể nói Matthaeus làm nghề thu thuế ở trạm thu bên bờ hồ Galilea, cũng nơi này Chúa Giesu thường tới nhà Ông Petrus.
Ngoài ra Ông còn có tên nữa là Levi: „Sau đó Đức Giêsu đi ra và trông thấy một người thu thuế tên là Levi, đang ngồi ở trạm thu thuế. Người bảo Ông „ Anh hãy theo Tôi!. Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Người. ( Lc 5,27-28).
Chúa Giêsu kêu gọi những Môn đệ đầu tiên làm thành nhóm những người trong vòng thân tín nhất, nhưng theo suy nghĩ đánh gía của người Israel thời đó, lại bị liệt kê đánh gía là hạng người tội lỗi. Điển hình là Matthaeus, một người thu thuế, một người có liên quan ràng buộc với vật chất tiền bạc bị cho là không thuộc về dân Thiên Chúa, một lớp người không trong sạch. Và còn bị cho là người chạy theo cộng tác với ngoại bang, bị khinh chê chống báng, đi thu thuế bóc lột dân của mình nộp cho họ. Vì thế họ bị cho là hạng quân thu thuế, hạng người tội lỗi điếm đàng ( Mt 21,31, Lc 15,1).
Nhưng Chúa Giêsu không nhìn theo khía cạnh như thế. Người không vì thế mà loại bỏ họ ra. Trái lại người đến nhà Matthaeus Levi ăn cùng bàn, và chỉ cho những người khác có thái độ khó chịu chống đối:“ Không phải kẻ lành mạnh cần đến thầy thuốc, nhưng là người bệnh. Tôi đến để kêu gọi người tội lỗi, chứ không người công chính“ ( Mt 2,17).
Kinh thánh thuật lại Matthaeus nghe Chúa Giêsu kêu gọi, Ông đứng dậy và bỏ tất cả đi theo Người. Cung cách của Matthaeus nói lên sự hăng hái sẵn sàng là câu trả lời cho tiếng Chúa Giêsu kêu gọi Ông: Hãy theo Ta!
Có thể nói được rằng cung cách đứng dậy bỏ mọi sự lại đàng sau của Matthaeus là từ bỏ con đường cũ tội lỗi, và nhận thức rõ ràng về con đường mới là chấp nhận nếp sống vươn lên trong cộng đoàn với Chúa Giêsu.
Là Tông đồ được Chúa Giesu kêu gọi, Ông có thời gian dài ba năm theo chân Chúa Giêsu ngày đêm, nghe, xem ngài giảng, ngài làm phép lạ cùng học hỏi nơi ngài nhiều điều. Vì thế, sau khi Chúa Giêsu về trời. Matthaeus vì nhu cầu truyền lại giáo lý của Chúa Giêsu cho các tín hữu Chúa Kitô, Ông đã viết phúc âm Chúa Giêsu
Sách phúc âm Matthaeus được viết trước tác vào khoảng từ năm 80 đến năm 90 sau Chúa giáng sinh ở Antiochia, nơi người tín hữu Chúa Kitô sống chung với những cộng đoàn người Do Thái, Hy Lạp và những nhóm dân tộc khác.
Nơi Phúc âm theo thánh sử Matthaeus, Chúa Giêsu được trình bày trong tương quan với Do Thái giáo, là người chính thực cắt nghĩa về lề luật từ thời Mose.
Theo ý kiến các nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng Mattheo là một nhà trí thức Do Thái tin theo Chúa Giêsu Kitô thuộc vào thế hệ thứ hai. Là người Do Thái trở thành tín hữu Chúa Kitô nên Ông có cung cách cởi mở với những người không phải là Kitô giáo, điều này thể hiện rõ nét nơi nội dung bản văn phúc âm Ông viết ra.
Theo tương truyền kể lại, vào khoảng năm 42 sau Chúa giáng sinh, Tông đồ Matthaeus đã bỏ vùng Palestina sang truyền giáo ở nước Aethiopia, miền Mesopotamien hay cả vùng Persia. Nơi cùng thời gian Ông qua đời không có sử sách nào viết thuật lại.
