Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha gặp cộng đồng người Rom tại Košice
Lúc 15 giờ 45, từ Đại chủng viện thánh Carlo Borromeo, Đức Thánh Cha di chuyển bằng xe đến Luník IX cách đó 6,6km để gặp cộng đồng người Rom.
Luník IX là một trong 22 quận của thành phố Košice, nơi có mật độ người Rom cao nhất ở Slovakia. Theo luật năm 1990 của Hội đồng quốc gia Cộng hoà Slovakia, Luník IX được thiết lập như một quận tách biệt, với một chính quyền tự quản riêng. Hiện nay, vùng này có khoảng 4.300 người Rom sinh sống, nhưng con số chính xác thì khó xác định.
Đức Thánh Cha đến Luník IX, tại quảng trường trước trung tâm Salegiêng lúc 16 giờ và được cha Peter Bešenyei, giám đốc của trung tâm cùng với hai trẻ em người Rom chào đón.
Buổi gặp gỡ bắt đầu với lời chào mừng ngắn của cha Peter, sau đó là lời chứng của một gia đình người Rom, người đã tìm được chỗ đứng trong thế giới công việc.
Chia sẻ của Đức Thánh Cha
Trong bài chia sẻ đáp lời, Đức Thánh Cha đã lặp lại lời cửa thánh Phaolô VI đã từng nói với cộng đồng người Rom năm 1965: “Anh chị em ở trong Giáo hội, anh chị em không ở bên lề... Anh chị em ở nơi con tim Giáo hội”, ngài khuyến khích: “Không ai trong Giáo hội nên cảm thấy lạc lõng hoặc bị bỏ rơi. Đó không chỉ là một cách nói, đó là cách hiện hữu của Giáo hội.”
Thiên Chúa nhìn thấy chúng ta là con cái: Người nhìn với cái nhìn của người Cha, cái nhìn yêu mến dành cho mỗi đứa con. Nếu tôi đón nhận ánh nhìn ấy lên tôi, thì tôi học được cách nhìn người khác tốt hơn: tôi khám phá ra rằng còn có những người con khác của Thiên Chúa bên cạnh tôi và tôi nhận họ là anh em. Đây là Giáo Hội, một gia đình gồm những anh chị em cùng một Cha, Đấng đã cho chúng ta Chúa Giêsu là người anh em, để chúng ta hiểu được Người yêu tình huynh đệ đến nhường nào. Và Người muốn toàn thể nhân loại trở thành một đại gia đình.
Đi từ lời chứng thực tế của anh Ján, Đức Thánh Cha nói rằng: Anh Ján và Beáta vợ anh đã chào tôi: anh chị đã cùng nhau đặt ước mơ của gia đình trước sự đa dạng tuyệt vời về nguồn gốc, phong tục, tập quán của mình. Hơn nhiều lời nói, chính cuộc hôn nhân của anh chị là minh chứng cho sự cụ thể của việc chung sống có thể phá đổ nhiều định kiến cho rằng điều này dường như không thể vượt qua được. Không dễ gì vượt ra khỏi thành kiến, ngay cả giữa các Kitô hữu. Thật không dễ để đánh giá cao người khác, người ta thường nhìn thấy những trở ngại hoặc như kẻ thù, và diễn tả sự xét đoán mà không cần biết khuôn mặt và câu chuyện của họ.
Liên quan đến sự xét đoán, Đức Thánh Cha trích lời Chúa Giêsu: “Đừng xét đoán”. Ngài nói: “Đức Kitô nói với chúng ta: “Đừng xét đoán”. Tuy nhiên, đã bao nhiêu lần, chúng ta không chỉ ngồi lê hay đồn thổi, mà còn tự cho mình là công chính khi làm người phán xét khắt khe về người khác. Khoan dung với bản thân, nhưng lại cứng rắn với người khác. Thực tế, các xét đoán là định kiến bao nhiêu, thì chúng ta thường tô màu thêm bấy nhiêu! Đó là dùng lời nói làm biến chất vẻ đẹp của con cái Thiên Chúa, là anh em của chúng ta. Không thể hạ giảm thực tại về người khác thành những mô hình có sẵn của chính mình, không thể đóng khung người khác. Trên hết, để thực sự biết về người khác, chúng ta phải nhận biết họ: nhận biết rằng mỗi người đều mang nơi mình vẻ đẹp tuyệt vời của một người con Thiên Chúa, nơi đó phản chiếu hình ảnh Đấng Tạo Hóa.”
Đức Thánh Cha khuyến khích những người Rom sống trong sự hội nhập và phẩm giá. Ngài nói: “Sự bốc đồng và lời lẽ to tiếng chẳng giúp ích gì. Cô lập người khác không giải quyết được gì. Khi gia tăng sự đóng kín, thì sớm hay muộn cơn giận cũng bùng lên. Con đường để chung sống hòa bình là hội nhập. Đó là một quá trình hữu cơ, chậm rãi và quan trọng, bắt đầu với sự hiểu biết lẫn nhau, tiến bước với sự kiên nhẫn và hướng tới tương lai. Và tương lai sẽ thuộc về ai? Thuộc về con cái chúng ta. Chính chúng giúp định hướng chúng ta: những ước mơ lớn của chúng không thể va vào những bức tường chúng ta dựng lên. Chúng muốn phát triển cùng với những người khác, không có ngăn trở và không bị dập tắt. Chúng xứng đáng có một cuộc sống hòa nhập và tự do. Chúng là những người thúc đẩy những lựa chọn có tầm nhìn xa, vốn không tìm thấy sự đồng thuận ngay lập tức nhưng hướng đến tương lai của mọi người. Những lựa chọn can đảm phải được thực hiện vì con cái chúng ta: vì phẩm giá của chúng, vì sự giáo dục của chúng, để chúng lớn lên vừa bén rễ nơi nguồn gốc của chúng nhưng cũng đồng thời không bị ngăn trở trước những cơ hội.”
Cuối cùng, Đức Thánh Cha cảm ơn những người đang dấn thân giúp cộng đồng người Rom. Ngài nói: “Tôi cảm ơn những người thực hiện công việc hội nhập này, ngoài việc đòi hỏi không ít vất vả, đôi khi còn phải nhận sự hiểu nhầm và vô ơn, có lẽ ngay cả trong Giáo hội.
Các linh mục, tu sĩ và giáo dân và những người bạn thân mến! Xin cảm ơn anh chị em là những người đã cống hiến thời gian cho sự phát triển toàn diện của anh chị em của mình! Cảm ơn vì tất cả công việc với những ai ở bên lề. Tôi cũng đang nghĩ đến những người tị nạn và tù nhân. Tôi đặc biệt diễn tả sự gần gũi với những ai đang bị cầm tù. Xin cám ơn cha Peter kể về các trung tâm mục vụ, nơi không chỉ trợ giúp xã hội, mà còn đồng hành cá nhân. Hãy tiến bước trên con đường này, dù không thấy được tất cả thành quả ngay lập tức, nhưng nó có tính ngôn sứ, bởi vì nó bao gồm những anh chị em rốt hết, xây dựng tình huynh đệ, gieo hòa bình. Đừng ngại đi ra để gặp gỡ những người thiệt thòi. Anh chị em sẽ thấy mình bước ra để gặp Chúa Giêsu, Người chờ đợi anh chị em ở nơi người đang cần, nơi thiếu thốn; nơi phục vụ chứ không phải nơi quyền lực; nơi nhập thể chứ không phải nơi dễ chịu. Chính người hiện diện ở đó.”
Sau bài chia sẻ, Đức Thánh Cha đọc Kinh Lạy Cha và ban phép lành cho những người hiện diện.
Kết thúc buổi gặp gỡ, Đức Thánh Cha di chuyển đến sân vận động Lokomotiva để gặp gỡ giới trẻ.
Văn Yên, SJ - Vatican News
ĐTC gặp gỡ giới trẻ tại sân vận động Lokomotiva ở Košice
Sân vận động Lokomotiva được xây dựng vào năm 1959, với sức chứa khoảng 10.000 người, là một sân vận động thể thao đa năng được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá ở địa phương. Lịch sử sân vận động gắn liền với câu lạc bộ Lokomotíva Košice (năm 1946), câu lạc bộ bóng đá quan trọng thứ hai trong nước.
Trong buổi gặp gỡ với giới trẻ, chân phước Anna Kolesárová được nhắc đến. Anna là một thiếu nữ người Slovakia bị một người lính Liên Xô giết trong Chiến tranh Thế giới thứ hai vì bảo vệ trinh tiết. Anna Kolesárová đã được phong chân phước tại sân vận động Lokomotiva vào ngày 01/9/2018.
Khi đến nơi, Đức Thánh Cha được vị Phụ trách Mục vụ Giới trẻ và hai bạn trẻ dâng hoa đón tiếp giữa bài ca và tiếng reo hò vui mừng của các bạn trẻ.
Buổi gặp gỡ được bắt đầu với lời chứng và các câu hỏi của đại diện các bạn trẻ dành cho Đức Thánh Cha. Vì thế, bài huấn dụ của Đức Thánh Cha là câu trả lời cho các vấn đề được các bạn trẻ đề cập đến.
Không tầm thường hoá tình yêu
Đức Thanh Cha nói: “Cha bắt đầu với câu hỏi của các con về tình yêu lứa đôi. Tình yêu là giấc mơ lớn nhất của tất cả chúng ta trong cuộc sống, nhưng đây không phải là giấc mơ rẻ tiền. Giống như tất cả những điều tuyệt vời trong cuộc sống, tình yêu rất đẹp, nhưng không dễ dàng. Tình yêu là giấc mơ, nhưng để giải thích nó thì không dễ chút nào. Cha lấy lại một câu của các con. Các con đã nói rằng: “Chúng con đã bắt đầu cảm nhận món quà này với đôi mắt hoàn toàn mới”. Các con nói đúng: chúng ta cần phải có đôi mắt mới, đôi mắt không bị vẻ bề ngoài đánh lừa. Các con thân mến, chúng ta đừng tầm thường hóa tình yêu, bởi vì tình yêu không chỉ đơn giản là một cảm xúc hay cảm giác, mặc dù nó có thể bắt đầu theo cách đó. Tình yêu không phải là có tất cả mọi thứ và ngay lập tức, nó không đáp ứng luận lý sử dụng và vứt bỏ. Tình yêu là sự chung thủy, là món quà và trách nhiệm”.
Đức Thánh Cha nhận xét rằng: “Nếu các con nhớ lại một số câu chuyện tuyệt vời mà các con đã từng đọc trong tiểu thuyết, hoặc xem trong những bộ phim khó quên hoặc nghe kể một số câu chuyện cảm động, thì các con sẽ thấy rằng luôn có hai điều đi cùng nhau: một là tình yêu, hai là phiêu lưu, tính anh hùng. Để làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên tuyệt vời, chúng ta cần tình yêu và sự anh hùng. Nếu chúng ta nhìn lên Chúa Giêsu trên Thánh giá, chúng ta sẽ thấy cả tình yêu vô biên và lòng can đảm của Người trong việc trao ban cuộc sống đến cùng, không đo lường được. Trước mắt chúng ta là chân phước Anna Kolesárová, một nữ anh hùng của tình yêu. Ngài nói với chúng ta hãy nhắm đến những mục tiêu cao. Xin các con đừng để những tháng ngày của các con trôi qua như tiểu thuyết truyền hình nhiều tập”.
