Thánh nữ Corona thời mùa bệnh dịch Covid 19
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ ba tháng nay trong nếp sống trên toàn cầu các tin tức đề cập hằng ngày rất nhiều về bệnh dịch do vi trùng corona gây ra những hậu qủa tiêu cực nghiêm trọng cho sức khoẻ sự sống con người.
Bệnh dịch Corona, được gọi là Covid 19, truyền nhiễm lây lan nhanh chóng. Nó bùng phát bắt đầu từ Trung quốc bên Á châu, bây giờ lan sang hầu hết các quốc gia đất nước khắp năm châu lục.
Các nhà khoa học ngành y khoa ngày đêm nghiên cứu tìm tòi chế biến thuốc trị bệnh cùng thuốc tiêm chủng ngăn ngừa. Theo tin tức tới nay chưa có kết qủa cuối cùng chắc chắn. Nhưng có dấu hiệu tiến triển tốt đẹp
Chính phủ các quốc gia hằng nhanh chóng đưa ra những biện pháp khẩn cấp, những lời cảnh báo, những quy tắc lời khuyên cho người dân cần phải làm gìn giữ bản thân mỗi người và cho xã hội. Những điều đó nhằm chặn đứng ngăn ngừa sự lây lan của loại vi trùng gây bệnh nguy hiểm này, để đem lại an toàn an sức khoẻ cho người dân, cùng cứu vãn nền hòa bình kinh tế cho đời sống xã hội
Các bác sĩ, y tá nơi các nhà thương bệnh viện ngày đêm dấn thân không mệt mỏi chữa trị những người bị nhiễm bệnh. Đã có những vị Bác sĩ , Y Tá khi thi hành nhiệm vụ chữa trị săn sóc cứu người bệnh đã bị nhiễm bệnh và đã qua đời như ở bên Trung quốc.
Số người nhiễm bệnh trên thế giới ngày càng gia tăng lên hơn một trăm ngàn, và số người qua đời vì bệnh dịch này cũng đã lên hàng ngàn.
Ngọn đuốc chiếu sáng niềm hy vọng hơn khi nào hết luôn cần phải được gìn giữ khơi lên những tia sáng cho con người trong bóng đêm tối do cơn bệnh dịch hoành hành đe dọa bao phủ đời sống.
Ngoài những phương pháp tự nhiên cần thiết phải thi hành phải tuân thủ về an ninh trật tự, về y khoa, về gìn giữ vệ sinh sức khoẻ, con người còn cần đến đời sống tâm linh tinh thần nữa. Đời sống này góp phần giúp họ có bình an sức khoẻ trong tâm hồn cùng cả thể xác nữa.
Người Công giáo cầu nguyện xin Chúa nhờ lời bầu cử của Đức mẹ Maria, của các Thánh, xin ra tay cứu giúp chúc phúc lành gìn giữ cho mau thoát khỏi cơn bệnh dịch nguy hiểm Covid 19.
Thánh Rô-cô là vị thánh ngày xưa vào thế kỷ 13. đã xông pha dấn thân ra tay cứu giúp những người bị bệnh dịch. Và nhờ công trạng bác ái cứu người trong lúc khốn khó bơ vơ, thánh nhân trở thành vị thánh quan thầy phù hộ cho những người bị bệnh dịch trong Giáo hội Chúa ở trần gian.
Ngoài vị Thánh Rocô , quan thầy phù giúp trong cơn bệnh dịch, còn có Thánh nữ Corona - còn được viết là Korona - một vị thánh nữ ít được biết đến trong Giáo hội.
Thánh Corona còn có tên nữa là Stephania. Thánh nữ sinh trưởng hoặc ở bên Aicập hoặc ở bên Syria vào khoảng năm 160 và qua đời khoảng năm 177, là một vị thánh nữ tử đạo sớm trong Giáo hội.
Thánh nữ Corona chết tử vì đạo sớm lúc mới 16 tuổi trong thời kỳ cấm đạo cùng với cha của mình là thánh Victor thành Damascus, một quân nhân Kitô giáo thời hòang đế Roma Mark Aurel. Victor thành Damascus cũng là vị thánh tử đạo cùng với Thánh nữ Corona.
Thánh nữ Corona rất được tôn kính ở bên nước Áo, vùng Bayern miền nam nước Đức và vùng Boehmen. Những nơi đó có thánh đường trung tâm hành hương kính thánh nữ.
Hoàng đế Carolô cả là người có lòng sùng kính Thánh nữ Corona rất đặc biệt. Vì thế ông đã cho mang di tích xương thánh của Thánh nữ Corona về Aachen, và tôn vinh Thánh nữ Corona cùng là vị thánh quan thầy của nhà thờ Aachen.
Thánh nữ Corona được tôn vinh là vị thánh quan thầy của những người đi tìm kiếm kho tàng và phù hộ chống các dịch tễ, cùng cho được thời tiết thuận hòa chống lại thời tiết xấu bão tố.
Thánh nữ Corona được kính ngày 14. tháng Năm trong Giáo Hội.
Trong thời lúc hiện tại bệnh dịch Covid 19 lan tràn đe dọa sức khoẻ đời sống con người, thiết tưởng lời cầu xin khẩn khứa Thánh nữ Corona cầu bầu cùng Chúa cho mau thoát khỏi bệnh dịch Covid 19 rất cần thiết, cùng nói lên lòng tin niềm hy vọng nơi Thiên Chúa tình yêu.
Lạy Thánh Corona, xin cầu bầu cùng Chúa cứu giúp chữa lành cho chúng con trong cơn nguy khốn vì bệnh dịch Covid 19!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chiếc khẩu trang trong Mùa Chay
- Viết bởi Lm. Giuse Phan Văn Quyền
Chiếc khẩu trang trở thành đề tài nóng trong mùa đại dịch Covid-19. Đã từ lâu, chiếc khẩu trang được nhiều người sử dụng khi ra đường, nhất là các thành phố lớn và các nơi có nhiều nhà máy – xí nghiệp, nhằm bảo vệ mình trước tình trạng ô nhiễm của môi trường.
Số lượng người dùng khẩu trang khá nhiều nhưng chưa bao giờ, chiếc khẩu trang lại thiếu đến mức phải săn lùng, khan hiếm trên thị trường như hiện nay. Từ khi Bộ Y Tế khuyến cáo nên đeo khẩu trang khi đi ra ngoài như một phương tiện bảo hộ hiệu quả ngăn ngừa dịch bệnh, thì người người đều mua, nhà nhà đều mua khẩu trang. Người ta đứng xếp hàng từ sáng sớm như một đoàn tàu để chờ mua chiếc khẩu trang.
Sự bùng phát của đại dịch Covid-19 khiến một số người đẩy giá khẩu trang lên cao để kiếm lời. Việc lợi dụng dịch bệnh để tăng giá, là một hành vi không chấp nhận được. Đó là sự trục lợi trên nỗi sợ hãi bất an của đồng loại, bất chấp đạo lý để kinh doanh kiếm lời. Cộng đồng mạng đã lên án gay gắt hành vi này; đồng thời đề xuất tẩy chay những cửa hàng kinh doanh khẩu trang thiếu đạo đức.
“Vàng thì thử lửa thử than, gian nan thử đức, bệnh dịch thử lòng người”. Chiếc khẩu trang trở thành thước đo lòng người. Qua đại dịch hôm nay, chúng ta thấy rõ lòng người còn ham hố, tham lam, và vô lương tâm. Tăng giá khẩu trang, sản xuất khẩu trang bằng giấy vệ sinh, thu gom khẩu trang qua sử dụng đem bán lại… Một Giám đốc bệnh Viện quận Gò Vấp thu góp khẩu trang bán lấy lời như báo Pháp Luật đã đưa tin…Tăng giá khẩu trang, thuốc ung thư giả, test xét nghiệm cắt đôi… Lợi dụng dịch bệnh để làm giàu trên mồ hôi, nước mắt, xương máu và nỗi sợ hãi của người khác là một loại vi rút mang tên ác quỷ, nó còn nguy hiểm gấp ngàn lần con vi rút Covid-19.
Từ chiếc khẩu trang chúng ta có thể áp dụng cho đời sống thiêng liêng trong Mùa Chay Thánh.
- Khẩu trang bịt Miệng.
MIỆNG là nơi phát xuất những lời lăng mạ, dối trá, lọc lừa, ích kỷ, dối gian…
Lắm khi chúng ta sử dụng lời nói và phát ngôn bừa bãi, vì tưởng rằng chúng vô hại. Chúng ta xét đoán bừa bãi, gièm pha, to nhỏ, lẩm bẩm xầm xì, tìm cớ nghi ngờ điều mình chẳng thấy. Lời nói biểu tỏ tâm hồn con người: lòng có đầy mới tràn ra miệng (x. Mt 12, 34).
