Tin Việt Nam
Tương lai nào cho ngư dân Việt Nam?
- Viết bởi Huỳnh Phương Ngọc, GNsP
GNsP (25.07.2015) – Tôi xuất thân trong một gia đình mà nhiều thế hệ đã xây dựng cơ nghiệp của mình trên vùng cát nóng ven biển.
Từ lúc thiếu thời tôi đã gắn bó với biển không chỉ qua bãi cát dài trắng đẹp mà còn là biển ở ngoài kia mênh mông…ở đó có những hải đảo cô đơn không người ở, nhưng tôi biết rằng những hải đảo đó từng có bước chân của ông bà chúng tôi in dấu trên đó trong hành trình gian nan khai mở bờ cõi đất nước.
Và ở ngoài xa khơi kia là biển cả mênh mông đã nuôi sống biết bao nhiêu thế hệ của chúng tôi. Với tôi biển thật hào phóng và vỹ đại, nhưng biển cũng gần gũi và thân thương vì đã cho chúng tôi những sản phẩm kỳ diệu qua đôi tay cần mẫn và trí tuệ siêu vượt của ông cha chúng tôi.
Đã rất lâu rồi là như vậy, biển Đông là của cha ông chúng tôi và bây giờ là của chúng tôi.
Nhưng những năm gần đây sự xuất hiện của những tàu đánh cá Trung Quốc và cả tàu quân sự đã ngang nhiên xâm chiếm hết hải đảo này đến hải đảo khác và giờ đây họ đã hành động như hải tặc cướp luôn cả những vùng đánh cá truyền thống của cha ông …họ xua đuổi, tấn công, cướp bóc và chém giết ngư dân chúng tôi như bọn khủng bố ngay trên biển của chúng tôi là biển Đông.
Ngư dân của chúng tôi thì tay không tấc sắt với con thuyền nhỏ nhoi mong manh giữa lòng đại dương sâu thẳm và sự hung bạo được trang bị bằng những vũ khí giết người hiện đại của hải quân Trung Quốc.
Nhưng ngư dân vẫn bám biển với tấm lòng sắt son của người con nước Việt, họ bám biển đơn độc và yếu đuối để giữ cho được tài sản của ông cha để lại, đó là hàng trăm ngàn hải lý trên biển Đông với những ngư trường giàu có bậc nhất.
Họ không hiểu về địa chất nên cũng không hề biết rằng dưới lòng biển kia chứa đựng nhiều kho báu như dầu mỏ, khí đốt.
Có lẽ đây là một trong những nguyên nhân làm cho Trung quốc thèm muốn biển của chúng tôi.
Và đây cũng chính là một trong những động cơ làm cho những kẻ cướp trở nên hung bạo và bất chấp lương tri khi họ sẵn sàng tấn công, giết hại ngư dân chúng tôi.
Những năm gần đây lượng tôm cá bắt được càng ngày càng ít, đời sống ngư dân càng ngày càng khó khăn, một phần vì biển Đông bị những tàu cá Trung quốc vơ vét theo kiểu “diệt chủng” một phần vì ngư dân bị tấn công xua đuổi không nương tay nên số người bỏ cuộc càng ngày càng nhiều.
Số người còn lại đi tìm ngư trường khác, họ xuống tận Mã Lai, Nam Dương, Thái Lan để đánh bắt trộm và đã có nhiều người bị bắt bị phạt tiền, bị bỏ tù….tình cảnh của họ thật thê thảm!
Hàng năm cứ vào chính vụ của mùa cá thì phía Trung quốc cho tập trận bắn đạn thật và họ cảnh báo ngư dân chúng tôi không được đến gần những vùng biển đó trong suốt một thời gian dài. Trên danh nghĩa ngư dân chúng tôi có một nhà nước đang lãnh đạo, và chúng tôi phải nộp thuế để nuôi cái nhà nước đó. Chúng tôi có một quân đội lẽ ra để bảo vệ tổ quốc và ngư dân chúng tôi. Nhưng thực tế thì ngư dân chúng tôi hòan toàn đơn độc.
Chung quanh ngư dân chỉ có biển và trời và những kẻ cướp hung bạo được trang bị vũ khí hiện đại đến tận răng.
Với một thực trạng như vậy thì ngư dân chúng tôi làm gì có tương lai.
Nếu có thì đó là một tương lai đầy bất trắc và u ám mà thôi.
Huỳnh Phương Ngọc, GNsP
Ngày đã gần mà đích còn xa
- Viết bởi Phạm Trần
Chỉ còn 5 tháng nữa đến ngày Đại hội tòan quốc XII của đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng mục tiêu của 5 năm tới ghi trong Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương XI trình Đại hội XII vẫn còn mơ hồ,mù mịt và viển vông như Nghị quyết khóa XI.
Năm năm trước,Nghị quyết Đại hội đảng XI (họp từ ngày 12-1-2011 đến ngày 19-1-2011), viết : “Mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới là: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.”
Bây giờ 5 năm sau, Dự thảo báo cáo chính trị của BCH Trung ương khoá XI sẽ trình Đại hội XII cũng lập lại ý tưởng tương tự với mục tiêu trong 5 năm tới là:”Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ XHCN; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại...”
(Trích phát biểu của Ủy viên BCH TW Đảng, Bí thư Ban cán sự đảng, Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh tại Đại hội Đảng bộ Thanh tra Chính phủ lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2015-2020, 10/07/2015)
Dự thảo này đã được Trung ương gửi cho địa phương và các Ban đảng thảo luận để góp ý, nhưng chưa được phổ biến cho dân hay đăng báo như đã hứa.
Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên một đọan quan trọng của văn kiện đã được tiết lộ bởi một cấp lãnh đạo. Câu chữ có khác nhau chút ít, nhưng tinh thần thì vẫn vậy. Khác biệt quan trọng là đảng đã từ bỏ cái đích “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” và thay vào đó bằng lời hứa “để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại...”
Từ khẳng định đến năm 2020, Việt Nam sẽ cơ bản là nước Công nghiệp tiên tiến như nhiều quốc gia khác, nay đảng chỉ dám hy vọng “sớm”, nhưng “sớm” là mấy năm nữa, hay đến hết nhiệm kỳ 5 năm của Khoá đảng XII vào năm 2021 Việt Nam vẫn còn đứng xa cái đích cả ngàn cây số ?
Có thể còn bị lùi xa đến tận chân trời không biết ở đâu, giống như Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng đã nói vào ngày 23/10/2013 tại phiên họp tổ của đoàn Đại biểu Hà Nội:”Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng Chủ nghĩa Xã hội (CNXH) còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa.?
Lý do bây giờ đảng không dám nhắc đến năm 2020 vì chỉ còn 5 năm nữa thôi mà Việt Nam vẫn chưa làm nổi con ốc vít và cơ bản chỉ là lắp ráp thuê, hay làm thuê (gia công) cho nước ngoài.
AI ĐỂ VN LỆ THUỘC VÀO TRUNG QUỐC ?
Nhưng tại sao chỉ biết làm thuê ? Vì chính sách kinh tế đầu voi đuôi chuột theo “định hướng xã hội chủ nghĩa” tự khoe là “chưa có tiền lệ”, nhưng thực chất không xây dựng từ gốc bằng trí tuệ của con người Việt Nam, bằng giáo dục thực dụng, hay biết thức thời đưa dân tộc vươn lên theo gót chân hai dân tộc Nhật Bản và Nam Hàn sau chiến tranh.
Ngược lại, lãnh đạo Cộng sản Việt Nam từ sau chiến tranh năm 1975 chỉ biết tự mãn hão huyền, bảo thủ, giáo điều, chia rẽ, ăn xổi ở thì và mất tự chủ nên đã để đất nước lọt dưới cánh dù của Trung Quốc, anh hàng xóm, tuy miệng nói “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, nhưng lòng dạ thì nham hiểm vô cùng.
Những lãnh đạo này, từ thời Tổng Bí thư “đổi mới” Nguyễn Văn Linh (1986-1991), qua Đỗ Mười (1991-1997) đến Lê Khả Phiêu (1997-2001), Nông Đức Mạnh (2001-2011) rồi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (từ 2011) đã biến Việt Nam là nơi dừng chân cho các Doanh nghiệp và công nhân thất nghiệp của Trung Quốc.
Sau 30 năm mệnh danh “đổi mới”, dân tộc Việt Nam vẫn còn bị đứng thứ 53 trong tổng số 151 nước nghèo nhất trên thế giới, căn cứ theo nghiên cứu năm 2013 của Vatentina Pasquali và Denise Bedell thuộc Global Finance. Dân Việt Nam cũng bị biến thành kẻ tiêu thụ cho hàng hóa, kể cả hàng độc hại, của Trung Quốc.
Bằng chứng Việt Nam lệ thuộc Trung Quốc đã được phơi ra tại cuộc Hội thảo về “tăng cường hợp tác kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc”, có sự tham dự của Tòa Tổng Lãnh sự Trung Quốc, tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 26/06/2015.
Theo báo cáo của Chi nhánh Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam tại TP HCM (VCCI –HCM) thì :” Trong 5 tháng đầu năm 2015, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 6,1 tỷ USD (giảm 1,2% so với cùng kỳ 2014) và nhập khẩu 15,9 tỷ USD (tăng 19,1%). Như vậy, 5 tháng đầu năm 2015 Việt Nam nhập siêu từ Trung quốc đạt 9,8 tỷ USD.”
Báo cáo cũng cho biết: “ Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2014 đạt 58,7 tỷ USD. Trong đó, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 14,9 tỷ USD và nhập khẩu 43,8 tỷ USD. Như vậy, Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc 28,9 tỷ USD. Các mặt hàng Việt Nam xuấu khẩu sang thị trường Trung Quốc gồm: dầu thô, than đá, máy tính, điện thoại, linh kiện, cao su, gạo, rau quả, thủy hải sản, v.v…, và nhập khẩu từ thị trường này các mặt hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, điện thoại, linh kiện, may mặc, sắt thép, phân bón, v.v…” (Zing.VN,26/06/2015)
Đó là những con số được tổng kết theo báo cáo giao dịch thương mại theo ngạch chính thức Việt-Trung. Mức chênh lệch thương mại thật sự giữa Việt Nam và Trung Quốc còn phải tính tới hàng hoá trao đồi qua biên giới, hay còn được gọi là “ biên mậu ” và hàng nhập lậu từ Trung Quốc vào Việt Nam.
“Một lượng hàng tiêu dùng khổng lồ từ Trung Quốc ồ ạt vào Việt Nam theo đường biên mậu, buôn lậu. Theo một nghiên cứu mới đây của Trung tâm WTO cũng như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), xuất nhập khẩu qua biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc luôn có sự chênh lệch.
Số liệu phía Trung Quốc thường cao hơn, nguyên nhân xuất phát từ hàng nhập tiểu ngạch đường biên mậu, hàng lậu, trốn thuế. Chẳng hạn, năm 2012, Việt Nam công bố con số nhập khẩu từ Trung Quốc là 28,8 tỉ USD nhưng theo cơ quan chức năng Trung Quốc thì đến 34 tỉ USD.” (báo Người Lao Động, 14/02/2015)
Trong khi ấy, lên tiếng tại hội thảo về “Cơ cấu kinh tế VN - những rủi ro phát triển” do Viện Kinh tế Việt Nam tổ chức ngày 08/01/2015, Tiến Sỹ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam đã tố cáo rằng : “Chính sách biên mậu là chính sách cực kỳ nguy hiểm, kéo cấu trúc kinh tế VN xuống rất thấp”. Theo ông Thiên, số tiền thanh toán qua biên giới của Việt Nam với Trung Quốc vào năm 2014 khoảng 15 tỉ USD. Nếu cộng với gần 30 tỉ USD nhập siêu chính thức từ nước này, VN nhập siêu tổng cộng 45 tỉ USD chỉ riêng thị trường này.” (theo báo Thanh Niên online ngày 09/01/2015)
HƯỚNG THEO TRUNG QUỐC ?
Nhưng tại sao đảng Cộng sản Việt Nam từng được người sáng lập Hồ Chí Minh khoe “đảng ta là đạo đức, là văn minh” hay “đảng ta thật vĩ đại” (tuyên bố Tại lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng,3-2-1930 - 3-2-1960) mà lại để cho Kinh tế Trung Quốc nắm đầu Việt Nam lôi đi như thế ?
Báo Người Lao Động giải thích ngày 14/02/2015: “Chuyên gia kinh tế - Tiến Sỹ Bùi Trinh cho rằng cái gốc vấn đề là do năng lực sản xuất của Việt Nam quá kém, nếu không nhập từ Trung Quốc cũng phải nhập từ các thị trường khác. Các doanh nghiệp (DN) của ta chủ yếu làm gia công, nhất là xuất khẩu, lại không có ngành công nghiệp phụ trợ nên muốn sản xuất phải nhập nguyên phụ liệu đầu vào. Nếu giảm phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc thì bằng cách nào? Nếu nhập khẩu nguyên liệu, máy móc thiết bị từ các nước khác thì hàng hóa sản xuất ra có tính cạnh tranh không, bán cho ai?”
Vì vậy, bài báo viết tiếp : “Theo TS Bùi Trinh, muốn “thoát Trung” về kinh tế, cần phải làm cho nền kinh tế Việt Nam mạnh lên, cộng đồng DN phải tăng sức cạnh tranh. Còn nhập siêu từ Trung Quốc thời điểm này không hẳn là xấu. Nhờ máy móc, thiết bị, hàng hóa nhập từ thị trường này giá rẻ mới góp phần giúp lạm phát Việt Nam giữ ở mức như những năm qua. Với tỉ trọng 60% nguyên phụ liệu đầu vào nhập từ Trung Quốc, nếu từ bỏ thì DN Việt Nam sẽ xoay trở không kịp.”
Ngoài ra, theo báo điện tử Đất Việt ngày 20/04/2015 thì : “ Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Văn Nam, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại (Bộ Công thương) cho rằng, trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc, Việt Nam luôn ở thế yếu. Chính sách, thủ đoạn ngoại thương của Trung Quốc cao tay hơn Việt Nam nhiều. Trung Quốc cố biến Việt Nam thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa chất lượng trung bình, thậm chí chất lượng kém của họ.
Ở chiều ngược lại, "bản thân doanh nghiệp Việt Nam ăn xổi ở thì, chỉ biết lợi ích trước mắt, không có chiến lược phát triển lâu dài, cho nên cứ thấy mua hàng Trung Quốc vừa rẻ vừa lợi, lại có nhiều khuyến mại, được ưu ái nên cứ rước về.
Đằng sau đó, các nhà quản lý Việt Nam gần như vô trách nhiệm, bất lực, các bộ, ngành dù biết nhưng không hề có chủ trương, chính sách gì cụ thể để ngăn chặn, thậm chí còn tiếp tay".
Đất Việt viết tiếp : “Còn báo Tuổi trẻ tháng 12 năm ngoái dẫn lời ThS. Phạm Bích Ngọc, Viện Kinh tế Việt Nam tại buổi tọa đàm về nhập siêu từ Trung Quốc do Viện Nghiên cứu kinh tế chính sách, Đại học Kinh tế Hà Nội tổ chức cho rằng, nhập siêu Trung Quốc cho thấy sự yếu kém của nền kinh tế Việt Nam. Có ba nguyên nhân Việt Nam nhập siêu Trung Quốc là do mô hình tăng trưởng, thể chế pháp lý, và phương pháp quản lý.
Theo bà Ngọc, việc nhập hàng không phải khu vực có trình độ công nghệ nguồn nên không thể làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế Việt Nam theo hướng hiện đại. Vì thế có ý kiến "Việt Nam đang bán hàng Trung Quốc sang Mỹ" vì Việt Nam chủ yếu nhập nguyên vật liệu Trung Quốc, chỉ gia công rồi xuất khẩu sang EU, Mỹ.
Ông Bùi Văn Dũng, Trưởng ban Cải cách và phát triển doanh nghiệp, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương nói thẳng với Đất Việt, trong xu thế toàn cầu hóa, các nền kinh tế có quan hệ với nhau là tất yếu, đặc biệt sức mạnh của kinh tế Trung Quốc, với ưu thế giá cả và khối lượng lớn, hấp dẫn tất cả chứ không riêng nước nào.
"Việc quan hệ và quan hệ sâu với Trung Quốc là bất khả kháng nhưng để phụ thuộc lại rất rủi ro, nguy hiểm. Bởi thế, Việt Nam chỉ có thể cố gắng thoát khỏi sự phụ thuộc, còn vẫn phải quan hệ sâu rộng chứ không có cách nào khác". (báo Đất Việt online, 20/04/2015)
ĐÍCH Ở ĐÂU BÂY GIỜ ?
