Nhớ đến mẹ
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Theo tập tục văn hóa xã hội nhiều nước trên thế giới hằng năm dành một ngày riêng nhớ đến mẹ. Nước Đức và nhiều nước bên Âu Châu hằng năm lấy ngày Chúa nhật thứ hai của tháng Năm là ngày nhớ ơn mẹ.
Nhớ đến người mẹ sinh thành ra con người, ai cũng cảm động nhớ đến mẹ mình với lòng yêu mến biết ơn.
Cung lòng người mẹ là nôi tổ ấm đầu tiên cho người con thành hình phát triển lớn lên từ lúc được Đấng Tạo Hóa tạo dựng ban cho sự sống.
Rồi từ khi mở mắt chào đời, vòng tay mẹ là bến bờ che chở bình an cho người con trong mọi hoàn cảnh.
Mẹ là người luôn cảm nhận ra nhu cầu cho đời sống người con. Khả năng đó gọi là trực gíac. Khả năng này còn có tên là giác quan thứ bảy do Trời cao ban cho, mà người mẹ nào cũng đều có trong thiên chức sinh con và nuôi dậy con.
Phải, giác quan thứ bẩy bén nhậy của người mẹ giúp bà như nghe được tiếng rì rào của cây cỏ từ dưới lòng đất đang phát triển vươn lên, trước khi thân cây vươn trồi lên không trung!
Người mẹ nào cũng đều sống trải qua những lúc đau bệnh, mệt nhọc. Nhưng tình yêu và sự dấn thân hy sinh cho người con, cho gia đình, nên người mẹ thường hay kín đáo không tỏ lộ nỗi đau yếu của mình ra bên ngoài. Bà âm thầm tiếp tục làm việc nuôi con mang niềm vui hạnh phúc cho con cái gia đình.
Khả năng này của người mẹ do được Trời cao phú ban cho sức lực chịu đựng dẻo dai, sự nhẫn nại chăm chỉ cùng sự suy nghĩ mềm dẻo theo sát với thực tế nhu cầu đời sống cho con cái gia đình.
Người mẹ từ chiều tối trước khi đi ngủ thường hoạch định ra trong tâm trí một chương trình làm việc lo cho gia đình ngày hôm sau. Và cứ thế từ lúc thức dậy cho tới chiều tối bà thực hiện chương trình đó linh hoạt mang lại niềm vui sức sống cho gia đình.
Khả năng này của người mẹ không sao có thể đền bù trả bằng tiền bạc hay bằng bất cứ vật chất nào.
Người mẹ săn sóc con cái gia đình bằng trái tim lòng yêu mến.
Người Mẹ nhìn con cháu gia đình mình bằng con mắt tâm hồn.
Người Mẹ nghĩ đến gia đình, cảm nhận cho con cái cho gia đình bằng trái tim của mình.
Thiên Chúa đã trao cho con người giới răn thứ bốn là chỉ dẫn trong cung cách sống với cha mẹ: Con phải thảo kính cha mẹ con!
Ngày nhớ ơn mẹ, xin thắp cây nến lòng biết ơn mẹ nơi tòa Đức mẹ Maria, cầu cho người mẹ đã sinh thành nuôi dưỡng, dậy dỗ người con nên người khôn lớn ở đời.
Cây nến lòng yêu mến nơi tòa Đức mẹ cho người mẹ trần gian đang nuôi con.
Cây nến lòng hiếu thảo nơi tòa Đức mẹ cho người mẹ đã đi về đời sau.
Ngày nhớ ơn Mẹ
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ðức mẹ là đấng trung gian
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ở đời hễ có sự gì khó gỉai quyết, người ta thường cần đến một ai đó làm trung gian hòa giải.
Khởi đầu từ trong gia đình, con cái lớn bé, hễ có điều gì muốn xin, thường chạy đến nói với mẹ trước. Người mẹ được người con tin tưởng và cậy nhờ nói giúp phù hộ nơi người cha.
Ngoài xã hội, khi có xung đột, chiến tranh hay biểu tình xảy ra giữa hai bên chống đối và ủng hộ. Người ta cũng cần đến vai trò trung gian hòa giải của một người nào đó, để tìm ra một lối thoát khỏi cơn khủng hoảng. Người làm trung gian hòa giải trong lãnh vực này, phải là người hiểu biết sự việc đang xảy ra, hiểu biết cả hai bên, và được hai bên tin tưởng cần nhờ đến.
Trong lãnh vực đời sống hằng ngày, con người càng cần đến vai trò trung gian hòa giải của những vị cố vấn, của những văn phòng giúp giải quyết vấn đề tâm lý gia đình đang gặp khủng hoảng. Họ tìm đến những cố vấn trung gian này. Vì họ tin tưởng những người này có thể có ý kiến thông suốt hơn, giúp họ tìm ra con đường tốt đẹp thoát khỏi trình trạng bế tắc khó khăn đang xảy ra.
Nhưng trong đời sống, không phải tất cả những khó khăn khủng hoảng nào cũng được giải quyết qua nhờ người làm trung gian, làm cố vấn. Nhất là khi những điều đó có liên quan sâu xa tới tinh thần tâm hồn, tới niềm tin đạo giáo. Những lúc đó, đức tin vào Thiên Chúa là cố vấn cho ta tìm đến đấng làm trung gian giúp ích cho tâm hồn hơn cả.
Ðó đây cung cách biểu lộ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, đấng là nguyên thủy đời sống, là người cứu chữa tâm hồn cuộc sống, luôn được nuôi dưỡng chăm sóc. Ðây là điều phải đạo và cần thiết. Như người con trong gia đình, người tín hữu thường chạy đến với Ðức Mẹ Maria, xin mẹ làm trung gian bầu cử cho mình trước tòa Thiên Chúa, những điều khấn ước nguyện xin. Xưa nay càng có nhiều tấm lòng thành kính chạy đến kêu khấn với Ðức mẹ. Họ tin tưởng Ðức Mẹ là người phù giúp trong những bước đường khủng hoảng gặp khó khăn. Và nhiều người đã nhận được ân đức của Thiên Chúa qua lời bầu cử của Ðức mẹ Maria.
Giáo Hội Công giáo trong đời sống có những ngày lễ kính Ðức mẹ Maria trong tâm tình tin tưởng Ðức mẹ là đấng trung gian, như dành cả tháng Năm hằng năm kính Đức mẹ.Tâm tình cung cách đạo đức đó được thể hiện qua nhiều hình thức như đọc kinh lần hạt, giờ thánh ca hát mừng kính Ðức Mẹ, rước kiệu dâng hoa mừng kính Ðức Mẹ…Hoặc thắp lên 12 cây nến, như 12 ngôi sao kết vòng chung quanh triều thiên Mẹ, mừng kính Ðức Mẹ là đấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người cho những tâm tình trong đời sống của mình.
- 1. Chúng con thắp sáng cây nến đức tin ngày chúng con chịu phép Thánh tẩy đã được đốt lên từ ngọn lửa cây nến Chúa phục sinh cho tâm hồn niềm tin. Ánh sáng cây nến niềm tin là ngôi sao dẫn đường chỉ lối cho tâm hồn trên đường sống ở trần gian.
- 2. Chúng con thắp sáng cây nến tình yêu, Thiên Chúa và cha mẹ chúng con đã trao vào thân xác, tâm hồn từ ngày chúng con được tạo dựng trong cung lòng mẹ. Cây nến tình yêu là ngôi sao thức ăn, nhựa sống cho phát triển đời sống thể xác lẫn tinh thần.
- 3. Chúng con thắp sáng cây nến niềm hy vọng. Thiên Chúa và công trình sáng tạo trong thiên nhiên hằng luôn luôn mang đến đổi mới, lòng phấn khởi hướng về ngày mai. Cây nến niềm hy vọng là ngôi sao chiếu sáng vào trong tâm hồn, những khi chúng con sống trải qua những bước đường thử thách đen tối.