Lời nói của Chúa Giêsu đầy ắp yêu thương tha thứ, cảm thông, hoà bình, xây dựng hiệp nhất yêu thương.
Sống đạo là đón nhận Lời Chúa và Thánh Thể của Ngài như lương thực mỗi ngày, làm cho Lời Chúa thấm nhập, bén rễ trong tâm hồn, tràn trào nơi môi miệng và quang toả khắp môi trường sống.
Mùa Chay Thánh là lúc chúng ta chạy đến nguồn suối Lời Chúa và đón nhận Thánh Thể mỗi ngày.
“Cơm bánh nuôi con là Thánh Thể,
Ngày ngày uống nước mạch niềm tin.
Rượu ngon tiết độ Thần Khí Chúa
Say ngất hồn thiêng mới đã thèm.”
Trên cung thánh Nhà Thờ Lăng Cô có hai cầu đối thật ý nghĩa, sâu sắc và trở thành lẽ sống của Giáo dân:
Lời Hằng Sống Ánh Sáng Rọi Đường Đời.
Bánh Trường Sinh Thức Ăn Nuôi Người Thế.
Khẩu trang là để bịt miệng như một sứ điệp của Mùa Chay muốn nhắc nhở mỗi người chúng ta, nên nói ít lại và nghe nhiều hơn.
Thay cho những lời nói gian dối xỏ xiên đang tràn ngập xã hội, xin cho con chỉ biết nói những lời chân thật, sinh ích cho người nghe.
Thay cho những lời hận thù ghen ghét đố kỵ, xin giúp con chỉ biết nói lời hoà bình yêu thương.
Thay cho những lời phê bình chỉ trích kết án luận tội, xin dạy con biết nói những lời an ủi cảm thông, khích lệ, tha thứ.
Thay cho những lời nói tiêu cực, bi quan, yếm thế chán chường, xin dạy con biết nói những lời lạc quan tin tưởng, hy vọng cậy trông.
- Khẩu trang bịt Mắt.
MẮT là cơ quan tiếp thu thế giới bên ngoài. Mắt không chỉ là cửa sổ, mà là cửa chính của tâm hồn. Các cơn cám dỗ thường qua đó mà đến với chúng ta. Mắt thích nhìn cái đẹp.
E-và nhìn trái cấm, ngày nay, chúng ta bị bao vây trong một thế giới đầy hình ảnh phim ảnh, sách báo, thời trang, quảng cáo… tất cả tìm cách lôi cuốn cái nhìn lệch lạc của chúng ta.
Thời đại hôm nay người ta nhìn nhau với con mắt đầy nghi ngờ. Không còn từ ánh mắt đến trái tim nữa, mà thay vào đó từ ánh mắt đến đến túi tiền.
Trước đại dịch Covid-19, con mắt nhân loại đang ẩn chứa sự sợ hãi. Vi rút Corona cực nhỏ mắt thường không thấy được nhưng nó làm cho thế giới hoảng loạn, sợ hãi và đảo lộn mọi sinh hoạt của con người, kinh tế tê liệt, trường học và Nhà thờ đóng cửa, các thành phố giàu có xinh đẹp, tráng lệ trở thành nghĩa địa không có bóng người…
Trong mùa Chay Thánh, chúng ta được mời gọi đi khám Mắt.
Có thể mắt chúng ta bị cận thị, không nhìn xa trông rộng, không nhìn cái tốt nơi anh chị em, xin cho con có cái nhìn đầy yêu thương và nhận ra mọi điều tốt đẹp nơi anh chị em mình.
Có thể mắt chúng ta bị viễn thị, chúng ta chỉ nhìn xa, cách viển vông không thực tế mà không nhìn gần, để thấy nhu cầu cần thiết và nỗi khổ của người khác, xin cho con có cái nhìn xót thương của Chúa, để nhận ra Chúa luôn hiện diện và đồng hành với chúng con.
Có thể mắt chúng ta bị loạn thị, khi không nhìn rõ vấn đề to nhỏ, đúng sai… có cái nhìn hoảng loạn sợ hãi vì thiếu đức tin, xin cho con có cái nhìn tinh anh để nhìn thấy Giáo hội là Nhiệm thể Chúa Kitô, Giáo hội bao la hơn những tư kiến hạn hẹp và những thành kiến đóng khung của mình.
- Chúng ta bịt Miệng và bịt Mắt để làm gì?
Thưa, để thinh lặng. Mùa Chay là lúc chúng ta thinh lặng nội tâm để lắng nghe tiếng Chúa và nhận ra sự mong manh của kiếp người.
Như lời Lời cầu nguyện của Mẹ Têrêxa Calcutta:
Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng.
Xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài, trò chuyện, lắng nghe và thấm nhuần Lời hằng sống.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân, biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai, để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói, để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi, để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người, tránh mọi lời nói gây đau đớn, đổ vỡ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn, để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trái tim, để tránh xa mọi ích kỷ, thù hằn, ghen ghét, để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên mọi sự. Amen.
Linh mục Giuse Phan Văn Quyền
Nguồn: tonggiaophanhue.net
Cuộc gặp gỡ thượng đỉnh
- Viết bởi Dân Chúa
Ngày nay các vị nguyên thủ quốc gia, các vị bộ trưởng chính phủ các nước hay vùng miền thường hay có những cuộc họp thượng đỉnh bàn thảo về những việc thời sự chính trị kinh tế, nhất là khi có khủng hoảng xảy ra như hiện thời về bệnh dịch do vi trùng Corona gây ra đang lây lan truyền nhiễm đe dọa lan rộng khắp nơi trên thế giới.
Trong nếp sống đức tin đạo Công giáo cũng có cuộc gặp gỡ thượng đỉnh không chỉ diễn trong dòng thời gian lịch sử Giáo hội Công giáo ở trần gian, như các Công đồng họp ở Vatican giữa Đức giáo hoàng và các Giám mục toàn cầu. Nhưng cuộc gặp gỡ thượng đỉnh lần thứ nhất đã diễn ra từ trước khi Giáo hội Chúa được thành lập ở trần gian cách đây hơn hai ngàn năm.
Đó là cuộc gặp gỡ thượng đỉnh giữa Chúa Giêsu Kitô, Tiên Tri tổ phụ Mose và Tiên tri Elia.
Cuộc gặp gỡ thượng đỉnh này đã diễn ra trên đỉnh núi cao Tabor bên nước Do Thái. Ngọn núi này cao 588 mét trên mực nước biển, tọa lạc ở vùng Galileo phía bắc nước Do Thái.
Ngay từ thời xa xưa hai ngàn năm trước Chúa giáng sinh, dân chúng vùng Canaan đã lập đền thờ kính Thần Baal của họ trên núi Tabor.
Theo sử sách và khoa khảo cổ từ thế kỷ 6. sau Chúa giáng sinh đã có ba thánh đường được xây dựng trên núi này, và đến thế kỷ thứ 9. có tới bốn thánh đường trên núi này.
Năm 1099 các Tu sĩ dòng Benedicto đã đến núi này thành lập cơ sở tu viện nhà Dòng. Nhưng sau đó bị xâm chiếm phá hủy. Sau những lần thay đổi chủ về phươmg diện chính trị tôn giáo giữa Hồi giáo và Thập tự quân thế kỷ 12, và 13. kéo dài, nên các cơ sở thánh đường cũng như tu viện bị phá hủy trở thành hoang vắng. Đến năm 1921-1923 các Tu sĩ dòng Phanxico đã đến đây xây dựng lại thánh đường to lớn nguy nga do Kỹ sư Anton Barluzzi vẽ thiết kế như có hiện nay.
Cuộc gặp gỡ thượng đỉnh của ba nhân vật trên núi Tabor đã sống trải qua con đường sa mạc hoang vu nói lên khía cạnh thiêng liêng con đường chịu đựng đau khổ trong hoang mang.
Tiên tri tổ phụ Mose là người được Thiên Chúa ủy thác trao cho nhiệm vụ dẫn dân Israel từ Aicập trở về quê hương đất nước Chúa hứa ban đã ròng rã đi trong sa mạc hoang vu 40 năm. Trong cuộc xuất hành này Mose đã phải leo lên núi Sinai gặp Thiên Chúa Giave, và Thiên Chúa tin tưởng trao cho Mose tấm bia 10 điều răn của Thiên Chúa làm giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel.
Con đường đời sống của Mose với dân Israel đi trong sa mạc là con đừơng sỏi đá leo lên xuống núi có nhiều nguy hiểm đau khổ, nhưng sự tin tưởng vào Thiên Chúa là con đường cứu rỗi dẫn đến đích điểm về tới quê hương Chúa hứa ban.