Giáo sư, Nhà toán học nổi tiếng Hòang Tụy cũng đã từng cảnh báo : “Khi mô tả sự phát triển kém cỏi của đất nước, chúng ta hay dùng từ lạc hậu hay tụt hậu, nhưng theo tôi để phản ánh đúng hơn thực chất phải nói ta đang trì trệ trong tụt hậu. Nếu tụt hậu mà đang đi lên thì cũng không quá lo lắng nhưng trì trệ trong tụt hậu thì đáng lo thật, mà biểu hiện rõ nhất sự trì trệ này là ngay về chỉ số đổi mới sáng tạo, theo đánh giá của quốc tế, Viêt Nam còn thua cả Lào và Campuchia. Nếu chỉ kể về mức độ lạc hậu, Lào và Campuchia hiện xếp sau Việt Nam nhưng nếu họ cứ tiếp tục đứng trên ta về chỉ số đổi mới sáng tạo thì với đà này, chẳng mấy chốc thứ tự đó sẽ đảo ngược, chắc chắn họ sẽ bỏ lại ta ở phía sau.” (Trích Tạp chí Tia Sáng, ngày 10/02/2015)
Báo động của Giáo sư Hòang Tụy đã chứng minh chủ trương làm kinh tế “nửa người, nửa ngợm” được gọi là “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.”, theo Điều 51 Hiến pháp 2013, đã phá sản.
Vì vậy, vào ngày 28/02/2015 , tại Thủ đô Hà Nội, Hội đồng Lý luận Trung Ương-nơi quy tụ những “nhà tư tưởng” cực kỳ giáo điều và bảo thủ của đảng CSVN đã quây quần bên nhau để toạ đàm về “Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng XHCN”.
Nhóm Trí thức này là tác gỉa của các Báo cáo chính trị tại mỗi kỳ Đại hội đảng, vì vậy kỳ này họ cũng đã sáng tác ra cách định nghĩa mới cho đường lối kinh tế để trình ra Đại hội Đảng XII, dự trù diễn ra đầu năm 2016.
Họ viết:“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.”
Tòan là sáo ngữ nghe bùi tai nhưng tựu trung cũng vẫn “kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo” , “Nhà nước qủan lý” và “do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”, nhưng đặc biệt kỳ này Hội đồng Lý luận Trung ương lại làm ra vẻ khác hơn lối định nghĩa tréo cẳng ngỗng vẫn thường nghe bằng cách thêm tên nước Việt Nam vào vế sau: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ra cái vẻ đây là cách làm kinh tế riêng của Việt Nam, không bắt chước ai vì chưa có tiền lệ.
Nhưng nếu bình tĩnh mà suy cho kỹ thì thấy nó giống hệt định nghĩa của đảng Cộng sản Trung Quốc đã chấp thuận tại Đại hội đảng XV tháng 09 năm 1997. Ý thức hệ mới của Trung Quốc được gọi là “Chủ nghĩa Xã hội đặc sắc Trung Quốc”.
Từ quan điểm này, tài liệu của Bách khoa Tòan thư mở viết: “ Ý thức hệ này hỗ trợ việc tạo ra một nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa chi phối bởi các khu vực công vì Trung Quốc đang trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội. Chính phủ Trung Quốc cho rằng Trung Quốc không từ bỏ chủ nghĩa Mác nhưng đã phát triển nhiều thuật ngữ và khái niệm của lý thuyết Mác-xít để hàm chứa hệ thống kinh tế mới. Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng chủ nghĩa xã hội là tương thích với các chính sách kinh tế. Trong tư tưởng của Cộng sản Trung Quốc hiện nay, Trung Quốc đang trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội-một quan điểm giải thích các chính sách kinh tế linh hoạt của chính phủ Trung Quốc để phát triển thành một quốc gia công nghiệp hóa.”
Trong khi đó, vẫn theo Bách khoa toàn thư mở thì : “Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng chưa có nhận thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chỉ có giải thích nguyên lý chung rằng, đó là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.”
Chính sách kinh tế mập mờ, phiêu lưu hay “không biết đâu mà mò” này của Việt Nam là nguyên nhân khiến Mỹ chưa nhìn nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã lập lại yêu cầu của Việt Nam với Tổng thống Barrack Obama trong cuộc hội kiến ngày 07/07/2015 tại phòng Bầu dục, Tòa Nhà trắng. Nhưng sau đó, Hoa Kỳ chỉ “ghi nhận sự quan tâm của Việt Nam đạt được quy chế kinh tế thị trường”, như viết trong Tuyên bố Tầm nhìn chung công bố sau cuộc gặp dài 95 phút.
Nhưng liệu Mỹ có chịu “linh hoạt ”, theo yêu cầu của ông Trọng để Việt Nam được gia nhập Hiệp ước Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership, TPP), dự trù vào cuối năm nay (2015) ?
Theo các viên chức Mỹ thì Việt Nam rất muốn được gia nhập khối kinh tế TPP để hy vọng dãn ra từ lệ thuộc Trung Quốc, nhưng liệu lãnh đạo Việt Nam có bản lĩnh và tư duy chính trị để chuyển hướng đem phúc lợi cho dân, hay cứ u mê, ù lì để tiếp tục làm con tốt chạy cờ cho Trung Quốc ?
Bởi vì, những gì đảng khoá XI hứa thực hiện trong Nghị quyết năm 2011 vẫn chưa làm được, trong đó có : “Đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân”.
Đổi mới thì còn phải quyết tâm đổi mới hơn 30 năm qua; tham nhũng, lợi ích nhóm đang đe dọa sự sống còn của đảng và chế độ; nhân dân vẫn chưa có dân chủ và tự do; đoàn kết toàn dân vẫn còn là chuyện xa vời; kinh tế thì trì trệ trong ao tù chậm tiến cho nên đời sống của đại đa số người dân vẫn còn hẩm hiu. Trong khi đó thì giặc phương Bắc đã ở Biển Đông và đang chờ cơ hội để xâm lăng ở dọc biên giới phiá bắc, đồng thời khích động đồng minh con ruột Kampuchia khuấy động biến giới Tây nam với Việt Nam.
Như vậy thì thì ước mơ “hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” của đảng Cộng sản Việt Nam đến bao giờ mới thực hiện được ? -/-
Phạm Trần
Ngả mũ với ông Phùng Quang Thanh
- Viết bởi Ngô Nhân Dụng
Trong cuốn Đèn Cù, nhà văn Trần Đĩnh kể lần đầu từ Hà Nội vào Sài Gòn ông chứng kiến một cảnh khiến ông suy nghĩ: Một đám tang đi qua, một thanh niên đứng bên đường dừng chân lại, bỏ mũ, cúi đầu. Lâu lắm Trần Đĩnh mới được thấy cảnh đó, dấu hiệu của một xã hội biết giáo dục trẻ em.
Trước năm 1954 trẻ em ở Hà Nội vẫn được dậy cử chỉ đó: Dừng chân, ngả mũ, để tỏ lòng kính trọng thi hài người đã chết. Vì vậy, khi viết về chuyện Tướng Phùng Quang Thanh đã chết hay chưa chết, đang gây dư luận sôi nổi, tôi xin theo lời các thầy giáo, huynh trưởng dạy mình từ thuở bé. Xin bỏ mũ trước. Nếu ông đã qua đời tôi cũng không thất lễ.
Trước khi nghe tin ông Phùng Quang Thanh tạ thế, nhà báo Phạm Chí Dũng đã nhận xét trên Người Việt rằng những tin tức trong vụ ông đi chữa bệnh quá nhiều mâu thuẫn. Báo chí nhà nước Việt Nam đăng hình Tướng Phùng Quang Thanh chụp với bộ trưởng Quốc Phòng Pháp, nhưng không loan tin tướng Thanh nói chuyện gì, ông làm gì ở Pháp. Phạm Chí Dũng nhận xét trong cả tháng qua, “Trên báo Nhân Dân và đặc biệt Quân Đội Nhân Dân là cơ quan ngôn luận của Bộ Quốc Phòng Việt Nam, người ta không thể tìm ra dấu vết hiện diện của viên tướng bốn sao.” Và, “Cùng với sự thay đổi đồng loạt hai cấp tướng tư lệnh và chính ủy của Bộ Tư Lệnh Quân Khu Thủ Đô vào đầu Tháng Bảy, 2015, tức chỉ ít ngày sau khi tướng Phùng Quang Thanh - người chịu trách nhiệm chỉ đạo trực tiếp khối đơn vị vài chục ngàn quân này - bị MIA.” MIA nói về các quân nhân mất tích, không tìm thấy xác.
Ngày Chúa Nhật, 19 Tháng Bảy, hãng thông tấn Đức Deutsche Presse-Agentur (DPA) loan tin ông Thanh đã qua đời tại bệnh viện Georges Pompidou vào tối hôm đó; họ dựa vào một nguồn tin của một nhân viên Bộ Quốc Phòng. Ngày hôm sau, Trung Tướng Võ Văn Tuấn, phó Tổng Tham Mưu Trưởng nói với các báo trong nước rằng tin này sai. Tướng Võ Văn Tuấn xác định, “...tôi gọi điện thoại cho đại tướng Phùng Quang Thanh vào chiều 19 tháng 7. Đại tướng nói chuyện nghe giọng rất thoải mái...” Hôm sau, hãng DPA làm tin mới, cho biết chính quyền Việt Nam đã cải chính rằng Tướng Phùng Quang Thanh còn sống. Nhưng hãng thông tấn này không viết một lời nào phủ nhận tin đã viết hôm trước. Bản DPA tin mới còn nói thêm rằng họ nhận được tin ông qua đời “từ bệnh viện,” để người đọc thấy chắc chắn hơn.
Tướng Võ Văn Tuấn dùng các báo nhà nước để cải chính bản tin của DPA. Nhưng tại sao không cải chính một cách mạnh mẽ, rõ ràng hơn? Tin ông bộ trưởng Quốc Phòng một nước còn sống hay đã chết là một tin khá quan trọng. Nếu sai, đáng lẽ chính Bộ Quốc Phòng phải cải chính, trong một cuộc họp báo; ít nhất cũng làm một bản thông cáo chính thức. Báo trong nước chỉ thuật lời Tướng Võ Văn Tuấn mà không kèm theo một bài phỏng vấn đầy đủ để được nghe ông trả lời rất nhiều thắc mắc trong dư luận cả tháng nay. Đúng như nhà báo Phạm Chí Dũng kết luận, đây là một “Thất bại của hệ thống tuyên giáo đảng.” Cả Đảng Cộng Sản bị mất mặt vì lúng túng ném ra những thông tin chậm trễ, mơ hồ, trái nghịch, chỉ trong câu chuyện một người “mất tích” không biết chết hay sống.
Nhưng “hệ thống tuyên giáo đảng” bị tội oan. Cảnh “tang gia bối rối” diễn ra do nhiều nguyên nhân phức tạp, ngoài khả năng của các ông bà tuyên giáo. Người sống bên ngoài cũng thấy trong vụ này tất cả Đảng Cộng Sản đang lúng túng, có thể nói cả nhóm lãnh đạo đang “kẹt cứng.” Chắc họ không biết phải “xử lý tình huống” cách nào, cho nên đành lộ cảnh tang gia bối rối, mất mặt cũng đành chịu.
Guồng máy tuyên truyền của đảng phơi bày tình trạng lúng túng này. Mạng Infonet và báo Một Thế Giới cho biết Tướng Võ Văn Tuấn đã “khẳng định” rằng hãng tin DPA đã “xin đính chính.” DPA không hề đính chính; cho nên, hoặc ông Võ Văn Tuấn nói dối, hoặc có người ra lệnh các báo trên nói dối. Thông tấn xã của nhà nước còn trâng tráo hơn, viết một điều hoàn toàn sai sự thật, “DPA đã cải chính về sức khỏe Bộ Trưởng Phùng Quang Thanh.”
Các thủ đoạn che đậy, gian dối, “cả vú lấp miệng em” trên đây đã tập huấn lâu đời. Thói quen nói láo đã thấm vào xương tủy Đảng Cộng Sản từ thời còn làm báo in thạch bản ở trong hang. Nhưng đem dùng thủ đoạn đó trong thời đại Internet, năm 2015, chỉ khiến người ta khinh. Bởi vì nếu Đảng Cộng Sản muốn chứng tỏ ông Phùng Quang Thanh còn sống thì họ chỉ cần trưng ra một tấm hình ông đang cầm trên tay tờ báo Le Monde xuất bản ngày 19 hay 20 Tháng Bảy - dù ông đủ sức khỏe đọc được báo hay không! Giản dị hơn nữa, là nhờ vợ con ông lên tiếng cải chính với hãng DPA - mà theo tin của nhà nước thì gia đình ông đã qua Paris săn sóc ông từ tháng trước. Tại sao cả gia đình không ai nói một câu nào khi cả nước bàn tán không biết chồng, cha của họ đã chết hay chưa? Họ đâu phải người rưng nước lã?
Không ai trong Đảng Cộng Sản cải chính theo cách giản dị này. Lý do vì nó nằm ngoài khả năng cả đám người cầm quyền. Họ không thể làm gì được. Hoặc vì ông Thanh đã qua đời rồi. Hoặc vì gia đình ông không cộng tác. Hoặc cả hai.
Nhưng nếu Tướng Phùng Quang Thanh thật đã mãn phần thì tại sao guồng máy Đảng Cộng Sản lại phải lúng túng che đậy, để người dân coi càng khinh, càng ghét như vậy?
Người ngoài không biết đủ các tin tức trong đảng của họ với nhau, cho nên chúng ta chỉ có thể suy diễn, dựa trên các sự kiện được tiết lộ.
Một điều ai cũng biết là trong cuộc tranh giành quyền lực chuẩn bị đại hội đảng sang năm, họ đang đấu đá nhau tận mạng. Riêng ông Phùng Quang Thanh và người con, một đại tá chủ tịch nhiều công ty, đã bị lôi lên mạng phơi bày đủ các trò lạm quyền, tham nhũng làm giàu. Ông Thanh cũng bị gắn cho nhãn hiệu một người “thân Trung Quốc.”
Ở Việt Nam, muốn chửi ai thì cứ bảo người đó theo đuôi Trung Cộng. Nhưng chúng ta biết rằng chẳng ai trong Đảng Cộng Sản dám cưỡng lại Trung Cộng. Toàn thể Đảng Cộng Sản Việt Nam đã bị Trung Cộng thao túng từ Hội Nghị Thành Đô 1992 đến giờ; không ai có thể ngoi lên ghế lãnh đạo nếu cưỡng lại. Nước Việt Nam bị Trung Cộng lấn áp đủ mặt: kinh tế, quốc phòng, chính trị, ngoại giao. Nguyễn Tấn Dũng mới lên chức thủ tướng đã dâng cho Trung Cộng món quà Bô Xít. Trương Tấn Sang qua Tàu ký thỏa ước hợp tác đủ trăm ngành không thiếu thứ gì. Từ khi Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng thì hầu hết các món thầu lớn đều lọt vào tay các công ty Trung Cộng, đường sá, phi trường, hầm mỏ tới điện lực. Nguyễn Phú Trọng, Phùng Quang Thanh chưa ai lập được những công trạng đáng khen thưởng như vậy.
Tất cả Đảng Cộng Sản Việt Nam “thân Trung Quốc,” không anh nào thoát được, nếu muốn sống. Họ tranh giành nhau các chức quyền trong đảng; nhưng không thể bước ra ngoài vòng giới hạn Bắc Kinh vẽ ra. Nằm trong cái giọ đó, các con cua tha hồ chen chân đạp lên nhau. Lâu lâu có anh được phép nói những lời bất kính với thiên triều cho dân chúng xì hơi. Không sao, miễn khi làm việc anh cứ làm theo ý các cố vấn. Lâu lâu có anh lại nói một lời nịnh bợ, vì cả Bộ Chính Trị đang lo bị thiên triều “hiểu lầm.” Trò phân biệt hai phe, “thân Trung Quốc” và “chống Trung Quốc” là một ảo tưởng bày ra để ru ngủ dân chúng. Nhiều người cũng thích được ru ngủ, vì nghe sướng tai hơn sự thật. Họ có thể tự an ủi rằng trên đầu mình không phải chỉ toàn những thằng bán nước ngồi.
Vì vậy, các vụ đánh Phùng Quang Thanh trên mạng gần đây hoàn toàn do tranh giành quyền lực ở bên trong đảng với nhau. Nếu ông Thanh qua đời vì bệnh nan y thì cuộc giành giựt này vẫn tiếp tục, chắc còn gay go hơn. Bởi vì một người chết đi để lại nhiều thứ mà những người còn sống sẽ được dịp chia nhau. Nhiều đám tang từng bị trì hoãn, chỉ vì họ không biết chia chác di sản ra sao. Xác Tề Hoàn Công để thối trong cung, vì ba ngàn năm trước bên Tàu chưa có phòng lạnh.