Có tương truyền kể lại là Tông đồ Matthaeus chết tử vì đạo bị chém đầu, hay bị thiêu sống ở bên Syria. Vì thế Giáo hội Latinh và Hylạp tôn kính ngài là vị Thánh tử đạo.
Từ thế kỷ 10. thi hài Thánh Tông đồ Matthaeus được di chuyển đưa về Palermo, nơi đây Thánh Tông đồ Matthaeus là vị Thánh quan thầy của Thành phố và của Giáo phận Palermo.
Hình tượng Thánh Matthaeus được khắc chạm vẽ là một người có cánh như một Thiên Thần, và tay cầm bút viết phúc âm Chúa Giêsu.
Hay tay cầm bút viết cũng có thể hiểu nói về nghề nghiệp của Matthaeus ngày xưa trước khi theo Chúa Giêsu là người thu thuế viết sổ sách biên lai.
Lễ kính Thánh Tông đồ thánh sử Matthaeus hằng năm trong Giáo Hội vào ngày 21.09.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đây là cây thánh gía
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Vào ngày thứ Sáu tuần thánh, lúc rước dương cao cây thập gía Chúa Giêsu lên, vị chủ tế đọc hát: Đây là cây thánh giá, nơi treo Đấng cứu độ trần gian!
Bên Âu châu nơi những đỉnh ngọn núi cao theo phong tục văn hóa, người ta dựng cây thập gía to cao trên đó.
Trong các thánh đường Công giáo cây thập gía Chúa Giêsu được treo dựng trên cao nơi cung thánh.
Và cả ở nhà tư nhân người Công giáo cũng thường treo tượng thập giá Chúa Giêsu trên tường nhà nơi cao.
Do đâu có thập giá Chúa Giêsu, và nói gì với chúng ta?
Theo kinh thánh nơi bốn phúc âm Chúa Giêsu thuật lại Chúa Giêsu bị kết án đóng đinh treo trên cây thập tự vào buổi chiều trước ngày Sabbat của người Do Thái. Và Chúa Giêsu sống lại vào sáng ngày thứ nhất trong tuần.
Từ đó các tín hữu Chúa Kitô, Giáo hội suy nghiệm ra rằng Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập gía ngày thứ Sáu, hôm sau là ngày Sabbat - ngày thứ Bẩy, thân xác Chúa được an táng nằm chôn trong mồ sâu kín dưới lòng đất đá, và ngày thứ nhất, tức ngày Chúa Nhật Chúa Giêsu sống lại đi ra khỏi mồ dưới lòng đất đá.
Chúa Giêsu bị kết án đóng đinh vào thập gía chết và sống lại mang đến ơn cứu chuộc cho linh hồn con người khỏi hình phạt tội lỗi. Nên cây thập giá không còn là hình phạt nữa, mà trở thành cây mang lại sự sống, niềm hy vọng cho con người sau khi chết cũng được Chúa cứu chuộc cho cùng sống lại với Chúa trên Nước của Ngài.
Chúa Giêsu bị hành hạ chịu khổ hình mang đầy những vết thương đau đớn trên thân xác, bị đóng đinh chết tức tưởi trên thập giá giữa ngoài trời thiên nhiên, là điều vô cùng nhục nhã cho chính Chúa Giêsu và những người tin theo người. Nhưng vì Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nên đó là hình ảnh diễn tả ý nghĩa sự hy sinh dấn thân của Ngài có gía trị công trình sáng tạo mới.
Ngày xưa từ khởi thủy, Thiên Chúa sáng tạo trời đất, con người cùng vạn vật từ hư không qua lời phán của Ngài: Hãy có! và mọi sự liền có.
Nhưng vì tội lỗi giới răn Thiên Chúa của Ông Bà nguyên tổ Adong Evà, nên con người bị luận phạt phải chết.
Để cứu chuộc phần linh hồn con người khỏi án phạt, Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu, con Thiên Chúa xuống trần gian làm người, hy sinh chịu chết trên cây thập gía mang ơn cứu chuộc cho linh hồn con người khỏi phải chết. Nên sự chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một sự sáng tạo mới.