Trên núi Nebo gần vùng biến giới đất Chúa hứa ban, Tiên tri tổ phụ Mose đã được nhìn thấy trước mắt mình miền đất quê hương Thiên Chúa hứa cho dân Israel. Tuy Mose không được đặt chân vào vùng đất Chúa hứa ban, nhưng trước khi qua đời Mose đã cảm nhận ra rằng Thiên Chúa trung thành giữ lời hứa của Người, cho dù có những khi đời sống xảy ra hoàn toàn khác không như con người nghĩ tưởng mong chờ.
Tiên tri Elia, một vị tiên tri lớn của dân Israel, cũng đã sống trải kinh nghiệm tương tự. Vị tiên tri này một mình trung thành với Giave Thiên Chúa chống trả lại Thần Baal và những lễ nghi thờ kính thần ngoại gíao thời đó. Tiên tri Elia bị phản bội, ông phải đi trốn vào sa mạc, ông cảm thấy như bị Thiên Chúa bỏ rơi. Nhưng sau cùng ông được Thiên Chúa nâng đỡ sai Thiên Thần đến cho ăn uống nuôi sống cho có sức khoẻ đi vượt đường xa đến núi Horeb gặp được Thiên Chúa nhìn thấy vinh quang của Người.
Qua đó Tiên tri Elia cảm nhận ra rằng Thiên Chúa đã luôn hướng dẫn đồng hành với mình cho vượt qua khỏi những thời lúc khó nặng nề cô đơn, những lúc mất sức lực nhuệ khí lòng can đảm.
Phúc âm không thuật lại cuộc đàm đạo của ba nhân vật trong cuộc gặp thượng đỉnh trên núi Tabor, họ đã nói gì với nhau. Nhưng có thể hiểu ra rằng, cũng tương tự giống như Mose và Elia đã sống trải qua, Chúa Giêsu cũng gặp hoàn cảnh chao đảo nghi nan về con đường chính thật đời sống với Thiên Chúa Cha trao cho mình: con đường thập gía hy sinh mạng sống vì phần rỗi linh hồn nhân loại.
Nơi cuộc gặp gỡ thượng đỉnh trên núi Tabor, Chúa Giesu đã nghe được tiếng Thiên Chúa Cha nói với mình như lời chứng nhận bảo đảm cho con đường đời sống: „Đây là con yêu dấu đẹp lòng Ta , hãy nghe lời người!“
Lời này là Chúa Giêsu cũng đã nhận được ngày lãnh nhận nước rửa tội ở bờ sông Jordan năm xưa, khi Chúa Giêsu được Ông Thánh Gioan tẩy giả làm phép rửa cho.
Lời của Thiên Chúa cha từ trời nói vọng xuống khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ngày xưa ở bờ sông Jordan là lời sai đi của Thiên Chúa Cha cho Chúa Giesu khởi đầu sứ mạng truyền giáo ở trần gian .
Và lời Thiên Chúa Cha nói trên núi Tabor là lời chứng nhận củng cố sai đi bước vào cuộc khổ nạn thương khó chịu khổ hình thập gía chịu chết.Và sau cùng Chúa Giêsu được sống lại mang ơn cứu rỗi cho linh hồn con người khỏi hình phạt tội tổ tông xưa.
Trên đỉnh núi Tabor cuộc gặp gỡ thượng đỉnh mang ý nghĩa tầm vóc cao cả quan trọng không phải ở nơi chốn trên núi cao, nhưng với ba nhân vật cao cấp nhất trong đạo Chúa Giêsu Kitô, Tiên tri tổ phụ Mose và Tiên tri Elia, và họ nói chuyện về việc cao cả thiêng liêng về kinh nghiệm đời sống đạo đức tin tưởng vào Thiên Chúa trong đời sống. ( Phúc âm Thánh Mattheo 17, 1-9).
Mùa chay mời gọi con người suy nghĩ nhìn về con đường đời sống mình. Chắc chắn trong đời sống đã hay đang cùng sẽ có nhiều lần lâm vào hoàn cảnh gặp khó khăn đi trong hoang mang, bơ vơ, tưởng chừng như bị bỏ rơi.
Nhưng như Mose, Elia và Chúa Giêsu, chính trong những lúc khó khăn chao đảo nghi nan đó, Thiên Chúa luôn có mặt ra tay nâng đỡ cho có sức khoẻ nhuệ khí tỉnh vực dậy đi tiếp con đường đời sống vượt qua những thử thách hoang mang, như trong hoàn cảnh hiện tại vì bệnh dịch Covid 19 gây ra hoang mang chao đảo.
Thiên Chúa luôn trung thành không bỏ rơi ai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Bụi tro mùa chay
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm trong nếp sống đức tin của Giáo hội Công giáo có mùa chay chuẩn bị tâm hồn mừmg lễ Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.
Trong ngày thứ Tư lễ tro có nghi thức xức tro trên trán người tín hữu với lời nhắn nhủ từ Kinh Thánh: „Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, và rồi sẽ trở về bụi tro.“ (St 3,19.)
Lịch sử lễ nghi xức tro
Truyền thống lễ nghi xức tro trên trán, trên đỉnh đầu người tín hữu ngày thứ Tư lễ Tro có từ thế kỷ thứ 6. Truyền thống này diễn tả cách thức đền tội trong Hội Thánh thời ngày xưa. Ngày xưa người có tội vào mùa chay phải mặc áo vải thô đền tội, và được rắc trải tro trên người. Họ thú nhận xin ơn tha tội công khai trong nhà thờ, và không được vào nhà thờ từ ngày thứ Tư lễ Tro cho đến ngày thứ Năm Tuần Thánh.
Nhưng từ thế kỷ thứ 10. cách thức đền tội công khai nghiêm khắc như thế không còn nữa. Và từ thế kỷ thứ 12. tro xức ngày thứ Tư lễ Tro được đốt từ cành lá ngày Lễ Lá năm trước. Lễ nghi xức tro trên trán, trên đỉnh đầu vẫn còn giữ lại.
Ngoài ra, theo luật Hội Thánh Canones 1249- 1253 mọi tín hữu Công giáo từ 14 tuổi phải kiêng thịt, từ tuổi trưởng thành 18 tuổi cho tới 60 tuổi phải kiêng thịt cùng ăn chay.
Trong mùa chay theo luật Hội Thánh chỉ còn buộc ăn chay kiêng thịt ngày thứ Tư Lễ Tro và ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
„ Nghi lễ phụng vụ rắc tro ngày thứ Tư lễ Tro nói lên khía cạnh nền tảng của mùa chay về sự ăn năn thống hối từ trong trái tim tâm hồn trở về cùng Thiên Chúa. Nghi thức rắc xức tro mang chất chứa ý nghĩa theo hai khía cạnh: Khía cạnh thứ nhất nói lên sự thay đổi nội tâm, sự ăn năn và thống hối đền tội, và cũng nhắc nhớ đến khía cạnh thứ hai về sự bất an của thân phận đời sống con người. „ ( Giáo hoàng Benedictô 16. )
Tại sao lại tro?
Thiên Chúa nói với con người do Ngài tạo thành: „Từ bụi tro con được tạo dựng và sau cùng con cũng trở về với bụi tro.“ St 3,19.
Củi cháy đốt trong lò sưởi, trong lò nấu bếp, tỏa rực ánh sáng cùng hơi nóng nồng ấm thi vị. Nhưng ngày hôm sau chỉ còn lại nắm tro tàn. Cũng thế, ngày tháng con người chúng ta cũng qua đi trở thành tro bụi.
Tro bụi là hình ảnh tàn tích còn lưu lại của những lời nồng thắm, của tình yêu ngày xưa con người đã nói, đã trao cho nhau.
Bụi tro mầu đen xám biểu hiệu sự buền bã và lầ chất đơ bẩn. Nhưng tro bụi pha với nước lại là chất có hiệu qủa tẩy rửa, như chùi rửa những đồ bằng sắt, nhôm rỉ xét cho sạch bóng trở lại…
Tro bụi xức trên trán ngày thứ Tư lễ Tro muốn nhắc nhớ con người là tạo vật yếu đuối và hay vướng mắc vào vòng tội lỗi. Và qua cung cách nhận xức tro, con người cũng chân thành nhận ra khía cạnh đó của mình. Họ không chối bỏ khía cạnh này, nhưng tin tưửng vào tình yêu Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên con người cùng yêu thương con người. Thiên Chúa luôn trao ban cho con người cơ hội khởi đầu mới làm lại đời sống mình.
Tro bụi gắn liền với lịch sử đời sống con người. Lịch sử của tội lỗi. Lịch sử của đời sống riêng mỗi người: thân xác cùng tâm hồn bị tổn thương, mang đầy những mặc cảm, ý chí khả năng bị hạn chế cản trở vây hãm không còn lối thoát vươn lên. Con người nhớ rằng mình có nhiều tội lỗi. Tội lỗi là tro bụi vây quanh mình.