Hãy có giấc mơ đẹp
Đức Thánh Cha nói đến một khía cạnh khác của tình yêu đó là ước mơ. Ngài nói: “Hãy mơ về một vẻ đẹp vượt lên trên dáng vẻ bên ngoài, xu hướng thời trang. Hãy mơ ước, không lo sợ về việc xây dựng một gia đình, sinh dưỡng và nuôi dạy con cái, trải nghiệm cuộc sống và chia sẻ tất cả với một người khác. Đừng xấu hổ về những lỗi lầm và yếu đuối của các con, vì có một người sẵn sàng chấp nhận và yêu chúng, một ai đó sẽ yêu các con như các con là. Những giấc mơ nói cho chúng ta biết về một cuộc sống mà chúng ta muốn. Những giấc mơ tuyệt vời không phải là những chiếc xe hơi đẹp, những bộ quần áo thời trang hoặc những kỳ nghỉ xa xỉ. Đừng quan tâm đến những người nói với các con về những giấc mơ nhưng sau đó lại bán cho các con những ảo tưởng: họ là những người bóp méo hạnh phúc . Chúng ta được tạo dựng cho một niềm vui lớn hơn nhiều. Mỗi người chúng ta là duy nhất. Chúng ta được đặt để trong thế giới này để được yêu thương vì chúng ta là, và để yêu thương người khác theo cách độc đáo và đặc biệt của riêng chúng ta. Cuộc sống không phải là một trò chơi, nơi chúng ta có thể ngồi trên băng ghế, chờ đợi để được gọi. Không, mỗi người chúng ta là duy nhất trong mắt Chúa. Vì vậy, đừng bao giờ để mình bị “đồng nhất hóa”, chúng ta không được dựng nên hàng loạt, nhưng mỗi người là duy nhất và tự do. Và chúng ta trong thế giới để sống câu chuyện tình yêu với Chúa, để đưa ra những quyết định táo bạo và vững chắc, để dám liều lĩnh trong sự mạo hiểm tuyệt vời của tình yêu. Các con có tin điều này không? Đây có phải là giấc mơ của các con không?
Để tình yêu sinh hoa trái, cần phải nhớ đến cội nguồn
Đức Thánh Cha cho các bạn trẻ những lời khuyên hữu ích để tình yêu sinh hoa trái, đó là không được quên cội nguồn, là ông bà cha mẹ. Vì thế, cần phải chăm tưới cội nguồn qua việc thăm viếng, dành thời gian lắng nghe ông bà. “Ngày nay, con người có nguy cơ lớn lên nhưng không có nguồn gốc, bởi vì chúng ta luôn có xu hướng chạy, làm mọi thứ một cách vội vàng. Những gì chúng ta thấy trên internet có thể ngay lập tức vào nhà chúng ta; chỉ cần một cú nhấp chuột thì mọi người và mọi thứ hiện trên màn hình. Và rồi những khuôn mặt đó có thể trở nên quen thuộc hơn so với những khuôn mặt những người đã sinh ra chúng ta. Bị lấp đầy bởi các tin nhắn ảo, chúng ta có nguy cơ mất đi gốc rễ thực sự của mình”
Đức Thánh Cha còn khuyên các bạn trẻ không nhượng bộ trước những lời nói tiêu cực như: “sẽ không bao giờ thay đổi được. Nếu các con tin vào điều này, các con sẽ trở nên bi quan, một căn bệnh làm chúng ta già đi từ bên trong. Các con già đi trong khi vẫn còn trẻ. Ngày nay, có rất nhiều nỗ lực gây chia rẽ, rất nhiều người sẵn sàng đổ lỗi cho mọi người và mọi thứ, những người lan truyền tiêu cực, những người chuyên phàn nàn. Đừng chú ý đến họ, vì bi quan và phàn nàn không phải là Kitô hữu. Chúa không ưa sự buồn bã và tự nản. Chúng ta không được dựng nên để cắm mặt xuống đất, nhưng là để ngước nhìn Trời cao”.
Thuốc chữa chán nản: Bí tích Hoà giải
Tới đây, trả lời cho câu hỏi của Petra liên quan đến việc xưng tội, Đức Thánh Cha nói rằng đây chính là phương dược chữa sự chán nản. Đức Thánh Cha nói tiếp: Petra, “con hỏi cha làm thế nào để những người trẻ có thể vượt qua những trở ngại trên đường để đến với lòng thương xót của Thiên Chúa. Ở đây cũng là vấn đề của việc chúng ta nhìn mọi thứ như thế nào, và của việc nhìn vào những gì thực sự quan trọng. Nếu cha hỏi tất cả các con nghĩ gì khi các con đi xưng tội, cha chắc chắn rằng câu trả lời của các con sẽ là “tội lỗi”. Nhưng cha hỏi các con, tội lỗi có thực sự là trung tâm của Bí tích Hoà giải không? Chúa có muốn các con đến gần Người chỉ nghĩ đến các con và tội lỗi của các con không; hay là nghĩ về Người? Cái gì là trung tâm, tội lỗi của chúng ta hay Người Cha tha thứ tất cả tội lỗi? Chúng ta không đi xưng tội để bị trừng phạt và bị sỉ nhục, nhưng như những người con chạy về trong vòng tay yêu thương của Cha. Và Cha sẽ nâng chúng ta lên trong mọi hoàn cảnh, Người tha thứ cho chúng ta tất cả tội lỗi”.
Đức Thánh Cha khuyên sau khi Xưng Tội, hãy ngồi thinh lặng trong một giây lát để nhớ đến ơn tha thứ đã lãnh nhận. Ngài nói: “Hãy gìn giữ sự bình an đó trong tâm hồn, sự tự do nội tâm mà các con đã cảm nhận được. Giờ đây, tội lỗi của các con không còn nữa, nhưng là sự tha thứ mà Chúa đã ban cho các con. Hãy gìn giữ điều đó; đừng để nó bị đánh cắp. Lần tới khi các con đi xưng tội, hãy nhớ đến điều này: Tôi sẽ đến để nhận lại cái ôm đã làm cho tôi bình an. Tôi sẽ không đi đến trước một vị thẩm phán, nhưng đến với Chúa Giêsu, đấng yêu thương và chữa lành tôi. Trong lúc Xưng Tội, chúng ta hãy để cho Chúa ở vị trí ưu tiên. Nếu Chúa là người giữ vai chính, mọi thứ sẽ trở nên tốt đẹp và Xưng tội sẽ trở thành Bí tích của niềm vui. Đúng thế, niềm vui; không lo sợ bị phán xét nhưng là niềm vui. Điều quan trọng là các linh mục phải có lòng thương xót”.
Thường khi đi xưng tội, chúng ta hay xấu hổ, Đức Thánh Cha nói: “Đây không phải là vấn đề, nhưng là một điều tốt, bởi vì nó có nghĩa là các con không chấp nhận những gì các con đã làm. Cảm thấy xấu hổ là một dấu hiệu tốt, nhưng giống như bất kỳ dấu hiệu nào khác, nó đòi hỏi vượt lên trên. Đừng để sự xấu hổ giam cầm, bởi vì Thiên Chúa không bao giờ xấu hổ về các con. Người yêu các con tại chính nơi đó”.
Đức Thánh Cha nói đến một bối rối khác khi đi xưng tội đó là cảm thấy “Con không thể tha thứ cho chính mình, vậy làm thế nào Chúa có thể tha thứ cho con nếu con luôn phạm đi phạm lại cùng một vài tội?” Đức Thanh Cha hỏi lại: “có bao giờ Chúa bực mình, khi con đến để xin Người tha thứ không? Không! Không bao giờ. Thiên Chúa đau khổ khi chúng ta nghĩ rằng Người không thể tha thứ cho chúng ta, bởi vì điều đó giống như chúng ta nói với Người: ‘Ngài yếu trong tình yêu!’. Trái lại, Thiên Chúa vui mừng mỗi khi tha thứ cho chúng ta. Khi Người nâng chúng ta lên, Người tin tưởng chúng ta như thể đó là lần đầu tiên. Chúa không bao giờ nản lòng. Chúng ta là những người dễ nản lòng, Chúa thì không. Người không nhìn chúng ta như những tội nhân để dán nhãn, nhưng là những người con để yêu thương. Không nhìn con người sai lỗi nhưng nhìn con cái được yêu thương; hơn nữa, đang bị thương tích, do đó Người cảm thông và dịu dàng hơn. Vì vậy, đừng bao giờ quên, mỗi khi chúng ta đi xưng tội, trên thiên đàng có một lễ hội. Điều này cũng xảy ra như vậy trên mặt đất!”
Hãy để Chúa ôm và trao niềm hy vọng
Với câu hỏi cuối cùng “Làm thế nào để khuyến khích người trẻ không sợ ôm lấy thập giá”. Đức Thánh Cha trả lời: “chúng ta hãy để cho Chúa Giêsu ôm chúng ta. Bởi vì khi chúng ta ôm Chúa Giêsu, là chúng ta ôm niềm hy vọng. Chúng ta không thể tự mình ôm lấy thập giá; đau khổ không cứu được ai. Chính tình yêu biến đổi nỗi đau. Vì vậy, chúng ta hãy luôn luôn ôm lấy thập giá cùng với Chúa Giêsu và đừng bao giờ ôm thập giá một mình! Khi chúng ta ôm lấy Chúa Giêsu, niềm vui sẽ được tái sinh. Và niềm vui của Chúa Giêsu giúp chúng ta tìm thấy sự bình an”.
Sau bài nói chuyện, Đức Thánh Cha cùng với các bạn trẻ cầu nguyện với Kinh Lạy Cha, và ngài ban phép lành cho các bạn trẻ. Đức Thánh Cha rời sân vận động giữa bài hát vang rộn của các bạn trẻ.
Vào lúc 18 giờ 30, Đức Thánh Cha lên máy bay trở về lại thủ đô Bratislava. Sau một giờ bay, ngài đến sân bay quốc tế Bratislava, và từ đó về Toà Sứ thần và dùng bữa tối, kết thúc ngày thứ ba chuyến tông du đến Slovakia.
Ngọc Yến - Vatican News
Bài giảng của ĐTC trong Phụng vụ Thánh Thể lễ Suy tôn Thánh giá
BÀI GIẢNG CỦA ĐTC TRONG PHỤNG VỤ THÁNH THỂ LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ
Prešov, Thứ Ba 14/09/2021
“Chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh... sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô nói với chúng ta như thế, nhưng ngài không giấu giếm sự thật rằng, theo sự khôn ngoan của con người, thập giá lại là một điều gì đó hoàn toàn khác: đó là “cớ vấp phạm” và “sự ngu xuẩn” (1Cr1, 23-24). Thập giá đã là công cụ của sự chết, nhưng nó đã trở thành nơi phát sinh sự sống. Đó là một cảnh tượng kinh khủng, nhưng nó đã mặc khải cho chúng ta vẻ đẹp của tình yêu thương của Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao dân Chúa tôn kính Thánh giá và Phụng vụ cử hành ngày lễ hôm nay. Tin Mừng thánh Gioan dẫn dắt và giúp chúng ta đi vào mầu nhiệm này. Chính thánh sử đã hiện diện, đứng dưới chân Thánh giá. Chiêm ngắm Chúa Giêsu, đã chết, treo lơ lửng trên thanh gỗ, ngài viết: “Người xem thấy điều này đã làm chứng” (Ga 19, 35). Thánh Gioan vừa nhìn thấy vừa làm chứng.