Trong số di sản ông Thanh để lại, nếu ông qua đời, có các chức vụ ông đã giữ và tài sản ông nắm trong tay. Những người còn sống chưa “nhất trí” được với nhau sẽ chia chác ra sao. Tướng Phùng Quang Thanh rất nhiều quyền, Bộ Chính Trị, quân ủy, chính phủ; ông còn được coi là người giàu nhất nước Việt Nam, chỉ thua Nguyễn Tấn Dũng. Ông ký giấy mua các thứ vũ khí, máy bay, chiến hạm, tầu ngầm, vân vân. Công nghệ quốc phòng Nga nổi tiếng là bao giờ cũng hậu tạ các khách hàng. Ông giành toàn quyền sử dụng đất đai của quân đội hay được quân đội trưng dụng, rộng bát ngát khắp nước và nằm trên nhiều địa điểm kinh tế “chiến lược.” Nhiều khu đã được thương mại hóa hay biến thành cư xá sang trọng, con trai ông thường trúng thầu. Những tài sản này trị giá nhiều tỷ Mỹ kim, còn tiếp tục sinh lợi hàng thế kỷ nữa, chưa biết ai sẽ hưởng.
Trong các xã hội bình thường có luật pháp thì gia đình ông Phùng Quang Thanh sẽ được hưởng gia tài của ông. Nhưng xã hội Việt Nam không bình thường, từ cách tạo dựng tài sản, thủ đắc cho tới sử dụng tài sản. Đây có thể là một lý do khiến gia đình ông, nhất là những người đang ở Paris bên cạnh ông, trong mấy ngày qua không cộng tác với bộ máy tuyên truyền của đảng Cộng sản. Họ chưa biết Đảng Cộng Sản sẽ chia cho họ thế nào khi ông Phùng Quang Thanh ra đi, hay đã qua đời rồi. Đảng Cộng Sản cũng chưa trả lời dứt khoát được, vì ngay việc phân chia giữa họ với nhau cũng chưa ngã ngũ. Việc chia nhau di sản quyền và tiền ông Phùng Quang Thanh để lại cũng liên quan đến tất cả những cuộc mặc cả khác, trước khi đảng họp đại hội năm tới. Dù sao, khi nào được tin ông Phùng Quang Thanh qua đời chúng tôi sẽ ngả mũ lần nữa, cầu nguyện và mừng ông thoát được cõi ta bà đại hội này.
Ngô Nhân Dụng
Côn đồ ném đá và chất bẩn vào tư gia cha Phan Văn Lợi
- Viết bởi Pv. GNsP
GNsP (22.07.2015) – Côn đồ dùng đá ném lên trần nhà và dùng đồ hôi thối ném vào nhà cha Phan Văn Lợi số 16/46 Trần Phú, thành phố Huế, vào tối hôm qua ngày 21.07.2015.
Cha Phêrô Phan Văn Lợi, sống tại Huế, kể lại sự việc: “Tối hôm qua, ngày 21.07.2015, nhiều kẻ lạ mặt và bịt mặt đã ném 6 bịch đồ hôi thối vào nhà của tôi (giữa sân và trên gác) ở 16/46 Trần Phú, thành phố Huế (3 bịch lúc 9g và 3 bịch khác lúc 11g). Mùi tanh tưởi bốc lên nồng nặc. Sáng nay, chùi rửa sạch sẽ xong, vẫn còn vương mùi. Ngoài ra chúng còn ném đá lên mái nhà.”
Cha Lợi khẳng định, đây là chiêu trò của nhà cầm quyền cộng sản gây ra đối với những người có tiếng nói khác với nhà cầm quyền, như: cụ Hoàng Minh Chính, Nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, cô Trần Thị Nga… Cha Lợi nói: “Gia đình tôi không có thù oán với ai, ngoại trừ tôi đã gây căm ghét nơi nhà cầm quyền Việt cộng về những gì tôi đã nói và làm để bênh vực công lý và sự thật, cũng như cổ vũ dân chủ và tự do từ bao năm nay. Bà con có thể từ đó đoán ra ai là thủ phạm.
Vậy là sau cái trò cho công an canh gác quanh nhà tôi (hầu như mỗi ngày) kể từ năm 2001, gởi thư nặc danh (hoặc ký tên giả) đến nhiều linh mục và nhiều hội đồng giáo xứ thuộc Tổng giáo phận Huế để bịa chuyện vu khống tôi (vài tháng một lá thư, kể từ nhiều năm nay), nay lại thêm trò ném chất bẩn vào nhà…”
Cha Lợi nhận định: “Phải chăng đây là để thể hiện lời Nguyễn Phú Trọng mới tuyên bố tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và những vấn đề Quốc tế của Hoa Kỳ (CSIS) chiều 8/7/2015: “Tôi khẳng định Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề quyền con người… Chúng tôi đang nỗ lực không mệt mỏi để xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người…. Bảo đảm và cải thiện quyền của công dân là ưu tiên cơ bản và chiến lược của chúng tôi… Người dân VN chưa bao giờ được sống trong bầu không khí dân chủ như hiện nay”.
“Bầu không khí dân chủ” mà ông Trọng tuyên bố -nghĩa là mọi lời nói, mọi hành động… của người dân phải đi đúng lộ trình chủ trương của đảng cầm quyền cs, nếu có tiếng nói khác với nhà cầm quyền sẽ gặp hậu quả như cha Lợi?
Pv. GNsP
Bộ Trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh qua đời
- Viết bởi Thanh Sơn
Cụ Lê Quang Liêm, hội trưởng GH Phật Giáo Hòa Hảo, đã tạ thế
- Viết bởi GNsP
GNsP (17.07.2015) – Sài Gòn – Cụ Lê Quang Liêm tạ thế lúc 07:30, ngày 17.07.2015 (nhằm mùng 2 tháng 6 năm Ất Mùi) tại tư gia ở Sài Gòn, hưởng thọ 96 tuổi.
Tin này do ông Lê Văn Sóc, Phó hội trưởng Trung ướng Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo (PGHH) và ông Lê Quang Hiển, trưởng nam, kiêm trợ lý Cụ Hội trưởng, đồng đưa tin.
Cụ Lê Quang Liêm là một trong những đại đệ tử trực tiếp của Đức thầy Huỳnh Giáo Chủ, Cụ đã gánh trách nhiệm Hội trưởng suốt từ trước 1975 đến nay. Cụ là người đồng sang lập Hội đồng Liên tôn Việt Nam và hiện đang là Đồng Chủ Tịch của tổ chức này.
Cụ mong ước các đồng đạo do hoàn cảnh có những chọn lựa khác nhau hãy cùng nhau quay về hợp đoàn chung trong một Giáo hội PGHH duy nhất để tu đạo và truyền đạo giúp ích cho đời.
Theo thông tin ban đầu, chiều tối nay, 17.07 sẽ diễn ra lễ Nhập Quan, sang thứ hai, 20.07 sẽ hỏa tang. Thông tin này sẽ được chúng tôi bổ sung chi tiết khi Ban tổ chức tang lễ chính thức thông báo.
GNsP thành kính phân ưu !
Nguồn: GNsP
80 năm, một cuộc đầu hàng.
- Viết bởi Bảo Giang
Ngày 3-2- 1930, theo lệnh của Liên sô, Nguyễn ái Quốc, ( Nguyễn tất Thành), tập họp ba nhóm cộng sản tạp nham tại Việt Nam lại tại Hồng Kông để thành lập đảng cộng sản Đông Dương. Sau hai năm lãnh đạo nhóm cộng sản này, Nguyễn ái Quốc bị bắt giam tại nhà tù ở Hồng Kông. Cuối 1932, Nguyễn ái Quốc được trả tự do, nhưng cũng có hai nguồn tin khác biệt. Nguyễn ái Quốc đã chết rục trong tù vì bệnh lao phổi. Nguyễn ai Quốc đã chết trên đường đến Liên Sô? Tuy chưa ai nắm rõ sự sống chết của Y, nhưng Quốc đã hoàn toàn mất dấu từ đây. Đến năm 1939, một nhân vật có tên Hồ Quang, đảng viên đảng cộng sản Trung cộng, mang cấp bậc thiếu tá trong đội giải phóng quân Trung cộng xuất hiện và trở thành kẻ lãnh đạo đảng cộng sản VN.
Trước tiên, Hồ Quang xâm nhập vào địa giới Việt Nam vào đầu năm 1941. Lập căn cứ địa hoạt động cho cộng sản tại hang Pắc Pó. Hang động này trước kia nằm trong nội địa Việt Nam, (gần biên giới) nay đả chuyển tên và nằm sâu trong nội địa của Trung cộng. Đây là bước đầu tiên, Hồ Quang, chiếm đât của dân Việt Nam để đem về cho Tàu, hơn là dâng cho Tàu, vì Hồ Quang không phải là người Việt Nam?
Tháng 8- 1942, Hồ Quang trở về Trung Hoa để báo cáo công tác nhập địa và lấn đất của Việt Nam cho đảng cộng sản Trung cộng. Y đã bị tầu Tưởng bắt ở Túc Vinh. Vì sợ bị lộ tẩy là thiếu tá tình báo của Trung cộng, kẻ thù không đội trời chung với Tưởng giới Thạch, nên khi bị bắt Hồ Quang đã khai tên là Hồ chí Minh, ( Minh cũng có nghĩa là Quang) người Việt Nam. Cái tên Hồ chí Minh này theo y cho đến khi chết vào năm 1969. Thành tích của Hồ Quang trong một năm tù là … chôm được tập thơ Ngục Trung Nhật Ký của một người Trung Hoa, thuộc phe Quốc dân đảng. Tác gỉa có lẽ vì hiềm khích hay bị nghi ngờ là Hán gian đã bị quốc dân đảng Trung Hoa băt giam. Ông ta còn sống hay đã chết, không ai hay biết. Chỉ biết tập Ngục Trung Nhật Ký của người này có nhiều bài thơ nói lên ý hướng yêu nước và tận trung vời quê hương và dân tộc của tác gia ở vùng Quảng Đông. Theo lịch sử cổ Trung Hoa thì thuộc nước Việt của Việt vương Câu Tiễn, một trong những ông vua có tôi thần là Phạm Lãi, nổi tiếng thời Đông Chu, sau đó bị xát nhập vào Trung hoa thời Tần thủy Hoàng.
Về tập thơ, bất cứ người nào biết đọc biết viết, có suy nghĩ bình thường, không bị điên loạn, đều có khả năng nhận biết tập thơ này tuyệt đối không phải là của Hồ chí Minh sáng tác. Tuy nhiên, bằng cách nào Hồ chi Minh có được tập thơ thì không ai biêt. Chỉ nghe qua vài chuyện như giả tưởng của nhà nươc cộng sản đưa ra là “bác” tìm lại được tập thơ này vào năm 1959. Sau đó giao cho Trung ương đảng cộng sản giữ làm kèn. Từ đây các kèn loa, bỏ quên cả nhân cách, tư cách con người, phùng mồm lên thổi đó là thơ trong tù của Hồ chí Minh. Tệ hơn, bản văn ăn cắp này còn được một cái nghị định gì đó của nhà nước CHXHCN/VC nâng nó lên hàng tài sản văn hóa của Việt cộng.!(tôi đã viêt trong loạt bài “Tác gỉa ngục Trung Nhật ý không phải là người Việt Nam”).
Nhờ nguồn văn hóa này, ngày 2-9-1945, nhân cuộc tổng đình công bãi thị và tuần hành của công chức, sinh viên học sinh Hà Nội, Việt cộng do Hồ chí Minh lãnh đạo đã cướp lấy chính quyền hợp pháp của chính phủ Trần trọng Kim. Sau đó Bảo Đại đã thoái vị. Công quyền lọt vào tay Hồ chí Minh, nhưng trong thực tế mới chỉ có danh nghĩa, chưa có thực lực trên toàn quốc.
Với mưu đồ chiếm độc quyền lãnh đâo theo lệnh của CS Tàu- Liên sô, Hồ Quang mời quân Pháp trở lại Hà Nội để gạt Tàu Tưởng, trong phe đồng minh, có nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật tại Việt Nam, ra khỏi Việt Nam. Sau đó dùng chiêu bài chống thực dân Pháp mở lại cuộc chiến tranh với Pháp. Cuộc chiến kéo dài trong 9 năm được nuôi dưỡng bằng súng đạn và cơm gạo của Nga-Hoa với cài chết của “khoảng 250,000 dân thường. Số nhân mạng trong binh đoàn của trung cộng và Việt cộng không được công bố , nhưng người ta ước tính không dưới 500,000 người. Về phía Pháp có 172,108 thương vong. Trong đó có 31,176 binh lính thuộc khối đông dương. Về tài sản cũng không được công bố. Tuy nhiên, sự thiệt hại về tài sản của nhân dân và về những nguồn lợi kinh tế của Việt Nam trong suốt thời kỳ chiến tranh và cả những năm tháng sau chiến tranh, cộng với sự thiệt hại về nhân mạng, đã cho thấy cái giá của chiến thắng là qúa đăt. Cái gía ây không đắt, nếu chiến tranh là con đường duy nhất để dẫn đến Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ và hạnh phúc thật sự cho dân tộc” ( GS Lê văn Khoa, bài học chín năm 1945-1954)
Tuy nhiên, cái giá ấy là qúa đắt, bởi vì chỉ trong vòng mấy năm sau 1945, tất cả các thuộc địa của Pháp ở Phi Châu đều được trao trả Đôc Lập mà chẳng phải đổ máu. Và ngay tại Việt Nam, trong thực tế, cũng đã được trao trả Độc Lập trọn vẹn vào năm 1949. Theo đó, cái gía máu đổ ra là vô cùng đắt và khốn nạn cho dân tộc Việt Nam. Bởi vì từ sau năm 1954, Việt Nam chẳng những không có Độc Lập, không có Tự Do, không có Dân Chủ, không có Hạnh Phúc. Chỉ có “ mưa xa trên màu cờ đỏ” (Trần Dần), có máu chảy loang đồng ruộng. Và chỉ có một nền chính trị bạo tàn trong tay Hồ Quang đang từng bước đưa Việt Nam vào trong vòng nô lệ của Bắc Kinh.
Và nó còn đắt hơn thế gắp trăm ngàn lần, dưới sự lãnh đạo của viên thiếu tá tàu Hồ chí Minh, đảng cộng sản Việt Nam đã học tập nhuẫn nhiễn và thực hành đến nơi đến chốn bài viết tâm đắc “địa chủ ác ghê” do Hồ chí Minh chủ xướng. Kết quả, hơn 172,000 người Việt Nam đã bị Hồ Quang và đảng cộng sản Việt Nam đấu tố, và giết hại trong kế sách cướp của giết người Việt Nam cho vừa bụng Tàu, mà chúng gọi là mùa cải cách từ 1953-1956. Nhân mạng đã thế. Tất cả tài sản của tư nhân, của công cũng như guồng máy công quyền đều thu gọn vào tay đảng cộng sản, giúp Hồ chí Minh hiện thực ý đố thôn tính Việt Nam cho Tàu.
Hồ chí Minh là ai? Thực sự không còn ai biết rõ ngọn nguồn, lý lịch của y, ngoài những tài liệu đầy nghi vấn. Lý do của sự thiếu chứng minh thực tế là mãi đến năm 1959, sau khi tất cả những thành viên sáng lập đảng cộng sản ĐD tại Hồng Kông đã chết. Bà chị ruột Nguyễn thị Thành và Nguyễn sinh Khiêm đã yên mồ yên mả. Hồ Quang biết chắc không còn một người nào khả dĩ chứng minh Quang không phải là Nguyễn sinh Cung, Y mới dám úp mở, hé lộ bản tin Hồ chí Minh là Nguyễn ái Quốc người làng Kim Liên. Nhắc lại, vào thời điểm này, chỉ còn một người duy nhất là Trịnh đình Cửu có khả năng biết mặt Nguyễn ái Quốc khi còn ở Hồng Kông. Tuy nhiên Cửu bị mắc bệnh … câm, nên phải giữ im lặng cho đến chết. Bệnh câm của Y có hai lợi thế, như một cái bóng, dù nói hay không nói đểu ngầm ý chứng minh Hồ Quang là Nguyễn ái Quốc. Đó là lý do Củu còn sống để chết già.