- 4. Chúng con thắp sáng cây nến tình người. Từ ngày chúng con mở mắt chào đời cùng nắm tay chung vai sát cánh với mọi người đi vào xây dựng đời sống đã được Chúa trao gửi cho. Cây nến tình người là ngôi sao lòng khoan dung bác ái cho đời sống chung trong khu vườn công trình sáng tạo của Chúa thêm khởi sắc.
- 5. Chúng con thắp sáng cây nến lòng biết ơn, đã được ông bà cha mẹ, thầy dậy nói cho biết từ khi có trí khôn. Cây nến lòng biết ơn là ngôi sao nhắc nhở nhớ đến cội nguồn đời mình - „Uống nước nhớ nguồn. Ăn trái nhớ kẻ trồng cây. „
- 6. Chúng con thắp sáng cây nến ngày hôn nhân, đôi bạn nam nữ trước bàn thờ Thiên Chúa và Hội Thánh, tay trong tay đã cùng nhau thắp lên. Cây nến ngày hôn nhân là ngôi sao soi lối cho tình nghĩa vợ chồng trong mọi hoàn cảnh của đời sống.
- 7. Chúng con thắp sáng cây nến lòng khiêm nhường, là bài học sống ở đời trong gia đình với cha mẹ anh chị em và ngoài xã hội chung sống với người khác. Cây nến lòng khiêm nhường là ngôi sao chiếu tỏa tình thân ái, lòng kính trọng sự chân thật trong đời sống chung. Chúa Giêsu và chính Đức Mẹ đã sống nêu gương cho chúng con về cách sống lòng khiêm nhường với Chúa và với mọi người.
- 8. Chúng con thắp sáng cây nến lòng trông cậy. Tâm tình lòng trông cậy chúng con đã học được trong đời sống, khi nhận ra giới hạn của mình về khả năng trí tuệ học hành, khả năng sức khoẻ, khả năng làm việc. Cây nến lòng trông cậy là ngôi sao hướng dẫn làm phong phú thêm đời sống tinh thần, giúp vượt qua những giới hạn yếu kém của mình, mà không có tự ty mặc cảm.
- 9. Chúng con thắp sáng cây nến niềm an ủi. Cây nến này chúng con đã luôn nhận được trong cuộc sống từ ông bà cha mẹ, anh chị em, bạn bè và từ nơí Chúa cho gia đình chúng con trong những bước đường khó khăn đau khổ của đời sống. Cây nến niềm an ủi là ngôi sao mang đến niềm phấn chấn, vực dậy và gây lòng hào hứng cho tâm hồn trong cơn sầu muộn thất vọng.
- 10. Chúng con thắp sáng cây nến xây dựng hòa bình, như lời Chúa nhắn nhủ : Phúc cho ai xây dựng hòa bình. Vì nước Trời là của họ. Cây nến hòa bình là ngôi sao Bethlehem chiếu ánh sáng cho mọi tâm hồn. Ngôi sao này được trao gửi cho mọi người cùng nhau kiến tạo xây dựng một thế giới tình thương trong cuộc sống.
- 11. Chúng con thắp sáng cây nến niềm vui. Niềm vui giúp củng cố tâm hồn cuộc sống, xóa tan mây mù lo âu sợ hãi. Cây nến niềm vui là ngôi sao Chúa mang từ trời cao xuống cho trần gian. Thiên Thần hiện đến báo tin cho các mục đồng: Ta báo cho anh em một tin mừng: Chúa Giêsu, đấng cứu thế đã sinh ra cho anh em. Niềm vui có Chúa cùng đi. Niềm vui mang Chúa đến cho người khác như cuộc sống của Đức Mẹ ngày xưa ở Nazareth.
- 12. Chúng con thắp sáng cây nến gia đình. Từ ngày đôi bạn nam nữ cùng nhau xây dựng mái ấm gia đình hôn nhân, họ được Chúa chúc phúc và hằng hiện diện trong nếp sống tổ ấm đó. Cây nến gia đình là ngôi sao mang đến hơi nồng ấm tình yêu cho vợ chồng, cho con cháu bạn trẻ vững tin vào Chúa và vào nhau.
Tháng Năm kính Đức Mẹ Maria
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tháng hoa kính đức mẹ Maria
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nếp sống đạo đức trong Hội Thánh Công giáo dành tháng Năm hằng năm mừng kính Đức Mẹ Maria.
Tập tục đạo đức
Tập tục đạo đức mang đậm mầu sắc rộn ràng tình cảm lòng yêu mến như có hiện nay đã bắt đầu thành hình từ cuối thế kỷ thứ 18. Năm 1784 Dòng Kamillino ở thành phố Ferrara bên Ý đã tổ chức lần đầu tiên giờ thánh kính đức mẹ Maria vào tháng Năm.
Khuôn mẫu hình thức mừng kính Đức Mẹ từ đó theo dòng thời gian từ mấy thế kỷ qua được duy trì phát triển trong nếp sống đạo đức Hội Thánh Công Giáo trên hoàn vũ.
Tập tục nếp sống đạo đức này ăn rễ sâu trong lòng người giáo hữu Chúa Kitô khắp nơi. Vì thế, hằng năm vào tháng Năm nơi các thánh đường Công giáo bàn thờ kính Đức Mẹ Maria được sửa dọn trang hoàng với nhiều bông hoa tươi thắm, những hàng nến cháy sáng rực rỡ.
Nhiều nơi, như tập tục nếp sống đạo đức bên Việt Nam còn có những giờ thánh kính đức mẹ, chầu Thánh Thể và các em nhỏ dâng hoa kính Đức Mẹ nữa.
Tháng Năm
Tên gọi tháng Năm - Mai (Đức) , May (Anh), Mai (Pháp) - có nguồn gốc từ vị Thần cổ xưa ở bên Ý „Maius“. Vị Thần nầy được sùng bái là người bảo vệ gìn giữ sự sinh sôi nẩy nở. Cũng theo thần thoại Hy Lạp „Maia“ là một người mẹ nhỏ. „Maia“ là vị Thần đất, là người mẹ của mọi sự sinh sản phát triển.
Tháng Năm , theo niên lịch cùng tứ thời bát tiết, là tháng cao điểm của mùa Xuân trong trời đất. Ánh nắng mặt trời chiếu tỏa trong khòng gian vũ trụ còn dịu mát chưa nóng gay gắt.
Tháng Năm theo quan niệm chung là tháng của thảo mộc cây cối. Vì trong tháng này mọi loài thảo mộc cây cối mọc phát triển cành lá tươi xanh, nụ hoa bung nở vươn mình ra ngoài từ trong thân cây. Tháng Năm vì thế theo tuần hoàn của thời tiết là tháng chào mừng thiên nhiên.
Theo thời tiết bốn mùa tuần hoàn xoay chuyển bên xứ Âu Châu cùng vùng bắc Mỹ châu, bắt đầu từ cuối tháng Ba sang tháng Tư hằng năm cây cối đã bắt đầu thức dậy sau mùa Đông lạnh gía, cây cối nụ lộc lá xanh nhỏ như y phục ra bên ngoài. Sang tháng Năm bộ y phục quần áo của chúng phát triển xanh tươi phủ kín khắp cành nhánh cùng tỏa bóng râm rợp mát mặt đất. Vào tháng này chim chóc đến đó làm tổ, sinh con bay chuyền lượn kêu hót inh ỏi vang trời, ong bướm bay lượn hút mật.
Các cánh hoa đã bung nở vươn mình ra ngoài thiên nhiên khoe hương sắc tươi thắm hấp dẫn. Các loài cỏ chui mọc lên từ dưới mặt đất ở khắp các đường đi, nơi các bãi cỏ. Bức tranh thiên nhiên mầu xanh tràn đầy sức sống là một phép lạ của thiên nhiên. Nó hướng tâm trí chúng ta tới Đấng Tạo Hóa đã lập làm nên bức tranh phép lạ thiên nhiên này.
Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã tạo dựng nên mọi sự ban cho có sức sống. Con người chúng ta ngắm nhìn chiêm ngưỡng và cúi đầu xin dâng lời cảm tạ Ngài.