Trước tiên là nhìn thấy. Thánh Gioan đã nhìn thấy gì khi đứng dưới chân Thánh giá? Chắc chắn là những gì những người khác đã thấy: Chúa Giêsu, một người vô tội và tốt lành, bị giết chết một cách tàn nhẫn giữa hai tên tội phạm. Một trong số rất nhiều bất công, một trong nhiều hy sinh đẫm máu không thay đổi lịch sử, bằng chứng mới nhất cho thấy dòng sự kiện trên thế giới của chúng ta không thay đổi: người tốt bị gạt sang một bên còn kẻ ác chiến thắng và thịnh vượng. Trong mắt người đời, cây Thánh giá tượng trưng cho sự thất bại.
Chúng ta cũng có thể có nguy cơ không vượt trên cái nhìn đầu tiên, hời hợt này; chúng ta cũng có thể không chấp nhận thông điệp của Thánh giá, không chấp nhận rằng Thiên Chúa cứu độ chúng ta bằng cách cho phép tất cả những điều xấu trên thế giới của chúng ta hoành hành trên chính thân mình Người. Chúng ta có thể cũng không chấp nhận, có lẽ ngoại trừ bằng lời nói, một Thiên Chúa yếu ớt và bị đóng đinh, và mơ về một Thiên Chúa mạnh mẽ và chiến thắng. Đây là một cám dỗ lớn. Chúng ta có thường khao khát một Kitô giáo của những người chiến thắng, một Kitô giáo chiến thắng có tầm quan trọng và ảnh hưởng, nhận được vinh quang và danh dự? Tuy nhiên, một Kitô giáo không có thập giá là một Kitô giáo của thế gian, và trở thành vô ích.
Mặt khác, thánh Gioan đã nhìn thấy nơi Thánh giá sự hiện diện và công trình của Thiên Chúa. Ngài đã nhận ra vinh quang của Thiên Chúa nơi Chúa Kitô chịu đóng đinh. Ngài đã thấy rằng bất chấp vẻ bề ngoài, Chúa Giêsu không phải là kẻ thua cuộc, mà là Thiên Chúa, Đấng sẵn lòng hiến thân vì mọi người. Tại sao Chúa làm điều này? Người có thể cứu mạng sống mình, có thể tránh xa khỏi lịch sử quá khổ đau và tàn bạo của nhân loại. Ngược lại, Người đã chọn đi vào lịch sử đó, để hòa mình vào nó.
Đó là lý do tại sao Chúa chọn con đường khó khăn nhất có thể: là con đường thập giá. Để không ai trên trái đất phải tuyệt vọng đến mức không thể tìm gặp Chúa, ngay cả ở đó, giữa đau khổ, tăm tối, bị bỏ rơi, tai tiếng về sự khốn khổ và sai lầm của chính mình. Ở đó, ở chính nơi mà chúng ta nghĩ rằng Chúa không thể hiện diện, thì Người đã đến. Để cứu những người tuyệt vọng, chính Chúa đã chọn nếm trải sự tuyệt vọng; tự mình gánh lấy nỗi thống khổ cay đắng nhất của chúng ta, trên Thánh giá Người đã kêu lên: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Chúa bỏ rơi con?” (Mt 27, 46; Tv 22, 1). Một tiếng kêu mang lại ơn cứu độ. Nó mang lại ơn cứu độ bởi vì Thiên Chúa đã nhận lấy ngay cả kinh nghiệm bị bỏ rơi của chúng ta. Và bây giờ, với Người, chúng ta không bao giờ còn cô đơn nữa.
Làm thế nào để chúng ta học cách nhìn thấy vinh quang nơi Thánh giá? Một số vị thánh dạy chúng ta rằng Thánh giá giống như một cuốn sách: để biết nó, chúng ta phải mở nó ra và đọc. Mua một cuốn sách thôi là chưa đủ, hãy xem qua nó và đặt nó trên giá sách đẹp trong nhà của chúng ta. Điều này cũng đúng đối với Thánh giá: nó được vẽ hoặc chạm khắc ở khắp mọi nơi trong các nhà thờ của chúng ta. Các cây Thánh giá được tìm thấy ở khắp nơi xung quanh chúng ta: trên cổ, trong nhà, trong xe hơi, trong túi. Điều này có ích gì, trừ khi chúng ta dừng lại để chiêm ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh và mở lòng với Người; trừ khi chúng ta để mình bị ngạc nhiên bởi những vết thương Người đã chịu vì chúng ta, trừ khi trái tim chúng ta thổn thức vì xúc động và chúng ta khóc trước Thiên Chúa bị thương tích vì yêu chúng ta. Nếu chúng ta không làm điều đó, Thánh giá vẫn là một cuốn sách không được đọc, dù chúng ta biết tựa đề và tác giả nhưng nó không có ảnh hưởng gì đến cuộc sống của chúng ta ta biết tựa đề và tác giả nhưng nó không có ảnh hưởng gì đến cuộc sống của chúng ta. Chúng ta đừng biến Thánh giá thành một đồ vật để sùng kính, tệ hơn nữa là một biểu tượng chính trị, một dấu hiệu của địa vị tôn giáo và xã hội.
Chiêm ngắm Chúa bị đóng đinh đưa chúng ta đến bước thứ hai: làm chứng. Nếu chúng ta chăm chú nhìn vào Chúa Giêsu, khuôn mặt của Người sẽ được phản chiếu trên khuôn mặt của chính chúng ta: các nét của Người trở thành của chúng ta, tình yêu của Đấng Kitô chiến thắng chúng ta và biến đổi chúng ta. Tôi nghĩ đến các vị tử đạo tại nước này đã làm chứng cho tình yêu của Chúa Kitô trong những thời kỳ khó khăn, khi tất cả đều được khuyên im lặng, che dấu, không tuyên xưng đức tin. Tuy nhiên, họ không thể không làm chứng. Biết bao người quảng đại đã phải chịu đau khổ và chết ở đây, tại Slovakia, vì Danh Chúa Kitô! Chứng tá của họ là chứng tá của tình yêu Chúa, Đấng mà họ đã chiêm ngắm lâu dài. Đến mức họ trở nên giống Người, ngay cả trong cái chết.
Tôi cũng nghĩ đến thời đại của chúng ta, trong đó không thiếu cơ hội để làm chứng. Tạ ơn Chúa, ở đây chúng ta không thấy có những kẻ bắt bớ Kitô giáo như ở rất nhiều nơi khác trên thế giới. Tuy nhiên, chứng tá của chúng ta có thể bị suy yếu bởi tính thế tục và sự tầm thường. Ngược lại, Thánh giá đòi một chứng tá trong suốt. Vì thập giá không phải là ngọn cờ để vẫy, nhưng là nguồn mạch thuần khiết của một lối sống mới. Đó là gì? Đó là lối sống của Tin Mừng, của các Mối Phúc.
Một chứng nhân mang Thánh giá trong lòng, và không chỉ trên cổ mình, không xem ai là kẻ thù, nhưng xem tất cả mọi người đều là anh chị em mà Chúa Giêsu đã hiến mạng sống vì họ. Một chứng nhân của Thánh giá không bám vào những điều sai trái của quá khứ hoặc cứ than thở về hiện tại. Chứng nhân của Thánh giá không sử dụng những cách lừa dối và quyền lực thế gian: họ không muốn áp đặt bản thân và những gì của họ, nhưng muốn hiến mạng sống của mình cho người khác. Họ không tìm kiếm lợi ích cho riêng mình, để được coi là đạo đức: đây sẽ là một tôn giáo giả hình, không phải là một chứng tá cho Chúa bị đóng đinh. Các chứng nhân của Thánh giá chỉ có một chiến lược, đó là chiến lược của Thầy: tình yêu thương khiêm nhường. Họ không tìm kiếm những chiến thắng ở thế gian, bởi vì họ biết rằng tình yêu của Đức Kitô sinh hoa kết trái trong những biến cố của cuộc sống hàng ngày, đổi mới mọi sự từ bên trong, giống như hạt giống rơi xuống đất, chết đi và sinh nhiều bông hạt.
Anh chị em thân mến, anh chị em đã thấy những chứng nhân như vậy. Hãy trân trọng ký ức về những người đã nuôi dưỡng và giúp anh chị em trưởng thành trong đức tin. Những người hèn mọn, đơn giản, những người đã yêu thương hiến dâng cuộc đời cho đến cùng. Đây là những anh hùng của chúng ta, những anh hùng của cuộc sống hàng ngày, và cuộc đời của họ đã thay đổi lịch sử. Các chứng nhân sinh ra những nhân chứng khác, bởi vì họ là những người ban sự sống. Đó là cách mà đức tin được lan truyền: không phải bằng quyền lực thế gian mà bằng sự khôn ngoan của Thánh giá; không phải bằng cơ cấu nhưng bằng chứng tá. Hôm nay, từ sự im lặng hùng hồn của Thánh giá, Chúa cũng đang hỏi từng người trong anh chị em: Con có muốn trở nên chứng tá của Thầy không?
Đứng cùng với thánh Gioan tại đồi Canvê là Thánh Mẫu của Thiên Chúa. Không ai đã thấy cuốn sách thập giá rộng mở như Mẹ, và Mẹ đã làm chứng cho điều đó bằng tình yêu khiêm nhường. Qua lời chuyển cầu của Mẹ, chúng ta hãy xin ơn hướng đôi mắt tâm hồn của chúng ta về Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Khi đó đức tin của chúng ta sẽ có thể nở hoa trong sự viên mãn của nó; và chứng tá của chúng ta sẽ sinh hoa kết trái.
Tại sao Giáo Hội Công Giáo tôn kính Thánh Giá có hình Chúa Kitô (Crucifix) bị đóng đanh?
Hỏi : Xin cha giải thích cho biết tại sao người Tin Lành chỉ trưng cây thập giá không có Chúa chịu đóng đanh, trong khi người Công Giáo lại trưng hình Chúa chịu đóng đanh trên thập giá ở trong nhà thờ cũng như ở tư gia ?
Trả lời :
Đây là câu hỏi rất quan trọng về sự khác biết giữa Công Giáo và Tin Lành liên quan đến cây thập giá của Chúa Kitô
Các Nhóm Tin Lành, nói chung, đều cho rằng Chúa Kitô đã chết và đã sống lại rồi, nên không cần thiết phải tôn kinh thánh giá với thân thể Chúa bị đóng đanh nữa. Đó là lý do họ chỉ tôn kinh thập giá không có Chúa bị đóng đanh mà thôi.
Đây là niềm tin của anh em Tin Lành, chúng ta không muốn phê bình và tranh cãi gì với họ.