Cùng theo mưu đồ phục vụ cho Trung cộng để xin làm nô lệ, năm 1951, Đặng xuân Khu đã nhân danh tổng bí thư đảng CSVN viết lời kêu gọi đông bào Việt Nam, “bỏ học chữ Quốc Ngữ, học chữ Tàu. Bỏ thuốc tây, uống tuốc Tễ, để được làm chư hầu cho Trung cộng”. Vào năm 1958, đảng CSVN qua Phạm văn Đồng đã chính thức giao Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam cho Trung cộng. Kế đến, để thực hiện mưu đồ đỏ hóa toàn cõi Đông Dương theo chỉ đạo của Trung cộng, Hồ chí Minh đã mở chiến tranh vào miền nam Việt Nam. Cuộc chiến tranh này có một chính nghĩa rất ngời sáng do tên Lê Duẫn, tổng bí thư của đảng CSVN công bố ” Cuộc chiến này là ta đánh là đánh cho Trung quốc cho Liên Sô”. “ Chúng tôi kiên cường chiên đấu tất cả vì công việc của Mao chủ Tịch”. Kết quả của cuôc chiến do tên Lê Duẫn và Hồ chí Minh chủ trương “Đánh đến người Việt Nam cuối cùng cũng đánh” ( để rộng đất cho Tàu kéo sang) đã kết thúc vào ngày 30-4-1975. Theo tài liệu lịch sử “kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. (1954-1975) của nhà xuất bản chính trị của nhà nước CHXNCH/VC như sau:
Thiệt hại về nhân mạng của CS miền bắc là: (1) Theo tài liệu Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia có:
• 1,1 triệu quân nhân chết; trong số đó có 300.000 quân nhân mất tích (chưa tìm được xác)
• 600.000 quân nhân bị thương hoặc bị bệnh.
• Gần 2 triệu thường dân chết; Hơn 2 triệu thường dân mang thương tật suốt đời; do miền bắc bị ném bom và dân công tải đạn.
Về phía Việt Nam Cộng Hòa, những người đã hy sinh bảo vệ nền Độc Lập và Tự Do Dân Chủ và toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam được ghi nhận như sau:
• từ 250,000 – 316,000 tử trận hoặc mất tích.
• Khoảng 1.170,000 quân nhân bị thương, nặng và nhẹ.
• khoảng 2.000,000 dân thường bị chết và mang thương tật. Trong số hy sinh có một Tổng Thống là ông Ngô đình Diệm, rất nhiều trẻ em đi đến trường như vụ Cai Lậy. Và có khoảng 5000 người dân bị Việt cộng chôn sống để chúc thọ, chúc tết cho Hồ chí Minh trong những ngày tháo chạy khỏi Huế vào tết Mậu Thân 1968
Hoa Kỳ:
• 58.209 tử trận và chết vì lý do khác
• Hơn 305.000 bị thương. nặng và nhẹ.
• 1.948 mất tích
Hàn Quốc: 5.099 tử trận 11.232 bị thương. 4 mất tích trong chiến đấu.
Bắc Triều Tiên *14 phi công chết, 2 cố vấn bị thương?.
Trung cộng. 1,446 công binh chết( có lẽ con số r1ât cao, nhưng không được công bô.
Liên Sô. Khoảng 6000 quân nhân Xô Viết tham gia vao chiến tranh Việt Nam. Số chết được công bố là 16 người?
Philippines: 552 tử trận.
Thái Lan: 351 tử trận. 1358 bị thương.
Úc Đại Lợi. Khoảng 500 tử trân, bị thương.
Newzeland: 55 tử trận và 212 bị thương
(1) Tất cả những con số trong phần này được ghi lại theo wikipedia)
Đây là những con số đã không cho chúng ta niềm vui, hãnh diện. Trái lại là những con số còn đời đời xé nát tim gan Việt Nam. Bởi vì, sau ngày tàn chinh chiến 30-4-1975, đảng cộng sản, bên gọi là thắng cuộc, đã không đem lại một chút niềm vui hạnh phúc nào cho dân tộc Việt Nam. Trái lại, chỉ là những bất hạnh vô cùng khủng khiếp đổ ập xuống. Đổ xuống những con đường như đại lộ kinh hoàng, đường số 7, số 10, cửa Tư Hiền, cửa Thuận An, biển Đà Nẵng, Nha Trang…. Nơi nào cũng chất cao xương trắng máu đào người Việt Nam. Và sau đó là:
- Hơn 200,000 quân cán chính của Việt Nam bị đưa vào các trại giam. Có nhiều người đã bị bắn, giết chết trong các trại giam khủng khiếp này.
- Có trên 1,000,000 ngưòi rời bỏ Việt Nam trên các chuyến tàu mong manh vượt đại dương để đi tìm tự do trong cái chết. Có hàng trăm ngàn người Việt Nam ra đi và đã bỏ mình trên đường vượt biên, vượt biển.
-Sau hai vụ cướp cạn đánh tư sản mại bản, cải tạo công thương nghiệp và đổi tiền, dân miền nam coi như là trắng tay. Nhiều người dân phải rời thành phố để đi các vùng gọi là kinh tế mới.
Tuy thế, tất cả những thiệt hại về nhân mạng và vật chất ấy dù rất lớn, nhưng không thể so sánh với thương tổn tinh thần mà người Việt Nam đã phải gánh chịu ròng rã trong 40 năm qua. Thứ nhất, nền luân lý đạo hạnh của gia đình, của xã hội đã hoàn toàn bị phá sản vì chủ trương của đảng cộng sản ép buộc tuổi thơ học tập theo gương đạo đức trộm cướp, vô đạo bất nhân, bất nghĩa của Hồ Quang (Hồ chi Minh). Trong đó có một điều đáng ghê tởm nhất là “ phải căm thù và đoạn tuyệt cới bố mẹ” theo gương của Y. Từ tấm gương này, những tội đại ác như giết cha, giết mẹ, giết vợ, giết chồng, giết tình nhân. Cướp của giết người, phá thai đã gây nên khủng hoảng, lo sợ cho cuộc sống của xã hội Việt Nam hôm nay.
Từ tấm gương này và từ bài học “địa chủ ác ghê”, các đảng viên cộng sản tại Việt Nam tự do tung hoành bá đạo trong việc cướp bóc tài sản của dân chúng, cũng như tham ô hối lộ các công trình kiến trúc, đầu tư để nợ công đè lên đầu lên cổ người Việt Nam, làm cho nhiều thế hệ kế tiếp phải lao đao gánh chịu phần trả nợ. Để một Sài Gòn, hòn ngọc Viễn Đông, là niềm mơ ước của các nước láng giềng như Singapor, Thái Lan, Đại Hàn, Mã Lai…từ hơn 40 năm trước, nay biến thành nơi đầy dẫy trộm cướp, đầy những đĩ, điếm Hồ chí Minh. Theo thống kê và thực tế đời thường, học sinh, trẻ em mới 13, 14 tuổi đã biết, hay bị dụ hoặc vào việc bán thân để tìm cho mình chút tiện nghi nhỏ bé là cái váy đẹp, cái điện thoại di động! Và cái sản nghiệp lớn nhất mà Hồ chí Minh đã để lại trên đất nước ấy sau 80 năm là sự bạc nhược và tinh thần nô lệ. Tất cả đều cúi đầu đi theo chỉ đạo của Tàu nhằm đưa Việt Nam vào vòng nô lệ cho Trung cộng.
Chúng bạc nhược đến nỗi, các cái loa rỉ xét thì không ngừng oang oang tuyên truyền lừa đảo nhân dân là, đoàn quân giải phóng bách chiến bách thắng Việt cộng đã đánh gục hai tên thực dân đầu xỏ thế giới là Pháp và Mỹ. Trong thực thế, một tên mang quân hàm thượng tướng, đồng thời còn là phó chủ tịch cái quôc hội của CHXHCN/VC tuyên bố rất ngon lành trước diễn đàn của cái quốc hội chuột ấy như sau: “Ta như thế này. Thì bà con thấy ta đánh với họ được không? Ai tài giỏi thì thử ra đó xem có thắng không” ( thượng tướng Huỳnh ngọc Sơn phó chủ tịch quốc hội) Thử hỏi xem, một kẻ ngu ngốc và bạc nhược như thế mà đeo quân hàm Thượng Tướng và kiêm phó chủ tịch quốc hội thì cái quốc hội ấy là cái gì? Và cái tập thể quân đội kia ra sao? Mà lạ, Y không bị lột lon và đuổi cổ về nhà đuổi gà, chạy xe ôm kiếm ăn. Trái lại còn sum xoe áo mào ngồi trên cái vị thế ấy mà nuốt tiền thuế và sức lao động của người dân. Nếu một chính phủ, một quân đội có thực lực, có kỷ luật thì không thể không đưa loại hèn tướng này ra trước toà án quân sự vì sự hèn nhát, và làm mất sỹ khí của toàn quân trước quân thù. Tiếc rằng, nó lại là biểu tượng của quan quyền của chế độ CS thời Hồ chí Minh. Phục vụ Tàu để có chức có quyền! Và chuyện tổ cuốc xem ra là tổ… cò!
Đó là đôi nét về hành trình của cộng sản do Hồ Quang đem vào và được đoàn đảng cộng sẳn Việt cộng tài bồi và áp dụng triệt để tại Việt Nam trong hơn 80 năm qua. Tất cả là một đại họa cho tương lai của Việt Nam. Nay nhân chuyến Quy mã của Nguyễn phú Trọng, người ta tự hỏi rằng. Có phải Trọng đem sang Hoa Kỳ một lời thề khác và trái ngược với lời tuyên bố của Duẩn khi Y sang Trung cộng không? Liệu Trọng có nhân chuyến đi này để hóa giải những lầm lần và dĩ lỡ coi Hoa Kỳ, coi dân tộc Việt Nam như một kẻ thù từ hơn nửa thế kỷ qua hay không?
Lúc này, người ta nói nhiều về chuyến đi của Nguyễn phú Trọng. Có người cho đó là cái may cho Việt Nam và cũng là cơ may cho đảng CS này. Bởi vì, nếu nhìn từ một góc đen tối nhất. Chẳng có một quan cán cộng nào, dẫu nhờ ảnh hưởng của Trung cộng để có quyền lực, mà lại muốn sang Tàu để tỵ nạn. Trái lại, đều mắt trước mắt sau, kiếm phương cách sang Mỹ hay sang các nước tây phương khi gặp nạn! Hoăc giả, có những ý kiến trái chiều cho rằng: Những kẻ gian manh một đời, lúc gần chết cũng vẫn lưu manh, giả như là cố gắng làm một chuyện gì đó để tạo ra dấu ấn, để khỏi phải mang xú uế xuống tuyền đài trước khi nhắm mắt? Trọng nằm ở trường hợp nào?
Thực tế, không ai biết, tương lai sẽ có câu trả lời. Phần tôi, tôi cho rằng: Sau 80 năm sống đời gian trá, mà không thu được kết qủa, lại thấy dao kề vào cổ từ muôn phía, Nguyễn phú Trọng trước khi chết, có thể đã thay mặt toàn đảng, lãnh đạo nhà nước và tất cả các tổ chức trong guồng máy của CS mà làm một cuộc đầu hàng Công Lý? Nếu đúng, thì phải khẳng định ngay rằng: Đây không phải là một cuộc đầu hàng ô nhục, tủi hổ. Trái lại, đây là một cuộc đầu hàng có ý nghĩa, đáng qúy. Bởi vì trong cuộc dầu hàng này có niềm vui, có nụ cười và có lẽ sống.
Có niềm vui. Cuộc đổi thay dẫu chưa bắt đầu, nhưng xem ra nó đã có nhiều dấu chỉ có niềm vui. M6ặc dù, trước Nguyễn phú Trọng đã có nhiều quan cán cao cấp của nhà nước Cộng sàn tại Việt Nam quy Mã, nhưng tất cả chỉ là những viên chức thuộc phía nhà nước, không ai ở vị thề lãnh đạo đảng, là cơ chế nắm toàn bộ quyền lực và sách lược trong tay. Theo đó, những chuyến đi này mang tính hình thức trao đổi về những hoạt động thường nhật hơn là đưa ra sách lược chung cho đôi bên. Nay kẻ nắm giáo điều, nắm lãnh đạo quy Mã ( không hẳn là quy thuận) là một nước thù địch từ nủa thế kỷ qua, hẳn nhiên, nó phải có một dấu chỉ tích cực hơn. Dấu chỉ ấy là gi? Có phải là đã thể hiện qua những tuyên bố?
Dĩ nhiên, một phần nhỏ nằm trong những tuyên bố chung. Nhưng phần lớn là nằm trong những thỏa thuận được xác định mà không cần viết thành văn bản đưa ra trình diễn. Đó là những thỏa thuận chủ yếu khả dĩ làm phấn chấn những kẻ cựu thù từ nửa thế kỷ qua. Hơn thế, chính nó tạo nên những niềm vui, những nụ cười rạng rỡ chưa bao giờ có ở trên khuôn mặt cằn cỗi, bệnh hoạn, bạc nhược của Nguyễn phú Trọng.
Ai cũng biết, người ta không thể có nụ cười tươi và mãn nguyện khi trong lòng chất chứa muôn lo âu, phiền muộn. Lại càng không thể có nụ cười ấy với kẻ cựu thù. Nguyễn phú Trọng cũng không có ngoại lệ. Hơn thế, Y không phải là mẫu người lo cái lo của dân, vui niềm vui của nhân dân. Trái lại, Y và tập đoàn do Y lãnh đạo chỉ có cái vui khi vùi dập chà đạp nhân dân. Có nụ cười khoái trá, thỏa mãn khi bắt bớ, tù đày người yêu nước, hay cướp được của cải, tài sản của tư, của công một cách nhưng không. Hoặc gỉa, có niềm vui lớn trước nỗi bất hạnh của nhân dân. Theo đó, dù không nói ra, người ta cũng có thể hiểu được nụ cười của Trọng khi gặp Obama là nụ cười thỏa được ý nguyện của Y đã xin. Ý nguyện ây là gi? Liệu có phải là những chuyến tỵ nạn cho Y và cho phe nhóm của Y khi gặp bế tăc với Trung cộng? Điều này cũng có thể xảy ra. Bởi vì gặp “ kẻ thù” thì cười tươi như hoa nở, nhưng khi gặp láng giềng tốt, đồng chí tốt thì mặt lại bị ra như thằng đầy tớ phải đấm! Như thế, dù không muốn đồi thù thành bạn, cũng phải đối!
Cuộc đầu hàng có lẽ sống. Lẽ sống cho nhiều phía. Với tập đoàn Cộng sản, như tôi đã nói ở trên, từ cuộc đầu hàng này, Mỹ có thể sẽ mở sinh lộ cho nhiều quan chức Việt cộng ra đi khi cần, cũng như không đóng băng một số tài khoản nào đó mà họ đã có từ nhưng không trong lúc cầm quyền. Kế đến, cũng vì cuộc đầu hàng này mà người dân Việt Nam có cơ hội tìm lại được nguồn sống cho dân tộc bằng những cuộc sinh hoạt dân chủ và tự do trong tương lai. Từ đó một nhà Việt Nam mới sẽ được mở ra để kêu gọi mọi người cùng chung sức, ghé vai vào gánh vác. Đặc biệt, về phía Trung cộng, tôi tin rằng dù có nắm được Nguyễn phú Trọng và một số tay sai trong guồng máy hiện nay, việc Trung cộng muốn tràn sang Việt Nam như vụ Nga tràn qua Cremea là không thể thực hiện được nữa. Bởi vì, Trung cộng cũng không thể biết được Trọng đã xin gì, nói gì, hoặc thề ước gì với Mỹ để ông ta có được nét mặt hân hoan, hoàn toàn khác với vẻ mặt đưa đám, nặng lo âu khi gặp quan chức Trung cộng. Điều ấy có phải là: Từ nay, tiếng là cùng đảng nhưng không còn cùng thuyền? Trái lại sẽ đục lỗ cho thuyền cộng chìm xuống?
Bên cạnh những sự kiện ấy là việc chấm dứt đột ngột sự nghiệp chính trị của Phùng q Thanh? Một tên tham ô, một tên đầy tớ tâm đắc của Tàu vào trước ngày Trọng quy Mã, và thay đổi toàn bộ bộ chỉ huy quân đội tại Hà Nội như cho thấy, Trọng cũng không còn đủ tin và đã dứt khoát là sẽ không xin sang ty nạn tại Hoa Lục. Theo đó, chuyện thay đổi này cũng có nghĩa là lời răn đe trực tiêp cho phe nhóm thờ Tàu như Hoàng trung Hải, Uông chung Lưu, Phạm quang Nghị, Nguyễn thế Thảo, Nguyễn chí Vịnh… nên xếp cho gọn lại để một cánh cửa mới sẽ từ từ mở ra.