Nhớ về khu vườn địa đàng
Khu vườn đầu tiên Thiên Chúa tạo dựng cho con người được hưởng dùng là vườn địa đàng. Nhưng con người đã đánh mất nó. Vì Ông Bà nguyên tổ Adong Evà đã phạm tội không vâng lời Thiên Chúa cấm đoán. Và do đó, Ông Bà bị đuổi ra khỏi khu vườn địa đàng này. Hậu qủa là sự đau khổ, tội lỗi và sự chết xâm nhập vào đời sống con người.
Tháng Năm khi khu vườn phép lạ thiên nhiên phát triển bung nở rộ vẻ đẹp thần thánh làm con người chúng ta tưởng nhớ tới khu vườn địa đàng đầu tiên ngày xưa Thiên Chúa đã tạo lập cho Ông Bà nguyên tổ chúng ta, mà giờ đây đã bị mất. Dẫu vậy Thiên Chúa đã vì tình yêu thương mở ra một con đường cho con người. Con đường này không dẫn đưa trở lại khu vườn địa đàng, nhưng hướng đưa lên trời cao. Bắt đầu con đường này có đức mẹ Maria đứng đó rồi. Đức mẹ Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm mẹ sinh hạ cùng nuôi dưỡng Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Mẹ Maria đã nói lời xin vâng theo thánh ý Thiên Chúa muốn cho mình. Và trong suốt dọc đời sống, Đức Mẹ đã phải sống trải qua những thử thách, những hy sinh đau khổ. Mẹ Maria đã cùng đồng hành với Chúa Giêsu con mình đến giờ phút cuối cùng lúc Chúa Giêsu bị đóng đinh chết trên thập gía. Và sau khi qua đời đức mẹ Maria đã được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn lẫn thân xác.
Hội Thánh Công giáo ca tụng đức mẹ Maria không chỉ là người tôi tớ Chúa, nhưng cũng là nữ vương trời đất, là người được ân đức cao trọng trong mọi loài thụ tạo của công trình sáng tạo thiên nhiên.
Đức Mẹ Maria và tháng Năm
Trong kinh cầu Đức bà, đức mẹ Maria được ca ngợi tôn vinh là Nữ vương các Thiên Thần, nữ vương các Thánh Tổ Tông, Nữ vương các Thánh Tiên Tri, nữ vương các Thánh Tông đồ, nữ vương các Thánh Tử vì đạo, nữ vương các Thánh Hiển tu, nữ vương các Thánh đồng trinh...
Ngoài ra người giáo hữu Chúa Kito còn xưng tụng đức mẹ Maria là „ nữ vương tháng năm“. Vì tháng Năm, tháng hoa nở rộ là tháng đẹp nhất trong năm. Và qua đấy muốn liên kết nối liền mối tương quan sự đẹp tươi thắm cây cối bông hoa là sự sống thiên nhiên với cuộc đời đức mẹ Maria, là mẹ đã hạ sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa cho trần gian.
„Theo nếp sống Phụng vụ của Hội Thánh, tháng Năm còn trong mùa phục sinh mừng kỷ niệm mầu nhiệm Chúa Giêsu sống lại, và cũng là thời gian chờ đợi mừng lễ đức Chúa Thánh Thần hiện xuống. Hai khía cạnh này ăn với khớp truyền thống của Hội Thánh dành tháng Năm mừng kính Đức Mẹ Maria.
Đức Mẹ Maria là bông hoa tươi đẹp nhất trong khu vườn sáng tạo thiên nhiên. Đức mẹ là bông hoa „ Rosa - hoa hồng“ bung nở rộ trong thời gian, khi đức mẹ hạ sinh Chúa Giêsu, như món qùa tặng mùa xuân mới cho trần gian. Và đồng thời đức mẹ Maria là người có trái tim tâm hồn chan chứa lòng khiêm nhường đã đón nhận Chúa Giêsu vào trong cung lòng mình, và là người mở lòng mình ra sẵn sàng đón nhận ân đức Chúa Thánh Thần ban xuống cho mình.“ ( Đức Giáo hoàng Benedicto XVI., Kinh truyền tin ngày 9.5.2010.)
„ Hoa muôn sắc con dâng trước tòa, mầu tươi thắm hương ngát tốt xinh.
Hoa muôn sắc con dâng trước tòa, còn thua kém nhan Mẹ Chúa thiên đình.“
Tháng hoa kính Đức mẹ Maria
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hoài nghi và tin tưởng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngoc ̣ Long
Chúa Giêsu Kitô chết được an táng trong mồ sâu dưới lòng đất là biến cố đau thương buồn sầu cùng sợ hãi cho nhóm 11 Tông đồ và những người yêu mến tin theo người.
Nhưng tin Chúa Giêsu Kitô sống lại không còn xác trong ngôi mộ chôn ngài hai ngày hôm trước càng làm cho họ sửng sốt cùng hoài nghi hơn nữa.
Ông Tông đồ Phero đi ra vào trong mộ thận trọng ngó nhìn chung quanh tìm bằng chứng cụ thể xem xác Chúa Giêsu có còn ở đây không. Ông yên lặng, như một điều tra viên ghi chú chụp hình, thấy tấm khăn liệm che phủ đầu và những dây chằng buộc xác Chúa Giesu cuộn lại nằm riêng rẽ ở đó, không còn xác Chúa Giesu nữa. Ông không vội tin ngay, nhưng với lý trí tìm hiểu trước.
Ông Tông đồ Gioan đi vào mộ sau . Ông nhìn không thấy xác Chúa Giêsu trong mộ. Và Ông tin ngay theo trực giác cảm nhận của mình. Ông tin với tầm nhìn của con mắt tâm hồn, của một người có trực giác nhạy bén.
Chị Madalena hốt hoảng chạy vào mộ sau cùng, dù Chị đến đó trước tiên. Chị không còn ngăn nổi dòng nước mắt tuôn trào khóc thương nhớ Chúa Giêsu đã chết, và bây giờ xác cũng không còn ở trong mộ nữa. Chị cảm thấy bơ vơ vì mất Chúa Giêsu. Chi đi tìm Chúa Giêsu thần tượng của mình. Chị chỉ chịu rời khỏi mộ, khi biết được xác Chúa Giêsu ở đâu. Và sau cùng chị đã thấy Chúa Giêsu sống lại hiện ra nói chuyện với chị. Thế là chị mới an lòng, mới tin. Chị tin trong mối tương quan thân thiết tình yêu mến. ( Ga 20, 1-9)
Còn có một Tông đồ khác, Ông Thomas, không vội tin Chúa Giêsu phục sinh, nhưng trước hết hoài nghi đã.
Tên của vị tông đồ Thomas này ẩn dấu hai khía cạnh, nôm na gọi là bộ đôi.
“ Tên của Ông có gốc nguyên ngữ tiếng Do Thái ( Aramae) „ ta-am“, có nghĩa là „bộ đôi“ hay „sinh đôi“. Trong thực tế, nơi phúc âm theo Thánh Gioan rất nhiều lần Ông được nói đến với tên phụ nữa là Didymo ( Ga 11,6- 20,24 - 21,2) theo nguyên ngữ Hylạp có nghĩa là „sinh đôi". Tại sao Ông có tên phụ như vậy, không rõ nguyên nhân.“ ( Giáo hoàng Benedictô XVI., Bài giáo lý, ngày 27.09.2006 về Tông đề Thomas).
Và như thế cung cách nếp sống của Ông cũng phản ảnh sự song hành „bộ đôi“, „ sinh đôi" như nơi tên của Ông nói lên: Hoài nghi và tin tưởng.
Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các tông đồ, nhưng Ông Thomas lại không có mặt hôm đó. Sau được các anh em tông đồ kể thuật lại biến cố vui mừng Thầy Giesu đã sống lại hiện ra, chúng tôi đã thấy Chúa Giêsu. Nhưng Ông không tin. Ông còn có thái độ cứng rắn hoài nghi nữa: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin“.