Ngược lại, về phần mình, sở dĩ Giáo Hội Công Giáo tôn kinh Thánh giá với hình Chúa chịu đóng đanh vì giáo lý sau đây của Thánh Phao lô Tông Đồ:
“ Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đanh, một điều người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ.” ( 1 Cor 1: 22-23)
ở nơi khác, Thánh Phaolô cũng viết:
“ Bởi thế tại vì lề luật mà tôi đã chết đối với lề luật để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đanh với Đức Kitô vào thập giá.” ( Gl 2: 19)
Hay rõ hơn nữa:
“ Hồi còn ở giữa anh em, tôi không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Kitô bị đóng đanh vào thập giá,” ( 1 Cor 2 : 2)
Như thế cho ta thấy rõ là Thánh Phaolô đã đặc biệt nhấn mạnh đến sự kiện Chúa Kitô bị đóng đanh vào thập giá để hiến mạng sống mình làm “ giá chuộc cho muôn người.” ( Mt 20:28),
Dĩ nhiên Thánh Phaolô cũng không coi nhẹ sự kiện Chúa đã sống lại, đã ra khỏi Mồ đá sau ba ngày được mai táng ở đây, như Thánh Kinh đã quả quyết, căn cứ vào sự kiện ngôi mộ trống và lời chứng của Maria Mac-đa-lê- na, và hai phụ nữ khác , là những người đầu tiên đã đến viếng Mộ Chúa sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần . Các bà đã không thấy xác Chúa và Mac-đa lêna đã khóc vì tưởng ai đã lấy trộm xác Chúa. Cho nên , để an ủi họ và cho các bà niềm tin về việc Người đã sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra với các bà và bảo họ về nói với các Tông Đồ là Chúa đã sống lại và sẽ gặp các ông ở Ga-li-lê , (Mt 28: 1-8; Mc 16: 1-8; Lc 24: 1-7).
Thánh Phaolô cũng quả quyết như sau về sự Phục Sinh của Chúa Kitô:
“ Trước hết tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận: đó là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh; rồi Người đã được mai táng , và ngày thứ ba đã chỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh.” ( 1 Cor 15: 3-4)
Đây là niêm tin của Giáo Hội và là điều Giáo Hội phải dạy cho con cái mình tin từ xưa đến nay và còn mãi về sau cho đến ngày cánh chung tức là ngày tận thế hay hết thời gian.
Nhưng sự kiện Giáo Hội vẫn tôn kính Thánh giá với hình Chúa bị đóng đinh ( Crucifix) không có nghĩa không chú trọng đến việc Chúa đã sống lại như anh em Tin Lành quan niệm; mà ngược lại, Giáo Hội muốn nhấn mạnh thêm về ý nghĩa Chúa đã chịu đóng đinh và chết trên thập giá để đền tội thay cho cả nhân loại đáng phải phạt vì tội.
Nghĩa là Giáo Hội muốn cho con cái khi nhìn thân hình Chúa bị treo trên Thánh giá, phải nhớ đến trước tiên điều Thánh Phaolô đã dạy là : “ Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác Con mình” ( Rm 8: 3)
Lên án tội trong thân xác Con mình , vì con người đã phạm tội trong thân xác nên Thiên Chúa đã sai Con mình là Chúa Giê su Kitô đến trần gian mang thân xác giống thân xác tội lỗi của con người để đền tội thay cho tất cả nhân loại qua khổ nạn vác thập gias nặng nề, chịu đóng và chết tất tưởi trên đó.
Như thế, nếu ai sống theo xác thịt, với những đòi hỏi bất chính, đối nghịch hoàn toàn với bản chất cực tốt cực lành của Thiên Chúa, thì sẽ dẫn đưa đến sự chết đời đời.Ngược lại, ai sống theo thần khí, tức sống theo ý muốn tốt lành của Thiên Chúa được Chúa Thánh Linh soi dẫn, thì sẽ được cứu độ để sống đời đời với Chúa trên Nước Trời mai sau.Mọi người đều có tự do chọn lựa bao lâu còn sống trên đời này và trong thân xác có ngày phải chết đi này.Nghĩa là Thiên Đàng hay hỏa ngục là tùy chọn lựa của con người và Thiên Chúa luôn tôn trọng ý muốn tự do (free will) này của con người.
Lại nữa, vì Chúa Kitô đã chịu mọi khốn khó trong thân xác mình để đền tội thay cho con người, nên Thánh giá vởi hình Chúa đầu đội mão gai, chân tay bị đanh đóng thâu qua treo trên thập giá sẽ nhắc nhở cho chúng ta về tội lỗi của mọi người chúng ta khiến Chúa phải bị đánh phạt cách nặng nề như vậy.
Do đó,để xứng đáng hưởng công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa, mọi người tín hữu chúng ta phải quyết tâm chừa bỏ tội lỗi để không đóng đanh Chúa thêm lần nào nữa trong tâm hồn mình. Phải xa tránh tội vì chỉ có tội mới làm ngăn cách chúng ta với Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành. Chỉ có tội mới đẩy chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa để thuộc về ma quỷ là kẻ cầm đầu và gây ra mọi tội lỗi và sự dữ từ đầu cho đến bây giờ và còn mãi về sau cho đến ngày hết thời gian.Cứ nhìn vào thực trạng của thế giới hôm nay thì đủ biết tội lỗi ghê gớm thế nào, và vì sao Chúa Kitô còn phải chịu đóng đanh thêm nhiều lần nữa vì tội con người.
Đó là tội giết người, giết thai nhi để lấy các cơ phận của thai nhi đem bán như những món hàng thương mại để kiếm tiền cách vô luân,vô đạo như bọn điều hành cơ quan Planned Parenthood đã và đang làm công khai và hợp pháp từ bao lâu nay ở Mỹ. Đó là tội nhân danh tôn giáo để giết hại những ai không thuộc về phe của chúng, như bọn quá khich Hồi giáo ( ISIS) đang làm ở Trung Đông. Lại nữa, đó là tội ác của bọn buôn người, buôn bán phụ nữ cho nô lệ tình dục, và bắt cóc trẻ gái để bán cho bọn ma cô tú bà hành nghề mãi dâm và ấu dâm( child prostitution) rất khốn nạn và tội lỗi ở rất nhiều nơi trên thế giới tục hóa ngày nay.
Lại nữa, đó là tội của bọn tham quyền cố vị , cố duy trì ách cai trị độc ác, để vơ vét của cải, làm giầu cho bọn chúng, và tạo bất công bóc lột người dân lành chẳng may rơi vào ách thống trị của chúng . Sau cùng đó là tội dửng dưng trước sự đau khổ , nghèo khó của biết bao người kém may mắn trong xã hội, nạn nhân của bóc lột và bất công của mọi chế độ cai trj hà khắc,bất công và vô nhân đạo.
Sự có mặt của các tội con người đã và đang phạm ở khắp nơi cũng biện minh cho lý do có nơi gọi là hỏa ngục để cho những kẻ đang làm những sự dữ mà không biết sám hối từ bỏ thì sẽ tự dẫn thân đến nơi khốn nạn này để bị trừng phạt xứng đáng với tội họ đã làm khi còn sống trên trần gian này.
Thiên Chúa là Cha rất nhân từ, không muốn ai phải hư mất, không muốn phạt ai, vì Người “ muốn cho mọi người được cứu độ và nhậm biết chân lý,” ( 1 Tm 2: 4). Nhưng chính con người lại muốn chọn bị hư mất, vì đã tự do chọn lựa cách sống nghich cùng Thiên Chúa mà không hề biết ăn năn sám hối để xin Người tha thứ .
Mặt khác, Thánh giá với hình Chúa bị đóng đanh cũng minh chứng hùng hồn điều Chúa Kitô đã nói với các Tông Đồ trước ngày Người bị bắt và bị treo trên thập giá. Chúa nói:
“ Không có tình thường nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy” ( Ga 15: 13-14)
Chúa coi tất cả chúng ta là bạn hữu của Người, và Chúa đã thực sự hy sinh tính mạng của Người cho chúng ta khi giang tay chịu chết trên thập giá. Vì thế, mỗi lần ngắm hình Chúa bị đóng đanh trên thập giá là dịp cho ta nhớ đến tình thương lớn lao của Chúa dành cho mọi người chúng ta, để từ đó ta thêm quyết tâm yêu mến Chúa Kitô một ngày một hơn để bước đi theo Chúa là “ con Đường, là sự Thật và là sự Sống.” ( Ga 14: 6).
Tóm lại, thập giá với thân hình Chúa chịu đóng đanh nhắc cho ta giá đắt Chúa Kitô đã trả cho chúng ta được cứu rỗi, đồng thời cũng nhắc cho ta tình thương vô biên của Thiên Chúa Cha, Đấng đã hy sinh Con mình cho chúng ta được cứu chuộc và có hy vọng được sống đời đời với Chúa trên Thiên Đàng mai sau.
Do đó, Giáo Hội dạy phải tôn kính thập giá với thân hình Chúa Kitô bị treo trên đó cho những ai nhìn lên để xin ơn cứu chuộc, giống như con rắn đồng mà ông Mô-sê đã treo trên cây cột trong sa mạc xưa để những ại bị rắn độc cắn nhìn lên sẽ được cứu sống.(x. Ds 21: 6-9)
Ước mong giải đáp trên đây thỏa mãn câu hỏi đặt ra.
Lm P.X Ngô Tôn Huấn
ĐTC gặp các giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh và giáo lý viên Slovakia
Đức Thánh Cha được Đức TGM của Bratislava và cha sở Nhà thờ chính toà đón tại lối vào. Ngài được một nữ tu và một giáo lý viên trao bó hoa để đặt trước Thánh Thể trước khi ra trước cung thánh để bắt đầu buổi gặp gỡ.
Trước hết, Đức TGM Stanislav Zvolenský, chủ tịch HĐGM Slovakia đại diện những người tham dự chào mừng Đức Thánh Cha. Sau đó, Đức Thánh Cha đáp lời bằng một diễn văn với lối nói gần gũi và thân tình.
Ngài nói rằng: “Tôi đến đây để san sẻ với anh chị em bước đường cuộc sống, những ưu tư, mong đợi và hy vọng của Giáo hội và đất nước này. Đây là cách mà cộng đoàn tín hữu sơ khai đã sống: chuyên chăm và hiệp nhất, họ bước đi cùng nhau (x. Cv 1,12-14).”
Giáo hội không phải là pháo đài
Điều đầu tiên được ĐTC nhấn mạnh là “Giáo hội không phải là một pháo đài, một thế lực, một lâu đài toạ lạc trên cao nhìn xuống thế giới với khoảng cách và tự mãn.” “Nhưng Giáo hội là cộng đoàn muốn gắn kết với Đức Ki-tô bằng niềm vui Tin Mừng, đó là men làm dậy nên vương quốc của bác ái và hoà bình trong khối bột thế giới. Do vậy, chúng ta không nên tin vào cám dỗ của sự hoành tráng, những điều to lớn kiểu trần thế! Giáo hội phải khiêm nhường như Đức Giê-su, Đấng đã tự ra không, trở nên nghèo để chúng ta được giàu có (x. 2Cr 8,9), Người đã đến và ở giữa chúng ta để chữa lành những vết thương nhân loại của chúng ta.”
Đức Thánh Cha dùng 3 từ để nhắn nhủ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên: (1) tự do; (2) sáng tạo; (3) đối thoại
Từ thứ nhất là sự tự do.
Không có tự do thì không có nhân loại đích thực bởi vì con người được tạo dựng cách tự do để được tự do.
Tuy vậy, tự do không phải là một thành tựu tất yếu, không tồn tại một lần cho mãi mãi. Tự do là một hành trình, đôi khi khó khăn để khởi sự lại. Tự do bên ngoài hoặc trong các cơ cấu xã hội là không đủ để coi là tự do đích thật. Tự do trước tiên là lời mời gọi nơi cá nhân về trách nhiệm trong chọn lựa của mình, là phân định và thăng tiến cuộc sống. Điều này thực sự khó khăn và làm chúng ta sợ hãi.