Như thế, nếu đây là cái khởi đầu tốt, thì cũng không phải chỉ bấy nhiêu là đủ. Trái lại, nó cần phải được tiếp tục biểu lộ cuộc khởi đầu ấy trong ý thức trách nhiệm, nghiêm chỉnh, không phải trong gian trá. Từ đó, chuyến đi này rất cần thiết phải được thể hiện một thiện chí mới để làm một cuộc đầu hàng thực sự với dân tộc Việt Nam nữa. Nghĩa là, cộng sản qua Trọng hay qua những kẻ có trách nhiệm trong tương lai phải biết giải mã lý lịch của Hồ chí Minh, Y là ai? Và làm cuộc cầu hoà thẳng thắn, trực tiếp với người dân Việt Nam bằng cách nhận lấy trách nhiệm của hơn 80 năm qua. Tự hủy bỏ đi những đặc quyền chính trị, đặc quyền xã hội, để cùng với mọi tổ chức, đảng phaí, tôn giáo và ngươi dân Việt Nam phục vụ Tổ Quốc và dân tộc Việt Nam trong tinh thần bình đẳng. Bởi vì:
Đây mới là cái đích để mọi người nhắm tới. Đây mới là đích điểm của cuộc cầu hoà mà CS cần làm. Cần làm vì nó là công việc của những con người. Cần làm vì nó mang trọn ý nghĩa với dân tộc. Cần làm vì nó sẽ đem lại lẽ sống cho dân tộc. Cách riêng, cần làm vì chỉ có cuộc đầu hàng này mới đảm bảo cho họ và con cháu họ có được một nơi tỵ nạn vững chắc nhất, an toàn nhất và tốt đẹp nhất để sống. Đó chính là cuộc sống làm người nhân bản ngay trên quê hương Việt Nam. Ở đó, mọi người đều được chung hưởng Tự Do, Hòa Bình, Dân Chủ, Nhân Quyền trong một đất nước Thống Nhất, Độc Lập, toàn vẹn và có kỷ cương. Ngoài ra, cộng sản không còn một lối thoát nào khác để tránh bị diệt vong,
Bảo Giang
Việt Nam sẽ ra sao sau chuyến Mỹ du của Nguyễn Phú Trọng ?
- Viết bởi Phạm Trần
Một không khí lạc quan và phấn khởi đã lan nhanh từ đảng tới nhân dân sau chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhưng liệu đảng Cộng sản Việt Nam có can đảm vượt qua con kỳ đà cản mũi Trung Quốc để tiến lên phía trước hay cứ rụt rè để đợi chết vì đã trót cam kết phải giữ vững "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tin vào lời nói cuội "Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt" của Bắc Kinh ?
Câu hỏi này có lý do để thảo luận, nhưng trước tiên hãy bắt đầu từ cuộc họp của ông Nguyễn Phú Trọng với Tổng thống Barack Obama tại phòng Bầu dục toà Bạch ốc hôm 7/07/2015.
Ông Trọng nói với nhân viên Sứ qúan tại Thủ đô Hoa Thịnh Đốn ngày 09/07 (2015) : “ Kết quả chuyến thăm là bước triển khai cụ thể đường lối đối ngoại hòa bình, độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, góp phần tăng cường vai trò, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.” (Voice of Viet Nam, VOV, 10/07/2015)
Ông còn dặn dò mọi người :”Hoa Kỳ là địa bàn cực kỳ quan trọng. Vì vậy, cán bộ, nhân viên Đại sứ quán cần quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, vận dụng linh hoạt vào công việc hàng ngày; thực hiện tốt vai trò tham mưu và cầu nối để thúc đẩy, nâng cao hiệu quả các cơ chế và thực hiện thỏa thuận giữa hai nước.”
Với tinh thần “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai” , Đại sứ quán phải góp phần tiếp tục thúc đẩy, làm sâu sắc thêm quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam – Hoa Kỳ, tạo thế chiến lược về ngoại giao với các nước lớn, các đối tác quan trọng. Trong thực hiện nhiệm vụ, cán bộ, nhân viên Đại sứ quán phải luôn tỉnh táo, bản lĩnh vững vàng.”
Nhưng tại sao ông Trọng đã coi nước Mỹ, mà không phải Trung Quốc là “địa bàn cực kỳ quan trọng” vào lúc này, tuy hai nước chưa phải là “đối tác chiến lược tòan diện” như Việt Nam đã thiết lập với Nga ngày 01/03/2001 và với Trung Quốc tháng 05 năm 2008 ?
Bởi vì lần đầu tiên, trong cuộc họp Obama-Nguyễn Phú Trọng, Hoa Kỳ đã công khai tuyên bố “tôn trọng thể chế chính trị” Cộng sản của Việt Nam, song song với tôn trọng “độc lập, chủ quyền và tòan vẹn lãnh thổ”. Điều này có thể hiểu từ nay Việt Nam không còn e ngại Hoa Kỳ sẽ tìm cách lật đổ đảng CSVN bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, hay cách mạng không đổ máu, hoặc còn được gọi là cách mạng xanh mà đảng CSVN luôn luôn cáo buộc Mỹ đã đạo diễn ở Trung Đông và Phi Châu trong vài năm vừa qua.
Từ thay đổi quan trọng này, Hoa Kỳ còn cam kết phối hợp với Việt Nam “trong nhiều lĩnh vực, trong đó có việc xử lý các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, hợp tác an ninh hàng hải, nhận thức trong lĩnh vực hàng hải, thương mại quốc phòng và chia sẻ thông tin, tìm kiếm và cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa và trao đổi công nghệ quốc phòng.” (Trích Tuyên bố tầm nhìn chung(TBTNC), 07/07/2015).
Trong “thương mại quốc phòng” có triển vọng Mỹ sẽ dỡ bỏ tòan diện lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam và tiến tới hợp tác chế tạo và bảo trì vũ khí tại Việt Nam giữa hai nước. Hoa Kỳ đã tháo bỏ một phần lệnh cấm năm 2014.
Tuy nhiên, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, Ted Osius và ngay cả Thượng nghị sỹ Cộng hòa John McCain, Chủ tịch Ủy ban Quân sự Thượng viện là người đã góp công thiết lập quan hệ ngọai giao Việt-Mỹ 20 năm trước đây, đều nói Việt Nam phải cải thiện nhân quyền là điều kiện tiên quyết để Hoa Kỳ cứu xét bỏ tòan diện lệnh cấm bán vũ khí sát tương cho Việt Nam.
Về tình hình Biển Đông, nơi Trung Quốc đang có các hoạt động củng cố vị trí chiến lược quốc phòng và chiếm đóng vĩnh viễn các vùng biển đảo của Việt Nam và của Phi Luật Tân thì ông Nguyễn Phú Trọng cũng đã tọai nguyện được Mỹ đứng về phía Việt Nam trong tranh chấp với Trung Quốc.
Sự hợp tác này được thể hiện trong TBTNC : “Hai nước bày tỏ quan ngại về những diễn biến gần đây ở Biển Đông làm gia tăng căng thẳng, xói mòn lòng tin và đe dọa làm phương hại đến hòa bình, an ninh và ổn định. Hai nước nhấn mạnh sự cần thiết đề cao các quyền tự do hàng hải và hàng không được quốc tế công nhận; thương mại hợp pháp không hạn chế, an ninh và an toàn hàng hải; kiềm chế những hành động làm gia tăng căng thẳng; bảo đảm tất cả các hành động và hoạt động phải phù hợp với luật pháp quốc tế; phản đối việc ép buộc, hăm dọa, sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Hai nước ủng hộ giải quyết hòa bình các tranh chấp theo luật pháp quốc tế, kể cả như đã được thể hiện trong Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển ngày 10/12/1982 (UNCLOS), và thừa nhận tầm quan trọng của việc thực hiện đầy đủ toàn bộ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông, đồng thời ủng hộ các nỗ lực nhằm đạt được Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông.”
Rõ ràng cả ông Trọng lẫn Tổng thống Obama đều ám chỉ Trung Quốc mà không nêu tên, là nước đã gây ra bất ổn ở Biển Đông như xây dựng các đảo nhân tạo, thiết lập căn cứ quân sự, sân bay, bến cảng trên các bãi đá chiếm của Việt Nam và Phi Luật Tân ở vùng biển Trường Sa.
TPP VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Về phương diện kinh tế, phía Việt Nam tỏ ra thỏa mãn với 14 văn kiện hợp tác được ký kết liên quan đến hàng không, thuế, ngân hàng, dầu khí, điện năng v.v…
Cụ thể, theo Thông tấn xã Việt Nam (09/07/2015) thì : “Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Bình trao Thư chấp thuận chủ trương cấp phép cho Ngân hàng Citibank mở ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam; Đại diện Hãng hàng không Vietjet và Tập đoàn Boeing ký Biên bản ghi nhớ hợp tác nhằm mục tiêu phát triển phi đội của Vietjet bằng tàu bay cùng với các dịch vụ và hàng hóa của Boeing; Hãng hàng không Vietjet và công ty Honeywell đã ký Thỏa thuận hợp tác về thiết kế và chế tạo sản phẩm dữ liệu hàng không để lắp đặt động cơ phụ máy bay cho đội tàu bay mới từ nay đến năm 2017; Hãng hàng không Vietjet cũng đã ký với Công ty JP Morgan về tài trợ tín dụng xuất khẩu cho việc mua tàu bay mới của Vietjet; Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Tập đoàn Murphy ký Thỏa thuận hợp tác dầu khí nhằm phát triển kinh doanh tại Việt Nam, Hoa Kỳ và các nước thứ 3; Tập đoàn Điện lực Việt Nam và Công ty Điện lực General Electric ký Bản ghi nhớ hợp tác các lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, quản lý doanh nghiệp, vận hành nhà máy và tối ưu hóa dịch vụ, cải thiện ổn định lưới điện đầu tư và phát triển điện gió tại Việt Nam; Thỏa thuận tài trợ giữa Tập đoàn Phú Cường và cơ quan phát triển Thương mại Hoa Kỳ nhằm tài trợ dự án điện gió cho tập đoàn này.”
Trong nỗ lực mời gọi đầu tư vào Việt Nam, sáng 9-7, ông Nguyễn Phú Trọng và phái đòan đã dự Tọa đàm bàn tròn với một số đại diện các doanh nghiệp lớn của Hoa Kỳ do Phòng Thương mại Hoa Kỳ và Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ - ASEAN tổ chức.
Theo tin TTXVN (Thống tấn xã Việt Nam) thì ông Trọng :”Mong muốn các doanh nghiệp Hoa Kỳ sẽ tham gia khai thác các cơ hội, đầu tư vào Việt Nam những dự án có giá trị gia tăng cao, sử dụng công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường; vừa phục vụ chiến lược kinh doanh toàn cầu của mình, vừa góp phần phát triển quan hệ Đối tác toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ hướng tới một tầm cao mới”
Ông cũng hưá : “ Việt Nam sẽ tiếp tục nỗ lực đổi mới, đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách mạnh mẽ một loạt thủ tục thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, khởi sự doanh nghiệp..., nhằm tạo một môi trường đầu tư hấp dẫn cho các doanh nghiệp nước ngoài.”
Tuy nhiên, ông Trọng chưa được Hoa Kỳ cam kết sẽ “linh hoạt” các điều kiện để Việt Nam gia nhập Hiệp ước Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership, TPP).
Lý do ông Trọng muốn Mỹ nên có những “linh hoạt cần thiết phù hợp đối với Việt Nam trong đàm phán TPP” vì, theo lời ông “Việt Nam là nước có trình độ phát triển thấp nhất trong TPP, nên cũng gặp nhiều thách thức nhất và phải sửa đổi nhiều quy định pháp luật nhất khi tham gia TPP” .
Ông Trọng cũng nói với Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Michael Froman chiều ngày 06/07/015 tại Hoa Thịnh Đốn rằng Việt Nam “mong muốn Hoa Kỳ mở rộng thị trường cho hàng hóa của Việt Nam, và sớm công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường, nhất là khi Việt Nam đã tham gia một hiệp định có tiêu chuẩn cao và toàn diện như TPP.”
Tổ chức TPP gồm 12 quốc gia là : Brunei, Chí Lơi (Chile), Tân Tây Lan (New Zealand), Tân Gia Ba (Singapore), Hoa Kỳ (the United States) , Úc Đại Lợi (Australia), Peru, Việt Nam, Mã Lai Á (Malaysia), Mexico, Gia Nã Đại (Canada) và Nhật Bản (Japan) đang ở vào giai đọan chót của thương thuyết và hy vọng sẽ được ký kết vào cuối năm 2015.
Các chuyên gia kinh tế ước đóan sau khi hoạt động, khối TPP sẽ chiếm khỏang 40% GDP (Gross Domestic Product) tổng sản lượng của Thế giới và chiếm lối 30% mậu dịch quốc tế.
Đối với Việt Nam khi TPP có hiệu lực thì mức xuất khẩu trong lĩnh vực dịch vụ có thể tăng 28%, là con số khích lệ cho kinh tế Việt Nam để phát triển nhanh.
Vì vậy, trong TBTNC, hai bên Việt Nam và Hoa Kỳ đều “mong đợi phối hợp chặt chẽ với các bên tham gia đàm phán khác để hoàn tất sớm nhất có thể Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) toàn diện, nhiều kỳ vọng và tiến hành những cải cách mà thấy có thể cần thiết nhằm đáp ứng tiêu chuẩn cao của Hiệp định TPP, kể cả khi cần thiết đối với các cam kết liên quan tới Tuyên bố của ILO năm 1998 về Nguyên tắc cơ bản và Quyền tại nơi làm việc.”
Nói một cách giản dị thì điều kiện hàng đầu mà tất cả 12 nước thành viên phải thi hành là tôn trọng và bảo đảm quyền của người lao động, trong đó có quyền con người, quyền điều đình, quyền được hội họp và quyền thành lập các tổ chức độc lập của cả chủ nhân và người công nhân.
Cho đến bây giờ, Việt Nam chỉ có một Tổng Liên đòan Lao động, tuy nói là để bảo vệ quyền của người lao động nhưng lại do đảng CSVN thành lập và điều khiển theo yêu cầu của nhà nước. Người đứng đâu tổ chức này là ông Đặng Ngọc Tùng, Ủy viên Trung ương đảng, Đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh.
Do đó, Việt Nam sẽ không có lựa chọn nào khác là phải nghiêm chỉnh tuân thủ mọi điều ràng buộc của TPP, sau khi ký kết tham gia.
Ngoài ra Việt Nam cũng phải tôn trọng quyền của công nhân được tự do sử dụng Internet để liên lạc, thảo luận, trao đổi và bị nghiêm cấm cưỡng bách lao động, lao động trẻ em và không được kỳ thị. Tất cả những điều kiện làm việc này đều phải minh bạch, thượng tôn pháp luật và phù hợp với các tiêu chuẩn của Tuyên bố Lao động Thế giới 1988 về những nguyên tắc và quyền tại nơi làm việc (the International Labor Organization Declaration on Fundamental Principles and Rights at Work)
Vì vậy mà trong TBTNC, Hoa Kỳ và Việt Nam đã viết : “ Hai nước quyết tâm thực hiện một Hiệp định TPP có chất lượng cao, cân bằng, đáp ứng lợi ích của tất cả các bên và tạo nên một khuôn khổ mới, lâu dài và cùng có lợi cho hợp tác kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, đồng thời tạo xung lực mới cho hợp tác kinh tế khu vực và đóng góp vào hợp tác và thịnh vượng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.”
Đại sứ Mỹ tại Hà Nội Ted Osius nói với các Phóng viên Việt Nam tại miền Nam California hôm 12/07/2015 rằng TPP bao gồm những tiêu chuẩn căn bản, quan trọng và cao nhất về nhân quyền mà Việt Nam, cũng như các nước hội viên phải tuân theo.
Tất nhiên, sẽ bao gồm cả các quyền tự do phát biểu và tự do tôn giáo mà hiện nay Việt Nam vẫn dùng các văn bản dưới luật như Pháp lệnh, Nghị định, Quyết định hay Thông tư để hạn chế các quyền này trái với Hiến pháp.
Tại cuộc họp-Obama-Nguyễn Phú Trọng, những vấn đề này cũng đã được thảo luận thẳng thắn cho nên TBTNC đã tiết lộ: “Hoa Kỳ hoan nghênh những nỗ lực hiện nay của Việt Nam hài hòa hóa luật với Hiến pháp 2013 và các cam kết quốc tế mà Việt Nam thực hiện nhằm phát triển toàn diện đất nước, kể cả trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người và các quyền tự do cơ bản.”
Chừng nào “những nỗ lực” của Việt Nam thành “hiện thực” để luật của nhà nước không còn “phủ nhận” quyền của dân ghi trong Hiến pháp là câu hỏi chưa được trả lời.