Đời sống con người không chỉ có mặt ánh sáng, nhưng còn có mặt bóng tối, không chỉ có vui mừng hạnh phúc, nhưng còn có đau khổ buồn phiền, không chỉ có thành công, nhưng còn phải nếm thất vọng, thất bại, không chỉ có xum họp được tung hô giữa đám đông, nhưng còn có cô đơn buồn tủi bị khinh khi…
Cây thập giá Chúa Giêsu thầm nói: Đời sống Chúa Giesu đã chịu nhiều đau khổ, Ngài luôn gần gũi với con người trong đau khổ buồn phiền .
Cây thập giá Chúa Giêsu gợi nhắc đến niềm hy vọng. Đấng chấp nhận hy sinh chết trên thập gía chính là Đấng mang niềm hy vọng cho đời sống trong những hoàn cảnh khó khăn, khủng hoảng khúc mắc của Giáo hội Chúa trên trần gian.
Đây là căn bản của đức tin Công giáo, và cũng vì thế người Công giáo tôn kính thờ lạy cây Thánh giá Chúa Giêsu trong đời sống.
Hằng năm Giáo hội Công giáo Roma vào ngày 14. Tháng Chín có lễ mừng kính suy tôn Thập giá Chúa Giêsu . Lễ này theo tiếng Latinh là In exaltatione S. Crucis.
Lễ mừng kính suy tôn Thập gía Chúa Giêsu có nguồn gốc từ khi Thánh nữ Helena, mẹ của Hoàng đế Constantino thứ nhất của đế quốc Roma, đã tìm thầy cây thập gía Chúa Giêsu bị đóng đinh ở Jerusalem vào ngày 13. 09.326 giữa đống vụn cát đá đất đổ nát hoang tàn vùng đồi núi sọ Golgotha.
Theo lời của mẹ Helena, Hoàng đế Constantino đã cho xây dựng thánh đường ngay trên phần mộ Chúa Giêsu ngày xưa ở Jerusalem, bây giờ là vương cung thánh đường Mộ Chúa Giêsu. Ngày 13.09.335 thánh đường được khánh thành.
Ngày hôm sau 14.09.335 Thập giá Chúa Giêsu lần đầu tiên long trọng đưa vào thánh đường trình bày dương cao cho dân chúng chiêm ngắm thờ lạy. Từ cung cách đó ngày lễ có tên Suy tôn thánh giá.
Theo Kinh Thánh và hình ảnh tượng thập giá Chúa Giêsu , khi chết Chúa Giêsu trên thậy gía gục đầu sang một bên, từ bên dưới nhìn lên thập gía thấy mắt Chúa hướng nhìn về phía tây là phía mặt trời lặn, buổi hoàng hôn ngày kết thúc.
Nhưng từ phía trên thập gía thấy mắt Chúa Giêsu nhìn hướng về phía Đông, phía hướng mặt trời mọc, buổi bình minh ngày mới sức sống đang vươn lên.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Vai trò của tình yêu và tính dục
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Những ngày qua những tin tức tiêu cực về những Scandale trong nội bộ Giáo hội Công giáo nơi hàng giáo sĩ cao cấp về vấn đề lạm dụng tình dục, về vấn đề buộc tội tố cáo nhau… được phổ biến trên các phương tiện truyền thông thế giới, đã gây nên làn sóng bất bình giận dữ, hoang mang sâu thẳm nơi mọi người tín hữu Chúa Kitô, cùng làm giảm sâu tận trầm trọng niềm tin vào uy tín của Giáo hội Công giáo.
Có nhiều phân tích giải thích khác nhau được phát triển suy diễn, và đưa ra phương cách chữa trị, hầu tìm lấy lại tinh thần giữ vững niềm tin vào Chúa và vào Giáo hội đang trong cơn lung lay chao đảo.
Về vấn đề lạm dụng tình dục, có ý kiến nghĩ cho rằng đó là một lối sống đồng tình luyến ái do hậu qủa của lối sống độc thân. Không biết ý nghĩ này có đúng không, và nếu có thì bao nhiêu phần đúng, bao nhiêu phần không đúng.… Nhưng sự việc Scandale về lạm dụng tình dục có liên quan mật thiết tới khía cạnh tình yêu và tính dục nơi đời sống con người.