Tông đồ Thomas muốn tận mắt nhìn thấy Chúa Giêsu phục sinh với những vết thương tích nơi chân tay, nơi cạnh sườn. Với Ông những vết thương tích nơi Chúa Giêsu là những dấu chỉ trung thực, như căn cước tính của Chúa Giêsu phục sinh, mà trước đó đã chịu bị đóng đinh trên thập gía.
Ông muốn tin sau khi đã trải qua được đụng chạm tới điều mình tin, được thuyết phục xác tín.
Ông tin Chúa Giêsu phục sinh, vì Ông được đụng chạm vào vết thương của Chúa Giêsu đã bị đóng đinh trên thập gía "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!“
Tên của Ông Thomas ẩn dấu ý nghĩa bộ đôi, song sinh. Và vì thế nơi ông diễn tả ước vọng sự sống động : Hoài nghi và tin tưởng- thắc mắc và sự chắc chắn xác tín.
Thánh Giáo phụ Augustino đã có suy tư về câu tuyên xưng đức tin thời danh vào Chúa của Tông đồ Thomas: „ Ông Thomas đã nhìn thấy và đụng chạm vào một người. Nhưng đức tin của Ông vào Chúa, mà ông vừa không nhìn thấy cũng vừa không đụng chạm vào được. Những gì ông nhìn thấy và chạm vào được đã dẫn đưa ông đến lòng tin tưởng mà trước đó ông đã hoài nghi.“.
Trong thế giới trên trần thế đức tin tôn giáo, nhất là đức tin vào Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, và là cùng đích của đời sống, đóng vai trò quan trọng, cần thiết cho đời sống tinh thần. Nhưng cũng không thiếu, hay có không ít khoảnh khắc thời kỳ con người hoài nghi về Thiên Chúa. Vì không có cảm nghiệm, hay thiếu hiểu biết chắc chắn về Thiên Chúa
Những khi vướng vào hoàn cảnh như thế, trường hợp hoài nghi của Thánh tông đồ Thomas khi xưa lại trở nên sự an ủi cho con người, cùng thúc đẩy dẫn đưa con người đi tìm ánh sáng đức tin nơi chân trời mù mịt…
Và sau cùng cũng có thể thốt kêu lên lời cầu nguyện tuyên xưng như Thánh Thomas: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!
Lm. Daminh Nguyễn ngoc ̣ Long
Con đường nhận ra Chúa Giêsu sống lại
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu có câu: „Ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh!“
Kinh Thánh, phúc âm theo Thánh Gioan thuật lại, Maria Magdalena, Tồng đồ Phero và Tông đồ Gioan là ba người tiên khởi khám phá ra Chúa Giêsu đã sống lại. Họ là nhân chứng thấy ngôi mộ chôn Chúa Giêsu trống không còn xác Chúa Giêsu nữa. ( Ga 20,1-18).
Ba người thấy ngôi mộ chôn Chúa Giêsu trở nên trống, và họ tin Chúa đã sống lại theo ba cách thế, đúng hơn theo ba con đường khác nhau.
Con đường Tông đồ Phero
Tông đồ Phero, sau khi được Maria Magdalene báo tin không thấy xác Chúa Giêsu trong mộ nữa, là người đến sau cùng. Nhưng Ông lại là người trước tiên đi vào trong ngôi mộ.
Vào bên trong mộ, ông quan sát nhìn chung quanh, như một người chuyên môn điều tra sự việc. Ông thấy„ những băng vải còn đó, và khăn che đầu đầu Chúa Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải khác, nhưng cuốn lại xếp riêng ra một nơi. ( Ga 20, 6-7).
Cách thế quan sát nhìn ngôi mộ trống của Phero với những tang chứng như thế không phải là sự tò mò, nhưng nói lên chiều nhận thức sự việc của một người với tầm suy nghĩ của trí khôn. Vì tầm suy nghĩ thường hay thắc mắc về những chi tiết và tìm bằng chứng ít là có một vài chỉ dẫn cho trí khôn rồi mới có thể tin hay không.
Trong hàng ngũ 12 Tông đồ của Chúa Giesu, Ông Phero là một nông dân làm nghề chài lưới và có tính tình bộc trực nóng nảy nói năng làm theo cảm tính nhiều hơn. Nhưng lần này Ông lại có cung cách sống của một người trí thức, biết bỡ ngỡ thắc mắc đi tìm chứng cớ cho đức tin vào Chúa Giêsu thầy mình đã sống lại.
Như vậy ngay từ đầu Tông đồ Phero qua cung cách của mình đã muốn nói lên đức tin tôn giáo là không chỉ là việc của trái tim tình yêu mến, nhưng cũng cần đến lý trí, đến đầu óc suy nghĩ nữa.
Con đường theo Tông đề Gioan
Tông đồ Gioan, người được Chúa Giêsu yêu mến trong hàng ngũ 12 Tông đồ, bước vào ngôi mộ chôn Chúa Giêsu sau Tông đồ Phero, như Kinh Thánh viết thuật lại: „Ông đã thấy và đã tin!“ ( Ga 12,8). Ông không cần bằng chứng nhìn thấy những băng vải liệm xác, tấm khăn che đầu Chúa Giesu nói lên Chúa Giêsu đã sống lại không còn nằm ở đây nữa, rồi mới tin như Tông đồ Phero.
Với Gioan tin là điều tiên khởi. Đức tin với Ông thuộc trực giác, cảm nhận từ bụng nhiều hơn.
Khi còn trẻ thơ hay thỉnh thoảng cả nơi người gìa lớn tuổi cũng có hình thái tin như vậy. Họ tin vào Thiên Chúa, và không đặt ra thắc mắc có Thiên Chúa hay không có Thiên Chúa. Những người tin như Gioan, họ biết hồ nghi là gì, nhưng họ thấy không cần đặt thành vấn nạn thắc mắc.
Họ có nhu cầu cần sự bao che đùm bọc nơi Thiên Chúa. Vì tin rằng nơi Thiên Chúa họ có được bình an hạnh phúc. Và vì thế họ tin vào Chúa.
Trong đời sống xưa nay có những người luôn sống trong hoài nghi thắc mắc, nhưng không sao đạt tới một đời sống no đủ bình an cho tâm hồn. Như thế những người sống tin tưởng hồn nhiên như Gioan, như các trẻ em nhỏ, có đời sống niềm vui hạnh phúc, dù bị cho là ấu trĩ, nhưng lại giúp mang đến thăng bằng cho cán cân giữa hoài nghi và tin tưởng.
Con đường theo Maria Magdalena.
Magdalena không thuộc vào nhóm 12 Tông đồ của Chúa Giêsu tuyển chọn. Chị ta là người tin tưởng yêu mến đi theo Chúa Giêsu.
Magdalena đến mộ chôn Chúa Giêsu trước tiên và là người rời ngôi mộ sau cùng. Chị ta rời khỏi nơi ngôi mộ khi đã tìm thấy Chúa Giêsu. Vì với chị ta một đời sống không có Chúa Giêsu, không là một đời sống. Ở bên cạnh xác Chúa Giêsu đã chết được hạnh phúc hơn là một nơi nào đó không có Chúa Giêsu. Chính vì thế, Magdalena không ngừng đi tìm kiếm Chúa Giêsu. Chị ta đã tìm thấy Chúa Giêsu không chết, nhưng vẫn còn sống.
Với Maria Magdalena đức tin không phải là điều suy xét từ của trí khôn suy nghĩ tìm hiểu, cũng không phải là cảm nhận của trực giác của tiếng nói phát ra từ bụng, nhưng là từ trái tim tâm hồn.
Như vậy có thể nói cung cách dạng thức tin như thế này là sự gắn bó thân thiết từ trong nội tâm.
Và có thể nói Maria Magdalena là vị bổn mạng, là gương mẫu sống đức tin của các người sống đời chiêm niệm thân bí đạo đức. Với họ đức tin là tích tụ kết qủa của những kinh nghiệm, mà họ đã sống trải qua, đã cảm nhận ra ngay trong chính đời sống mình.