Đức Thánh Cha gợi nhớ lịch sử dân tộc Ít-ra-en: họ chịu đau khổ dưới ách thống trị Pha-ra-ô, họ là nô lệ, nhưng được Thiên Chúa giải thoát. Nhưng để trở nên thực sự tự do, không chỉ là được giải thoát khỏi kẻ thù, họ phải băng qua sa mạc, một hành trình gian khó. Khi đó họ nghĩ rằng có lẽ trước đây còn đỡ khổ hơn, ít ra còn có củ hành củ tỏi… Đó là một cám dỗ lớn lao, là chẳng thà có được củ hành còn hơn là hành trình gian khó và liều mình để được tự do.
Đôi khi ngay cả nơi Giáo hội, ý tưởng này có thể gây hại cho chúng ta, đó là tốt hơn là xác định tất cả, các điều luật phải giữ, sự chắc chắn và đồng bộ, hơn là để mọi người tự trưởng thành và chịu trách nhiệm, hơn là suy tư, tự vấn lương tâm, và đem ra thảo luận. Trong đời sống thiêng liêng và Giáo hội, có cám dỗ đi tìm sự bình an giả tạo, điều có thể làm chúng ta vô sự, hơn là tìm nhiệt huyết Tin Mừng giúp biến đổi và làm chúng ta không thể ngồi yên. Sự an toàn của củ hành Ai Cập thì dễ chịu hơn sự vô định của sa mạc, nhưng Giáo hội không để mình rơi vào cuộc phiêu lưu của tự do, ngay cả trong đời sống thiêng liêng, có nguy cơ trở thành một nơi khắt khe và khép kín. Có lẽ một số người đã quen với điều này, nhưng những người khác – nhất là những thế hệ trẻ – họ không được thu hút bởi một đức tin không cho họ tự do nội tâm, bởi một Giáo hội nghĩ đến mọi người theo cùng một cách thức và vâng phục mù quáng.
Đức Thánh Cha khuyến khích: “đừng sợ đào luyện con người với mối tương quan trưởng thành và tự do với Chúa. Điều này có thể cho chúng ta cảm tưởng là không thể điều khiển mọi thứ, là mất đi sức mạnh và quyền lực, nhưng Giáo hội của Đức Ki-tô không muốn thống trị tâm hồn và chiếm lĩnh không gian, Giáo hội muốn là “nguồn mạch” hy vọng trong đời sống con người. Tôi nói điều này nhất là cho các Mục tử, anh em thi hành sứ vụ trong một đất nước nơi mọi sự thay đổi rất nhanh và các tiến trình dân chủ được khởi sự, nhưng sự tự do vẫn còn mong manh.
Từ thứ hai là sự sáng tạo.
Đức Thánh Cha nhắc đến hai thánh Cirillo và Metodio, những vị rao giảng Tin Mừng cho vùng đất này. “Các vị ấy dạy chúng ta rằng việc truyền giáo không bao giờ là sự lặp lại của quá khứ. Niềm vui Tin Mừng luôn là Đức Ki-tô nhưng cách thức tin vui này có thể trở thành con đường trong thời gian và trong lịch sử thì khác nhau. Thánh Cirillo và Metodio đã cùng nhau rao giảng ở vùng đất này của lục địa châu Âu và, được nung nấu bởi nhiệt huyết rao giảng Tin Mừng, đã sáng tạo ra bộ chữ cái mới để dịch Thánh Kinh, các bản văn phụng vụ và giáo lý Công giáo. […] Họ là những nhà sáng chế ngôn ngữ mới để truyền đạt đức tin, họ sáng tạo trong việc chuyển ngữ thông điệp Ki-tô giáo, họ gần gũi với lịch sử các dân tộc mà họ tiếp xúc để nói ngôn ngữ của họ và đồng hoá mình với văn hoá ấy. Đất nước Slovakia hiện nay không cần điều này sao? Chẳng lẽ đây không phải là nhiệm vụ cấp thiết nhất của Giáo hội giữa các dân tộc châu Âu, đó là tìm ra “mẫu tự” mới để nói về đức tin sao?
Chúng ta nhớ lại việc những người đàn ông đã làm gì để đưa người bại liệt đến trước Chúa Giê-su khi không thể băng qua đám đông đứng chật kín cửa vào. Họ đã gỡ mái nhà và thả người bại liệt xuống (x. Mc 2,1-5). Họ thật sáng tạo! Thật đẹp biết bao khi chúng ta biết tìm ra con đường, cách thức và ngôn ngữ mới để loan báo Tin Mừng! Nếu lời rao giảng và mục vụ của chúng ta không thể tiến tới bằng cách thông thường, chúng ta hãy cố gắng mở ra những không gian mới, thử những lối nẻo khác. Hai thánh Cirillo và Metodio đã làm như thế và cho chúng ta thấy rằng không thể làm cho Tin Mừng lớn mạnh nếu không được bén rễ trong văn hoá dân tộc, trong các biểu tượng, ưu tư, ngôn từ và căn tính của dân tộc ấy. Họ từng bị buộc tội là lạc giáo bởi đã dám dịch ngôn ngữ đức tin. Chính ý thức hệ ấy sản sinh ra nỗ lực đồng bộ hoá, nhưng Tin Mừng hoá là một tiến trình hội nhập văn hoá, là hạt giống phong phú sự mới mẻ, là sự đổi mới của Thần Khí làm mới lại mọi sự.
Từ cuối cùng là từ đối thoại.
Một Giáo hội biết tạo nên tự do nội tâm và trách nhiệm, biết sáng tạo trong việc hội nhập vào lịch sử và văn hoá, phải là Giáo hội biết đối thoại với thế giới, với những ai nhận biết Đức Ki-tô dù không phải “người của chúng ta”, với những ai đang nỗ lực tìm kiếm sự thánh thiện và với cả những ai không tin.
Sự hiệp nhất, liên đới và đối thoại luôn mong manh, đặc biệt khi sau lưng là một lịch sử đau thương đã để lại những vết hằn. Hồi tưởng lại những vết thương có thể khiến người ta rơi vào thù hận, mất tin tưởng, thậm chí là khinh thường, thúc đẩy chúng ta dựng nên những rào cản đối với những ai khác chúng ta. Mặt khác, những vết thương có thể trở thành những lối mở, như những vết thương của Chúa, trao truyền lòng thương xót của Thiên Chúa, ân sủng làm thay đổi đời sống và biến đổi chúng ta trở nên người kiến tạo hoà bình và hoà giải. Tôi biết nơi anh chị em có câu châm ngôn rất hay: “Ai ném anh một hòn đá, anh cho họ một ổ bánh mì”. Câu này đậm tính Tin Mừng! Đó là lời mời gọi của Chúa Giê-su hầu phá vỡ vòng luẩn quẩn và tàn phá của bạo lực, bằng cách đưa má bên kia cho ai đánh mình hầu chiến thắng sự dữ bằng sự thiện (x. Rm 12,21).
Cuối cùng Đức Thánh Cha cầu chúc mọi người tiếp tục hành trình của mình trong tự do của Tin Mừng, trong sáng tạo của đức tin và trong đối thoại xuất phát từ lòng thương xót Chúa.
Sau bài diễn văn, Đức Thánh Cha chụp hình chung với các giám mục và bắt tay chào riêng nhiều người tham dự cũng như những người chờ đợi ngài từ bên ngoài nhà thờ, trên đường ngài ra xe để trở về Toà Sứ Thần cách đó 4km. Kết thúc buổi sáng ngày thứ hai của chuyến viếng thăm.
Văn Yên, SJ - Vatican News
Đức Thánh Cha thăm Trung Tâm Bác Ái Bê-lem ở Bratislava
Sau khi ăn trưa tại Tòa Sứ Thần, khoảng 15h45, Đức Thánh Cha Phanxicô di chuyển đến Trung Tâm Thừa Sai Bác Ái Bê-lem.
Trung tâm Thừa sai Bác ái Bê-lem nằm giữa những tòa nhà dân cư cao tầng thuộc quận Petržalka. Ở đây, trong hơn hai mươi năm, cộng đoàn quốc tế của các nữ tu thuộc dòng Mẹ Têrêsa Calcutta đã chăm sóc cho những người vô gia cư, những người nghèo khổ, những người cần giúp đỡ và trên hết là những người bệnh.
Một phần cấu trúc của tòa nhà gồm một tòa nhà nhỏ hai tầng, trước đây từng là trường mẫu giáo, nay được dùng để giường, thức ăn và nhà vệ sinh. Tầng trệt là nơi cung cấp các nhu cầu thiết yếu cũng như phòng cho những ai cần ở lại ngắn ngày. Trên lầu có một phòng dành cho những người nằm viện dài ngày hoặc những người bệnh nặng và bên cạnh là một nhà nguyện dành riêng để sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria. Nhờ những tấm lòng hảo tâm, các nữ tu đã có thể giúp đỡ quần áo và các đồ dùng thiết yếu cho những người vô gia cư đến xin trợ giúp.
Gần Trung tâm, có nhà thờ "Thánh Gia", được Thánh Gioan Phaolô II thánh hiến vào năm 2005. Vào năm 2003, ngài đã phong chân phước cho hai vị tử đạo dưới thời cộng sản. Đó là nữ tu Zdenka Schelingova và Đức Giám mục Công giáo Hy Lạp Vasil Hopko.
Bề trên của “Trung tâm Bê-lem” đã tiếp đón Đức Thánh Cha Phanxicô và ngài đã chào mọi người đang hiện diện tại trung tâm.
Ngài nói: “Xin chào anh chị em!”
“Tôi rất vui khi đến thăm anh chị em. Cảm ơn anh chị em đã đón tiếp tôi!
“Và tôi cảm ơn các sơ rất nhiều vì công việc các sơ làm, công việc đón tiếp, giúp đỡ, đồng hành. Cám ơn rất nhiều! Tôi cảm ơn những người mẹ, những người cha đã có mặt ở đây cùng với các cháu bé; và tôi cảm ơn tất cả những người đã có mặt ở đây ngay bây giờ. Và xin Chúa cũng ở với chúng ta: khi chúng ta ở bên nhau. Ngài ở với chúng ta ngay cả khi chúng ta gặp thử thách: Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta, Chúa luôn ở gần chúng ta. Chúng ta có thể thấy Ngài hay chúng ta không thể nhìn thấy Ngài, nhưng Ngài luôn đồng hành với chúng ta trên hành trình của cuộc đời: xin đừng quên điều này, đặc biệt là trong những lúc khó khăn. Cảm ơn anh chị em rất nhiều!”
Sau đó, các sơ đã giới thiệu Đức Thánh Cha một số phòng trong toàn bộ cấu trúc tòa nhà. Trong sân có một ca đoàn thiếu nhi ca hát.
Trước khi chào tạm biệt, Đức Thánh Cha đọc kinh Kính Mừng cùng với mọi người đang hiện diện. Ngài trao tặng một món quà và ban phép lành kết thúc buổi gặp gỡ.