Khía cạnh này gắn liền với đời sống con người từ khi sinh ra chào đời cho tới khi đi về bên kia chín suối. Và cũng đã có nhiều suy tư chiết giải phân tích bàn về hai khía cạnh này. Nhưng trước sau khía cạnh này cũng vẫn luôn luôn mới lạ, luôn luôn thời sự vào mọi thời buổi, luôn luôn hấp dẫn kích thích mọi người, và cũng luôn luôn là điều bí ẩn còn có nhiều ẩn số bí nhiệm. Phải, đó cũng là một lãnh vực „Tabu - riêng tư“ hầu như con người ai cũng rất ái ngại không dễ muốn bàn luận đề cập tới.
Nhưng tình yêu và tính dục là gì, cùng đóng vai trò thế nào trong đời sống con người theo khía cạnh đạo đức Kitô giáo?
Đức Giáo hoàng Benedictô XVI. đã có cái nhìn phân tích suy tư sâu sắc về khía cạnh này:
„…Cũng tương tự như ở các nền văn hoá khác, người Hy Lạp trước tiên nhìn trong eros một sự say đắm, lý trí bị một sự "điên dại thần bí" thống trị, bứt con người ra khỏi hiện thực hạn hẹp của mình và trong tình trạng bị quyền lực thần linh này thống trị, sẽ đưa họ đến cảm nghiệm sự diễm phúc cao độ nhất. Tất cả các quyền lực khác giữa trời và đất đều trở thành thứ yếu : ''Omnia vincit Amor” (tình yêu vượt thắng tất cả), đó là câu nói của thi sĩ Virgile trong tập Bucolica. Và ông còn thêm : ''Et nos cedamus amori” (và cả chúng ta hãy khuất phục trước tình yêu) [2]. Trong các tôn giáo thái độ này ẩn tàng trong các hình thức phụng thờ sự phong phú về mặt sinh sản ; việc "mại dâm thánh" nở rộ trong các đến thờ cũng thuộc về thứ phượng tự này. Eros được cử hành như một sức mạnh thần linh, như một sự kết hợp với thần linh.
Cựu Ước kiên quyết chống lại hình thức tôn giáo này, vì xem đó như một thứ cám dỗ mạnh mẽ chống lại niềm tin độc thần và như một thứ lệch lạc tôn giáo. Dù vậy, Cựu Ước không phủ nhận eros theo đúng ý nghĩa của nó, nhưng chiến đấu chống lại hình thức hủy hoại của nó. Vì sự thần thánh hoá eros cách sai lệch, diễn ra ở đây, làm mất đi phẩm giá của nó yà chà đạp con người.
Các cô gái điếm trong đền thờ, phải đem lại sự say sưa thần thánh, lại không được đối xử như con người và nhân vị, nhưng phục vụ như các đối tượng để đem lại "cơn điên thần bí" : trong thực tế, họ không phải là các nữ thần, nhưng chỉ là những con người bị lạm dụng. Vì thế eros vô luân và điên đảo không phải là sự vươn lên, "ngất trí đến với thần linh", nhưng là sự sa đọa của con người. Rõ ràng, eros cần sự thanh luyện, để nó không chỉ đem lại cho con người chút khoái lạc chóng qua, nhưng là một sự nếm trước đỉnh cao của cuộc sống - một thứ diễm phúc mà cuộc dời chúng ta hướng đến.
- 5. Từ cái nhìn ngắn ngủi về hình ảnh của eros trong lịch sử và trong hiện tại, chúng ta thấy có hai chiều kích rõ rệt. Chiều kích thứ nhất, tình yêu có liên hệ với Thiên linh : tình yêu hứa ban sự vô hạn, vĩnh cửu - sự cao cả và hoàn toàn khác với thực trạng hằng ngày của chúng ta. Đồng thời cũng cho thấy, con đường để đạt đến đó không phải chỉ đơn thuần là tùng phục bản năng. Sự thanh luyện và trưởng thành rất cần thiết, và các điều này phải kinh qua con đường từ bỏ. Đây không phải là phủ nhận, cũng không phải là ''đầu độc" eros, nhưng là chữa lành để đạt được sự cao cả thực sự của nó.
……………………………..