Ngoài những điểm tích cực, cuộc họp lịch sử đầu tiên của ông Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, người nắm quyền thật sự ở Việt Nam với Tổng thống Obama hôm 7/7/2015 vẫn chưa thỏa mãn hết mong muốn của Việt Nam được Hoa Kỳ sớm nhìn nhận “có nền kinh tế thị trường”. Trong TBTNC, phiá Mỹ chỉ nói :” Hoa Kỳ hoan nghênh tiến bộ của Việt Nam trong cải cách kinh tế và tái khẳng định tiếp tục ủng hộ và tăng cường hợp tác mang tính xây dựng với Việt Nam, và Hoa Kỳ ghi nhận sự quan tâm của Việt Nam đạt được quy chế kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, từ “quan tâm” cho đến “thực sự có” còn là một khỏang cách không ngắn đòi hỏi Việt Nam phải thay đổi tư duy làm kinh tế. Quan trọng hàng đầu là chủ trương hiện nay làm kinh tế “theo định hướng xã hội chủ nghĩa” và “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” như quy định trong Điều 51 của Hiến pháp 2013 hòan toàn không phù hợp với Kinh tế thị trường là một sân chơi công bằng, được luật pháp bảo vệ, được tự do kinh doanh, cạnh tranh trong sáng và bình đẳng theo tiêu chuẩn Quốc tế.
Như vậy, việc này có thay đổi hay không, sau khi Việt Nam gia nhập TPP hòan toàn tùy thuộc vào việc nhà cầm quyền Việt Nam có nghiêm chỉnh thi hành những cam kết với 11 quốc gia thành viên hay không.
TỪ HOÀNG BÌNH QUÂN ĐẾN NHÀ NƯỚC
Tương lai không xa sẽ trả lời vì Việt Nam rất muốn được gia nhập khối kinh tế TPP để thoát dần bị ràng buộc bởi gọng kìm kinh tế-chính trị với Trung Quốc. Và Hoa Kỳ, cả Hành Pháp và Lập pháp, theo như giới thạo tin ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn thì cũng đã sằn sàng mở cửa đón Việt Nam vào TPP.
Vì vậy không ngạc nhiên khi thấy Trưởng ban Đối ngọai Trung ương đảng Hòang Bình Quân đã tuyên bố với báo chí, sau khi phái đòan Nguyễn Phúb Trọng về đến Hà Nội rằng : “Chắc chắn chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ rất thành công của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ là một dấu mốc lịch sử, mở ra một chương mới trong quan hệ giữa hai nước.”
Ông nói: “ Việt Nam và Hoa Kỳ đang đứng trước những cơ hội hợp tác lớn, mang lại lợi ích cho hai nước và nhân dân hai nước, có lợi cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở châu Á-Thái Bình Dương và trên thế giới. Chúng ta hoàn toàn có thể tin vào triển vọng tốt đẹp của quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ.”
Và ông Quân, người tháp tùng ông Trọng đi Mỹ không quên hân hoan việc Tổng thống Obama ủng hộ Việt Nam trong chủ trương giải quyết những tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình dựa trên luật pháp Quốc tế.
Ông nói: “Chúng ta hoan nghênh các nước, trong đó có Hoa Kỳ, đóng vai trò tích cực và có trách nhiệm trong việc duy trì hòa bình, an ninh, ổn định, an toàn, tự do hàng hải và hàng không, thúc đẩy hợp tác phát triển ở khu vực.”
Sang đến Chính phủ, bài viết của Tác gỉa Hà Chính (14/07/2015) mở đầu lạc quan ngay : “Thành quả lớn, nếu không muốn nói là lớn nhất, sau chuyến thăm lịch sử của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là lòng tin chiến lược Việt Nam-Hoa Kỳ đã được củng cố.” Rồi Hà Chính tiếp theo: “Chúng ta không quên, nhưng cần khép lại quá khứ để hướng tới tương lai. Với truyền thống hòa hiếu, Việt Nam luôn mong muốn cùng các nước xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, phát triển trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
Lòng tin đã được xác lập, Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam vui mừng chào đón một trang mới trong quan hệ với Chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ.” ( báo điện tử Chinhphu.vn)
Đến lượt Thông tấn xã chính thức của Việt Nam cũng đã phấn khởi viết: ngày 14/7/2015: “Việc chính quyền Tổng thống Obama mời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức và tiếp đón trọng thị với những nghi thức đặc biệt, tiến hành hội đàm tại phòng bầu dục trong Nhà Trắng, với sự có mặt của những nhân vật chủ chốt trong chính quyền như Phó Tổng thống, Cố vấn An ninh quốc gia, Đại diện Thương mại, Bộ trưởng Tài chính... đã thể hiện sự tôn trọng đầy đủ hơn thể chế chính trị của Việt Nam và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.”
Bài bình luận, không có tên Tác gỉa nhưng rõ ràng phải được chấp thuận của Bộ Thông tin và Truyền Thông, còn viết với tư tưởng hãnh diện rằng : “Những ngày này, các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước tiếp tục đưa tin, bài về kết quả, ý nghĩa chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - một chuyến thăm lịch sử. Với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, ông hài lòng về kết quả chuyến thăm “một kết quả toàn diện”
Ngay tại Bộ Ngọai giao, chưa bao giờ có một tinh thần lạc quan được công khai bày tỏ như sau chuyến đi Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Tác gỉa Hoàng Anh Tuấn (Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Bộ Ngoại giao) đặt câu hỏi : “Việt- Mỹ: Điều gì sau ‘bước ngoặt lịch sử’?
Ông Tuấn tự trả lời trong bài viết trên tờ Báo Tuần Việt Nam của Bộ Thông tin và Truyền Thông: “ Với nền tảng quan hệ, lòng tin chính trị và sự song trùng lợi ích nhiều mặt, chúng ta có lý do để lạc quan thận trọng về sự phát triển tiếp tục của quan hệ Việt-Mỹ trong 20 năm tới.”
Nhưng tại sao phài “thận trọng”
Nhà phân tích Hòang Anh Tuấn nói tiếp : “Chuyến thăm Mỹ của TBT Nguyễn Phú Trọng đã khép lại, nhưng các định hướng và tầm nhìn chung đạt được sẽ giúp tạo nền tảng đưa quan hệ song phương Việt-Mỹ phát triển trong các thập kỷ tiếp theo….Chuyến thăm Mỹ từ ngày 6-11/7/2015 của TBT Nguyễn Phú Trọng thực sự là một sự kiện, một bước ngoặt có tính lịch sử trong quan hệ Việt-Mỹ. “Lịch sử” ở đây không chỉ ở tính biểu tượng của chuyến thăm và sự đón tiếp “vô tiền khoáng hậu”, mà nằm ở nội dung thực chất trong hàng loạt các vấn đề then chốt được thảo luận giúp tạo nền tảng vững chắc cho quan hệ Việt-Mỹ trong tương lai.”
Về chính trị, Tác gỉa giải thích: “ Điểm quan trọng tạo cơ sở cho lòng tin chính trị hai nước là việc bên cạnh việc tuyên bố tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, thì nay Mỹ còn công nhận thể chế chính trị mà thực chất là tôn trọng sự lựa chọn chính trị của Việt Nam.”
Sau đó, ông Tuấn đã công khai ca ngợi Mỹ.
Ông bảo: “Việt Nam hết sức coi trọng quan hệ với Mỹ, siêu cường số một có ảnh hưởng toàn cầu và là một trong số ít các quốc gia có ảnh hưởng và tác động lớn, trực tiếp nhất đối với môi trường chiến lược, an ninh và phát triển của Việt Nam.”
“Về kinh tế-thương mại, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất, đứng thứ 7 trong số các quốc gia và lãnh thổ đầu tư lớn nhất tại Việt Nam. Ngoài ra, Mỹ còn là nước đi đầu trong lĩnh vực GD, KH và CN - những lĩnh vực then chốt đối với tiến trình phát triển và hội nhập của Việt Nam.”
Cuối cùng ông Hòang Anh Tuấn còn hoan nghênh Hoa Kỳ đã đồng hành với Việt Nam trong vấn đề Biển Đông: “Bên cạnh đó là sự tương đồng trong cách tiếp cận giữa hai nước trong vấn đề an ninh, an toàn hàng hải và tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, đặc biệt là các hoạt động đơn phương gần đây nhằm tìm cách thay đổi nguyên trạng. Cuối cùng là sự hợp tác ngày càng sâu rộng giữa Việt Nam và Mỹ trong khuôn khổ song phương cũng như đa phương.”
Tuy nhiên, trước bối cảnh Tổng Bí thư, Chủ tịch Nhà nước Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ thăm Hoa Kỳ vào tháng 9/2015 và gặp Tổng thống Obama, ông Tuấn kết luận dè dặt: “Như vậy, với nền tảng quan hệ hiện nay, cộng với lòng tin chính trị và sự song trùng lợi ích nhiều mặt, chúng ta có lý do để lạc quan thận trọng về sự phát triển tiếp tục của quan hệ Việt-Mỹ trong 20 năm tới.”(Báo Tuần Việt Nam, 12/07/2015)
TIẾN SỸ TRẦN CÔNG TRỤC
Tuy thận trọng hơn vì đã có qúa nhiều kinh nghiệm trong chức vụ Trưởng ban Biên giới Chính phủ thương thuyết với Trung Quốc trong nhiều năm, Tiến sỹ Trần Công Trục phát biểu trên báo Giáo dục Việt Nam với một số điểm đáng chú ý xin trích lại như sau:
-“Khi đọc Tuyên bố về Tầm nhìn chung quan hệ Việt - Mỹ mà hai bên ký kết trong chuyến thăm của Tổng bí thư cũng như chứng kiến thịnh tình, chân tình của người Mỹ khi tiếp phái đoàn lãnh đạo cấp cao Việt Nam, phát ngôn của hai phía về tình hình hiện nay trên Biển Đông, nhiều người đã dấy lên niềm hy vọng.
Người Việt không ngây thơ trông chờ Mỹ đem quân "cứu" Việt Nam một khi nổ ra chiến tranh trên Biển Đông, nhưng hoan nghênh và sẵn sàng hợp tác với Hoa Kỳ để duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, tự do hàng không hàng hải, luật pháp và trật tự quốc tế trên Biển Đông.”
-- “ Phía Mỹ cũng đã khẳng định những điều này. Như vậy có thể nói đây chính là điểm hội tụ lợi ích chiến lược của Việt Nam và Hoa Kỳ cũng như khu vực nói chung ở Biển Đông. Để nổ ra chiến tranh không ai có lợi, nhưng để chủ nghĩa bành trướng quân sự, thói sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế lên ngôi ở Biển Đông thì lại càng bất lợi cho cả Việt Nam và Hoa Kỳ, bởi vậy hai bên cần hợp tác ngăn chặn điều này.”
---"Ứng" vào quan hệ Việt - Mỹ hiện nay, Việt Nam và Hoa Kỳ tìm đến nhau, tăng cường giao lưu hợp tác là do "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu", nói cách khác là cùng có chung lợi ích, nhưng là lợi ích đúng đắn, hợp pháp, duy trì hòa bình ổn định, luật pháp quốc tế, chống đe dọa vũ lực và sử dụng vũ lực, đảm bảo tự do, an ninh hàng không hàng hải ở Biển Đông.”
--- “Trong vấn đề Biển Đông, liệu Hoa Kỳ có theo đuổi tới cùng mục tiêu bảo vệ hòa bình ổn định, duy trì luật pháp và trật tự quốc tế, chống đe dọa vũ lực hoặc sử dụng vũ lực hay không nếu Bắc Kinh ngỏ ý đổi chác lợi ích trong các vấn đề quốc tế khác mà người Mỹ đang gặp khó khăn như khủng hoảng Ukraine, chủ nghĩa hồi giáo cực đoan IS, Trung Đông, hạt nhân Iran hay Bắc Triều Tiên?” (báo Giáo dục Việt Nam, 12/07/2015)
DÂN CHÚNG VUI MỪNG-HY VỌNG
Về phía người dân, sau sự kiện có đến 92% trong số người Việt Nam được hãng thăm dò dư luận PEW muốn kết thân với Mỹ trong khi chỉ có 10% thích Trung Quốc và 40% muốn thân với Nhật, rất nhiều người dân đã công khai trước tin Mỹ-Việt đã thân thiện như chưa bao giờ có.
Một góc phản ảnh này xuất hiện trân báo ViệtNamExpress ngày 13/07/2015:
Một độc giả viết: “Hợp tác với ai chứ hợp tác với Mỹ là thấy vui rồi...”
Có người làm bài Thơ: “Hoà bình vì một ngày mai/ Niềm tin hợp tác tương lai vững bền/ Vượt qua bao thác chênh vênh/ Giờ đây xích lại bước trên một đường/ Việt Nam đất nước thân thương/ Niềm tin tốt đẹp bước đường về sau !”
Người khác tự tin: “Bắt tay với Hoa Kỳ là một tương lai thịnh vượng!
Hay: “ Không có kẻ thù vĩnh viển chỉ có lợi ích dân tộc mới vĩnh viển. Mong đây sẽ là 1 trong những bước tiến giúp Việt Nam và Mỹ trở thành đồng minh đáng tin cậy.”
“Hòa bình - hữu nghị - hợp tác - phát triển - hỗ trợ an ninh - khoa học kỹ thuật quân sự ... Tuyệt!”
“ Ủng hộ hợp tác Việt - Mỹ trên tất cả các phương diện. Mỹ xứng đáng là anh cả của thế giới với những gì nước Mỹ đã và đang thể hiện.”
“Rất vui mừng! Cùng nắm lấy tay nhau vì ngày mai tốt đẹp hơn.
Cái bắt tay lịch sử giúp Việt Nam bước sang một trang lịch sử mới. Quá tuyệt vời.”
“Thế hệ 8x chúng tôi thật may mắn chứng kiến một dấu mốc quan trọng, mở ra thời kỳ mới cho dân tộc Việt Nam.”
Với những gì đã xẩy ra ở Hoa Thịnh Đốn giữa ông Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Obama và viễn ảnh Việt Nam gia nhập Hiệp ước Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), phản ứng từ đảng đến chính phủ và người dân ở Việt Nam đã mở ra một cánh cửa hy vọng và tin tưởng vào hợp tác giữa hai cựu thù Hoa Kỳ và Việt Nam.
Nhưng liệu những tín hiệu lạc quan này có giúp ông Nguyễn Phú Trọng củng cố địa vị Chính trị cho cá nhân ông tại Đại hội đảng XII vào tháng 01/2016, hay đó sẽ là trách nhiệm thuộc về người kế vị ông ?
Dù thế nào chăng nữa thì con đường trước mặt của đảng Cộng sản Việt Nam là không thể quay đầu lại với những cam kết ông Nguyễn Phú Trọng đã hứa với Tổng thống Obama. Chỉ có khác chăng là liệu Lãnh đạo có biết chộp lấy cơ hội để vượt qua cái bóng của chính mình để đưa dân tộc tiến lên, hay tiếp tục sợ hãi để tự chôn mình trước bóng đen Trung Quốc ? -/-
Phạm Trần
(07/015)
Ông Trọng mất gì , được gì ở Hoa Thịnh Đốn
- Viết bởi Phạm Trần
Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã đi vào lịch sử Việt Nam sau cuộc họp ngắn với Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tại Văn phòng Bầu dục trong Tòa Bạch Ốc trưa 7/7/2015. Nhưng ông Trọng được gì và mất gì sau 3 ngày ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, kể từ sáng ngày 6/7 đến chiều 8/7 (2015) ?
Lý do ông Trọng được chú ý vì ông là Tổng Bí thư đầu tiên của đảng cầm quyền độc tài CSVN đươc mời sang thăm nước Mỹ và được Tổng thống dân cử của cường quốc đứng đầu Thế giới tiếp đón long trọng, mặc dù ông Trọng không phải là Thủ tướng hay Tổng thống.
Quyết định tiếp ông Trọng vuợt ra ngoài truyền thống ngọai giao của nước Mỹ đã bị một số Nhà lập pháp Quốc hội và các tổ chức nhân quyền-tôn giáo chỉ trích.
Những người chống đối cho rằng ông Trọng chỉ nên được Tổng thống Obama tiếp ở một phòng nào đó ít vinh dự hơn Văn phòng Bầu dục là nơi đặt bàm làm việc lịch sử của các vị Tổng thống Mỹ.
Nhưng phiá Bạch Ốc và Bộ Ngọai giao Mỹ thì cho rằng từ hai năm qua phía Việt Nam đã ngỏ ý muốn nâng cao hợp tác với Hoa Kỳ, quan trọng nhất là trong các lĩnh vực Kinh tế, An ninh và Quốc phòng nên Hoa Kỳ đã muốn tạo dịp để nghe trực tiếp từ ông Nguyễn Phú Trọng, người trong thực tế nắm quyền ở Việt Nam.
Hơn nữa, cuộc thăm viếng của ông Trọng còn mang ý nghĩa chính trị quan trọng đối với khu vực Á Châu và Thái Bình Dương sau khi Chính quyền Obama chuyển các lực lượng phòng thủ của Mỹ từ Âu Châu và Trung Đông sang Á Châu từ năm 2008 để đương đầu với thế lực bành trướng của Trung Quốc trong khu vực.