Tông đồ Phero, tông đồ Gioan và Maria Magdalena, cả ba người nhận ra tin Chúa Giêsu đã sống lại theo ba cách thức con đường khác nhau. Không con đường nào tốt hơn hay kém con đường nào. Đó là công trình Thiên Chúa đã tạo dựng nên nơi đời sống con người trong công trình thiên nhiên.
Không ai bắt buộc phải theo một hay hai hay cả ba con đường đó để tin nhận vào Chúa Giêsi đã sống lại.
Thiên Chúa ban cho mỗi người trái tim, trí khôn cùng tầng cảm giác thần kinh, không ai giống ai, cùng hoàn cảnh điạ lý và tâm lý khác nhau. Nên mỗi người phải dùng những điều đó tìm ra con đường cách thế phù hợp cho mình để tin“ Đức Giêsu phải sống lại từ cõi chết! ( Ga 20,9).
Có thế đời sống đức tin vào Chúa mới mang đến sự thăng bằng và niềm vui hạnh phúc cho tâm hồn.
Mừng lễ Chúa Giêu phục sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh thập gía Chúa Giêsu
- Viết bởi Linh mục Daminh Nguyễn ngọc Long
Con đường „Via Dolorosa“ bên thành cổ Jerusalem, mà người Công giáo hành hương đến đó đều đi đến từng chặng để kính viếng tưởng niệm Chúa Giêsu Kitô.
Con đường này là con đường đau khổ, mà ngày xưa Chúa Giêsu, theo truyền thuật lại, đã vác thập gía từ dinh Philato trong nội thành đến đồi Golgotha bên ngoài thành Gierusalem. Và sau cùng bị đóng đinh chết trên đó.
Ngày nay nếp sống phụng vụ đức tin Công giáo có lễ nghi vào ngày thứ Sáu tuần thánh tưởng nhớ Chúa Giêsu Kitô ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm đã bị lên án, vác thập gía chịu chết để mang ơn cứu chuộc cho con người.
Khi tưởng nhớ đến biến cố đau thương đẫm máu này, hình ảnh sự cô đơn quằn quại bị đóng đinh treo trên thập gía của chúa Giêsu ẩn hiện trong tâm trí cùng với lời than kêu than của Chúa: „Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Chúa bỏ rơi con?“ ( Mt 27,46- Tv 22,2).
Mỗi khi kính viếng tưởng niệm Chúa Giêsu chết trên thập gía một hình ảnh về cung cách nếp sống Chúa Giêsu xuất hiện trước mắt và trongt âm trí, như lời Kinh Thánh viết lại: Chúa Giêsu tự hạ mình, vâng lời cho đến chết trên thập gía. Chính vì thế, Thiên Chúa đã vinh thăng Người.( Phil. 2,8)
Lời kinh thánh diễn tả về Chúa Giêsu trên nói gì về niềm tin ?
Nhìn thẳng lên Chúa Giêsu bị chết treo trên Thánh gía, thấy đầu Ngài gục xuống sang một bên. Hình ảnh này nói lên cung cách sống khiên hạ của Ngài đã qùy xuống trước các học trò môn đệ rửa chân cho họ.
Cung cách cúi đầu trước ai đó cũng mang đến ấn tượng: nhận mình là nhỏ bé tầm thường hơn người khác và nói lên lòng kính trọng họ.
Chúa Giêsu, Thiên Chúa từ trời cao xuống trần gian làm người. Ðó là con đường đi xuống. Bây giờ chết trên thánh gía được nâng lên cao cũng cúi gục đầu trước con người.
Tình yêu và lòng kính trọng của Chúa với con người, trải dọc suốt cuộc sống trần gian của Ngài từ khi sinh ra đến lúc chết trên thập gía.
Trên thập gía Chúa Giêsu dang đôi tay ra như muốn mời gọi mọi người: Xin hãy đến với Thầy. Nơi Thầy anh em tìm được tình yêu, lòng khoan dung nhân hậu và sự an bình cho tâm hồn.
Trái tim Ngài bị đâm thâu qua, nơi đó máu và nước chảy ra lênh láng. Ðó là chứng tích lòng yêu thương như Mẹ Thánh Terexa đã cảm nhận: Yêu thương cho đến bị hành hạ đau khổ!
Linh mục Daminh Nguyễn ngọc Long
Sứ điệp qua cơn hỏa họan
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thứ hai tuần thánh, ngày 15.04.2019, cơn hỏa họan như một cơn cháy rừng đã bùng lên ngay trong lòng thủ đô Paris thiêu hủy tàn phá nhà thờ chính tòa Đức Bà bên nước Pháp.
Phải chăng cơn hỏa hoạn đó có thể đã gửi đi sứ điệp: Hãy trở về! ?
Cơn hỏa hoạn xảy ra tàn phá một ngôi nhà thờ, trung tâm của Kitô giáo. Mỗi người cảm thấy điều đó, dù là tín hữu Công giáo, hay người không là tín hữu Công giáo.
Chúng ta có thể chạy đến nơi đâu khi vướng mắc vào hoàn cảnh lâm nguy tai biến của thế giới và của hoàn cảnh riêng mỗi người, khi không còn nhà thờ nữa, khi nền Kitô giáo bị thiêu rụi tàn phá và chỉ sống còn nơi vòng ngoài hay dưới nền tảng bên dưới?
Đời sống đức tin tinh thần đạo giáo bên xã hội Tây phương, nơi là nôi của văn minh Kitô giáo, của đạo Công giáo càng ngày càng tàn lụi yếu ít đi. Luôn luôn có nhiều nhà thờ đã hoặc sẽ bị đóng cửa, luôn luôn có những thánh đường bị phá hoại.
Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá được cho là trở nên cùng đồng hình dạng với những hình thái khác. Những người có quyền lực uy thế tìm cách làm tất cả những gì có thể để chối bỏ tàn phá hủy diệt văn hóa văn minh Kitô giáo, gây hoang mang hồ nghi khử trừ đức tin khỏi tâm hồn con người, gây khó khăn giới hạn ảnh hưởng của Kitô giáo trong đời sống xã hội.
Ngày 11.04. 2019 vị Giáo hoàng nghỉ hưu Benedictô XVI. thọ 92 tuổi, viết lá thư dài về tình trạng trong Giáo hội:
„ Một xã hội không có Thiên Chúa chỉ có thể là một thế giới không có ý nghĩa. Vì lúc đó, mọi sự phát xuất từ đâu? Dù sao, nó không có mục đích thiêng liêng nào. Nó chỉ đơn giản có mặt ở đó và không có bất cứ mục tiêu cũng như bất cứ ý nghĩa nào. Lúc đó, không hề có tiêu chuẩn thiện hay ác nào. Lúc đó, chỉ những điều mạnh hơn những điều khác mới có thể khẳng định chính nó. Quyền lực lúc đó là nguyên lý duy nhất. Sự thật không đáng kể, nó thực sự không hiện hữu. Chỉ khi mọi thứ có một lý do thiêng liêng, được dự tính và được quan niệm - chỉ khi có một Thiên Chúa sáng tạo, Đấng tốt lành và muốn điều tốt - thì cuộc sống của con người mới có thể có ý nghĩa. „
Nhà thờ Đức bà Paris đã bị cơn hỏa hoạn tàn phá làm mất đi không chỉ một công trình văn hóa xây dựng, nhưng còn nói lên biểu tượng sự suy xụp lung lay về đức tin đạo giáo tinh thần chối xa lìa Thiên Chúa nữa.
Nền tảng văn hóa của nhà thờ chính tòa vẫn còn đứng đó. Những cấu trúc của thánh đường bên Âu châu vẫn còn đó. Nhưng những thánh đường không còn cảnh có nhiều người tín hữu đến đọc kinh cầu nguyện, tham dự thánh lễ Misa, tiếp nhận các Bí Tích, không còn có nhiều người muốn tuyên xưng đức tin vào Chúa, vào sự thánh thiện. Thay vào đó là sự dửng dưng, sự hồ nghi, bình phẩm chỉ trích phỉ báng…
Tin tức loan tải ngôi nhà thờ chính tòa bị hỏa hoạn tàn phá, nhưng Vòng gai của Chúa Giêsu ngày xưa, là di tích lịch sử thánh gìn giữ bảo quản trong nhà thờ đã được cha Fournier can đảm xông vào bên trong nhà thờ mang ra ngoài an toàn. Vòng mạo gai đã được cứu không bị lửa cháy thiêu hủy. Việc này nói lên hình ảnh sự trở về với Chúa. Trở lại với Thiên Chúa là chấp nhận hy sinh chịu đau khổ. Sự đau khổ hy sinh đó là những viên gạch đá sẽ xây dựng lại ngôi nhà thờ chính tòa Đức Bà.