Kitô giáo trong quá khứ bị kết án là thù ghét thân xác, và ngày nay xu hướng này vẫn còn. Thế nhưng cách tôn vinh thân xác mà chứng ta thấy ngày hôm nay chỉ là dối trá. Eros (tình ái) bị hạ giá xuống thành sex (tình dục), trở thành hàng hoá, thành "vật phẩm” ; người ta có thể mua hay bán nó, thật vậy, chính con người cũng trở thành hàng hoá. Trong thực tế, điều này không phải là tiếng nói đồng ý cao cả của con người đối với thân xác mình.
Ngược lại, họ nhìn thân xác và giới tính chỉ là chất liệu đơn thuần nơi bản thân mình mà họ có thể sử dựng và khai thác tuỳ ý. Phần vật chất này không nằm trong bình diện của sự tự do, nhưng là một cái gì mà con người theo cách thức của mình tìm cách để hưởng thụ mà không có hại.
Trong thực tế, chúng ta đứng trước một sự hạ giá thân xác con người ; thân xác này không còn được hội nhập vào sự trọn vẹn của tự do trong đời sống chúng ta, không còn là dấu chứng sống động của toàn bộ cuộc sống của chúng ta, nhưng bị đẩy lùi vào bình diện sinh lý. Việc tôn vinh giả tạo thân xác có thể mau chóng trở thành thù ghét chính thân xác.
Ngược lại, niềm tin Kitô giáo luôn nhìn con người như là một hữu thể gồm cả hồn lẫn xác, nơi họ, tinh thần và vật chất nối kết chặt chế với nhau và cả hai cảm nghiệm được sự cao quý mới. Vâng eros muốn đưa chúng ta đến bầu khí thần linh, vượt lên khỏi chúng ta, vì thế nó đòi buộc một con đường vươn lên, từ bỏ, thanh luyện và chữa trị“ ( Đức Giáo hoàng Benedictô XVI., Deus Caritas, số 4. và 5.).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh Augustinus và con đường trở lại
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Xưa nay nói đến Thánh Augustinus, ta nghĩ ngay đến vị Thánh có một qúa khứ cứng đầu hoang đàng và con đường ăn năn trở lại của ngài.
Và nói về Thánh Augustinus, ta nghĩ nhớ ngay đến nước mắt cùng lời cầu nguyện của Thánh nữ Monica, người mẹ của Augustinus. Chính nhờ nước mắt cùng lời cầu nguyện của mẹ thánh Monica đã cảm hóa Augustinus quay trở lại con đường sống ngay chính không còn theo con đường hoang đàng theo thuyết lạc giáo.
Augustinus có tên là Aurelius Augustinus, sinh trưởng ở thành Thagaste 13.11. 354, nay thuộc nước Algeria bên Phi Châu. Và Ông qua đời ngày 28.08.430 ở Hippo Regius nay thuộc nước Algeria. Vì thế cũng có tên gọi là Augustinus thành Hippo.
Thánh Augustinus là một trong bốn vị Thánh Giáo phụ lớn trong Hội thánh Công giáo: Hieronimus, Ambrosius thành Milano, Augustinus và Giáo hoàng Gregor cả.
Augustinus trước hết theo học ngành hùng biện và trở thành một nhà hùng biện nổi tiếng ở Thagaste, Karthago, Roma và Milano.
Sinh trưởng trong một gia đình Công giáo, nhưng Augustinus không là người Công giáo. Ông được hấp thụ nền giáo dục cao, nên luôn luôn thao thức đi tìm chân lý, và ông theo thuyết lạc giáo Manichae bên Phi Châu thời đó.
Là nhà hùng biện nổi danh, nhưng Augustinus sau khi nghe những bài giảng của vị Giám mục Ambrosius giáo phận Milano, Augustinus có ấn tượng thuyết phục rất mạnh với tài hùng biện của Ambrosius và những gì Giám mục Ambrosius thuyết giảng về Kinh Thánh. Augustinus đã khám phá ra với sự ngạc nhiên thán phục con đường trở lại của Thánh Tông đồ Phaolo. Sau thời gian tranh luận tìm hiểu, Augustinus đã lãnh nhận Bí tích rửa tội trở lại con đường sống đạo Công giáo năm 387.