Trên cánh đồng sau mùa gặt thu hoạch cây cỏ, gốc lúa mạ, cành khô được gom lại thiêu đốt ra thành tro. Tro ngấm chìm trong đất. Và sau đó tro trở thành phân bón cho mầm sống mới phát sinh từ lòng đất.
Cũng xẩy ra như vậy với đời sống con người. Nếp sống cũ, có nhiều điều không tốt cũng phải chịu nhiều thử thách trôi luyện biến ra thành tro bụi. Và từ đó có đổi mới cho đời sống trở nên mới tốt đẹp hơn.
Tro là hình ảnh nói lên sự trống rỗng, thoáng qua, vô tên tuổi, vô ý nghĩa, vô gía trị. Hình ảnh này diễn tả đời sống con người, nếu không có đức tin vào Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên mình, cũng trở nên trống rỗng hoang vắng.
Vì thế, trong nghi thức vẽ hình thập gía rắc tro trên trán, trên đỉnh đầu, nhắc nhớ lại: Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, nhưng được kêu gọi cho cùng sống lại với Chúa Giêsu Kito.
40 ngày mùa chay .
Mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến ngày lễ mừng Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết kéo dài 40 ngày. Nhưng tại sao lại 40 ngày?
Con số 40 là con số kinh thánh ẩn chứa lịch sử về sự thanh luyện tẩy rửa.
Trong thế giới bên vùng Trung Đông con số 40 là dấu chỉ hình ảnh về sự tẩy rửa cho thanh sạch. 40 ngày là thời gian tẩy rửa thanh luyện cho những người sinh con trong truyền thống nơi Do Thái giáo và Hồi Giáo.
40 ngày buồn bã tang chế, và sau 40 ngày có những nghi thức riêng để nói lên thời gian tẩy rửa thanh luyện và tang chế đau buồn đã chấm dứt, và đời sống bắt đầu trở lại như thường.
Mưa suốt 40 đêm ngày tạo nên trận đại hồng thủy thời Ông Noe, nước tràn ngập bao phủ khắp mặt đất. ( Sáng thế 7, 12)
40 năm dân Israel đi trong sa mạc từ Ai Cập trở về đất Chúa hứa ban cho . (Sách Dân số 14,33)
Tiên Tri Maisen ở trên núi Sinai 40 đêm ngày để gần gũi gặp gỡ Thiên Chúa hiện ra với Ông. ( Xuất hành 24,18)
Ngôn sứ Elia đã vượt đường xa đi 40 ngày đêm để đến núi Horeb gặp gỡ Thiên Chúa. ( 1 Sách Các Vua 19,8)
Vua David cai trị nước Israel và thành Gierusalem 40 năm (1. Sách Các Vua 2,11.).
Tiên tri Jona kêu gọi dân thành Ninive từ vua tới người dân lớn bế ăn chay hãm mình ngồi trên tro đền tội 40 ngày để được Thiên Chúa tha thứ không giáng họa hình phạt xuống cho dân thành. ( Jona 3,4- 10)
Chúa Giêsu cũng trải qua nếp sống 40 ngày trong sa mạc, ăn chay cầu nguyện nhịn đói và bị ma qủy hiện đến cám dỗ . (Mt 4,1-11)
Nối kết từ gương sống ăn chay cầu nguyện của Chúa Giesu, một dấu chỉ hình ảnh thanh luyện trong sa mạc, đã trở nên 40 ngày mùa chay trong Hội Thánh công giáo.
Chúa Giêsu Kitô được an táng trong mồ dưới lòng đất, và Ngài cũng chỉ nằm ở trong đó 40 tiếng đồng hồ thôi. Vì thế nhiều xứ đạo đã có tập tục canh thức cầu nguyện 40 tiếng đống hồ để tưởng nhớ thời gian 40 tiếng Chúa nằm trong mồ trước khi Ngài chỗi dậy từ cõi chết âm phủ.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngôi đền thờ Thiên Chúa
- Viết bởi Dân Chúa
Nơi thờ phượng kính thờ Thiên Chúa cử hành nghi lễ phụng vụ thường được gọi là thánh đường , nhà thờ, nhà nguyện. Nhưng một danh hiệu khác gợi lên khung cảnh bầu khí linh thiêng huyền bí khác thường hơn với tên gọị đền thờ.
Từ thời xa xưa trước Chúa giáng sinh danh hiệu đền thờ nơi các tôn giáo là nơi kính thờ các Thần Thánh ở các nên văn hóa, Hy lạp, Roma, Do Thái, Aicập, Ân độ giáo, Bahai, Hồi Giáo…đã thịnh hành. Những ngôi đền thờ thường được xây dựng khang trang nguy nga rộng lớn theo lối kiến trúc đặc thù văn hóa tôn giáo của mỗi nền văn minh.
Vua Salomon đã xây dựng bằng đá và gỗ qúi ngôi đền thờ thứ nhất kính thờ Giave ở trên núi Jerusalem vào khoảng năm 950 trước Chúa giáng sinh cho người Do Thái trong vòng bảy năm trời.( 1. Sách C´ac Vua 1-38) . Đền thờ Jerusalem với họ là thánh địa linh thiêng, là trung tâm nơi thờ phượng tế lễ Giave duy nhất của họ. Vì thế hằng năm theo tập tục nếp sống, họ phải hành hương về đền thờ Jerusalem.
Đền thờ Jerusalem năm 586 trước Chúa giáng sinh bị quân của vua Nabukadnezar xâm chiếm phá hủy, và năm 515 trước Chúa giáng sinh được xây dựng lại lần thứ hai. Và đến thời vua Herodes đại đế đền thờ được trùng tu mở rộng, còn được gọi là đền thờ Jerusalem thứ hai. Nhưng đền thờ Jerusalem thứ hai trên núi đền thờ vào năm 70 sau Chúa giáng sinh bị quân đế quốc Roma thời hoàng đế Vespasian xâm chiếm phá hủy, như Chúa Giêsu đã có lần nói báo trước. Ngày này, trên nền đền thờ cũ ở núi đền thờ, người Hồi giáo xây đền thờ - Moschee- của họ có mái tròm vòm mầu vàng, và một ngôi đền thờ nữa có tên Al-Aqsa-Moschee.
Từ khi đền thờ Jerusalem bị xâm chiếm phá hủy năm 70. , với người Do Thái giáo không chỉ trung tâm thờ phượng Giave theo đức tin của họ bị hủy diệt, mà cùng với trung tâm đức tin đó họ trở thành người lưu lạc không còn quê hương xứ sở sống tản mát khắp nơi. Những người Do Thái với lòng tin vững chãi sinh sống ở các nước trên thế giới là nhóm người thiểu số. Họ cùng chung sức tìm cách khôi phục lại niềm tin của mình thành lập cộng đoàn đức tin theo Do Thái giáo không có đền thờ, không có Hội Đường ngôi nhà Thiên Chúa, như trước nữa.
Nhưng khát vọng mong muốn có một ngôi đền thờ kính thờ Giave như trước luôn âm ỉ hun nóng trong lòng họ. Từ khi trở về quê hương lập quốc trở lại, năm 1948, người Do Thái đã có thể tậu mua khu sống riêng ở thành cổ Jerusalem như mong muốn xây đền thờ thứ ba cho riêng họ trên nơi này.
Dựa trên căn bản khung cảnh hậu trường này, Thánh Phaolo đã viết thư cho Giáo đòan Côrinthô: „ Anh chị em chẳng biết rằng anh chị em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh chị em sao? Nếu ai xúc phạm tới đền thờ của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt người ấy. Vì đền thờ Thiên Chúa là thánh, mà chính là anh chị em là đền thờ ấy.“ (1 cor. 3,16).
Lời giáo huấn tâm tình này của Thánh Phaolô nói lên một hình ảnh hoàn toàn mới về đền thờ Thiên Chúa. Không cần phài xây dựng ngôi nhà đền thờ cho Thiên Chúa bằng gỗ, bằng đá cho nguy nga rộng lẫy đẹp sang trọng. Nhưng ngôi nhà đền thờ Thiên Chúa chính là tâm hồn thân xác con người. Mỗi người do Thiên Chúa tạo dựng ban cho sự sống hình hài thân xác cùng trí tuệ ý chí tâm hồn đặc thù cá biệt theo hình ảnh Thiên Chúa.