Món quà Đức Thánh Cha trao tặng là một bức tượng nhỏ bằng gốm sứ khắc hình Đức Mẹ với Hài nhi đang ôm một chùm nho. Trong Cựu Ước, những trái nho không chỉ tượng trưng cho niềm vui và tình bạn, mà còn cho Israel, là dân Thiên Chúa. Trong Tân Ước, vườn nho là Thiên Đàng và cây nho là Chúa Giêsu. Rượu nho trong bàn tiệc Thánh Thể trở thành máu của Chúa Giêsu. Rượu nho, hay “máu nho” nói trong tiếng Do Thái là sự hợp nhất của Giáo Hội, được đánh dấu trong một Giao ước Tình Yêu của Chúa Giêsu.
Khi ra về, Đức Thánh Cha có đặt tay và chúc tay cho các em nhỏ và những người bệnh.
Khoảng 16h30, Đức Thánh Cha đi chuyển đến quảng trường Rybné námestie ở Bratislava, cách đó 4km.
Nguồn: Vatican News
Đức Thánh Cha gặp cộng đoàn Do Thái Slovakia tại Quảng trường Rybné náme
Vào lúc gần 5 giờ chiều thứ Hai, 13/9/2021, Đức Thánh Cha đã đến Quảng trường Rybné námestie (Quảng trường Cá) ở thủ đô Bratislava để gặp gỡ cộng đoàn Do Thái Slovakia.
Quảng trường Cá
Quảng trường nằm ở trung tâm thành phố cổ, gần nhà thờ Chính toà thánh Martino. Trước đây tại đây có hội đường Do Thái Neolog, được xây dựng năm 1893, nhưng bị chính quyền cộng sản tàn phá vào năm 1969, cùng với toàn bộ khu Do Thái, để xây dựng Cầu Mới. Hiện nay tại Quảng trường có Đài Tưởng niệm cuộc Diệt chủng, được xem nơi tưởng niệm công cộng, nơi tưởng niệm cuộc diệt chủng 105 ngàn người Do Thái ở Slovakia bị giết, và cũng là nơi ghi nhớ hội đường Neolog.
Vào năm 1940, tại Bratislava có hơn 15 ngàn người Do Thái sinh sống, nhưng chỉ còn khoảng 3.500 người sống sót sau cuộc Diệt chủng. Sau chiến tranh Thế giới thứ hai, phần lớn di sản kiến trúc của người Do Thái bị tàn phá, còn người Do Thái thì lại gặp phải sự dửng dưng và thù địch. Chỉ sau khi chế độ cộng sản sụp đổ vào năm 1989, đời sống của người Do Thái tại Slovakia mới tái sinh và ngày nay cộng đồng Do Thái này rất tích cực thúc đẩy các hoạt động tôn giáo, văn hóa, giáo dục và xã hội.
Khi đến quảng trường, Đức Thánh Cha được Giáo sư Richard Duda, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương của các cộng đoàn Do Thái ở Slovakia, đón tiếp.
Diễn văn của ông Chủ tịch Uỷ ban Trung ương của các cộng đoàn Do Thái
Cuộc gặp gỡ bắt đầu với diễn văn ngắn của ông Duda. Ông nói rằng đối với cộng đoàn Do Thái ở Slovakia, “ngày hôm nay là một bước ngoặt, một giây phút lịch sử, bởi vì những bước chân của Đức Giáo hoàng đã đưa ngài đến nơi tưởng nhớ sự sống bị cướp mất của hàng ngàn thành viên của cộng đoàn. Chúng tôi cảm kích cử chỉ này”. Ông kêu gọi: “Không được quên những kinh hoàng của quá khứ để đừng bao giờ lặp lại chúng”. Ông hy vọng nơi này sẽ chuyển trao sứ điệp về sự cộng tác giữa Kitô hữu và người Do Thái.
Ông chia sẻ về tình yêu kéo dài hơn 30 năm giữa vợ chồng ông: một người Do Thái và một Kitô hữu. Ông nói: “Mối quan hệ của chúng tôi là một vũ trụ nhỏ được điều chỉnh bởi sự kính trọng và hiểu biết lẫn nhau. Tôi tin rằng các mối quan hệ gia đình hòa hợp có khả năng đảm bảo sự ổn định trong xã hội trên toàn thế giới. Trong các xã hội, các nhóm tôn giáo hoặc sắc tộc sẽ chỉ là cơ hội để làm phong phú cho nhau và chung sống hòa bình.
Chứng từ của một nạn nhân của cuộc Diệt chủng
Tiếp đến, giáo sư Lang, một nạn nhân sống sót của cuộc diệt chủng Do Thái, đã trình bày chứng từ của mình. Ông cho biết mình sống sót nhờ những người đã can đảm không đầu hàng sự ác, liều nguy hiểm che dấu ông và những người Do Thái khác.
Ông sinh năm 1942. Khi ông được 3 tháng, cha ông được đưa ra mặt trận phía đông và mất tích từ đó. 50 năm sau, qua văn khố ông mới biết cha mình chết tại Ucraina. Năm 1944, mẹ ông bị đưa đi khỏi Budapest; sau đó ông được biết bà đã chết trong một cuộc hành quân của quân Đức. Khi ông bị bệnh và được đưa đến bệnh viện, để bảo vệ mạng sống cho những người Do Thái, các y tá đã ghi trên cửa khoa bệnh tên các bệnh nhân bệnh truyền nhiễm, để quân lính không vào. Trong những năm này ông dành thời gian nghiên cứu lịch sử cuộc diệt chủng để quá khứ không còn lặp lại. Ông cảm ơn Đức Thánh Cha về các hoạt động quảng đại, sự đóng góp của cá nhân ngài và việc loan báo về tình nhân loại, huynh đệ và bao dung.
Chứng từ của một nữ tu về sự giúp đỡ người Do Thái
Trong phần trình bày chứng từ, một nữ tu dòng Ursuline cũng đã cho thấy các nữ tu, cảm nhận được sự thánh thiêng của mỗi sự sống con người, được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, đã có cơ hội làm điều gì đó để cứu sự sống của người Do Thái. Các nữ tu đã chăm sóc những trẻ em người Do Thái trong cuộc diệt chủng. Sơ kể về hai phụ nữ Do Thái, từng là học sinh trong trường của dòng Ursuline ở Bratislava. Họ đã được các nữ tu che dấu cùng với các thiếu nữ Do Thái khác. Toà Sứ thần hiện nay từng là nơi các nữ tu che dấu các trẻ em Do Thái và gia đình các em. Những điều này đã diễn ra cách nay 80 năm.
Ngày nay sơ vui mừng vì sự cộng tác giữa Kitô hữu và người Do Thái thuộc mọi tầng lớp ở Slovakia. Đặc biệt là các dự án về giáo dục, thông qua các giáo viên của các trường của dòng, tìm cách nâng cao nhận thức của thế hệ hiện tại về gia sản văn hoá Do Thái ở Slovakia. Các dự án cũng nhắm chuyển trao cho người trẻ một đức tin sống động vào Thiên Chúa, được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày bằng tình yêu tha nhân. Sơ nói: “Những người đã sống ở đây trước chúng ta làm chứng rằng tình yêu này là có thể”.
Nơi hiệp nhất của Ki-tô giáo và Do Thái giáo
Trong bài diễn văn ngỏ lời với cộng đoàn Do Thái, Đức Thánh Cha nói rằng “như một người hành hương, tôi đến để thăm viếng nơi này và để được nó đánh động”. Ngài nhận xét rằng một hội đường Do Thái bên cạnh Nhà thờ chính toà ở Quảng trường này là “một biểu hiện của sự chung sống hòa bình của hai cộng đồng, một biểu tượng hiếm có và có sức khơi dậy, và một dấu hiệu nổi bật của sự hiệp nhất nhân danh Thiên Chúa của các tổ phụ của chúng ta”.
Danh Thiên Chúa bị sỉ nhục vì sự ngu xuẩn điên cuồng
Tuy nhiên, Đức Thánh Cha than phiền, “Danh Thiên Chúa đã bị sỉ nhục: trong cơn giận dữ điên cuồng, trong Chiến tranh thế giới thứ hai, hơn một trăm ngàn người Do Thái Slovakia đã bị giết. Trong nỗ lực xóa bỏ mọi dấu vết của cộng đồng, hội đường Do Thái đã bị tàn phá”. Nhắc lại lời Kinh Thánh: “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi một cách bất xứng” (Xh 20, 7), Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Danh Thiên Chúa, Đức Chúa, bị phỉ báng bất cứ khi nào phẩm giá độc đáo và đặc biệt của con người, được tạo ra theo hình ảnh của Chúa, bị xúc phạm. Ở đây, tại nơi này, Danh của Thiên Chúa đã bị sỉ nhục, bởi vì hình thức phạm thượng tồi tệ nhất chính là lợi dụng nó cho mục đích riêng của chúng ta, từ chối tôn trọng và yêu thương người khác. Ở đây, khi suy tư về lịch sử của dân tộc Do Thái được đánh dấu bằng sự thảm thương và không thể diễn tả được này, chúng ta xấu hổ thừa nhận rằng biết bao lần Danh cao cả của Đấng Tối Cao đã được sử dụng cho những hành vi phi nhân tính khôn lường! Biết bao nhiêu kẻ áp bức đã nói: ‘Thiên Chúa ở cùng chúng ta’; nhưng chính họ không ở với Thiên Chúa!”.
Hiệp nhất lên án bạo lực
Đức Thánh Cha khích lệ: “Bây giờ là lúc mà hình ảnh của Thiên Chúa rực sáng nơi con người không còn bị che lấp nữa. Chúng ta hãy giúp đỡ lẫn nhau trong nỗ lực này. Vì trong thời đại của chúng ta cũng có rất nhiều thần tượng trống rỗng và giả dối làm ô danh Danh của Đấng Tối Cao. Đó là các thần tượng của quyền lực và tiền bạc, những thứ được đặt cao hơn phẩm giá con người; của thái độ thờ ơ ngoảnh mặt đi; và của các hình thức thao túng lợi dụng tôn giáo để phục vụ quyền lực hoặc biến nó thành điều không quan trọng. Tôi nhắc lại: chúng ta hãy hiệp nhất lên án mọi bạo lực và mọi hình thức bài Do Thái, và hiệp nhất làm việc để đảm bảo rằng hình ảnh của Thiên Chúa, hiện diện nơi con người mà Người đã tạo dựng, sẽ không bao giờ bị xúc phạm”.
Giáo huấn trong bộ Talmud của Do Thái giáo
Trong bài diễn văn Đức Thánh Cha cũng cho biết ngài có những kỷ niệm của ngài về cuộc gặp gỡ với đại diện của các cộng đồng Do Thái và Kitô giáo ở Roma vào năm 2017. Ngài chia sẻ: “Tôi vui mừng rằng sau đó một Ủy ban đối thoại với Giáo hội Công giáo đã được thành lập và anh chị em đã cùng nhau xuất bản một số tài liệu quan trọng. Thật tốt khi chia sẻ và quảng bá những điều gắn kết chúng ta. Và thật tốt khi tiến bước, trong sự thật và sự trung thực, theo con đường huynh đệ của việc thanh tẩy ký ức, để chữa lành những vết thương trong quá khứ và ghi nhớ những gì tốt đẹp đã nhận và đã trao tặng. Theo Talmud, bất cứ ai tiêu diệt một cá nhân thì hủy diệt cả thế giới, trong khi bất cứ ai cứu một cá nhân sẽ cứu cả thế giới. Mọi cá nhân đều quan trọng và những gì anh chị em đang làm thông qua các chia sẻ quan trọng của mình đều rất quan trọng. Tôi cảm ơn anh chị em đã mở những cánh cửa ở cả hai phía.