Nhưng cuộc họp Obama-Nguyễn Phú Trọng đã đem lại kết qủa gì cho hai nước ?
Trước hết, hai ông đã thảo luận các vấn đề cùng quan tâm gồm có Quan hệ lâu dài giữa hai nước sau 20 năm thiết lập quan hệ ngọai giao (11/7/1995 – 11/7/2015) ; Khả năng hoàn tất và ký kết Hiệp định Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Parshership, TPP) gồm 12 nước do Hoa Kỳ chủ động; Tình hình nhân quyền, tự do Tôn giáo, Tự do ngôn luận ở Việt Nam; sau cùng là Tình hình Biển Đông, nơi Việt Nam đang phải đương đầu với chính sách bành trướng và chiếm đóng biển đảo của Trung Quốc.
CÓ VÀ KHÔNG
Cả hai ông Obama và Trọng đều nói cuộc học ở Toà Bạch Ốc hữu ích và thẳng thắn. Tuy nhiên, ngoài sự đồng thuận về tình hình Biển Đông và không hài lòng những hành động gây bất ổn định của Trung Quốc, hai ông cũng đồng ý tranh chấp ở vùng biển này phải được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình theo Luật pháp Quốc tế.
Trong diễn văn trước cử tọa gồm các Học giả và chuyên gia Quốc tế Hoa Kỳ tại Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và những vấn đề Quốc tế (Center for Trategic&International Studies,CSIS) chiều 8/7, ông Nguyễn Phú Trọng nói : “ Chúng tôi đánh giá cao việc Chính phủ Hoa Kỳ ngày càng quan tâm đến tình hình Biển Đông, bày tỏ kịp thời và nhất quán quan điểm ủng hộ việc giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hoà bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, không sử dụng vũ lực và đe doạ sử dụng vũ lực, không đơn phương thay đổi nguyên trạng, quân sự hoá hoặc áp đặt kiểm soát trên biển, trên không, ở Biển Đông. Việt Nam hoan nghênh các nước, trong đó có Hoa Kỳ, đóng vai trò tích cực và có trách nhiệm trong việc duy trì hoà bình, an ninh, ổn định, an toàn, tự do hàng hải và hàng không, thúc đẩy hợp tác phát triển ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.”
Rõ ràng là ông Trọng muốn ám chỉ đến Trung Quốc nhưng không dám chỉ trích nước này, một đồng minh “chiến lược quan trọng và cũng là chủ nợ lớn của Việt Nam”. Bắc Kinh đã bành trướng thế lực ở Biển Đông trong hai năm qua, kể cả việc tân tạo 7 bãi đá chiếm của Việt Nam ở Trường Sa năm 1988 thành các đảo nhân tạo và căn cứ quân sự. Hải quân và tầu Hải Giám Trung Quốc cũng tiếp tục ngăn cấm, tấn công và tịch thu tài sản các thuyền đánh cá Việt Nam hành nghề từ Hòang Sa, bị Trung Quốc chiếm từ tay Quân lực Việt Nam Cộng hòa năm 1974, xuống tận Trường Sa.
Về những vấn đề của hai nước, hai bên vẫn còn những bất đồng về tình hình nhân quyền, tự do tôn giáo và quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam.
Ông Trọng nói với Tổng thống Obama rằng, những nhận thức khác biệt về nhân quyền và tự do tôn giáo của hai nước nên được tiếp tục thảo luận trong tinh thần vởi mở và hợp tác trên “tầm cao mới”, nhưng ông Obama và các viên chức Mỹ, tuy không nói ra nhưng có một lối nhìn khác.
Ông Nguyễn Phú Trọng bổ túc thêm trong diễn văn bằng tiếng Việt tại CSIS: “Vấn đề nhân quyền là vấn đề mà chính giới và dư luận Hoa Kỳ rất quan tâm, cũng là vấn đề nhạy cảm trong quan hệ hai nước. Tôi khẳng định Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề quyền con người. Đất nước chúng tôi tuy còn không ít vấn đề cần tiếp tục phải giải quyết, trong đó có vấn đề quyền con người, nhưng chúng tôi đang nỗ lực không mệt mỏi để xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người. Tôi hiểu trong vấn đề này, hai bên còn có những khác biệt về nhận thức và cần tiếp tục thông qua đối thoại thẳng thắn, xây dựng để có cách nhìn tổng thể về những thay đổi cơ bản mang tính hệ thống, từ đó có đánh giá khách quan hơn về vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo ở Việt Nam, không để vấn đề này cản trở đà tiến triển tốt đẹp của quan hệ, cũng như ảnh hưởng tới việc xây dựng lòng tin giữa hai nước.”
Khi được hỏi về viễn ảnh của vấn đế nhân quyền và tự do ngôn luận ở VN trong tương lai, Tổng Bí thư CSCVN trả lời: “ Tôi biết nhân quyền là vấn đề Mỹ rất quan tâm, đây cũng là vấn đề VN rất coi trọng. Bảo đảm và cải thiện quyền của công dân là ưu tiên cơ bản và chiến lược của chúng tôi. Chúng tôi đã nỗ lực hết sức, nếu các bạn đến VN sẽ thấy quyền của các nhóm dân cư dễ bị tổn thương như người nghèo, các dân tộc thiểu số vùng sâu vùng xa, được quan tâm.
Người dân VN chưa bao giờ được sống trong bầu không khí dân chủ như hiện nay. Hiến pháp VN có chương riêng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, và đang dần được luật hóa.
Nhưng cũng cần thấy rằng quyền của cá nhân phải đặt trong bối cảnh quyền lợi chung của cộng đồng, mỗi người có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ quyền của người khác và của cộng đồng.
Tôi nghĩ quốc gia nào cũng phải quản lý đất nước bằng luật pháp. Các vụ việc người bị bắt ở VN không phải do vấn đề dân tộc hay tôn giáo mà là họ vi phạm pháp luật.” (ViệtNamNet, 09/07/015)
Ông Trọng nói thế nhưng thực tế ở Việt Nam thì khác. Người dân không có dân chủ và các quyền tự do như Hiến pháp quy định. Tất cả mội thứ dân có là do đảng cho bao nhiêu thì được bấy nhiêu. Nhà nước độc quyền báo chí, không cho lập hội hay hội họp không phù hợp với yêu cầu và quyền lợi của đảng.
Quyền tự do tôn giáo, thờ phượng cũng bị hạn chế bằng các Nghị định hay Quyết định trái với các điều khỏan ghi trong Hiến pháp 2013. Ngược lại nhiều địa phương lại khuyến khích và tuyên dương những ai lập đền thờ Hồ Chí Minh, người sáng lập đảng CSVN !
TỬ TPP ĐẾN QUYỀN CỦA CÔNG NHÂN
Về TPP, ông Trọng đã nói với Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Michael Froman chiều ngày 06/07/015 rằng “Việt Nam là nước có trình độ phát triển thấp nhất trong TPP, nên cũng gặp nhiều thách thức nhất và phải sửa đổi nhiều quy định pháp luật nhất khi tham gia TPP.
Ông đề nghị Hoa Kỳ ủng hộ, cân nhắc đến trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam, và có những linh hoạt cần thiết, phù hợp đối với Việt Nam trong đàm phán TPP.
Ông bày tỏ mong muốn Hoa Kỳ mở rộng thị trường cho hàng hóa của Việt Nam, và sớm công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường, nhất là khi Việt Nam đã tham gia một hiệp định có tiêu chuẩn cao và toàn diện như TPP.” (theo Phi Sơn, Thời báo Kinh tế Việt Nam (TBKTVN), 7/7/2015)
Về phần mình, vẫn theo TBKTVN, ông Trọng cũng “khẳng định với Đại diện Thương mại Micheal Froman, Việt Nam đã và đang thể hiện cam kết của mình với tiến trình đàm phán TPP và sẽ chủ động, tích cực phối hợp với Hoa Kỳ và các nước để thúc đẩy việc sớm kết thúc đàm phán.”
Trong diễn văn tại (CSIS) chiều 8/7, ông Trọng kêu Hoa Kỳ đầu tư nhiều hơn là ở địa vị hàng thứ 7 trong số các nước làm ăn buôn bán với Việt Nam. Đến năm 2014, mậu dịch giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã đến mức 36 ỷ dollars, nhưng so với Trung Quốc thì chỉ là hạt muối bỏ biển.
Trước ông Trọng, hai ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Nguyễn Minh Triết cũng như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã kêu gọi Mỹ nhìn nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, nhưng Mỹ chưa đáp ứng. Tại sao ?
Bởi vì Điều 51 của Hiến pháp 2013 đã quy định : “ Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.”
Nhiều kinh tế gia Việt Nam gọi chủ trương này là “kinh tế nửa nạc nữa mỡ”, hay “giở giăng giở đèn” không giống ai nhưng lại do các Doanh nghiêp Nhà nước cầm đầu và Nhà nước kiểm soát, không có tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh bình đẳng là những yếu tố trái với chế độ kinh tế thị trường của các nước không Cộng sản.
Ngòai ra nền kinh tế của Việt Nam cũng không tôn trọng và bảo vệ quyền của người lao động và thiếu sân chơi công bằng giữa các Doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân và giữa Công ty nước ngòai và của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực.
Vì vậy, nếu được Hoa Kỳ nhìn nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường thì Việt Nam sẽ vượt qua được cửa ải quan trọng hàng đầu để được vào TPP.
Trong các vấn đề đang được thảo luận giữa 12 nước thành viên
TPP, có những điều khỏan buộc nước hội viên phải tôn trọng và bảo vệ quyền của công nhân và nhân quyền. Đối với Việt Nam thì đây là miếng ăn khó nuốt vì đảng CSVN chỉ muốn tập trung công nhân vào Tổng liên đòan lao động của nhà nước (Tổng liên đòan Lao động Việt Nam) để chỉ huy và đôi khi sử dụng lực lượng này để gây áp lực với các Công ty nước ngòai đang hoạt động ở Việt Nam.
Việt Nam cũng sẽ phải thay đổi quyết định không cho người dân được tự do lập hội, hay đảng chính trị nếu công nhân có quyền tổ chức nghiệp đòan mà không cần phải có phép của nhà nước.
Trong cuộc họp báo thường lệ chiều 7/7 (2015), Phát ngôn viên Tòa Bạch Ốc Josh Earnest đã tiết lộ nhiều ràng buộc dành cho Việt Nam khi gia nhập TPP, căn cứ theo bản ghi băng của Văn phòng báo chí phổ biến.
Sau đây là những cầu hỏi và trả lời liên quan đến Việt Nam và cuộc họp giữa ông Trọng và Tổng thống Obama ngày 7/7/2015:
H: My main area of question is on Vietnam, if I could for a moment. Vietnam and Cuba. Is Vietnam, in fact, a model -- the way the President is treating Vietnam as a major trade partner involved in this TPP -- is this the way that, despite its human rights problems that have been acknowledged by the White House, that it would, in fact, like to deal with Cuba itself?
(Câu hỏi chính của tôi liên quan đến Việt Nam, nếu tôi có thể trong giây lát. Đó là vấn đề Cuba và Việt Nam. Có phải Việt Nam được coi như một mẫu mực mà, căn cứ vào cách đối xử dành cho Việt Nam của Tổng thống, thì ông coi Việt Nam là một đối tác thương mại có tầm vóc trong tổ chức TPP, mặc dù (VN) có vấn đề về nhân quyền như Tòa Bạch ốc đã biết rất rõ, như thế có phải là cách cũng sẽ được áp dụng với Cuba ?)
(MR. EARNEST: Well, clearly we would like to see a lot more progress be made on the human rights front in Vietnam; that’s true in Cuba as well. I think where there tends to be some overlap in terms of the way that we view these situations is when it comes to the advocacy that we make in Vietnam for greater protection of human rights -- that what the President has concluded is that the most effective way for us to do that is to try to engage with the government of Vietnam.
And in the case of Vietnam, this is encouraging them to be part of the Trans-Pacific Partnership. They are participating in the negotiations. And the fact is, we are -- if we can complete a TPP agreement, and if Vietnam signs on, they would be making specific commitments to better protect and reflect the basic rights of workers in that country. That would be important progress. Right now, we don’t just have a moral objection to the way that basic universal human rights are not protected in Vietnam; we recognize that in some instances the violation of basic human rights actually puts American businesses at a significant economic disadvantage.
So by engaging with Vietnam, by getting them to sign on to this broader agreement, we can get them to do a better job, at least, of protecting basic universal human rights, while at the same time doing that in a way that starts to level the playing field for American businesses and American workers. This is part of the -- so I think this reflects a validation of the President’s strategy that just trying to shun and isolate a country can, in some cases, not put as much pressure on them as actually engaging them.)
And again, if we can complete this TPP agreement -- or the TPP agreement, then we’ll see Vietnam start to take those kinds of steps. And again, this is consistent with the philosophy that we have applied in Cuba -- that for almost 60 years we tried a strategy of isolating Cuba, and we didn’t see nearly as much movement on the human rights front as we would like to see. The President is ready to try a new strategy and is hopeful that, in the years ahead, we’re going to see a Cuban government that will do a better job of respecting and even protecting the basic human rights of their people.)
(Đ: (Tạm dịch): “Tất nhiên rõ ràng là chúng tôi muốn thấy có tiến bộ nhiều hơn về lĩnh vực nhân quyến ở Việt Nam. Dó cũng là vấn đề của Cuba nữa. Tôi nghĩ cũng có chuyện trùng hợp ở đây khi mà chúng ta muốn Việt Nam cần bảo vệ nhân quyền hơn nữa nên Tổng thống đã kết luận rằng cách hữu hiệu nhất cho chúng ta có thể làm được là tìm cách kết nối với Việt Nam. Đối với trường hợp của Việt Nam là khuyến khích họ tham gia vào Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà thực tế là chúng ta đã làm như thế, nếu chúng ta hòan tất thỏa hiệp TPP và Việt Nam ký kết thì họ sẽ phải thực thi những cam kết bảo vệ và phản ảnh những quyền cơ bản của công nhân tại nước họ. Đó sẽ là một bước tiến quan trọng. Ngay bây giờ chúng ta không những có trách nhiệm tinh thần là chống lại tình trạng những quyền căn bản của con người không được bảo vệ ở Việt Nam mà thực tế là những vị phạm về nhân quyền đó đã làm cho các hoạt động thương mại của Mỹ gặp nhiều khó khăn.”
Do đó mà quan hệ với Việt Nam và có được họ ký kết vào thỏa hiệp có tầm vóc rộng lớn này thì chúng ta có thể làm tốt hơn, ít nhất là bảo vệ những quyền cơ bản của con người thì đồng thời cũng có lợi cho các hoạt động thương mại và công nhân Hoa Kỳ.
Điều này đã phản ảnh chiến lược của Tổng thống là thay vì làm ngơ hay cô lập một quốc gia mà, trong một số trường hợp, gây áp lực không hiệu qủa như quan hệ với họ.”
Do đó, nếu chúng ta hòan tất Hiệp định TPP thì chúng ta sẽ thấy Việt Nam khởi sự thực hiện những bước cam kết. Và đây cũng phù hợp với triết lý chúng ta áp dụng với Cuba mà ngót 60 năm qua chúng ta đã theo đuổi chiến lược cô lập Cuba, nhưng chúng ta không thấy có những tiến bộ nào về nhân quyền mà chúng ta muốn thấy. Tổng thống sãn sàng theo đuổi một chiến lược mới và hy vọng rằng, trong những nắm sắp tới, chúng ta sẽ thây chính phủ Cuba làm tốt hơn để tôn trọng và bảo vệ những quyền căn bản của người dân Cuba.” )
CÓ TRÉO CẲNG NGỖNG KHÔNG ?
H: ( And just one quick question to follow up on the meeting today. You made a forceful case for engaging with Vietnam, and many human rights activists have wondered if it’s possible -- if it isn’t better to engage without the symbolic validation of meeting with an elected official in the Oval Office.)
( Tôi có thêm câu hỏi ngắn tiếp theo về phiên họp hôm nay (Obama-Nguyễn Phú Trọng). Ông đã nói một cách thuyết phục về chuyện kết nối với Việt Nam, nhưng nhiều nhà đấu tranh nhân quyền cũng đặt câu hỏi là liệu có thể không, nếu quan hệ mà không cần phải chứng minh bằng một cuộc gặp gỡ (của ông Nguyễn Phú Trọng) với một vị Dân cử (Tổng thống Obama) tại Văn phòng Bầu dục ?
(MR. EARNEST: Well, again, Chris, I think the President had the opportunity to talk about the goal of his meeting in the Oval Office earlier. But what I would say is that this is -- this was a meeting where they covered a lot of ground, both to reflect the deepened relationship between our two countries in the 20 years since normalized diplomatic relations were restored between the United States and Vietnam. But they obviously had the opportunity to discuss the TPP agreement, and they had a discussion about human rights. And that level of engagement, the President believes, is consistent with the national security interests of the United States.