Sự sống hình hài thân xác tâm hồn con người là do Thiên Chúa tạo dựng ban cho tạo thành một liên kết duy nhất với nhau. Lẽ dĩ nhiên, nước Thiên Chúa ở trần gian cũng cần đến ngôi nhà thánh đường, các tổ chức, công việc sinh hoạt đoàn thể. Nhưng quan trọng góp phần quyết định vẫn luôn là đức tin sống động thể hiện nơi công việc truyền gíao, trong cung cách sống yêu thương bác ái giữa con người với nhau, và trong chung sống đức tin nơi cộng đoàn với nhau.
Vì thế Thánh Phaolo xác tín đời sống con người tự nó và đời sống tinh thần nơi cộng đoàn được đặt dưới sự che chở của Thiên Chúa :“ Nếu ai xúc phạm tới đền thờ của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt người ấy.“.
Xưa nay, theo lời Chúa Giêsu truyền dạy, Giáo hội Chúa ở trần gian đi rao giảng mở mang nước Chúa cho mọi người trên khắp trần gian. Một mặt Giáo hội tìm phương tiện xây dựng những ngôi nhà thánh đường cho việc thờ phượng Chúa. Mặt khác Giáo hội trước hết cùng liên tục tìm cách xây dựng đời sống tinh thần tâm linh vào Thiên Chúa nơi con người.
Ngôi đền thờ tâm linh đức tin nơi con người đẹp, quan trọng và sống động hơn tất cả.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lòng cậy trông
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Từ cuối năm 2019 bệnh dịch Viêm phổi do coronavirus gây ra truyền nhiễm gây nên tình trạng nguy hiểm cho sức khoẻ sự sống con người khắp nơi trên thế giới, mà bây giờ tổ chức y tế quốc tế - WHO- đặt tên mới là Covid-19: „Co“ viết tắt cho Corona, „ Vi“ cho chữ virus, „D“ cho chữ disease -bệnh- , „19“ cho 2019.
Số người mắc lây bệnh dịch Covid-19 ngày tăng thêm và số người tử vong vì nhiệm bệnh dịch này cũng tăng mỗi ngày. Cả thế giới lâm vào tình trạng hoang mang lo sợ.
Một mặt chính quyền các nước trên thế giới đưa ra những phương cách nhằm ngăn ngừa bệnh dịch lan tràn, một mặt các nhà khoa học tìm chế thuốc mới, Vắc-xin tiêm chủng chữa trị bài trừ tiêu diệt vi trùng bệnh dịch.
Ở các bệnh viện trên thế giới, các bác sĩ, y tá ngày đêm liên tục săn sóc chữa trị các người bị lâm bệnh dịch.
Đây là những cách thế rất hợp tình hợp lý cùng cấp bách cần thiết cứu giúp chữa trị cho con người, mang lại bình an cho thế giới.
Trong khủng hoảng hoang mang, con người xưa nay, ngoài dùng phương thuốc chữa trị ngăn ngừa, thường hướng tâm hồn chạy đến cầu khẩn cùng Thiên Chúa xin ơn phù hộ nâng đỡ cứu giúp.
Đây là cung cách nếp sống nói lên sự giới hạn của khả năng sức lực con người, đồng thời cũng diễn tả lòng cậy trông của con người là tạo vật lên Thiên Chúa, đấng Tạo Hóa quyền năng, ban sự bình an, sức khoẻ sự chữa lành cho thể xác và tâm hồn con người. Vì tin rằng một khi tâm hồn có được bình an, sức khoẻ thể xác cũng vững mạnh. Và như thế sức đề kháng chống chọi lại vi trùng gây bệnh nạn trong cơ thể mạnh thêm lên.
Ngày xưa dân Thiên Chúa trong cuộc xuất hành đi trong sa mạc trở về quê hương đất nước Chúa hứa ban cho, họ cũng mắc bệnh dịch bị rắn xuất hiện đến cắn. Trong nguy khốn họ kêu cầu Tiên tri Mose. Là người theo mệnh lệnh Thiên Chúa, đưa dân xuất hành khỏi Aicập, Ông cầu khẩn cùng Thiên Chúa cho dân được thoát khỏi bệnh dịch này. Thiên Chúa truyền cho Mose làm một con rắn bằng đồng treo lên một cột cao, hễ ai bị rắn cắn nhìn lên đó cầu khấn thì được khỏi, được sống. ( Sách Dân số 21,4-9).
Mose đã làm như Thiên Chúa truyền để dân được cứu sống trong nạn bệnh dịch. Và dân chúng khi đó với lòng tin cậy trông cầu xin được khỏi bị bệnh dịch đe dọa.
Cũng ngày xưa trong những khi bị vướng mắc vào bệnh dịch tai ương đe dọa, con người đã thốt lên lời cầu xin cậy trông khấn khứa cùng Đấng Tạo Hóa, chan chứa niềm hy vọng:
„ "Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn,là đồn luỹ chở che, con tin tưởng vào Ngài."
3 Chính Chúa gìn giữ bạn khỏi lưới kẻ thù giăng,
khỏi tai ương tàn khốc.
4 Chúa phù trì che chở, dưới cánh Người, bạn có chỗ ẩn thân:
lòng Chúa tín trung là khiên che thuẫn đỡ.
5 Bạn không sợ cảnh hãi hùng đêm vắng hay mũi tên bay giữa ban ngày,6 cả dịch khí hoành hành trong đêm tối, cả ôn thần sát hại lúc ban trưa.“ ( Tv 91, 2-6).
Và trong nếp sống đạo đức bình dân xưa nay người tín hữu Chúa Kitô thường hay chạy đến kêu cầu khấn xin cùng Thánh Rocco, vị Thánh quan thầy của người bị bệnh dịch, xin ơn phù hộ trợ giúp cùng Thiên Chúa cho được bình an, thoát khỏi bị bệnh dịch đe dọa.
Lời kinh khấn xin đó gói trọn lòng cậy trông:
« Lạy Thánh Rô-Cô là Đấng có lộc,
bởi Thánh Cả đã được công trọng trước mặt Đức Chúa Trời,
thì chúng con nương vì công nghiệp ấy chắc sẽ đặng cứu khỏi thần khí hay lây và được bình an vô sự.
Xin Thánh Rô-cô cầu cho chúng con, hầu chúng con thoát khỏi ôn dịch truyền nhiễm.
Lạy Chúa là Đấng đã sai Thiên Thần nuôi dưỡng Thánh Rô-cô và đã hứa cùng Người rằng: “Kẻ nào lấy lòng sốt sắng mà khẩn cầu Thánh Rô-cô thì chẳng hề mắc phải ôn dịch chút nào.
Vậy chúng con xin nhờ lời Thánh Rô-cô chuyển cầu cho chúng con, xin Chúa vì công nghiệp Người, khẩn cứu chúng con hồn xác đều khỏi ôn dịch hiểm nghèo.
Vì công nghiệp Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.
Đời sống con người luôn cần phương thức khoa học tự nhiên và ân đức siêu nhiên từ trời cao ban cho, nhất là về phương diện sức khỏe.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hướng về các người bệnh.
- Viết bởi Dân Chúa
Hằng năm ngày 11.Tháng hai Dương lịch là ngày kỷ niệm Đức mẹ Maria hiện ta với Thánh nữ Bernadette ở Lourdes bên nước Pháp năm 1858.
Thời Đức Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II., ngày kỷ niệm Đức mẹ Lourdes 11. Tháng hai 1993, được chọn là ngày dành riêng cầu cho các người bệnh trên toàn thế giới hằng năm trong toàn thể Giáo hội Công giáo.
Những khách hành hương đến kính viếng Đức mẹ Lourdes xưa nay đều đến hang đá suối nước, nơi ngày xưa Đức mẹ Maria đã hiện ra với Bernadette cầu nguyện xin ơn chữa lành bệnh thể xác lẫn tinh thần tâm hồn.
Rất nhiều khách hành hương lấy nước chảy trào vọt ra từ hang núi đá rửa mặt, chân tay với lòng tin cầu khấn xin Đức mẹ Maria phù trợ ban cho được khoẻ mạnh. Và trung tâm hành hương Lourdes cũng xây khu nhà với những bể tắm cho những ai muốn tắm dìm mình trong dòng nước xin ơn chữa lành bệnh.
Vì thế hằng năm có tới hơn kém bảy triệu người đến hành hương kính viếng Đức mẹ Lourdes xin ơn chữa lành bệnh nạn. Vào mùa hành hương, nhất là mùa hè trời nắng ấm, những người bệnh được chuyên chở tới Lourdes hành hương rước kiệu nhận lãnh Bí tích Xức dầu bệnh nhân. Nhiều người được khỏi bệnh. Nhưng cho tới bây giờ Gíao hội mới chỉ công nhận 67 trường hợp được khỏi lành bệnh nhờ phép lạ Đức mẹ Lourdes.