Ngày xưa Thánh Phanxico thành Assisi đã được chính Chúa Giêsu trao cho nhiệm vụ“ Con hãy đi xây dựng lại Giáo Hội của Ta“. Thánh nhân đã vâng nghe tiếng Chúa nói và cứu xây dựng lại ngôi nhà thờ San Damiano trong tình trạng đổ nát tan hoang cho khang trang lại. Qua đời sống hy sinh thánh thiện thánh Phanxico đã không chỉ xây dựng lại ngôi nhà thánh đường, mà còn thổi làn gió đổi mới toàn Giáo Hội nữa.
Nhà thờ chính tòa Đức Bà Paris, biểu tượng của văn hóa cùng lịch sử đời đạo của nước Pháp, sẽ được sửa chữa xây dựng lại, như lời Tổng Thống Pháp Macron và nhiều nhà mạnh thường quân đã hứa, đã kêu gọi.
Nhưng sự xây dựng lại qua sự trở về với Thiên Chúa, trở về với đức tin vào Chúa là nền tảng văn minh Kitô giáo còn cần thiết hơn.
Chúa Giêsu đã nói: „Nếu những ngày ấy không được rút ngắn lại, thì không ai được cứu thoát; nhưng, vì những người được tuyển chọn, các ngày ấy sẽ được rút ngắn.“ ( Mt 24,22). Ngày thứ sáu Tuần Thánh, ngày Chúa Giesu bị khổ hình đóng đinh trên thập gía năm xưa, không loại trừ xảy ra cho đời sống con người. Nhưng chúng ta biết và tin rằng cùng có kinh nghiệm trải qua trong đời sống rằng, sau đó ngày phục sinh sống lại sẽ đến.
Hãy để niềm vui mừng hân hoan ngày Chúa nhật Chúa phục sinh sắp tới tràn ngập vào trái tim tâm hồn. Nhưng trước hết như sức lực được ban cho, hãy đứng vững dưới chân thập gía cùng chịu đựng đau khỗ với Đấng là nguồn sự sống ơn cứu chuộc.
Tuần Thánh 2019
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tiến lên Jerusalem
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm vào ngày Chúa nhật bắt đầu tuần thánh, Giáo Hôi Công giáo mừng kỷ niệm biến cố Chúa Giêsu tiến vào thánh thánh Gierusalem.
Biến cố này được tường thụât chi tiết trong bốn phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh Mattheo 21,1-11, Marco 11,1-10 , Luca 19,28-40 và Gioan 12,12-19.
Mừng lễ Vượt Qua
Thánh sử Gioan tường thuật ba lần Chúa Giêsu mừng lễ Vượt Qua ( Pascha) từ khi ra giảng đạo: Lần thứ nhất vào đền thờ Gierusalem mừng lễ Vượt Qua với biến cố ngài đuổi dẹp những người buôn bán trong đó ( Ga 2,13), lần thứ hai mừng lễ Vượt Qua và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều ở Galilea bên bờ hồ Tiberia, và lần thứ ba mừng lễ Vượt Qua: sự chết và sống lại của chính mình ( 12,1 , 13,1), trở thành lễ mừng Chúa phục sinh của Kitô giáo.
Đang khi ba thánh sử Mattheo, Marco và Luca chỉ tường thuật nói đến một lễ mừng Vượt Qua: Thập giá và sự sống lại của Chúa Giêsu. Theo thánh sử Luca con đường của Chúa Giêsu như con đường hành hương duy nhất tiến lên Gierusalem từ Galilea.
Hình ảnh tiến lên cao
Theo hình thể địa lý, Chúa Giesu sinh sống lớn lên ở thành Nazareth, rồi bắt đầu cuộc đời công khai ra rao giảng tình yêu sứ điệp Nước Thiên Chúa ở vùng biển hồ Genezareth , miền Bắc nước Do Thái. Hồ Genezareth nằm thấp khoảng 200 mét dưới mặt nước biển, đang khi Gierusalem nằm cao hơn khoảng 760 mét trên mặt nước biển. Như thế, con đường tiến lên chịu đau khổ của Chúa Giêsu , như ba Thánh sử Mattheo, Marco và Luca tường thuật lại, đồng thời cũng diễn tả sự tiến lên nội tâm tinh thần qua hình ảnh con đường địa lý bên ngoài : tiến lên đền thờ là nơi Thiên Chúa cư ngụ, như trong sách Đệ nhị Luật đã viết. ( Đệ nhị Luật, 12,11 và 24,23).
Đích điểm cuối cùng sự tiến lên của chúa Giêsu là sự hy sinh dấn thân chịu chết trên thập gía thay cho lễ tế của đạo luật cũ thời Mose. Sự tiến lên trước Thiên Chúa như trong thư Do Thái ( 9,24) đã nhấn mạnh nói đến, qua hình khổ thập gía. Đó là sự tiến lên đưa tình yêu thương đến tận cùng ( Ga 13,1) mà cao điểm là núi của Thiên Chúa.
Hình ảnh con lừa ngày lễ lá
Cuộc tiến lên núi Olive vào Gierusalem của Chúa Giêsu khởi hành từ Bethfage và Betania cỡi trên lưng con lừa ( Mc 11,3, Lc 19,31) còn non buộc ở gốc cây và chưa có ai cỡi trên nó. Điều này nói đến quyền của vị vua. Và cũng nói đến hình ảnh con lừa trong kinh thánh cựu ước nơi sách Sáng Thế. ( St 49,11).
Đoạn kinh thánh này tường thuật về cảnh Tổ phụ Gicóp chúc phúc lành cho các con của mình , riêng cho Giuda được trao cho cây gậy vương trượng chỉ huy. Cây vương trượng này thuộc về Giuda sẽ không rời khỏi chân của ông cho đến khi mọi dân tộc vâng phục ông. Và Giuda đã buộc con Lừa vào gốc cây nho. Hình ảnh con lừa buộc vào gốc cây nói về Đấng đang đến sẽ dùng nó và được mọi dân tộc vâng nghe tuân phục.
Trong sách Ngôn sứ Sacharia nói về cảnh này, như nơi phúc âm theo Thánh Mattheo 21,5 và Gioan 12,15 cũng viết trích lại rõ hơn nữa:
„ Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò!
Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi:
Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng,
khiêm tốn ngồi trên lưng lừa,
một con lừa con vẫn còn theo mẹ.“ ( Sacharia 9,9)
Lời Ngôn sứ Sacharia muốn nói đến một vị Vua không gây ra chiến tranh, nhưng là vị vua hòa bình, vị vua đơn giản, vị vua của nghèo khó. Nhưng nước của vị vua bao trùm khắp nơi trên thế giới.
Điều này nhắc nhớ đến nước của Chúa Giêsu cũng bao gồm trên thế giới trong cộng đoàn cùng bẻ Bánh, trong cộng đoàn Giáo Hội Chúa Giêsu, bao trùm trải rộng khắp cả mọi bờ biển như vương quốc hòa bình. Chúa Giêsu không xây dựng trên sức mạnh, không làm cách mạng chống lại đế quốc Roma thời đó. Sức mạnh của Ngài là cách thế khác: sự nghèo khó của Thiên Chúa, hòa bình của Thiên Chúa, mà chỉ nơi mình Chúa Giêsu nhận ra sức mạnh ơn cứu độ.