Một hôm Augustinus ngồi suy nghĩ trong vườn có tiếng của một trẻ em vang vọng đến yêu cầu Augustinus đọc sách Kinh Thánh. Giật mình Augustinus mở sách kinh thánh ra đọc thư của Thánh Phaolo Tông đồ. Như bị cảm hóa thuyết phục, Augustinus quyết định bỏ lại sau lưng tất cả danh vọng, và bắt đầu cuộc sống tu viện ăn chay hãm mình, và chỉ tập trung vào việc nghiên cứu triết học và suy niệm học hỏi kinh thánh
Năm 391 khi đến thánh đường ở Hippo Regius tham dự thánh lễ, theo lời yêu cầu của dân chúng trong thành, Augustinus được vị Giám mục phong chức linhm mục, vì Augustinus có tài hùng biện giảng thuyết
Và từ năm 395 cho tới khi qua đời năm 430 Augustinus là Giám mục giáo phận Hippo Regius.
Từ khi từ bỏ con đường lạc giáo hoang đàng trở lại đạo Công giáo, và trở thành Linh mục rồi Giám mục, Augustinus đã trước tác viết nhiều những bài giảng, bài suy luận thần học Kitô giáo, mà ngày nay còn lưu lại, như một kho tàng tư tưởng, một cuốn sách đạo đức thiêng liêng của một vị Giáo phụ lớn trong Hội thánh Công giáo.
Thời danh hơn cả là tác phẩm Confessiones - Tự thú- của Thánh Augustinus là một thiên dài những tâm tình cầu nguyện, và về con đường cuộc đời trở lại của mình.
Nơi tác phẩm Confessiones, Augustinus đã có những suy luận thần học Công gíao về đức tin và đời sống dựa theo triết lý của Platon.
Đức giáo hoàng Benedictô XVI. đã suy tư chiết giải con đường trở lại của Thánh giáo phụ Augustinus.
„Căn bản sự trở lại của Augustinus là con đường trở thành Kitô hữu chấp nhận đức tin và xin chịu Bí tích rửa tội.
Suốt cuộc đời là một nhà hùng biện Augustinus luôn đi tìm kiện sự chân thật. Nhưng ông không tìm được câu trả lời thoả mãn cho thắc mắc của mình. Ông muốn tìm biết về con người là gì, bởi đâu mà đến, đời sống như thế nào và sau cùng đi về đâu. Augustinus muốn tìm một đời sống đích thực, chứ không muốn đơn giản sống như thế.
Với Augustinus tất cả những gì không mang kèm theo tên Chúa Kitô, không là đầy đủ với Ông. Tình yêu với tên Chúa Kitô , như Ông nói trong Confessiones, là giòng sữa mẹ mà Ông đã uống khi còn thơ bé. Và luôn luôn Ông tin rằng đời sống có lúc yếu đuối có lúc mạnh mẽ là do Thiên Chúa ban cho và Ngài chấp nhận như thế.
Augustinus suy tư cho rằng Logos về ý nghĩa sự sáng tạo trong triết lý của Platon không chỉ vạch ra con đường tìm đến sự chân thật đó. Vì nó qúa trừu tượng không với tới được. Nhưng trước hết trong đức tin của Giáo hội Augustinus đã tìm ra sự chân thật căn bản: Ngôi Lời- Logos của Thiên Chúa đã làm người ở giữa con người. Ngôi Lời Thiên Chúa sống gần bên cạnh con người, và con người chúng ta đụng chạm được Ngôi Lời đã làm người.
Đó là sự khiêm hạ của Thiên Chúa làm người là câu trả lời cho đức tin của chúng ta trong chính cộng đoàn đức tin của Giáo hội.
Sự trở lại của Augustinus thể hiện nơi nếp sống của Ông. Theo Augustinus viết thuật lại trong tác phẩm Confessiones, Ông muốn sau khi được rửa tội cùng với bạn bè rút lui vào một tu viện nhỏ sống đời khắc khổ ở bên Phi Châu chỉ với Chúa thôi. Nhưng sau ba năm sống yên tĩnh suy niệm viết sách thần học và triết học, bất ngờ Augustinus được kêu gọi làm Linh mục và sau đó được trao cho làm Giám mục thành phố cảng Hippo.