Năm nay từ Tháng Giêng 2020 bệnh dịch viêm phổi do vi trùng Corona nguy hiểm lây lan gây đe dọa sức khoẻ và sự sống con người.
Các nhà khoa học ngành y khoa đang nỗ lực tìm mọi phương cách chế vắc xin, thuốc chữa bệnh và tiêm chủng ngăn ngừa loại vi trùng Corona nguy hiểm này.
Các nỗ lực ngành y khoa mong sao tìm ra phương thuốc ngăn ngừa chống diệt trừ loại bỏ vi trùng Corona cực kỳ nguy hiểm gây lo âu sợ hãi cùng cướp đi sự sống con người đang lây lan hoành hành trên thế giới.
Chính quyền các quốc gia đất nước trên thế giới đang nỗ lực đưa ra những phương sách bảo vệ ngăn chặn bệnh dịch lan tràn, nhằm giúp mang lại bảo đảm an ninh cùng sức khoẻ cho người dân đất nước.
Từ ngày bệnh dịch viêm phổi Corona lan tràn đe dọa gây bệnh nạn chết chóc cho người, gây khủng hoảng mọi nơi trên thế giới. Con người ngoài chạy tìm đến phương thức chữa bệnh y khoa thuốc men ở các bệnh viện, đây là nhu cầu rất quan trọng cần thiết chữa trị bệnh dịch, mọi người còn hướng tâm hồn về chốn cao sang linh thiêng cầu khẩn xin ơn.
Hướng về về Đức mẹ Lourdes và Thánh Rocco, vị thánh quan thầy bảo trợ cho những người bị bệnh dịch:
- cầu xin cho nạn bệnh dịch viêm phổi corona mau chấm dứt đừng gây truyền nhiễm lây lan nữa,
- cầu nguyện cho các nhà khoa học tìm chế ra thuốc, vắc-xin chữa bệnh bài trừ vi trùng bệnh dịch,
- cầu nguyện cho các bác sĩ, y tá, những người chăm sóc người bệnh được khoẻ mạnh, có sức khoẻ thể xác lẫn tinh thần. Vâng, họ là những thiên thần, là những anh hùng chiến sĩ xông pha chữa trị cứu giúp con người trong cơn nguy hiểm của bệnh dịch viêm phổi lây lan.
- cầu cho các bệnh nhân bị mắc bệnh dịch viêm phổi corona được ơn an ủi chữa lành mau bình phục,
- và trong ngậm ngùi thắp sáng cây nến dâng lời cầu xin cho những người đã qua đời vì mắc bệnh dịch được hưởng ơn cứu độ của Chúa dành cho con người sau cuộc sống trên trần gian.
Đức giáo hoàng Phanxicô đã viết những tâm tình hướng về các người bệnh ngày thế giới cầu cho người bệnh 11.02.2020:
„ Với người bệnh, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh, bệnh nhân là những người đặc biệt trong số những người mà Chúa Giêsu nói đến trong Tin Mừng Thánh Matthêu, những người “đang vất vả và mang gánh nặng nề”, những người được Chúa đoái thương cách đặc biệt. Vì thế, trong giây phút đêm tối, cái nhìn âu yếm của Chúa làm cho người bệnh được hy vọng. Chúa mời gọi “Hãy đến”, vì trong Chúa, những lo lắng và sầu khổ của “đêm tối” thể xác và tinh thần tìm được sức mạnh.
Với các nhân viên y tế, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhắc nhở tất cả hành động của nhân viên y tế, từ chẩn đoán, phòng ngừa, điều trị, nghiên cứu, chữa bệnh cho đến phục hồi chức năng đều phải hướng đến người bệnh, danh từ “người” phải luôn đi trước tính từ “bệnh”. Vì thế, mọi hoạt động của nhân viên y tế phải nhắm đến phẩm giá và sự sống con người, không được có bất kỳ hành vi nào gây nguy hại cho sự sống của người bệnh, ngay cả khi tình trạng của họ không thể cứu vãn. ĐTC nhấn mạnh: “Chúng ta nhớ rằng sự sống là thánh thiêng và thuộc về Thiên Chúa. Sự sống phải được đón nhận, bảo vệ, tôn trọng và phục vụ từ khi sinh ra cho đến khi chết tự nhiên”.
Với các tổ chức y tế và các vị lãnh đạo các quốc gia: “Tôi nghĩ đến nhiều anh chị em trên khắp thế giới không có cơ hội được điều trị vì điều kiện sống nghèo khổ. Tôi mời gọi các tổ chức y tế và các chính phủ ở tất cả các quốc gia trên thế giới, trong khi quan tâm đến khía cạnh kinh tế, không bỏ quên công bằng xã hội. Tôi hy vọng, cùng với các nguyên tắc của tình liên đới và bổ trợ, chúng ta sẽ hợp tác để mọi người được chăm sóc đầy đủ trong việc bảo vệ và phục hồi sức khỏe”. ( Đức Giáo hoàng Phanxicô, Ngày thế giới bệnh nhân 11.02.2020).
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Muối cho trần gian
- Viết bởi Dân Chúa
Muối là chất vị mặn, được dùng làm chất gia vị nêm nếm cho thực phẩm ăn uống dậy mùi thơm ngon đậm đà.
Muối khai thác từ quặng mỏ muối thiên nhiên ngầm dưới lòng đất, hay khai thác lấy từ nước biển đã bốc hơi.
Muối cần thiết cho thực phẩm được gìn giữ tươi tốt không bị ươn thối. Muối cũng còn được dùng trong y khoa pha vào dung dịch rửa vết thương khử trùng.
Vậy muối có ảnh hưởng gì trong nếp sống đức tin đạo giáo không?
Trong kinh thánh cựu ước từ thời xa xưa muối đóng vai trò quan trọng trong việc dâng lễ vật thờ phượng Giave Thiên Chúa:
„(Các) ngươi phải bỏ muối vào mọi lễ phẩm (các) ngươi dâng tiến; (các) ngươi không được để lễ phẩm (các) ngươi thiếu muối của giao ước của Thiên Chúa (các) ngươi; (các) ngươi phải dâng muối cùng với mọi lễ tiến của (các) ngươi.“ ( Sách Levi 2, 13)
Muối pha trộn vào hương tiến dâng lễ tế Giave làm cho trở nên hương thơm thánh thiêng bài trừ chống lại sự ươn thối:
„ Ngươi sẽ lấy các thứ hương chất đó chế thành hương để đốt: hợp chất các hương này sẽ là sản phẩm của thợ làm hương; hương đó sẽ là hương pha muối, nguyên chất, và là hương thánh.“ ( Xuất hành 30, 35)
Chúa Giêsu đi rao giảng nước Thiên Chúa đã đưa ra phương hướng cho đời sống đạo giáo tinh thần: „ Anh em là muối cho trần gian.“ ( Mt 5,13)
Là muối cho trần gian Chúa Giêsu muốn nói : Anh em hãy gieo vãi tin mừng sứ điệp tám mối phúc thật như đem muối rắc trộn vào thực phẩm thức ăn trong nếp sống ở trần gian.
Theo lời mời gọi đó, xưa nay biết bao nhiêu tâm hồn đã quảng đại hy sinh dấn thân vào công việc bác ái tình yêu thương cho con người.
Họ là những người bỏ tất cả lại sau lưng dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa, cho con người. Họ là những vị thừa sai đi rao giảng làm chứng cho tình yêu nước Thiên Chúa ở những vùng chân trời đất nước xa lạ. Như các vị thừa sai linh mục tu sĩ nam nữ ngày xưa và ngay cả bây giờ từ bên Âu châu sang Phi châu, sang Á châu, Nam Mỹ cùng chung sống mang niềm vui sự an ủi sự trợ giúp cho con người xã hội nơi đó.
Muối ngày xưa được dùng rắc trộn vào thịt cá để cho thịt cá không bị ươn thối, giữ cho được tươi lâu hơn. Cũng vậy sứ điệp tám mối phúc thật của Chúa có hương vị tốt mang lại niềm vui phấn khởi giúp đổi mới tâm hồn con người, khi được loan báo có chất muối mặn mà rắc trộn vào.
Đó ngôn ngữ văn hóa, là công việc đượm thấm nhuần tình yêu thương bác ái giúp cho con người hiểu được và cảm nhận được sứ điệp nói về cuộc sống của họ.
Trong tình trạng bệnh dịch xưa nay hoành hành lan tràn đe dọa sức khoẻ cùng sự sống con người khắp nơi trên thế giới, những nhà khoa học nỗ lực sáng chế tìm phương thuốc chữa trị cho người bị mắc bệnh, những bác sĩ, y tá, những người chăm sóc an ủi những bệnh nhân bị bệnh dịch… dấn thân cho công việc bác ái cứu người cứu đời đang làm công việc là muối cho trần gian.