Đáp: (Tạm dịch:”Anh Chris, tôi nghĩ là Tổng thống đã nói về mục tiêu của cuộc gặp gỡ tại Văn phòng Bầu dục rồi. Nhưng điều mà tôi muốn nói rằng đây là cuộc họp bao trùm nhiều lĩnh vực, phản ảnh mối quan hệ sâu rộng trong 20 năm qua giữa 2 quốc gia kể từ khi bình thường hoá ngọai giao. Nhưng cả hai Nhà lãnh đạo đã thảo luận về TPP, vấn đề nhân quyền và mức độ hợp tác mà Tổng thống tin là phù hợp với lợi ích an ninh quốc gia của Hoa Kỳ.”
LIỆU VN CÓ GIỮ LỜI KHÔNG?
H: And on Vietnam. By some accounts, Vietnam is, of the TPP countries, the farthest away in terms of human rights and labor rights. How realistic is it that if they are included in that trade deal, that they could live up to it?
(H: Cũng vẫn chuyện Việt Nam, khi Việt Nam là một thành viên của TPP rồi, hãy phỏng đóan về chuyện Nhân quyền và Quyền lao động của Công nhân, liệu những vấn đề này có được bao gồm trong TPP không, và liệu Việt Nam có giữ lời hứa tuân thủ không ?)
(MR. EARNEST: Well, I think that the point that we would make -- and this sort of goes to Jim’s question from earlier -- right now, as of today, there’s very little pressure that can be applied to Vietnam and their human rights record. Obviously, we can speak out publicly and raise our concerns about it, which we have and which we do. But in the context of a TPP agreement, what we can actually do is compel Vietnam to better respect the basic rights of workers in that country, and make clear to them that there is a tangible incentive for them doing so; that they can join this powerful economic block that could enhance some economic opportunities in their country.
From the perspective of the United States, however, we view the TPP agreement as an opportunity to, first and foremost, start to level the playing field. That if Vietnam is no longer trying to so grievously oppress their workers and trample their basic human rights, that as they start to do a better job of reflecting some of those rights and protecting them, that that’s going to level the playing field. That companies can no longer seek a significant economic advantage by going to a place where the rights of workers are so frequently flouted.
We can also live up to a moral imperative. We recognize that our country has a responsibility to speak out on human rights, to make them a priority, and to make clear to other countries that they should do the same.
And in the context of the TPP agreement, we cannot just advocate for those positions but actually have some results to show for it. So time will tell whether or not they will live up to the agreement. The thing that I can tell you from right now is they will have a very clear incentive to do so, an incentive that right now doesn’t exist at least on the same scale.
Đ: (Tạm dịch) : “ Tôi nghĩ, mục tiêu mà chúng tôi muốn làm, như là tôi đã trả lời câu hỏi của anh Jim vừa rồi, nhưng ngay bây giờ, vào ngày hôm nay (7/7 (2015) chúng ta có rất ít điều kiện để gây áp lực đối với Việt Nam và hồ sơ nhân quyền của nước này. Tất nhiên là chúng ta có thể bầy tỏ công khai mối quan tâm của chúng ta, và cũng là việc chúng ta đã làm và đang làm.
Nhưng trong phạm vi của Hiệp định TPP thì chúng ta có thể đòi hỏi Việt Nam phải tôn trọng những quyền căn bản của công nhân của nước họ, và tất nhiên là cũng phải thẳng thắn cho Việt Nam biết là họ sẽ được “đãi ngộ xứng đáng” nếu thực thi đúng như thế. Và do đó, họ sẽ được tham gia vào khối kinh tế hùng mạnh này (TPP) để tạo cơ hội tốt cho nền kinh tế của Việt Nam.”
Nói theo quan điểm của Hoa Kỳ, chúng ta coi Hiệp định TPP như một cơ hội, trên hết là một sân chơi bình đẳng. Nếu Việt Nam không còn áp chế công nhân của họ và vi phạm những quyền căn bản của con người, và bắt đầu chứng minh bằng cách làm tốt hơn các quyền này và bảo vệ chúng thì đó là họ đã đi vào luật chơi. Và như vậy, các Công ty sẽ không còn tìm cách đến những nơi làm ăn mà quyền lợi của công nhân luôn luôn bị làm ngơ.”
“Tất nhiên là chúng ta cũng phải giữ đạo lý của mình. Chúng ta nhìn nhận là Hoa Kỳ có bổn phận lên tiếng về Nhân quyền, coi đó là ưu tiên hàng đầu, nên chúng ta cũng muốn nói thằng với các nước khác rằng họ cũng cần làm như vậy.
“Trong phạm vi của TPP, chúng ta không thể chỉ cổ võ cho những quan điểm như thế. Chúng ta có những bằng chứng cụ thể để trưng ra. Do đó, thời gian sẽ trả lời xem họ có giữ những cam kết hay không. Điều mà tôi có thể nói ngay bây giờ là họ sẽ được đãi ngộ nếu làm như thế, sự đãi ngộ này hiện nay chưa có, ít ra không thể có cùng một mức độ.”
(Q: And just quickly, 40 years after the end of the Vietnam War, how does the White House view our relationship with Vietnam? Is it a change on the scale of Japan or Germany after World War II?
(H: Tôi muốn hỏi nhanh là 40 năm sau chiến tranh Việt Nam, Tòa Bạch Ốc đánh giá quan hệ của chúng ta với Việt Nam như thế nào, liệu có thể thay thế mức độ quan hệ giữa Hoa Kỳ với Nhật Bản và Đức Quốc sau Thế chiến thứ II ?)
(MR. EARNEST: Well, I think the relationship between the United States and Vietnam has obviously improved over the last 40 years, of course, but even over the last 20 years since our diplomatic relations were restored. But they’ve got quite a way to go to try to reach the level of the important alliances that the United States has with both Japan and Germany.)
Đ: (Tạm dịch: “Tôi nghĩ liên lạc giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã có những tiến bộ trong 40 năm qua, ngay cả trong 20 năm qua kể từ khi quan hệ ngọai giao giữa hai nước đã được phục hồi. Nhưng còn phải mất một thời gian để có thể tiến tới mức độ đồng minh quan trọng mà Hoa Kỳ đã có với Nhật Bản và Đức quốc.” )
Đó là quan điểm rất minh bạch của Hoa Kỳ đối với việc tuân thủ những cam kết của TPP dành cho Việt Nam qua lời của Phát ngôn viên Bạch Ốc Josh Earnest.
Lời tuyên bố này không ghi trong “Tuyên bố tầm nhìn chung” của hai nước, nhưng rõ ràng là Hoa Kỳ muốn đặt ra những điều kiện quan trọng ràng buộc Việt Nam với TPP.
Ông Trọng kêu gọi Mỹ “linh hoạt” những ràng buộc này trong cuộc tiếp Đại diện Thương mại Mỹ Michael Froman chiếu 6/7 thì chỉ 24 giớ sau (chiều 7/7) ông Earnest đã trả lời như thế!
Như vậy, trong 3 ngày ở Thủ đô nước Mỹ, tuy ông Trọng và phái đòan đã vẻ vang được Tổng thống Obama tiếp và Phó Tổng thống Jose Biden mời tiệc trưa, nhưng ông Trọng đã thất bại trong nỗ lực mưu tìm sự “thông cảm” của Hoa Kỳ trong TPP.
Tuy vậy, về lĩnh vực các thỏa hiệp được ký kết thì Tuyên bố tầm nhìn chung đã viết: “Các hiệp định và thỏa thuận dưới đây có đóng góp vào việc phát triển quan hệ song phương Việt Nam – Hoa Kỳ và tạo cơ sở vững chắc cho sự hợp tác trong tương lai mà hai nước sẽ tiếp tục xây dựng, bao gồm:
- Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hoa Kỳ về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập và Nghị định thư của Hiệp định;
- Bản Ghi nhớ giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ về hợp tác trong lĩnh vực gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc;
- Bản Ghi nhớ giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ về Chương trình các mối đe dọa đại dịch mới nổi và Chương trình An ninh Y tế Toàn cầu;
- Thỏa thuận Tài trợ giữa Cơ quan Phát triển và Thương mại Hoa Kỳ và Cục Hàng không Dân dụng Việt Nam;
- Việt Nam cấp giấy phép thành lập trường Đại học Fulbright Việt Nam mới.
Trong các lần xuất hiện ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, ông Trọng luôn luôn nhã nhặn, vui vẻ (ít ra là bên ngòai đã nhìn thấy như thế) không hề nhắc đến Xã hội Chủ nghĩa, hay Cộng sàn chủ nghĩa vì hai nước đã đồng ý tôn trọng thể chế chính trị của nhau. Nhưng ông Trọng luôn luôn mong muốn Hoa Kỳ không nên để những bất đồng như nhân quyền, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận làm cản trở hợp tác giữa hai nước.
Tổng Bí thư Trọng cũng nói nhiều đến quyết tâm của Việt Nam hợp tác và nâng quan hệ ngọai giao giữa hai nước “lên tầm cao mới”.
Về phía ông Obama, tuy rất cởi mở và tỏ vẻ thân thiện, nhưng những tuyên bố của Phát ngôn viên Earnest đã phần nào phản ảnh cách ứng xử của ông Obama trước phái đòan cao cấp Việt Nam. Ông trọng chắc phải suy nghĩ nhiều trên đường về Việt Nam ngày 10/7, sau khi dừng chân ở Liên Hiệp Quốc để gặp Tổng Thứ ký Ban Ki Moon.
Phạm Trần
(07/015)
Tọa đàm khoa học nhân 100 năm ngày sinh của linh mục, triết gia Lương Kim Định
- Viết bởi Phạm Huy Thông
Ngày 6-7-2015, tại Viện SENA Hà Nội, Trung tâm văn hóa Minh Triết đã tổ chức cuộc Tọa đàm nhân 100 năm ngày sinh của cố linh mục, triết gia Lương Kim Định (15-6-1915/15-6-2015) (ảnh bên). Đến dự có hơn 100 người trong đó có nhiều học giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước như GS Trần Văn Đoàn (Đài Loan), GS Tô Duy Hợp, Bùi Thanh Quất, Trương Sĩ Hùng, TS Nguyễn Xuân Diện, TS Đinh Hoàng Thắng, TS. Phạm Huy Thông, ông Nguyễn Trung, tướng Lê Mã Lương (ảnh giữa)...Sau bài nghiên cứu có tính chất khai mạc "Lương Kim Định, một gương mặt sĩ phu lớn thế kỷ XX" của nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai- Giám đốc Trung tâm Minh Triết, GS.TS Trần Văn Đoàn đã trình bày những năm tháng làm việc với cố triết gia từ 1985 đến 1996 đặc biệt nêu những giá trị tư tưởng của ông nhất là tư tưởng: "Làm thế nào để người Việt mình ngóc đầu dậy" (ảnh dưới).
Theo GS Đoàn, người Việt mình có nhiều người tài giỏi nhưng khi trình bày tư tưởng lại rất tự ti nên luôn phải dựa vào ý kiến người khác từ Khổng, Mạnh sau này là các lãnh tụ khác mà không tự tin vào ý kiến của mình. Lương Kim Định là người đầu tiên đưa ra ý kiến: tôi nói thế này. Ông đặt câu hỏi: người nước ngoài nói về người Việt có đúng không? Phần lớn là chưa chính xác vì không ai hiểu ta bằng ta. Ông cũng khẳng định Việt Nam có minh triết tức đã có triết học mà ông gọi là Triết Việt. Trong số 45 tác phẩm, gần 8000 trang in của mình, ông cũng xác nhận, người Việt có Việt Nho, có Việt đạo. Ông cũng rạch ròi đánh giá cao Nguyên Nho tức Nho giáo nguyên thủy đời Nghiêu, Thuấn, còn từ Hán Nho do họ phải thỏa hiệp với Đạo gíao, Lão giáo nên nó bị tha hóa trở nên bảo thủ và càng về sau càng bảo thủ. Bằng chứng rõ nhất là nó coi nó là chân lý, là lời thánh, không thể phê phán, phản biện. GS Đoàn cho hay, linh mục Lương Kim Định hiền lành, chân tu và tha thiết với dân tộc nên mong ước lập một Hàn lâm viện Việt Nam để phát triển văn hóa Việt. Ông cũng đề xuất chương trình hỗ trợ người Việt di tản trong việc dạy tiếng, dạy nghề. Ông cả tin nên cũng bị lừa gạt trong vụ mua đất xây Hàn lâm viện và bị sốc nặng. Ông có để lại di chúc cho vài người trong đó có GS Đoàn về việc phổ biến di sản của mình. Vì vậy, nếu tới đây Nhà xuất bản Tri thức của GS Chu Hảo muốn in bộ sách của Lương Kim Định, GS Đoàn rất hoan nghênh và miễn phí bản quyền. Thế giới ngày nay công nhận có trường phái triết học Lương Kim Định chính là triết Việt chứng tỏ giá trị tư tưởng của cố triết gia.
Nhà nghiên cứu văn hóa Hà Văn Thùy nói rằng, ông nghiên cứu văn hóa Việt Nam đã lâu và năm 2000 cũng công bố một vài nhận xét gây sốc với giới nghiên cứu: "Tiếng Việt là chủ thể tạo nên tiếng Trung Hoa và chữ Việt cũng là chủ thể tạo nên chữ Trung Hoa" nhưng có người mách, Lương Kim Định đã nói trước đó nửa thế kỷ rồi. Thế là ông tìm đọc và ngạc nhiên đến sửng sốt. Sao nước Việt có người tài thế. Việt Nam đã nhiều lần bị xâm chiếm và cũng nhiều lần đứng lên giải phóng đất nước, mặc dù chưa bao giờ giải phóng hoàn toàn. Song riêng về văn hóa thì chưa bao giờ giải phóng được. Nhưng Lương Kim Định là người đầu tiên giải phóng về văn hóa dân tộc, khẳng định văn hóa Việt độc lập chứ không lệ thuộc phương Bắc. Nước Việt có văn minh đi trước nhân loại 40-50.000 năm thể hiện rất rõ trên trống đồng.
Nhà văn Vũ Ngọc Tiến nói rằng, Lê Lợi là anh hùng giải phóng dân tộc chống giặc Minh với âm mưu Hán hóa nước ta. Nhưng ông cũng là tội đồ khi du nhập Tống Nho vào và coi đó là khuôn vàng thước ngọc cho mọi quan hệ trong xã hội, gây hệ lụy tiêu cực cho chúng ta đến tận bây giờ. Sau này cũng có người mắc công tội như thế. Ông sẽ viết cuốn tiểu thuyết về vấn đề này. Ông đánh giá cao ý chí tự cường dân tộc của triết gia Lương Kim Định.
Một cựu chiến binh – ông Hồng Quang (Nguyễn Đức Dục), năm nay đã 88 tuổi nhưng còn quắc thước. Ông đặt năm hương và chùm vải thiều trước ảnh của cố triết gia và vái người thày của mình mặc dù không được học nhưng theo tư tưởng của Lương Kim Định, ông đã hoàn thành 4 tác phẩm nghiên cứu về văn hóa Việt. Nhạc sĩ Lê Thanh Bảo 90 tuổi, coi cuộc tọa đàm này là để phục hồi nguyên khí quốc gia.
Nhà nghiên cứu Ngô Sỹ Thuyết lại cho Lương Kim Định là bậc "thánh nhân" vì những lời cảnh báo của ông vẫn đúng và thời sự đến hôm nay: "Đạo mất trước, nước mất sau". Đạo ở đây theo triết gia là "đạo Việt" là cái đạo tổ tiên gắn với đạo lý làm người. Chúng ta có thời tả khuynh cũng muốn loại trừ tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội rồi cũng muốn biến "tôn giáo của nó, thành tôn giáo của ta" nên đã làm cho một số tôn giáo không còn đúng nghĩa nữa. Đạo mất và nguy cơ mất nước đã hiện rõ.
Ông Nguyễn Trung, nguyên đại sứ Việt Nam tại Thái Lan và trưởng ban cố vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói rằng, ông 80 tuổi rồi nhưng đến đây thấy mù chữ vì không biết gì về triết gia Lương Kim Định. Ông đề nghị Trung tâm nên tổ chức nhiều cuộc Hội thảo, đào sâu tư tưởng của triết gia. Chỉ có 6 chữ "đạo mất trước, nước mất sau" của Lương Kim Định đã là chân lý của thời đại rồi.
Kết luận cuộc Tọa đàm, ông Nguyễn Khắc Mai cảm ơn các diễn giả, cử tọa và mong muốn sẽ được ủng hộ để tổ chức nhiều buổi tọa đàm tiếp theo.
Phạm Huy Thông