Được nâng lên cao
Hai thánh sử Mattheo 21,7 và Marco 11,7 đơn giản viết: „Chúa Giêsu cỡi lên lưng con lừa“ . Nhưng thánh sử Luca 19,35 viết: „Các Ông giúp người cỡi lên". Hình ảnh giúp Người cỡi lên là nâng hay kiệu Người lên cao đặt trên lưng con lừa.
Và trong sách Các Vua 1. cũng dùng ngôn từ này khi thuật lại Salomon được nâng lên phong làm vua nối nghiệp Vua David:
„ Vua Đa-vít nói: "Gọi vào đây cho ta tư tế Xa-đốc, ngôn sứ Na-than, ông Bơ-na-gia-hu con ông Giơ-hô-gia-đa." Những người này vào chầu vua.33 Vua nói với họ: "Hãy đưa các bề tôi của chúa thượng các ngươi đi theo các ngươi; để Sa-lô-môn con ta cỡi con la cái của ta, rồi đưa nó xuống Ghi-khôn.34 Ở đấy tư tế Xa-đốc và ngôn sứ Na-than sẽ xức dầu phong nó làm vua Ít-ra-en…“( 1. Sách Các Vua , 1, 32-33).
Hosanna - Hoan hô
Dân chúng hân hoan phấn khởi đón mừng Chúa Giêsu cỡi lừa tiến vào thánh Jerusalem. Họ trải áo ra đường, lấy cành lá vẫy hoa hô con Vua David: Hosianna, Hosanna.
Trải áo ra đường đón chào là cung cách truyền thống chào đón vị Vua lên ngôi kế vị triều đại Vua David, và trong ý nghĩa niềm hy vọng về đấng cứu thế, như trong sách Các Vua 2, ( 9,13) đã thuật lại.
Lòng phấn khởi cùng với cành lá trên tay reo hò hoan hô của dân chúng là lời cầu nguyện phụng vụ lễ nghi hành hương:
„ Lạy CHÚA, xin ban ơn cứu độ,
lạy CHÚA, xin thương giúp thành công.
26 Nguyện xin Chúa tuôn đổ phúc lành
cho người tiến vào đây nhân danh CHÚA.
Từ nhà CHÚA, chúng tôi chúc lành cho anh em.
27 ĐỨC CHÚA là Thượng Đế, Người giãi sáng trên ta.
Tay cầm lá, hãy sắp thành đám rước đến bên cạnh bàn thờ.“ ( Tv 118,25-27).
Lời tung hô Hosanna nguyên thủy là lời khấn nguyện: Lạy Chúa xin đến giúp! mà Thầy cả trong ngày thứ bảy lễ cầu mùa tạ ơn kêu cầu hát vang theo lễ nghi đạo Do Thái từ thời Mose trước bàn thờ tế lễ, xin mưa xuống trên mùa màng. Lời cầu ngày lễ cầu mùa tạ ơn đã trở thành lời cầu nguyện chúc tụng diễn tả niềm vui mừng hân hoan .
Lời hoan hô chúc tụng Hosanna dân chúng về Jerusalem hành hương thốt ra kêu lên lúc thời Chúa Giêsu tiến vào thành Jerusalem còn tiềm ẩn mang ý nghĩa chỉ về đấng cứu thế : Lời ca tụng Thiên Chúa, niềm hy vọng diễn tả thời giờ của đấng cứu thế đã bất đầu, và đồng thời cũng nói lên tâm tình cầu khấn: triều đại vương quốc vua David và nơi ông triều đại nước Thiên Chúa thể hiện mới nơi dân Israel.
Lời hoan hô chào mừng Hosanna của dân chúng hành hương thốt kêu lên, khi Chúa Giêsu cỡi lừa tiến vào thành Jerusalem đã trở thành lời chào mừng chúc tụng Chúa Giêsu là người nhân danh Thiên Chúa đến thực hiện tất cả những lời đoan hứa đã được loan báo mà mọi người đang trông mong chờ đợi.
Thánh sử Luca viết phúc âm chúa Giêsu cho dân ngoại, nên Ông bỏ không viết lời hoan hô Hosanna trong ý nghĩa chỉ về vua David. Thay vào đó, Thánh Luca đã viết lại lời Thiên Thần ca tụng Chúa Giesu ngày lễ Chúa giáng sinh năm xưa ở Bethlehem: „ Chúc tụng Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!“ ( Lc 2,14 và Lc 19,38).
Dân chúng tấp nập hối hả, hân hoan phấn khởi reo hò chạy đi theo chào mừng ca tụng Chúa Giêsu tiến vào thành Jerusalem như trong bốn phúc âm thuật lại, không phải là dân thành Jerusalem. Nhưng họ là những người đi theo Chúa Giêsu cùng tiến vào thành thánh.
Thánh sử Mattheo còn tường thuật thêm chi tiết sau khi dân chúng chào mừng hoan hô Hosanna Chúa Giêsu con vua David: „ Khi Chúa Giesu đã tiến vào thành Jerusalem, cả thành xôn xao náo động và họ hỏi nhau: Ông này là ai vậy? Dân chúng nói với nhau: Đó là vị Ngôn sứ Giesu thành Nazareth người xứ Galilea.“ ( Mt 21,19).
Sự xôn xao náo động nơi dân chúng trong thành Jerusalem đã xảy ra trước đó hơn ba chục năm, khi Chúa Giêsu sinh ra trên trần gian, lúc ba nhà đạo sĩ , còn gọi là Ba Vua, từ phương Đông tìm đường đến bái lạy người. ( Mt 2,3).
Ngày xưa trước khi chịu thương khó khổ hình chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã cỡi lừa tiến vào thành thánh Jerusalem được dân chúng trẻ con hoan hô chào mừng nồng nhiệt như vị cứu tinh cho dân tộc.
Ngày nay sau khi Chúa Giêsu sống lại trở về trời bên Đức Chúa Cha, cộng đòan tín hữu Giáo hội của Chúa Giêsu nhận ra Ngài trong cung cách khiêm hạ nơi tấm bánh Thánh Thể và chén Rượu cứu độ luôn mới mỗi khi của hành Thánh lễ Misa.: Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến!
( Viết theo : Joseph Ratzinger, Benedickt XVI., JESUS von Nazareth II., Der Einzug in Jerusalem, Herder 2011, Trang 16-25)
Lễ Lá 2019
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thập gía che khăn
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong nếp sống phụng vụ Công giáo có tập tục từ chúa nhật thứ năm mùa chay thập giá Chúa Giêsu, ít là trong các thánh đường, được che phủ kín bằng một tấm màn.
Đâu là ý nghĩa của tập tục này?
Tập tục che phủ thập giá Chúa Giesu có nguồn gốc trong Giáo Hội từ thế kỷ thứ 12.
Vào cuối thế kỷ 13. Đức giám mục Wilhelm Durandus , giáo phận Mende ở miền nam nước Pháp đã có suy tư về ý nghĩa tập tục này: Chúa Giêsu Kitô trong thời gian chịu thương khó đau khổ đã che dấu bản tính Thiên Chúa của mình.
Đặc biệt trong phúc âm theo Thánh Gioan có đoạn tường thuật lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các nhà thông luật thời lúc đó, Chúa Giêsu đã nói với họ: Trước khi có tổ phụ Abraham đã có tôi. Nghe thế họ lấy đá ném người. Nhưng Chúa Giêsu tránh đi , và rời khỏi đền thờ.( Ga 8,58).
Bài phúc âm này trước thời cải tổ phụng vụ năm 1969 được đọc trong thánh lễ ngày chúa nhật thứ năm mùa chay. Và từ khi có cải tổ phụng vụ đoạn phúc âm này không còn được đọc trong ngày này nữa. Nhưng thập giá vẫn còn được che phủ kín từ ngày này. Chiều ngày thứ Sáu tuần thánh có nghi thức phụng vụ mở khăn để mọi người tôn kính thập giá Chúa Giêsu.
Tấm Khăn che phủ thập gía thường mầu tím, nhưng cũng có nơi dùng tấm khăn mầu trắng.
Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập gía, và ngài đã chết trên đó. Đây là hình ảnh đau thương. Nhưng sự hy sinh đau thương của Chúa Giêsu chết trên thập gía lại là nguồn ơn cứu độ cho tội lỗi nhân loại. Vì thế thập gía chúa Giêsu được che phủ kín muốn nói lên khía cạnh hình ảnh chết hy sinh đau khổ của Chúa Giêsu cần được khắc ghi sâu vào trong trái tim tâm hồn người tín hữu Chúa Kitô.
Khi thập giá chúa Giêsu không còn được nhìn với tầm con mắt về khía cạnh lịch sử, thì ý nghĩa sự dấn thân hy sinh chịu chết của Chúa Giêsu trên thập giá được khám phá sâu xa hơn cho chính bản thân đời sống con người.
Thập gía trong đời sống ai cũng có, cũng phải mang vác chịu đựng. Đó là những đau khổ trong đời sống dưới nhiều dạng thức khác nhau trong các chặng đường lịch sử đời sống .
Không ai có thể bỏ đẩy thập giá ra khỏi đời sống mình được. Với người tín hữu Chúa Kitô nhìn lên thập giá Chúa Giêsu nhắc nhớ đến lời Chúa Guêsu trong cơn khốn cùng đã kêu than thở : Lạy Thiên Chúa, sao Chúa bỏ con. Xin Chúa đến giúp con!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Viết trên đất
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trên bước đường rao giảng tình yêu nước Thiên Chúa ba năm ở trần gian nước Do Thái, Chúa Giêsu đã thể hiện nhiều phép lạ, đưa ra nhiều dụ ngôn , cùng nhiều cung cách xử sự với con người.
Những cung cách cùng lời nói của Chúa Giêsu đã đánh động tâm hồn người trong cuộc, người nghe thời lúc đó và cả người đọc kinh thánh tường thuật lại sau này. Một cung cách xử sự của Chúa Giêsu gây cảm động ngạc nhiên cùng lòng cảm phục như khuôn vàng thước ngọc là cách thế Chúa Giêsu đối xử với người phụ nữ bị tố cáo phạm tội.
Các nhà theo phái Phariseo mang đến cho Chúa Giêsu người phụ nữ bị tố cáo phạm tội, để xem Chúa Giêsu đối xử ra sao. ( Lc 7,53- 8,11)
Theo luật Do Thái thời lúc Chúa Giêsu, người phụ nữ nào bị tố cáo phạm tội sẽ bị lên án tử hình ném đá. Nhưng Chúa Giêsu không để bị vướng vào bẫy của họ bày ra. Vì nếu theo cách thế kết án ném đá tử hình, thì bị cho là vô nhân đạo. Còn nếu đứng về phía người phụ nữ , tức là không theo lề luật ấn định, thì bị cho là chống lại lề luật. Và nếu Chúa Giêsu thuận theo luật kết án ném đá cho chết, tức là chống lại người phụ nữ, thì liền bị cho là người bất nhất với sứ điệp tin mừng do chính Ngài rao giảng: tha thứ .
Chúa Giêsu không để mình vướng vào ngõ bí hẹp không lối thoát đó. Ngài xử sự tự trong thâm tâm theo cung cách tự do cùng có đường lối nguồn gốc rõ ràng. Các người tố cáo và chị phụ nữ nạn nhân bị tố cáo đứng đó, Chúa Giêsu yên lặng cúi xuống đất lấy ngón tay viết vẽ trên nền đất.
Người viết gì? Không ai biết cùng không có chứng tích gì để lại. Nhưng việc Ngài viết trên nền đất như thế có diễn tả nói lên điều gì không?
Các nhà khảo cứu Kinh Thánh xưa nay đưa ra nhiều giả thuyết suy diễn về điều này.
Giả thuyết nghĩ rằng Chúa Giêsu trong thâm tâm, trong tâm hồn nghĩ đến lịch sử nguồn nước đời sống của dân Do Thái thời xưa và nguồn nước ơn cứu độ cho tâm hồn hồn con người. Nên Ngài dùng ngón tay mình viết vẽ vạch trên nền đất theo ý nghĩa câu Kinh Thánh của Ngôn sứ Gieremia: „ Những ai lìa bỏ Chúa sẽ phải xấu hổ, những kẻ quay lưng lại với Ngài sẽ thành bụi đất,
vì họ đã lìa bỏ Thiên Chúa là mạch nước trường sinh. ( Geremia 17,13).
Nghĩ đến câu Kinh Thánh đó đang khi viết vẽ nền trên đất. Vì các người phái Phariseo đã quên Giave Thiên Chúa, Đấng là nguồn nước tuôn chảy sự sống động tình yêu thương, mà chỉ còn biết dựa vào những câu chữ của lề luật khô cứng.
Và lời Kinh Thánh này hợp với sứ mạng của Chúa Giêsu. Vì chính Người qủa quết, tự nơi Người chảy vọt tuôn trào nguồn nước sự sống cho những ai tin vào người.
Ai không tin Chúa Giesu sẽ bị khô hạn, trở nên cứng nhắc thiếu tình yêu thương, thiếu vắng sự sống. Và một khi như thế họ dễ dàng lên án, kết án người khác.
Chúa Giêsu là nguồn nước sự sống . Từ nơi nguồn nước đó sự sống phát sinh trở lại, khi vì tội lỗi làm xa cách ra khỏi dòng suối nguồn nước sự sống đó.
Rồi có một giả thuyết suy nghĩ nữa Chúa Giêsu viết trên nền đất dòng chữ „ Terra terram accusat - Đất kiện tố cáo đất“ . Vì các thầy phái Phariseo và các thầy luật sĩ là con người từ đất được tạo thành cùng sống trên mặt đất, bây giờ đi tố cáo luận kết người phụ nữ cũng từ đất mà ra đang sống trên mặt đất. Như thế kẻ tố cáo kết án cùng người bị tố cáo bị kết án cũng là do từ đất mà ra và sau cùng trở về thành bụi đất thôi.
Ngay từ thế kỷ 9. sau Chúa giáng sinh suy diễn này đã có: „Digito scribebat in terra terram accusatur- Bằng ngón tay Người ( Chúa Giesu) đã viết trên nền đất: Qua đất, đất bị tố tụng kiện cáo.“ .
Sau cùng chỉ còn lại Chúa Giêsu và chị phụ nữ bị tố cáo . Theo Thánh giáo phụ Augustino đó là“ người có lòng thương xót và lòng thương xót - Người đau khổ và người có lòng từ bi nhân hậu với người đau khổ.“ .
Câu trả lời của chị phụ nữ cho câu hỏi của Chúa Giêsu :“ Họ đâu cả rồi? Không ai kết án chị sao? . „ Thưa Ngài, không ai!“.
Câu trả lời“ Thưa Ngài, không ai!“ của chị phụ nữ nghe như một tiếng thở phào nhẹ nhàng thoát ra, nó tựa giống như một cục đá đè nặng tâm hồn chị ta giờ rơi ra khỏi trái tim tâm hồn và cảm thấy được khoan khoái nhẹ nhàng!
Chúa Giêsu không tra khảo hay biện hộ xin lỗi cho hành động thiếu đúng đắn không tốt của chị ta. Nhưng tha thứ cho chị ta cùng hướng về tương lai: "Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.“
Chúa Giêsu đã gỡ giải thoát tâm hồn cho chị chuyển đổi sang một đời sống mới đưa dẫn đến nguồn ơn tha thứ bình an.
Ơn tha thứ bình an rất cần thiết cho đời sống con người tomng mọi giai đoạn hoàn cảnh đời sống hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Ngày trở về
- Lễ Thiên Thần truyền tin
- LÒNG TÔN SÙNG THÁNH GIUSE TRONG HỘI THÁNH
- Thánh Giuse, thánh quan thầy của Giáo Hội
- Tấm khăn mùa chay 2019
- Hình ảnh ăn năn thống hối
- Hình ảnh mặt trời
- Hình ảnh đời sống con người
- Hình ảnh cây trong thiên nhiên
- „Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh“(Isaia,6,3)