Những trợ giúp nhân đạo cùng chung tay giúp đỡ nhằm ngăn cản chống lại sự lây lan truyền nhiễm bệnh dịch giữa các đất nước quốc gia với nhau, của các hội từ thiện bác ái là chất muối cho trần gian.
Thánh Rochus ngày xưa khi đi hành hương biết có bệnh dịch đang lan tràn hoành hành bên Âu Châu, ông đã không quản ngại hy sinh dấn thân ra tay cứu giúp những người bệnh trên đường ông gặp gỡ. Ông đã làm công việc là chất muối mặn mang đến cho đời sống con người có được niềm cảm thương an ủi.
Và vì thế ngài được kính trọng yêu mến, và được tôn phong là vị Thánh quan thầy của những người bị bệnh dịch.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Dâng con cho Thiên Chúa
- Viết bởi Dân Chúa
Hằng năm vào ngày 2. Tháng hai, Giáo hội Công giáo mừng lễ cha mẹ hài nhi Giêsu dâng con mình vào đền thờ cho Thiên Chúa.
Tập tục đạo đức này có từ thời Tiên tri Mose, như lề luật quy định:m"Vậy khi ĐỨC CHÚA đã đưa ngươi vào đất Ca-na-an như Người đã thề với ngươi và cha ông của ngươi, và khi Người đã ban đất ấy cho ngươi,12 thì ngươi phải nhượng lại cho ĐỨC CHÚA mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về ĐỨC CHÚA.13 Mọi con đầu lòng của giống lừa, ngươi sẽ lấy một con chiên mà chuộc lại; nếu ngươi không chuộc lại, thì đánh gãy ót nó đi. Còn mọi con đầu lòng của loài người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại.14 Vậy mai ngày con của ngươi có hỏi: "Điều đó nghĩa là gì? Thì ngươi sẽ nói với nó: "ĐỨC CHÚA đã dùng cánh tay mạnh mẽ của Người mà đưa chúng ta ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ.15 Bởi vì Pha-ra-ô làm khó dễ khi phải thả chúng ta ra, nên ĐỨC CHÚA đã sát hại mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ con đầu lòng của loài người cho đến con đầu lòng của loài vật, vì thế mà cha tế dâng ĐỨC CHÚA mọi con so giống đực; còn con đầu lòng trong số con cái cha, thì cha chuộc lại.16 Đó sẽ là dấu ở tay ngươi, và là phù hiệu trên trán ngươi, vì ĐỨC CHÚA đã dùng cánh tay mạnh mẽ mà đưa chúng ta ra khỏi Ai-cập.“ ( Xuất hành 13,11-16), và nơi : Sách Levi 12,1-8, Sách ngôn sứ Isaia 8,14-42,6.
Là tín hữu Do Thái giáo cùng công dân Do Thái, cha mẹ hài nhi Giêsu cũng tuân giữ luật này như luật ấn định 40 ngày sau khi sinh cha mẹ dâng con mình cùng với lễ vật lên Thiên Chúa để người mẹ được thanh tẩy. ( Lc 2, 22-24).
Bên Giáo hội Công giáo Roma có lễ mừng đức mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ ngày 2. tháng Hai từ năm 650. Vì lễ mừng Chúa giáng sinh xuống trần gian vào ngày 25. Tháng Mười Hai, theo như sách luật thời Mose ấn định 40 ngày sau khi sinh con.
Từ thế kỷ 11. có nghi thức làm phép nến và rước kiệu nến thắp sáng trong lễ này. Vì thế lễ này còn có tên là lễ Nến. Theo như phúc âm thánh Luca viết thuật lại, hai vị ngôn sứ lão thành Simeon và Hanna, đã gặp gỡ hài nhi Giêsu lúc cha mẹ đem con họ vào đền thờ dâng con cùng của lễ, đã nói ca tụng Hài nhi Giêsu là ánh sáng muôn dân :
“Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa,xin để tôi tớ này được an bình ra đi.Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ, Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.“ ( Lc 2,29-32)
Từ năm 1997 ngày lễ Đức mẹ dâng con vào đền thờ hay còn gọi là lễ Nến dưới thời đức giáo hoàng Phaol II. còn được gọi là ngày Thánh hiến sự sống.
Bí tích rửa tội cha mẹ xin cho con em mình lãnh nhận không phải là nghi lễ dâng con như sách luật Mose ấn định, nhưng là nghi lễ gia nhập vào Hội Thánh Chúa Kitô ở trần gian. Và qua đó mầm hạt giống đức tin vào Thiên Chúa ghi dấu trong tâm hồn em bé.
Trong bí tích rửa tội em bé không chỉ nhận lãnh làn nước bí tích rửa tội và được xức dầu thánh hiến, nhưng cây nến rửa tội của em còn được thắp sáng từ ngọn lửa cây nến Chúa Giêsu Phục sinh cho đời sống đức tin của em trong mọi giai đoạn đường đời.
Đời sống em được chúc lành thánh hiến cho Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống từ lúc khởi đầu cho tới tận cùng, và cha mẹ em cũng được cùng chúc lành trong ngày vui mừng thánh đức.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong cơn bệnh dịch
- Viết bởi Lm. Daminh nguyễn Ngọc Long.
Xưa nay trong dòng lịch sử nhân loại luôn có những làn sóng bệnh dịch dưới nhiều khía cạnh hình thái đe dọa sức khoẻ đời sống con người.
Bệnh dịch lan tỏa truyền nhiễm đe dọa làm suy yếu sức khoẻ thể xác, suy nhược tinh thần và gây ra chết chóc cho con người. Đó là thảm cảnh ảm đạm đen tối tàn phá đời sống con người cùng công trình thiên nhiên.
Mỗi khi có làn sóng bệnh dịch nổi lên đe dọa, con người với khả năng trí tuệ cùng phương tiện phát triển khoa học luôn nghiên cứu tìm tòi phát minh chế biến phương thuốc chữa trị ngăn ngừa tiêu diệt vi trùng, vi khuẩn gây ra bệnh dịch. Đây là công việc rất cần thiết cần phải có mang tính chất cứu độ cho con người, cứu nguy cho công trình thiên nhiên vũ trụ.
Song song với phương pháp chữa trị y tế, con người còn hướng tâm hồn mình lên Đấng Tối Cao là cha nguồn sự sống, nguồn sức khoẻ chữa lành cho con người.
Hướng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa, Đấng Tối Cao, con người cầu khẩn nài xin ơn trợ giúp chữa lành cho thể xác và tinh thần. Một nếp sống đức tin sâu thẳm, như lời cầu nguyện trong Thánh Vịnh diễn tả:
„Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối,hãy thưa với CHÚA rằng:"Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn,là đồn luỹ chở che, con tin tưởng vào Ngài."
3 Chính Chúa gìn giữ bạn khỏi lưới kẻ thù giăng, khỏi tai ương tàn khốc.
4 Chúa phù trì che chở, dưới cánh Người, bạn có chỗ ẩn thân:
lòng Chúa tín trung là khiên che thuẫn đỡ.
5 Bạn không sợ cảnh hãi hùng đêm vắng hay mũi tên bay giữa ban ngày,6 cả dịch khí hoành hành trong đêm tối,
cả ôn thần sát hại lúc ban trưa.“ ( Tv 91,1-6)
Và trong dòng lịch sử Hội Thánh Công giáo cũng đã có những vị sống đời thánh thiện dấn thân hy sinh đi cứu giúp những người trong cơn bệnh dịch phần vật chất thể xác cũng như mang sự an ủi cho họ về phần tinh thần.
Một trong những vị thánh quan thầy bảo trợ cho người bị bệnh dịch là Thánh Rochus trong Giáo hội Công giáo vào thời Trung cổ.
Thánh Rochus sinh ra vào năm 1295 ở Montpellier nước Pháp. Ông là một giáo dân tham gia là hội viên dòng ba Phanxico. Theo tương truyền thuật lại, khi Rochus mở mắt chào đời, cha mẹ đã nhìn thất dấu thập gía Chúa Giêsu in trên ngực con mình, và họ cho rằng đó là một dấu chỉ lớn nói lên ân sủng của Chúa ban cho con mình.
Theo lời cha dặn bảo trước khi ông qua đời: Con không được làm tôi của cải vật chất, đừng để nó làm con tối mờ con mắt, nhưng hãy chia sẻ với những người nghèo khổ! Rochus đem tặng hết gia tài của cải của mình, và chỉ giữ lại một bộ quần áo, một chiếc gậy và một túi xách đeo lưng. Với hành trang như vậy Rochus đi hành hương khắp nơi sang tới Roma.