Thế là ước muốn nguyên thủy của Augustinus lui về sống ẩn dật chuyên chú việc nghiên cứu thần học và cầu nguyện nơi hoang vắng thanh tịnh giờ trở thành giấc mơ muôn thuở. Vì từ nay là Linh mục rồi Giám mục Augustinus phải sống với Chúa Kitô cho mọi người. Augustinus không có thể trước tác viết phát triển những suy luận triết học cao sâu nữa. Thay vào đó Augustinus đã dịch Phúc âm chúa Giesu Kitô sang thành ngôn ngữ cho đời sống hằng ngày cùng sự đau khổ của Chúa nữa.
Con đường trở lại của Augustinus được đánh dấu rõ nét qua sự khiêm hạ mà ông học hỏi cảm nhận ra được rằng, sự khiêm hạ không phải chỉ là suy tư lớn lao của mình trong đức tin đơn giản của Giáo hội, cũng không phải chỉ là những hiểu biết to lớn làm cho đơn giản dễ hiểu trong khi rao giảng. Nhưng sự khiêm hạ còn nhận ra rằng chính Augustinus và toàn thể Giáo hội đang trên đường lữ hành luôn luôn cần đến hằng ngày lòng nhân từ thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa. Và có như thế con người mới có thể dân dần trở nên giống Chúa Giesu Kitô , là đấng hoàn thiện.“
( Đức Giáo hoàng Benedickt XVI., bài giảng Thánh lễ ở Pavia, Chúa nhật thứ ba mùa phục sinh, 22.04.2007).
Hằng năn Giáo hội mừng kính Thánh Giáo phụ Augustinus 28.08.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Batholomeus, vị Tông đồ chất phác trung thành
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Bartholomeus là một trong 12 Tông đồ Chúa Giêsu tuyển chọn, khi Chúa sống trên trần gian.
Phúc âm theo Thánh Giaon thuật lại chi tiết nhiều về cuộc gặp gỡ, đối thoại, tuyên tín và được tuyển chọn làm tông đồ của Bartholomeus với Chúa Giêsu ( Ga 1, 45-51).
Tên Bartholomeus rất có thể là gốc từ tiếng Amarisch: Bar Talmay, có nghĩa Con của Talmay.
Được Chúa Giêu tuyển chọn trực tiếp trong hàng ngũ 12 Tông đồ, nhưng Bartholomeus ít được nói đến trong phúc âm Chúa Giêsu.
Theo truyền thống thuật lại, Bartholomeus được nhận diện với tên Natanael trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với Chúa Giêsu ( Ga 1,47).
Ông Natanael quê quán gốc gác ở Cana, nơi Chúa Giêsu làm phép lạ cho nước hóa thành rượu trong tiệc cưới Cana, mà Thánh Gioan thuật lại. Và rất có thể Ông là nhân chứng phép lạ đầu tiên này của Chúa Giêsu.
Và Philippus đã nói cho Natanael biết về Chúa Giêsu như trong sách luật Mose và các Tiên Tri đã nói trước đó. Nhưng Natanael hoài nghi đối cãi lại ngay: Từ Nazareth làm sao có gì lạ hay đâu? ( Ga 1,46).
Sự hoài nghi của Natanael nói lên hai khía cạnh. Theo sự trông đợi của người Do Thái, đấng Cứu thế đến giải phóng cho họ không thể đến từ một làng quê tỉnh nhỏ không mấy ai biết đến như Nazareth. Nhưng đồng thời cũng nói lên nổi bật khía cạnh tự do của Thiên Chúa. Việc Thiên Chúa làm vượt qúa tầm suy nghĩ của con người, tạo nên sự bỡ ngỡ ngạc nhiên cho con người, mà con người tìm nhận ra. Đàng khác sự thể là Chúa Giêsu sinh ra ở Bethlehem, chứ không phải ở Nazareth. Và Chúa Giêsu từ trời được Thiên Chúa Cha , Đấng ở trên trời , sai xuống trần gian.
Lời nói của Philippus giới thiệu Chúa Giêsu cho Natanael không thuyết phục ông mấy. Sau cùng Philippus mời gọi Natanael: Vậy hãy cứ đến mà xem! ( Ga 1, 46).