Nhắc lại lời Thiên Chúa phán cùng Tổ phụ Ápraham: “Nhờ ngươi mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12, 3), Đức Thánh Cha cầu chúc rằng người Do Thái tại Slovakia tiếp tục nuôi dưỡng ơn gọi, lời kêu gọi trở thành dấu hiệu của phúc lành cho tất cả các gia đình trên trái đất. Đức Thánh Cha nói: “Phúc lành của Đấng Tối Cao được tuôn đổ trên chúng ta, bất cứ khi nào Người thấy một gia đình các anh chị em tôn trọng, yêu thương nhau và cùng nhau làm việc. Cầu xin Đấng Toàn năng chúc lành cho anh chị em, để giữa tất cả những bất hòa đang làm ô nhiễm thế giới của chúng ta, anh chị em luôn luôn có thể cùng nhau là chứng nhân của hòa bình. Shalom! Chúc anh chị em bình an!”.
Đốt nến và cầu nguyện chung
Buổi gặp gỡ kết thúc với việc thắp sáng một số ngọn nến để tưởng nhớ các nạn nhân của cuộc Diệt chủng và lời nguyện Kaddish, một trong những lời cầu nguyện cổ nhất của người Do Thái được xướng lên.
Sau đó, Đức Thánh Cha đã tặng một đĩa sứ vẽ hình thánh Phê-rô cho cộng đồng Do Thái và chào hai người đã trình bày chứng từ.
Kết thúc cuộc gặp gỡ tại Quảng trường Rybné námestie, Đức Thánh Cha đi xe về Toà Sứ thần cách đó 4km để có cuộc gặp riêng, trước tiên với Chủ tịch Quốc hội, Boris Kollár, và sau đó với Thủ tướng Eduard Heger.
Hồng Thủy - Vatican News
Đức Thánh cha đi Bratislava, thủ đô Cộng hòa Slovakia
Sau thánh lễ, lúc 2 giờ 30 chiều, Chúa nhật 12/9/2021 Đức Thánh cha Phanxicô đã trở lại phi trường Budapest để đáp máy bay sang Slovakia, chỉ cách đó 210 cây số về hướng tây bắc. Trên chuyến bay dài 50 phút, ngài và mọi người chỉ dùng bữa nhẹ.
Vài nét về Slovakia
Cộng hòa Slovakia được coi là thành trì Công giáo ở Trung Đông, rộng 49.000 cây số vuông, - hơn một nửa nước Hungary, - và số dân cư là 5 triệu rưỡi, trong đó ba phần tư, tức là gần 4 triệu tín hữu Công giáo thuộc 12 giáo phận. Trong số các tín hữu này, có 4% thuộc Giáo hội Công giáo nghi lễ đông phương. Khoảng 15% dân Slovakia là tín hữu Tin lành, phần lớn là những người gốc Hungary.
Dưới thời cộng sản Tiệp Khắc, Giáo hội Công giáo tại đây bị đàn áp và bách hại nghiêm ngặt. Nhiều giám mục, linh mục và tu sĩ bị cầm tù và tra tấn. Gần 4 năm sau khi chế độ cộng sản sụp đổ với cuộc cách mạng “êm như nhung” hồi năm 1989, Tiệp Khắc chia thành hai nước: Séc và Slovakia. Phần lớn dân Séc là người vô thần và chỉ có 12% là tín hữu Công giáo.
Trên toàn Slovakia hiện có 1.570 giáo xứ và số ơn gọi linh mục dồi dào hơn so với Hungary láng giềng: gần 3.000 linh mục triều và dòng, 1.780 nữ tu tức là đông gần gấp 3 do với Hungary, và có hơn 700 tu huynh.
Phần lớn các tín hữu Công giáo nghi lễ đông phương sống ở miền đông Slovakia. Dưới thời cộng sản Tiệp Khắc, từ 1950 đến mùa xuân Praha năm 1968, Giáo hội này bị cấm hoạt động và các tín hữu bị ép sáp nhập vào Chính thống giáo. Số giáo sĩ Công giáo Đông phương gia tăng mạnh từ năm 1989 và số tín hữu vào khoảng 230.000 người và thuộc 3 giáo phận là Presov, Kosice và Bratislava. Vị hồng y cao niên nhất hiện nay trong Hồng y đoàn là Đức Hồng y Joseph Tomko, 97 tuổi, là người Slovakia, nguyên là Tổng trưởng Bộ truyền giáo trong 16 năm trời.
Đón tiếp
Máy bay chở Đức Thánh cha, đoàn tùy tùng và giới báo chí đáp xuống phi trường quốc tế Bratislava lúc 3 giờ 30 chiều và Đức Thánh cha được bà Tổng thống Suzana Caputova đón tiếp tận chân thang máy bay. Hai em bé trong y phục truyền thống đã tặng hoa cho ngài. Tiếp đến là phần giới thiệu hai phái đoàn Slovakia và Vatican, trước khi Đức Thánh cha và Tổng thống duyệt qua hàng quân danh dự, và hai vị tiến vào phòng khánh tiết phi trường để hội kiến ngắn.
Liền đó, Đức Thánh cha lên xe đi về Tòa Sứ thần Tòa Thánh cách đó 11 cây số. Đây là trụ sở mới, được khánh thành cách đây 11 năm và được Đức Hồng y Quốc vụ khanh Parolin sang tận nơi để làm phép.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Đức Thánh cha gặp Hội đồng đại kết các Giáo hội Kitô Slovakia
Hoạt động đầu tiên của Đức Thánh cha tại Bratislava diễn ra tại Phòng khách lớn của tòa Sứ thần Tòa thánh, vào lúc 4 giờ chiều cùng ngày 12/9. Đức Thánh cha gặp các đại diện của 11 Giáo hội Kitô không Công giáo.
Diễn từ
Ngỏ lời trong dịp này sau lời chào mừng của Đức giám mục Ivan, Chủ tịch Hội đồng các Giáo hội Kitô Slovakia, Đức Thánh cha nhắc đến các Cộng đoàn Kitô Slovakia đã trải qua những năm bách hại và đã tìm lại được tự do tôn giáo cách đây hơn 30 năm. Nhưng ngài cảnh giác chống cám dỗ tái trở thành nô lệ, không phải nô lệ một chế độ, nhưng là một thứ nô lệ tệ hại hơn nữa, nô lệ nội tâm.
Đức Thánh cha nói: “Điều mà người ta nhắm tới bây giờ không còn là “tự do mà chúng ta có trong Chúa Giêsu Kitô” (Gl 2,4), chân lý của Chúa giải thoát chúng ta (Xc Ga 8,32), như điều nhắm tới là làm sao đạt được những không gian và đặc ân. Tại đây, nơi trung tâm của Âu châu, chúng ta tự hỏi: Phải chăng các Kitô hữu chúng ta đã phần nào đánh mất nhiệt huyết loan báo và ngôn sứ chứng tá của chúng ta? Phải chăng chúng ta tìm Sự Thật Tin mừng giải thoát chúng ta hay là chúng ta cảm thấy tự do khi được đạt được những “vùng tiện nghi thoải mái” (comfort zone), giúp chúng ta xoay sở và tiến bước yên hàn mà không bị thất bại nào? Hoặc phải chăng khi hài lòng với bánh và an ninh, chúng ta đánh mất đà tiến trong việc tìm kiếm sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu đã nguyện xin, sự hiệp nhất này chắc chắn đòi tự do trưởng thành để chọn lựa quan trọng, từ bỏ và hy sinh, nhưng đó là tiền đề của một thế giới tin tưởng.” (Xc Ga 17,21)
Đức Thánh cha cũng đặt câu hỏi: Làm sao chúng ta có thể mơ ước một Âu châu được giải thoát khỏi các ý thức hệ, nếu chúng ta không có can đảm đặt tự do của Chúa Giêsu trên những nhu cầu của mỗi nhóm tín hữu?
Đức Thánh cha nhắc đến gương của hai thánh Cirillo và Metodio, tông đồ của các dân tộc Slave, đã giúp Lời Chúa nhập thể vào các phần đất này, và ngài đưa ra hai gợi ý về vấn đề này để giúp phổ biến Tin mừng tự do và hiệp nhất ngày nay:
Trước tiên là khía cạnh chiêm niệm, đi xa hơn sự ý niệm hóa triết học và thần học, và biết lãnh hội mầu nhiệm. Ngài nói: “Anh chị em hãy giúp đỡ nhau vun trồng truyền thống linh đạo này mà Âu châu rất cần: đặc biệt Giáo hội tây phương rất khao khát linh đạo ấy để tìm lại vẻ đẹp của sự thờ lạy Thiên Chúa và điều quan trọng ở đây là không hình thành cộng đoàn đức tin, dựa trên căn bản hiệu năng theo chương trình và chức năng.
Gợi ý thứ hai là hành động. Ta không đạt được sự hiệp nhất với những chủ ý tốt và gắn bó với vài giá trị chung, nhưng phải cùng nhau làm cái gì đó cho những người đưa chúng ta đến gần Chúa hơn. Đó là những người nghèo, vì nơi họ có Chúa Giêsu hiện diện (Xc Mt 25,40). Chia sẻ bác ái mở ra những chân trời bao quát hơn và giúp tiến bước nhanh hơn, vượt qua những thành kiến và hiểu lầm...
Và Đức Thánh cha kết luận: “Anh chị em thân mến, tôi cám ơn anh chị em vì đã hiện diện và vì hành trình của anh chị em; tính tình dịu dàng và hiếu khách, tiêu biểu của dân tộc Slovakia, truyền thống sống chung hòa bình giữa anh chị em với nhau và sự cộng tác để mưu ích cho đất nước thật là quí giá đối với men Tin mừng. Tôi khích lệ anh chị em hãy tiến bước trên con đường đại kết, là kho tàng quí giá không thể từ bỏ được.”
Sau diễn từ, Đức Thánh cha còn chào từng vị đại diện các Giáo hội Kitô khác, và ngài chụp hình lưu niệm với mỗi người.
Hoạt động cùng của Đức Thánh cha trong Chúa nhật 12/9 cũng diễn ra tại tòa Sứ thần Tòa Thánh: lúc 5 giờ 30 chiều, Đức Thánh cha gặp riêng các tu sĩ dòng Tên hiện diện tại Hungary, trước khi dùng bữa tối lúc 7 giờ, kết thúc 12 tiếng đồng hồ làm việc liên tục.
Chương trình hoạt động của Đức Thánh cha ngày 13/9/2021
Sáng thứ Hai 13/9/2021, Đức Thánh cha Phanxicô sẽ cử hành thánh lễ riêng tại nguyện đường Tòa Sứ thần Tòa Thánh ở thủ đô Bratislava và sẽ đến dinh Tổng thống Slovakia, vào lúc 9 giờ. Tại đây sẽ diễn ra nghi thức đón tiếp chính thức với hàng quân danh dự, quốc thiều hai nước, rồi ngài hội kiến riêng với bà Tổng thống Suzanna Caputova, trước khi gặp gỡ chung khoảng 250 người gồm các giới chức chính quyền, các đại diện xã hội dân sự và ngoài giao đoàn tại khuôn viên dinh Tổng thống.