Trên đường hành hương tới Roma, nạn bệnh dịch nổi lên hoành hành bên Ý, bên Âu châu, Rochus tới thăm viếng những người bị bệnh dịch, săn sóc an ủi họ như ông có thể làm được cho họ. Ở Roma lúc đó bệnh dịch cũng xâm chiếm lan tràn tới, Rochus cũng dấn thân ra tay giúp đỡ, và sau cùng chính ông cũng bị mắc bệnh dịch.
Biết mình bị bệnh dịch Ông lui vào sống xa cách ở một túp lều chờ ngày qua đời, nhưng Thiên Thần Chúa hiện đến săn sóc cứu giúp chữa ông. Vào một ngày một con chó của người đi săn ngậm khúc bánh mì mang đến cho bệnh nhân Rochus, và sau cùng con chó không theo chủ trở về nhà, nhưng luôn theo ở bên cạnh Rochus cho tới khi Rochus lành bệnh trở lại.
Khi lành bệnh trở lại, Rochus và con chó trở lại Piacentia săn sóc chăm sóc chữa những người bị bệnh dịch.
Bên Âu Châu, thánh Rochus được yêu mến tôn kính là vị thánh quan thầy của những người bị bệnh dịch.
Vị thánh hành hương Rochus được vẽ khắc trình bày với chiếc gậy hành hương trên tay cùng bình nước, và con chó miệng ngậm khúc bánh đứng dưới chân thánh nhân.
Thời đại ngày nay luôn hằng có những vị sống đạo đức thánh thiện dấn thân quên mình cho những người bị bệnh dịch như cha Thánh Damien de Veuster ( 03.01.1840 - 15.04.1889), một linh mục đã tình nguyện sang Hawai sống làm việc mục vụ giúp đỡ giữa những người bị bệnh phong cùi cho tới khi bị mắc bệnh và mang bệnh dịch này cho tới lúc qua đời.
Ngày 04.06.1995 Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II. đã phong cha Damien lên hàng Chân phước. Và ngày 11.10.2009 đức giáo hoàng Benedictô 16. đã tôn phong Chân phước Damien lên hàng Hiển Thánh .
Thánh Damien là thánh quan thầy bảo trợ của những người mắc bệnh dịch phong cùi.
Ngay trong lòng Giáo hội Việt Nam có đức cha Jean Cassigne là vị Giám mục của người bị bệnh dịch phong cùi ở vùng Di Linh.
Đức cha Jean Cassaigne sinh ngày 30.01.1895 tại Toi Urgons-Grenade nước Pháp; thụ phong Linh mục ngày 19.12.1925 thuộc Hội thừa sai Paris; ngày 06.04.1926 Ngài xung phong lên đường sang Đông Dương truyền giáo, sau một tháng lênh đênh trên biển cả Ngài mới cặp bến cảng Sài Gòn , sau đó về Cái Mơn với cha Delignon để học tiếng Việt. Chỉ 5 tháng sau khi đến Việt Nam Ngài được bổ nhiệm làm cha xứ Di Linh,
Buổi đầu về nhận xứ Ngài bận bịu với biết bao công việc, một mặt lo truyền đạo, dạy đạo, mặt khác là nâng cao đời sống, dân trí cho bà con, ban ngày Ngài qui tụ trẻ em để dạy chữ, chiều đến phải lo cho các lớp giáo lý tân tòng, sau giờ cơm tối lại dạy học cho người lớn.
Đâu chỉ có thế, lúc ấy Ngài còn có biệt danh”Oâng lớn làm thuốc”, bất cứ ai đau ốm đều tìm đến Ngài để được chữa trị hoặc được phát thuốc, mọi người qúi mến Ngài, xem Ngài như vị cha chung. Sự tận tâm tận lực của Ngài đối với những người nghèo, người phong cùi cùng với sự tác động của Thánh thần chiều ngày 7.12.1927 một người phong cùi trong cơn nguy tử đã xin Cha Cassaigne rửa tội. Ngài sung sướng thốt lên:” Đây là niềm vui vĩ đại đầu tiên từ sau ngày mình được chịu chức và dâng lễ mở tay”.
Dù bận bịu trăm công nghìn việc nhưng Cha Cassaigne vẫn dành nhiều thời gian để tìm đến với những người phong cuì bị gia đình, dòng họ ruồng rẫy, xua đuổi vào chốn rừng sâu mặc cho bệnh tật, đói lạnh, có khi họ còn làm mồi cho thú rừng. Sau những lần băng rừng lội suối đem lương thực, thuốc men đến cho họ, Ngài càng cảm thương trước những số phận hẩm hỉu ấy. Một lần cuối mùa thu năm 1928, , khi đang một mình băng qua đường rừng vắng đến thăm một buôn làng ở xa, thì một đoàn 10 người phong cùi rách rưới, dơ bẩn nằm la liệt trên đường kêu gào thảm thiết, họ sụp lạy dưới chân Ngài và xin Ngài cứu giúp họ.
Ngài không cầm được nước mắt, hình ảnh những người xấu số cứ ám ảnh tâm trí, nhiều đêm trằn trọc không ngủ được vì Ngài luôn nghĩ đến những thân phận bị ruồng bỏ, bị loại trừ. Tình yêu thương đã thôi thúc Ngài lập làng cùi, những chòi nhà sàn đơn sơ được dựng lên ở khu đất trống dưới chân đồi gần mé ruộng cách nhà xứ KaLa gần 1km. Có nhà rồi ,Ngài lại băng rừng , kiếm tìm và đưa họ về chung sống, để chăm sóc và chữa trị bệnh tật trước sự “ghê tởm” của không ít người.
Thật may mắn ngày 11.04.1929 làng cùi chính thức được công nhận và được trợ cấp của chính quyền, lúc ấy đã qui tụ được 21 người, họ yên tâm vui sống bên cạnh người cha hiền, không còn sợ sự nghi kỵ, xa lánh của người thân, họ hàng… Một thánh lễ đầu tiên được cử hành trong một nhà nguyện nhỏ ngay tại làng cùi ngày 15.03.1936 thật đầm ấm và dạt dào yêu thương. để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp trong những người phong cùi.
Thời điểm này các nữ tu dòng Nữ tử bác ái Vinh Sơn được mời đến để cùng cha Cassaigne chăm sóc người phong cùi.Các nữ tu kể lại rằng cha Cassaigne sống rất đơn sơ, nghèo khó, hễ ai biếu tặng gì Ngài đều chia sẻ , phân phát cho người phong cùi không giữa riêng cho mình bất cứ gì, từ thức ăn, thức uống, quần áo, thuốc men… nhiều năm Ngài sống trong nghèo khó, bệnh tật; có những lần bệnh sốt rét hành hạ, Ngài nằm li bì cả tuần lễ không ăn uống gì, không hề phàn nan hay kêu trách… sức khỏe Ngài suy sụp mau lẹ, nhưng khi khỏe lại Ngài lại tìm đến ngay với những người phong cùi,người nghèo ở khắp các buôn làng.
Ngày lễ kính thánh Gioan Baotixita 24.06.1941 một sự kiện trọng đại đã đến với vị Cha hiền của người dân tộc và những người phong cùi ,khi Ngài được tấn phong Giám mục và là Giám quản Tông tòa Giáo phận sài Gòn . Nhưng sau 14 năm,khi bước vào tuổi 60 (cuối năm 1955) Ngài xin từ chức để nghỉ hưu và tình nguyện về lại Di Linh để phục vụ làng cùi.
Đức Cha Jean Cassaigne qua đời ngày 31.10.1973 giữa những người bị bệnh dịch phong cùi ở làng trại cùi Di Linh, do chính nag`i xây dựng nên từ năm 1927.
Xin Thánh Rochus, Thánh Damien và đức Cha Jean Cassaigne, những vị tông đồ của người bị bệnh dịch cầu thay nguyện giúp thế giới chúng con thoát khỏi cơn đang bị bệnh dịch hoành hành đe dọa.
Xin các Đấng Thánh quan thầy cầu bầu cùng Thiên Chúa, nguồn sự sống và bình an chữa lành bệnh nạn thể xác và tâm hồn mọi người chúng con trong lúc lo âu sự hãi, vì bị bệnh dịch đe dọa.
Lm. Daminh nguyễn Ngọc Long.
- Điều Răn thứ 8: từ Tin Giả đến Tin Mừng
- Kiên nhẫn cắn gặm thế nào cũng đạt đích thành công!
- Con chiên Thiên Chúa
- Làn nước Bí tích rửa tội
- Ngôi sao Bethlehem
- Chào tiễn biệt năm 2019 và đón mừng năm mới 2020!
- Thư Noel
- „ Ta đã gọi con Ta ra khỏi Aicập“ ( Mt 2,15).
- Hài nhi Giêsu mỉm cười
- Nơi sinh ra của Chúa Giesu