Lời mời khích động Cứ đến mà xem! như một thách thức và đồng thời cũng nói lên khía cạnh thực dụng: Khi có kinh nghiệm cá nhân, biết rõ sẽ trở thành nhân chứng thôi.
Làm chứng là điều quan trọng cho đời sống tinh thần đức tin Kitô giáo trong việc truyền giáo.
Chúa Giêsu khi thấy Natanael liền nói ngay: Đây đích thật là một người Israel lòng dạ ngay thẳng không có gì gian dối!… và Trước khi Philippus gọi anh, ta đã thấy anh ở dưới cây vả rồi!
Chúa Giêsu thấy Natanael ở dưới gốc cây vả nào ở đâu, không có chi tiết nào nói đến. Nhưng có lẽ đó là giây phút quyết định trong đời sống của Natanael.
Và những lời Chúa Giêsu đã gây cảm động cảm hóa Ông mạnh mẽ cùng nhận hiểu ra rằng, Chúa Giesu biết tất cả về mình, ngài biết con đường đời sống của ta. Người này ta có thể đặt trọn niềm tin trông chờ.
Và chính vì thế Natanael đã nói lên lời tuyên tín: „Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Israel!“ ( Ga 1, 49).
Lời tuyên tín của Natanael là bước khởi đầu của con đường sống lòng trung thành với Chúa Giêsu.
Những lời tuyên tín của Natanael nói lên khía cạnh toàn diện của căn cước Chúa Giêsu: Trong tương quan với Thiên Chúa, Chúa Giêsu là con Thiên Chúa, và trong tương quan với dân Israel cũng là Vua của họ.
Không có nhiều chi ntiết về công việc tông đồ của tông đồ Bartholomeus. Sách Công vụ Tông đồ nói đến Bartholomeus có mặt cùng với các anh em Tông đồ khác và Đức mẹ cầu nguyện chờ đợi Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống ngày lễ Ngũ tuần ở Jerusalem ( Cv 1, 12-14).
Theo tường thuật của sử gia Eusebius vào thế kỷ 4. nói đến Tông đồ Bartholomeus sau khi Chúa Giesu lên trời đã đi truyền giáo làm chứng cho Chúa Giêsu sang Ấn Độ , vùng Mesopotamien và vùng nước Armenien.
Một tường thuật thời Trung Cổ nói đến Tông đồ Bartholomeus bị chết tử vì đạo, bị hành hình lột da lúc còn sống, sau cùng bị đóng đinh vào thập gía. Cũng có truyền thuyết thuật lại Tông đồ Bartholomeus bị xử trảm chặt đầu.
Tương truyền Thánh nhân bị lột da sống trở thành huyền thoại rất phổ biến trong dân gian. Ở nhà nguyện Sixtina bên Vatican, danh họa Michael Angelo đã vẽ Thánh Bartholomeus tay trái cầm da của chính mình trong bức tranh nổi tiếng Ngày tận thế, phán xét chung. Hình ảnh này được hiểu cho là chính hình ảnh của Angelo.
Đi tích xương thánh của Thánh Bartholomeus được gìn giữ tôn kính trong thánh đường ở vùng cù lao Tiber bên Roma do Hoàng đế Otto II. mang về đó năm 983.
Năm 1238 Hoàng đế Friedrich II. đã mang sọ của Thánh Bartholomeus về Vương cung thánh đường nhà vua ở Frankfurt - Đức quốc- và Thánh Bartholomeus trở thành Thánh bổn mạng của Vương cung thánh đường này.
Không có nhiều thông tin tường thuật về Thánh tông đồ Bartholomeus, nhưng có thể nói được, lòng trung thành của Thánh nhân với Chúa Giêsu, tuy không có những công việc nổi bật khác thường, cũng đã thuyết phục là nhân chứng cho Chúa Giêsu trọn cả đời sống cho tới lúc chết.
Lễ kính Thánh Tông đồ Bartholomeus ngày 24.08. hằng năm trong toàn Giáo hội Công giáo.
Người Công giáo - Việt Nam - ngày nhận lãnh làn nước Bí tích rửa tội thường nhận một Vị Thánh làm Thánh quan thầy. Nhưng có rất ít ngươi nhận Thánh Tông đồ Bartholomeus là Thánh quan thầy.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long