Tiếp đến, lúc 10 giờ 45, Đức Thánh cha sẽ đến nhà thờ chính tòa thánh Martino của Tổng giáo phận Bratislava để gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và các giáo lý viên.
Ban chiều lúc gần 4 giờ, ngài sẽ đến Trung tâm Bethlehem của các nữ tu Thừa sai bác ái để gặp gỡ những người vô gia cư, và những người nghèo.
Hoạt động thứ tư của Đức Thánh cha là cuộc gặp gỡ cộng đồng Do thái tại Quảng trường Rybné Námestich ở khu vực cổ thành, không xa nhà thờ chính tòa thánh Martino, vào lúc gần 5 giờ chiều.
Sau cùng, khi trở về Tòa Sứ thần Tòa Thánh vào lúc quá 6 giờ chiều, Đức Thánh cha sẽ tiếp kiến Thủ tướng Cộng hòa Slovakia, ông Eduard Heger.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Thánh cha gặp chính quyền và đại diện xã hội Slovakia
Sáng thứ Hai 13/9/2021, Đức Thánh cha Phanxicô bước sáng ngày thứ hai trong bốn ngày tông du, bắt đầu từ Budapest, Hungary rồi sang Cộng hòa Slovakia.
Ban sáng, sau khi cử hành thánh lễ tại Nguyện đường Tòa Sứ thần Tòa Thánh ở thủ đô Bratislava, Đức Thánh cha đến dinh Tổng thống để hội kiến riêng, trước khi gặp gỡ chính quyền, cùng với các đại diện xã hội dân sự và ngoài giao đoàn, tại khuôn viên dinh Tổng thống.
Sau đó, tại nhà thờ chính tòa thủ đô, ngài gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và các giáo lý viên.
Ban chiều, Đức Thánh cha thăm Trung tâm Bethlehem, do các nữ tu thừa sai bác ái của Mẹ Têrêsa đảm trách, trước khi thăm Cộng đoàn Do thái. Sau cùng, khi trở về Tòa Sứ thần Tòa Thánh vào lúc quá 6 giờ chiều, Đức Thánh cha tiếp kiến Chủ tịch Quốc hội rồi đến Thủ tướng Cộng hòa Slovakia.
Tại dinh Tổng thống
Dinh tổng thống chỉ cách Tòa Sứ thần hơn 3 cây số rưỡi, nơi diễn ra lễ đón tiếp chính thức theo nghi thức ngoại giao. Dinh này là tòa nhà Grassalkovic, có từ gần năm 260 năm nay (1760), được chọn làm dinh Tổng thống Slovakia cách đây 25 năm (1996). Trong thời thế chiến thứ hai, đây là tổng hành dinh của quân Đức quốc xã chiếm đóng đất nước Tiệp Khắc.
Khi Đức Thánh cha đến đây lúc 9 giờ 15, ngài được bà Tổng thống Zusanna Caputova đón tiếp ngay tại cổng vào và hướng dẫn đến bục cao, trước khi ban nhạc trổi quốc thiều Vatican và Slovakia, rồi có phần giới thiệu thành phần phái đoàn Tòa Thánh và chính phủ. Sau đó, Đức Thánh cha cùng bà Tổng thống đến “Phòng Vàng” trong dinh để hội kiến riêng.
Bà Tổng thống Zusanna Caputova năm nay 48 tuổi (1973), nguyên là một luật sư, và dấn thân hoạt động chính trị từ 4 năm nay (2017) trong đảng Cấp Tiến. Chỉ năm sau đó và được bầu làm Phó Chủ tịch đảng. Năm 2019, bà từ chức và ra ứng cử tổng thống. Ngày 30/3 cùng năm đó, bà đắc cử. Bà đã được Đức Thánh cha tiếp kiến riêng tại Vatican hồi năm 2019 và đã mời ngài đến viếng thăm Slovakia.
Sau cuộc hội kiến riêng dài 10 phút, Đức Thánh cha cùng bà Tổng thống tiến sang Phòng Xanh, cạnh đó để trao đổi quà tặng và gặp gia đình bà với hai người con gái.
Lúc 10 giờ, tại khuôn viên dinh Tổng thống, Đức Thánh cha đã gặp hơn 250 người, gồm các giới chức chính quyền, tôn giáo, ngoại giao đoàn, giới doanh nhân và đại diện xã hội và văn hóa của Slovakia.
Diễn văn của bà Tổng thống
Trong bài chào mừng Đức Thánh cha, bà Tổng thống Caputova nhấn mạnh đến vai trò của Kitô giáo, của Công giáo là thành phần thiết yếu của căn tính văn hóa Slovakia, và nhất là như một nguồn hứng rất cần thiết cho tương lai của nhân loại. Bà cũng nhận xét rằng thế giới đang phải đương đầu với nhiều cuộc khủng hoảng và cách thức duy nhất để vượt thắng hệ tại sự cộng tác. Tất cả những gì chúng ta đang thực sự cần, chính là tinh thần nhân đạo, ý thức rằng bạn là tôi và tôi là bạn. Tất cả chúng ta là một. Chúng ta cần có can đảm biểu lộ tình người của chúng ta. Chúng ta không thể sống chung mà không biểu lộ sự cảm thông và chấp nhận lẫn nhau.
Diễn từ của Đức Thánh cha
Lên tiếng sau lời chào mừng của bà Tổng thống Caputova, Đức Thánh cha đặc biệt nói đến sự tái khởi động nền kinh tế tại Slovakia, với sự hỗ trợ của Liên hiệp Âu châu, sau những tháng rất cam go vì đại dịch, và ngài cảnh giác trước nguy cơ để cho mình bị sự vội vã và sự thu hút của việc kiếm lợi, chỉ tạo nên một sự phấn khởi nhất thời, gây ra chia rẽ thay vì đoàn kết. Ngài nói: “Nguyên sự phục hồi kinh tế mà thôi thì không đủ trong một thế giới tất cả chúng ta đều có liên hệ với nhau... Trong khi tại nhiều mặt trận, có các cuộc đấu tranh để dành quyền bá chủ vẫn tiếp tục, đất nước Slovakia này cần tái khẳng định sứ điệp hội nhập và hòa giải, và Âu châu cần nổi bật nhờ một tình liên đới, vượt lên trên mọi biên cương, có thể đưa Âu châu trở lại trung tâm của lịch sử”.
Đức Thánh cha cũng nhắc đến ảnh hưởng của đức tin đã ghi đậm lịch sử của Slovakia và ngài cầu mong đức tin giúp nuôi dưỡng một cách tự nhiên những quyết tâm và tâm tình huynh đệ. Ngài nói: “Các bạn có thể kín múc những tâm tình này từ cuộc sống của hai thánh anh em Cirillo và Metodio, những vị đã truyền bá Tin mừng khi các tín hữu Kitô ở đại lục này còn hiệp nhất, và ngày nay hai thánh nhân liên kết các hệ phái Kitô tại đất nước này. Các bạn thân mến, ước gì ơn gọi sống tình huynh đệ không bao giờ biến mất khỏi tâm hồn các bạn, nhưng luôn tháp tùng sự chân thành đầy thiện cảm vốn là đặc tính của các bạn.”
Đức Thánh cha đề cao sự quan tâm của người Slovakia đối với lòng hiếu khách và được biểu lộ qua sự trao tặng bánh và muối cho những người khách viếng thăm. Đi từ hai món quà đơn sơ này, theo tinh thần Tin mừng, Đức Thánh cha quảng diễn ý nghĩa sâu xa của chúng.
Trước tiên là “bánh”, được Thiên Chúa chọn để hiện diện giữa chúng ta. Bánh là điều thiết yếu. Kinh thánh mời gọi chúng ta đừng tích trữ bánh, nhưng chia sẻ bánh. Bánh mà Tin mừng nói đến luôn là bánh được bẻ ra. Điều này muốn nói rằng sự giàu sang, phong phú, không hệ tại gia tăng điều mà ta có, nhưng hệ tại sự chia sẻ công bằng với những người quanh ta...
Bánh được bẻ ra và chia sẻ công bằng cũng nhắc nhớ tầm quan trọng của công bằng, trả lại cho mỗi người cơ may được thành đạt. Cần nỗ lực xây dựng tương lai, trong đó các luật lệ được áp dụng công bằng cho tất cả mọi người, dựa trên một nền công lý không bao giờ được rao bán.
Tiếp đến là muối. “Các con là muối đất” (Mt 5,13). Muối là biểu hiệu đầu tiên mà Chúa Giêsu dùng để dạy dỗ các môn đệ. Trước tiên, muối mang lại hương vị cho thực phẩm, làm ta nghĩ đến hương vị mà nếu không có thì cuộc sống trở nên nhạt nhẽo. Từ đó, Đức Thánh cha khẳng định rằng: “Thực vậy, các cơ cấu có tổ chức và hiệu năng không đủ để làm cho cuộc sống chung giữa con người được trở nên tốt đẹp, còn cần phải có hương vị, hương vị của tình liên đới. Và như muối chỉ mang lại hương vị khi tan ra, cũng vậy xã hội tìm lại được hương vị qua lòng quảng đại nhưng không của những người xả thân vì tha nhân. Thật là đẹp vì các bạn trẻ đặc biệt được thúc đẩy trong lãnh vực này vì họ cảm thấy mình là những người giữ vai chính đối với tương lai của đất nước và quan tâm đối với điều này... Không có sự canh tân nếu không có những người trẻ, họ thường cảm thấy thất vọng vì tinh thần duy tiêu thụ làm phai mờ cuộc sống. Quá nhiều người tại Âu châu để cho mình bị lôi kéo vào sự mệt mỏi, thất vọng và căng thẳng vì nhịp sống điên cuồng và không tìm được động lực thúc đẩy và hy vọng. Yếu tố còn thiếu ở đây là sự chăm sóc người khác.
Đức Thánh cha nói thêm rằng: “Vào thời Chúa Giêsu, ngoài việc mang lại hương vị, muối còn được dùng để gìn giữ thức ăn, để chúng khỏi bị hư. Tôi cầu mong rằng hương vị thơm tho của các truyền thống tốt đẹp nhất của anh chị em không bị hư hỏng vì tính chất hời hợt của sự tiêu thụ và lợi lộc vật chất, và vì sự thực dân hóa ý thức hệ. Tại phần đất này cho đến những thập niên cần đây, một tư tưởng độc tài đã loại bỏ tự do, ngày hôm nay một tư tưởng độc đoán duy nhất đang làm cho tự do không còn ý nghĩa, vì nó thu hẹp tiến bộ vào sự kiếm lợi và biến các quyền thành những nhu cầu cá nhân chủ nghĩa. Ngày nay cũng như thời trước, muối đức tin không phải là một câu trả lời theo kiểu thế gian, không hệ tại lòng hăng say chiến đấu về văn hóa, nhưng hệ tại sự gieo vãi sự dịu dàng và kiên nhẫn của Nước Thiên Chúa, trước tiên qua chứng tá bác ái”.
Sau bài diễn từ, Đức Thánh cha và bà Tổng thống tiến ra cổng chính của dinh thự và giã từ nhau. Ngài lên xe tiến về Nhà thờ Chính tòa Thánh Martino của giáo phận thủ đô Bratislava để gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên Slovakia.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu