Khát vọng hướng về công chính
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Vào những ngày của tháng 12 cuối năm dương lịch, nếp sống văn hóa xã hội bên Âu châu, Mỹ Châu…, nhất là trong nếp sống tập tục phụng vụ của Kitô giáo, sự trông mong chờ đợi đón mừng ngày lễ Chúa giáng sinh có nhiều rộn ràng sửa soạn.
Trông mong chờ đợi rộn ràng có nhiều niềm vui, nhưng cũng ẩn chứa sự kiên nhẫn. Đó là đời sống
Cha mẹ nào cũng có niềm vui mừng thần thánh, khi biết tin em bé con mình đang thành hình phát triển lớn lên trong cung lòng người mẹ. Nhưng họ cũng phải kiên nhẫn chờ đợi ngày mở mắt chào đời của em bé con mình những chín tháng trời.
Bạn trẻ thanh thiếu niên lớn lên đi học, lòng vui mừng phấn khởi bước chân vào trường đời. Nhưng họ cũng phải kiên nhẫn học hành tập luyện một thời gian dài những hằng năm trời mới đạt được tới ngày ra trường đi làm cùng chúng xây dựng đời sống xã hội.
Thánh Giacobus dùng hình ảnh người nông dân để diễn tả về nếp sống mùa Vọng trông chờ ngày lễ mừng Chúa giáng sinh: Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa.( Thư Jacobus 5,7).
Hình ảnh mùa màng thu hoạch thành công tốt đẹp nơi đồng ruộng không gì qúy gía bằng cho đời sống gia đình sống bằng nghề nông trồng cấy hoa mầu. Và sự đầu tư với lòng kiên nhẫn của người nông dân trong công việc cầy cấy hoa màu là hình ảnh Thánh Jacobus dùng để nói với những người tín hữu Chúa Kitô thủa Giáo hội Chúa lúc ban đầu. Vì khi đó họ luôn trông mong ngày Chúa lại đến và thành lập một thế giới mới. Một vương quốc của sự công chính và hòa bình.
Với Thánh Jacobus điều quan trọng hơn hết là Chúa Jesus Kitô lại đến như vị thẩm phán công bình minh chính trực. Ngài bài trừ tội lỗi và mang lại sự sống mới cần thiết cho con người, như hoa qủa qúy gía nẩy sinh từ lòng đất cho nhà nông thu hoạch được mùa màng đầy đủ nuôi sống gia đình.
Hình ảnh sự kiên nhẫn của nhà nông trồng cây hoa mầu nói lên sâu đậm niềm hy vọng trông chờ của việc làm của con người. Và đó cũng là hình ảnh Chúa lại đến sẽ hoàn thành sự cố gắng trông chờ của người tín hữu cho trọn vẹn: một đời sống được ơn cứu chuộc của Chúa.
Trông chờ Chúa đến, trông chờ ngày lễ Chúa giáng sinh mang ánh sáng ơn bình an cho nhân loại, Đấng là mặt trời công chính với lòng kiên nhẫn hy sinh là nếp sống mùa Vọng hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đức Mẹ Loreto
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Loreto là một thành phố nhỏ ở bên Italia với diện tích khoảng 17 cây số vuông cùng hơn 12 ngàn dân số nằm ở miền trung nước Ý bên phía Đông sát gần bờ biển Địa trung Hải, cách Roma khoảng 280 cây số.
Thành phố Loreto là thánh địa hành hương nổi tiếng bên nước Ý sau đền thờ thánh Phero ở Roma. Vì nơi đây có căn nhà đức mẹ Maria.
Theo sách do Flavius Lucius Dexter viết khoảng năm 400 thuật lại, vào năm 42 sau Chúa giáng sinh, Thánh tông đồ Jacobus đã khánh thành làm phép ngôi nhà thánh ở Nazareth, nơi Thiên Thần hiện đến truyền tin cho đức mẹ Maria: Chúa Giêsu con Thiên Chúa xuống trần gian làm người trong cung lòng Maria.
Năm 336 Thánh nữ Helena, mẹ của hoàng đế Constantino đã đến thăm viếng Nazareth, và đã cho xây một thành đường bao phủ ngôi nhà đức mẹ Maria. Thánh Hieronimus cũng đã nói đến địa điểm này khi ông đến thăm viếng năm 384:“ Nazareth là một địa điểm nhỏ vùng Galilea và có một ngôi thánh đường ngay nơi ngày xưa Thiên Thần hiện đến với đức mẹ Maria báo tin Chúa Giêsu con Thiên Chúa xuống thế làm người trong cung lòng trái tim Maria.
Thời kỳ đầu tiên của Thập tự quân đã đến chiếm đóng Nazareth và năm 1219 Thánh Phanxiico thành Assisi đã đến Nazareth thăm viếng ngôi nhà, nơi Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người.
Tháng Tư năm 1263 đất thánh bị rơi vào tay Hồi giáo quân của Bajbar thành Cairo và ngôi thánh đường này bị tàn phá. Nhưng ngôi nhà thánh của đức mẹ không bị hư hại, vì nằm ở tầng hầm bên dưới thánh đường.
Lịch sử lưu truyền thuật lại , năm 1291 khi dân chúng vùng Palestina bỏ đức tin đạo Công giáo sang bên đạo Hồi giáo, các Thiên Thần đã mang ngôi nhà thánh đó khỏi Nazareth tới một điạ điểm ở giữa Fiume và Tersato vùng Dalmatien bên nước Croate.
Rồi vào đêm 10.12.1294 ngôi nhà thánh nhỏ này bỗng dưng biến mất. Các người mục đồng đã nhìn thấy ngôi nhà này ở một nơi cao gần thành phố Recanati: một luồng ánh sáng bao phủ căn nhà trong một khu rừng.
Những thương gia thành phố Tersato đã nhận ra ngôi nhà ngày xưa đã biến mất khỏi Dalmatien.
Năm 1296 một vài người ở vùng này đã đo kích thước ngôi nhà và trẩy sang Nazareth, họ đã tìm thấy những căn bản của ngôi nhà đức mẹ bên Nazareth đúng như kích thích ngôi nhà ở Loreto. Từ đó ngôi nhà ờ Loreto trở thành đền thánh với danh hiệu Ngôi nhà Loreto.
Ngày nay, bên trong Vương cung thánh đường Loreto có căn nhà thánh với ba bức từng bằng gạch nhà đức mẹ ở Nazareth bên Do Thái với kích thước 9,25 mét chiều cao, 4,1 mét chiều ngang và 5 mét chiều dài, tượng Đức Mẹ Maria mầu đen tay bồng Chúa Giêsu.
Hình ảnh đức mẹ mầu đen hoặc do mầu vẽ , hoặc do chất liệu gỗ đá thiên nhiên mầu đen. Nhiều tín hữu sùng kính Đức mẹ mầu đen, vì tin tưởng rằng đức mẹ như thế hay làm phép lạ ban ơn.
Và ở bên nước Do Thái, thành phố Nazareth vùng Galileo bên dưới tầng hầm Vương cung thánh đường Truyền tin phía bên phải bàn thờ chính, có cân nhà nhỏ nguyên thủy của đức mẹ Maria ngày xưa, nơi Thiên Thần Gabriel đã hiện đến truyền tin cho Maria: Giêsu con Thiên Chúa xuống thế làm người trong cung lòng Maria.
Kinh Thánh nói đến mầu đen chỉ về phụ nữ:
„ Này các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem,
da tôi đen, nhưng nhan sắc mặn mà
như lều Kê-đa, tựa trướng Xan-ma.“ ( Diễm tình ca 1,5)
Khoa chú giải kinh thánh Kitô giáo đã suy tư về đoạn này chỉ về trái tim tâm hồn như người phu thê của Thiên Chúa, trong đó có Đức mẹ Maria.
Đức mẹ đen Loreto rất được sùng kính. Và ở nhiều vùng đất nước bên Âu châu như có bức ảnh Đức mẹ đen như bên thánh địa Częstochowa nước Balan, tượng Đức Mẹ đen ở thánh địa Altöttingen bên nước Đức.
Hằng năm ngày lễ kính đức mẹ Loreto vào ngày 10. Tháng Mười hai.
Khi hành hương thăm viếng ngôi nhà đức mẹ Loreto để công bố thông điệp về giới trẻ, Đức thánh cha Phanxicô đã có tâm tình suy tư: „ Nhà của Đức Maria cũng là nhà của gia đình. Trong tình hình tế nhị của thế giới ngày nay, gia đình dựa trên cuộc hôn nhân giữa một người nam và một người nữ đảm nhận một tầm quan trọng và một nhiệm vụ thiết yếu. Cần phải tái khám phá kế hoạch do Thiên Chúa vạch ra cho gia đình, nhắc lại sự vĩ đại và không thể thay thế của gia đình trong việc phục vụ cuộc sống và xã hội. Trong ngôi nhà Nagiarét, Đức Maria sống những mối quan hệ đa dạng trong gia đình trong tư cách là con gái, người hứa hôn, rồi người vợ và người mẹ. Vì lý do này, mỗi gia đình, trong từng thành viên khác nhau, có thể tìm thấy ở đây sự chấp nhận và cảm hứng để sống bản sắc riêng của mình.
Kinh nghiệm trong gia đình của Đức Trinh Nữ chỉ ra rằng gia đình và những người trẻ không thể là hai lĩnh vực chăm sóc mục vụ tách biệt của các cộng đồng chúng ta, nhưng cả hai phải sóng bước bên nhau, bởi vì những người trẻ thường là những gì một gia đình được trao ban trong thời kỳ tăng trưởng. Viễn tượng này tái cấu trúc một mục vụ ơn gọi quan tâm biểu lộ khuôn mặt của Chúa Giêsu qua nhiều khía cạnh khác nhau như vị thượng tế, hôn phu, và mục tử trong một thể thống nhất.
Nhà của Đức Maria là nhà của người bệnh. Ở đây, những người đau khổ trong thể xác và tinh thần có thể được chào đón, và Mẹ mang tất cả đến với lòng thương xót Chúa từ đời này sang đời khác. Bệnh tật làm tổn thương gia đình, và người bệnh phải được chấp nhận trong gia đình. Xin vui lòng, đừng rơi vào nền văn hóa vứt bỏ được đề xuất bởi những thứ thực dân ý thức hệ đang tấn công chúng ta ngày nay. Ngôi nhà và gia đình là phương thuốc đầu tiên cho người bệnh, trong việc yêu thương họ, hỗ trợ họ, khuyến khích họ và chăm sóc họ. Đây là lý do tại sao Đền thờ Nhà Thánh là biểu tượng của mọi ngôi nhà chào đón và là đền thờ của người bệnh.“ ( Đức giáo hoàng Phanxico , đền thánh Đức mẹ Loreto ngày 25.03.2019)
Tại Thánh địa Loreto do các cha Dòng Phanxico phụ trách. Và nơi đó có dầu Oliu - trong lọ nhỏ bằng ngón tay út.- do các Tu sĩ Dòng Phanxico làm ra để giúp chữa bệnh xoa dịu cơn đau đớn bệnh tật phần xác cùng bình an cho tâm hồn nhờ lời bầu cử của Đức mẹ Loreto với lòng tin tưởng cầu xin khấn nguyện.
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Sức mạnh lời Chúa
- Viết bởi Dân Chúa
Ngày 08.12.1854 Đức Giáo hoàng Pio IX. công bố tín điều đức mẹ Maria không vướng mắc vào những hệ lụy tội tổ tông truyền do Ông Bà Adong Evà gây ra cho loài người, ngay từ khi thành hình sự sống trong cung lòng mẹ và cả sau khi hạ sinh Chúa Giêsu.
Giáo hội loan báo tín điều cho nếp sống đức tin. Nhưng bài phúc âm ngày lễ mừng kính đức mẹ vô nhiễm nguyên tội lại là bài tường thuật về ngày lễ Thiên Thần Gabriel truyền tin cho đức Mẹ Maria ở Nazareth ( Lc 1,26-38).
Như vậy có mối tương quan gì giữa hai khung cảnh biến cố không?
Theo hình thể địa lý và khung cảnh thời gian thì không. Vì biến cố truyền tin đã diễn ra trước đó cả hai ngàn năm, còn tín điều công nhận Đức mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội mãi sau này năm 1854 mới có. Và xét về khung cảnh địa lý cũng vậy, biến cố Thiên thần truyền tin cho đức mẹ Maria ở làng Nazareth bên nước Do Thái, còn tín điều đức mẹ vô nhiễm nguyên tội được tìm hiểu nghiên cứu loan báo ở Vatican bên nước Ý.
Nhưng về nội dung đều có liên quan mật thiết với nhau, không nguyên chỉ nơi cá nhân Đức mẹ Maria, mà trước hết và sau hết nơi sức mạnh lời Chúa.
Thiên Thần Gabriel được Thiên Chúa sai đến nhà Maria với lời chào đầy tình cảm lòng phấn chấn: Xin đừng sợ! Và sau đó là những lời loan báo của Thiên Chúa cho Maria: chị sẽ thụ thai, bào thai sẽ là một em bé trai, và chị sẽ đặt tên cho em bé là Giêsu.
Lời loan báo của sứ điệp Thiên Chúa quy hướng không về Maria, nhưng về bản tính cùng sứ mạng của em bé.
Bài tường thuật biến cố truyền tin là mầu nhiệm lớn lao của sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và Maria. Bài tường thuật nói lên khía cạnh bỡ ngỡ ngạc nhiên về biến cố giữa Thiên Chúa và con người: Sự hiện diện của Thiên Chúa qua hình ảnh bóng rợp của Người.
Bóng rợp của Thiên Chúa phủ xuống Maria. Đó là bóng rợp của Đấng Tối Cao. Bóng rợp này không ập xuống làm cho Maria bị nghẹt thở choáng váng. Nhưng bóng rợp uy quyền đó mang đến sự sống mới nơi Maria. Sức mạnh Đức Chúa Thánh Thần được diễn tả song song với Lời Chúa. Cả hai yếu tố cùng phát sinh sự sống mới, sự thay đổi cho một khởi đầu mới.
Sức mạnh Lời Chúa, Thánh Thần Thiên Chúa thể hiện ngay từ khi Thiên Chúa tạo dựng trời đất, và sự sống mọi loài trong vũ trụ: Hãy có! và liền có! như trong sách Sáng thế 1,1-31 thuật lại.
Đức Mẹ Maria được trình bày là mẫu gươmg hình ảnh to lớn. Vì Maria đã để cho Lời Chúa cùng với sức mạnh Chúa Thánh Thần hoạt động gây tác dụng nơi đời sống mình. Sự can đảm và lòng tin tưởng của Maria đã để cho phép lạ từ trời cao được thể hiện nơi trần gian.
Maria là người tích cực lắng nghe cùng đón nhận. Đức mẹ Maria đã mở rộng tâm hồn cho Lời Chúa tràn vào tâm hồn đời sống mình.
„ Giesu Nazareth Vua Dân Do Thái“.( Ga 19, 19)
- Viết bởi Dân Chúa
Đây là tấm bảng Tổng trấn Pilatus đã cho viết đóng gắn trên đầu thập giá Chúa Giêsu năm xưa cách đây hai ngàn năm ở đồi Golgotha ngoại thành Jerusalem., nơi cây thập giá đó Chúa Giesu bị lên án đóng đinh vào cho tới chết.
Như vậy đó là bản án sỉ nhục cho người bị hình phạt lên án, hay là một cung cách danh xưng tước hiệu cho Chúa Giêsu?
Tổng trấn Pilatus đã vì áp lực của đám đông dân chúng và các Thầy cả để Chúa Giesu bị lên án chịu hình phạt đóng đinh vào thập gía ( Ga 19, 4-16). Nhưng để phần nào nói lên có lẽ là điều Pilatus suy nghĩ dằn vặt về Chúa Giêsu. Nên ông đã cho viết bảng đó vừa là cách nói lên bản án xử người này chỉ vì thế, và cũng vừa là cung cách nói lên niềm tin tưởng của mình về Chúa Giêsu là Vua: „ Ta viết sao, cứ để vậy!“ ( Ga 19, 22 ).
Đâu là những biểu hiệu của một vị Vua?
Xưa nay nói đến vị Vua, người ta nghĩ đến sự sang trọng lộng lẫy, uy quyền sức mạnh cao cả gần như vô đối.
Hình ảnh một vị Vua đi đâu thường cỡi ngựa hay xe có những đoàn ngựa kéo xe mạ vàng.
Vua đi đâu có đoàn quân lính đông đảo dẫn đầu cùng đi sau bảo vệ. Vua nước nào càng có nhiều quân lính, vị đó càng có nhiều sức mạnh uy quyền, có cờ quạt đội quân nhạc thổi vang trời tung hô vạn tuế, cùng được dân chúng đứng vẫy cờ đón chào.
Vua ở trong cung điện to lớn nguy nga lộng lẫy, có ghế ngai vàng qúi giá cùng đoàn người phục dịch.
Quần áo nhà vua mặc cũng là những hàng tơ lụa qúi kim thêu dệt lộng lẫy sang trọng, mà dân gian gọi là cẩm bào., cùng có triều thiên vương miện trên đầu và trên tay còn có gậy chỉ huy nói lên uy quyền của vua.
Còn Vua Giêsu thì như thế nào?
Vua Giêsu của con người thì không như thế. Vua Giêsu không có uy quyền sức mạnh trị vì vô đối, như một vị vua trần gian xưa nay.
Vua Giêsu không có những đoàn kỵ binh lính, không xe ngựa. Trái lại Ngài cỡi con lừa còn non vào thành Jerusalem, ngài không có vương miện triều thiên . Vì Vua Giêsu không muốn biểu dương sức mạnh uy quyền, nhưng muốn là một người bạn gần gũi với con người.
Vua Giesu không có cây gậy chỉ huy quyền lực trên tay. Ngài không muốn truyền ra mệnh lệnh cho ai. Nhưng nói chuyện vui vẻ tình thân ái với con người. Ngài lắng nghe nhu cầu của con người.
Vua Giêsu cũng không có quần áo cẩm bào gấm vóc sang trọng, không có nhà cửa cung điện. Những gì Ngài có, Ngài cùng chia sẻ với mọi người, cùng đồng bàn ăn uống với mọi người. Ngài muốn trở thành một người như mọi người.
Vua Giêsu không ngồi trên ngai cao sang trị vì, nhưng tập họp sống giữa dân chúng, như trên núi Tám mối phúc thật ngày xưa, và để cho mọi người cảm nhận được tình yêu thương của ngài lan tỏa ra cho con người.
Chúng ta, những người tin theo Chúa Giêsu Kitô, chân nhận Chúa Giêsu là Vua không theo cung cách mộy vị vua trị vì với quyền hành sức mạnh, nhưng tuyên xưng Chúa Giêsu là vị Vua của tình yêu thương, của ơn cứu chuộc cho phần rỗi linh hồn con người.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Sống can đảm kiên trì
- Viết bởi Dân Chúa
Ngày nay khi sang hành hương bên đất thánh, các đòan khách hành hương thường dừng chân ở khu sườn núi Cây Dầu rồi đưa hướng tầm nhìn vượt qua thung lũng Kidron thẳng sang núi Đền thờ, sang khu thành cổ Jerusalem. Toàn cảnh đền thờ Jerusalem hiện rõ ra trước mắt với vòm đền thờ vàng chói sáng nổi rõ lên nguy nga rất đẹp.
Chính tại nơi đây ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm Chúa Giêsu Kitô đã cùng các Tông Đồ trò truyện nhìn sang khu ̣ền thờ tráng lệ và Người nói tiên tri về cảnh sự sụp đổ của đền thờ Jerusalem cùng những điềm báo trước về những tai họa ngày sau cùng sẽ xẩy đến. ( Phúc âm Luca 21, 5-19.)
Năm 1881 các Tu sĩ Dòng Phanxico đã đến nơi này thiết lập con đường rước lá tiến về thành Jerusalem vượt qua thung lũng Kidron cho tới Đền thờ mộ Chúa chết và sống lại, để kỷ niệm nhớ lại biến cố ngày xưa Chúa Giesu đã cỡi con lừa còn non trẻ tiến vào thành Jerusalem, mà bây giờ Giáo hội Công giáo cử hành vào ngày chúa nhật lễ Lá hằng năm.
Năm 1955 các Tu sĩ Dòng Phanxico đã xây dựng một ngôi đền thờ ngay nơi núi Cây Dầu này có tên Dominus Flevit - Đền thờ Chúa khóc - để nhớ lại ngày xưa Chúa Giesu ngày xưa đã đứng nơi đây nhìn sang đền thờ Jerusalem và khóc thương thành thánh ( Luca 19,41-44)). Vì Ngài thấy đền thờ tuy nguy nga bề thế vững chắc, nhưng sẽ bị phá hủy. Vì thế đền thờ Dominus flevit bây giờ được xây dựng thiết kế theo hình vòm tròn vươn lên trời cao có hình dạng như một gịot nước mắt chẩy nhỏ xuống.
Hình ảnh ngày xưa Chúa Giêsu nói báo trước cảnh tượng hoang tàn đổ nát của đền thờ Jerusalem bị phá hủy có ngụ ý nói về đời sống con người. Đời sống con người càng thêm tuổi năm tháng, càng gìa yếu đi. Không có gì sẽ còn tồn tại nơi đời sống con người chúng ta, như đã là. Suốt dọc đời sống con là một chuỗi dài những thay đổi. Không phải luôn luôn đời sống chúng ta đều diễn ra vuông tròn suông sẻ.
Có những giai đoạn lúc khoẻ mạnh, giai đoạn yếu đau bệnh nạn, hay có những người qua đời sớm lúc còn trẻ, còn đang tuổi thanh xuân. Có những giai đoạn tâm trí tỉnh táo, phân biệt rõ ràng, trí nhớ minh mẫn nhưng cũng có giai đoạn sống trong hoang mang hồ nghi hay quên và không còn có thể phân biệt được….
Niềm hy vọng vào những mơ ước bung nổ tung bay như những chiếc bong bóng bọt xàphòng tan bay trong không khí. Con người có những suy nghĩ dự phóng hoạch định đề ra chương trình. Nhưng nó lại xảy đến hoàn toàn khác. Chúng ta phải rút ra từ đó bài học nhìn nhận ra rằng, đời sống con người có giới hạn giòn mỏng dễ bị tan vỡ. Điều này thuộc về đời sống con người.
Chúa Giêsu biết đời sống con người như thế, và Ngài cũng biết con người chúng ta khi vướng gặp hoàn cảnh như vậy dễ bị ảnh hưởng làm mất can đảm kiên trì, cùng dễ rơi vào cảnh hồ nghi mất niềm tin. Nên Ngài khơi dậy niềm hy vọng giúp con người cn đảm tiếp tục sống: Anh em đừng vì những dấu chỉ thiên tai kinh thiên động dù nhỏ hay to xảy ra mà mất bình tĩnh lâm vào hoảng sợ bối rối. Anh em hãy sống giữ bình tĩnh và đừng cố chấp, khi có những điều không xảy ra như anh em mong muốn dự định. Đừng hoảng sợ!
Anh em hãy biết rằng : „ dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng sẽ chẳng hư mất. Có kiên trì, Anh em mới giữ được mạng sống mình.“ ( Lc 21,18-19).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thiên Chúa của người sống
- Viết bởi Dân Chúa
Vào thời Chúa Giêsu cách đây hơn hai ngàn năm có hai phong trào tôn giáo thế lực mạnh trong xã hội Do Thái: phái Phariseo và phái Saduseo.
Phái Phariseo là phong trào của giới bình dân gần gũi dân chúng hơn. Những người theo phái này là những lớp người trung lưu, được dân chúng trọng vọng kính nể.
Về khía cạnh tôn giáo họ chấp nhận Lời Chúa ghi chép trong Kinh Thánh cựu ước và cả những truyền thống của tổ tiên cha ông còn lưu truyền lại cho tới thời Moses.
- 1. Phái Phariseo tin rằng Thiên Chúa dự liệu tất cả, và ảnh hưởng đến quyết định của mỗi người trên con đường đời sống.
- 2. Họ tin sự sống lại sau khi chết ( CV 23,6)
- 3. Họ tin rằng có đời sống sau khi chết với sự thưởng phạt tương xứng trên căn bản đời sống mỗi con người.
- 4. Họ tin có Thiên Thần và ma qủi. ( Cv 23,8).
Phái Saduseo là phong trào thuộc giới thượng lưu sống cách biệt xa dân chúng.
Về khía cạnh tôn giáo phái này theo cung cách bảo thủ chỉ công nhận lời Chúa viết sách Kinh Thánh , nhất là những quyển sách của Moses. Những truyền thống truyền khẩu về lề luật với họ không có gía trị bắt buộc , và cả những sách các Ngôn sứ cũng không được mấy tôn trọng.
- 1. Phái Saduseo rất bảo thủ, chối bỏ sự can thiệp ảnh hưởng của Thiên Chúa.
- 2. Họ không tin sự sống lại sau khi chết (Phúc âm Mattaeus 22,23-39, Marcus 12,18-27)).
- 3. Họ không tin có sự sống đời sau . Họ tin rằng linh hồn sẽ tiêu tan chấm hết sau khi chết. Vì thế không có sự thưởng phạt sau quãng đời sống trên trần gian. Theo họ sự sống là sự sống, chết là chết, là chấm dứt hết.
- 4. Họ chối bỏ thế giới thần linh như không có ma qủi, không có Thiên Thần.
Phái Saduseo cho chính trị quan trọng hơn tôn giáo. Sau năm 70 khi thành Jerusalem bị đế quốc Roma tàn phá, phái Saduseo cũng bị tàn lụi theo.
Dựa theo lề luật viết trong sách Kinh Thánh:„ Khi có những anh em ở chung với nhau, và một trong những người đó chết mà không có con trai, thì vợ của người chết không được lấy một người xa lạ, ngoài gia đình; một người anh em chồng sẽ đến với nàng, lấy nàng làm vợ và chu toàn bổn phận của một người anh em chồng đối với nàng.6 Đứa con đầu lòng nàng sinh ra sẽ duy trì tên của người anh em đã chết; như vậy tên của người chết sẽ không bị xoá khỏi Ít-ra-en.“ ( Sách đệ nhị Luật 25,6).
Phái Saduseo đã đưa ra thắc mắc mà họ chối bỏ, với Chúa Giêsu: có sự sống lại sau khi chết không?
Chúa Giêsu trong cung cách đầy uy quyền cùng thấu đáo suy hiểu tường tận đã trả lời nhấn mạnh về thắc mắc này: Việc lấy vợ chồng chỉ xảy ra trên trần gian. Trên trời không có sự chết. Vòng xuay chuyển về hôn phối, làm chứng, sinh thành và chết chỉ xảy ra trên trần gian mặt đất này thôi. Trong thế giới bên kia, đàng sau biên giới sự sống trên mặt đất, có sự sáng tạo mới của mỗi người. Thiên Chúa muốn trao tặng tất cả con người sự sống mới, khi họ chấp nhận tiếng Ngài kêu gọi họ.
"Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê đã cho biết điều ấy trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Nhưng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa“. ( Lc 20, 27-38).
Và trong nghi lễ an táng người qúa cố nơi phần mộ chúng ta cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa nguồn sự sống. Chúa là Thiên Chúa của sự sống, chứ không phải của sự chết. Sức mạnh của Chúa mạnh mẽ to lớn hơn tội lỗi của chúng con. Chúng con tin tưởng hy vọng vào lòng nhân lành thương xót của Chúa.“.
Niềm hy vọng của chúng ta vượt lên trên sự sống nơi trần gian hướng về sự sáng tạo mới. Đó là được Thiên Chúa cho sống lại, một đời sống tròn đây viên mãn, sự sống vĩnh cửu „ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại.“.
Niềm tin tưởng hy vọng về sự sống lại được cứu chuộc sau khi quãng đường đời sống trên trần gian chấm dứt đặt căn bản trên lời Chúa Giêsu đoan hứa nói với Martha: „ Thầy là sự sống lạị và là sự sống“ ( Ga 11, 25-26 )
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tâm tình lời kinh cho người qúa cố.
- Viết bởi Dân Chúa
Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần gian.
Tâm tình này đạo đức và rất tình người. Tâm tình này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống của con người. Nhưng mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung lòng mẹ đi ra. Và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ áo quan chôn vùi dưới lòng đất, hay thiêu ra thành tro bụi
Những người đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, trước sau vẫn thuộc về nhau. Tất cả đã cùng chung sống với nhau. Chúng ta và họ đã cùng chia sẻ cuộc sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau.
Họ đã ra đi. Nhưng họ vẫn hằng hiện diện trong trái tim tình yêu mến của chúng ta. Họ vẫn hằng sống động trong tâm tình biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm ngày xưa đã cùng nhau chung sống trải qua.
Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ, đọc kinh cầu nguyện tưởng nhớ đến người qúa cố, chúng ta muốn nói lên: Không chỉ một mình tôi làm việc này. Nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ đọc kinh cầu nguyện cũng tưởng nhớ đến thân nhân của họ đã qúa cố.Vì cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia lìa vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.
Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô không chỉ chúng ta người còn đang sống, mà cả những người đã qúa cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh cùng thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.
Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng ta:
- 1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đã ra đi về cùng Thiên Chúa.
Họ là những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn. Họ là những người đã không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe. Nhưng họ đã hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ là cha mẹ được Thiên Chúa giao phó, nuôi dạy uốn nắn đời sống đức tin tinh thần đạo đức của chúng ta.
Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn thờ Chúa.
- 2. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột thịt trong gia đình đã an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cậu cô chú bác, cô dì.
Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những giờ phút thành công cũng như thất bại, hy vọng có lo âu sợ sệt cũng có. Một phần đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.
Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm người còn đang sống, và xin dâng lên bàn thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh gía.
- 3. Xin tưởng nhớ đến các linh mục, những người đã được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc việc tinh thần đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo. Sau những năm tháng âm thầm phục vụ hy sinh làm việc tông đồ, họ đã nghe tiếng Chúa gọi trở về đời sau.
Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của linh mục là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.
Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành với trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.
Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ vì có Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh và nhất là được cùng chung sống xây dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.
Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong lòng đất mẹ. Nhưng những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trải qua trong xứ đạo không quên ơn các cha. Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng thánh lễ. Ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ đến cầu nguyện cho các cha.
- 4. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy Dòng đã chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã được Thiên Chúa gọi về đời sau .
Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đã nghe tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có và được phép hưởng dùng, chọn nhận sống đời khiết tịnh khó nghèo nhiệm nhặt, đời s`´ngphục vụ cho ích chung của nước Chúa và cho con người.
Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm thầm cầu nguyện của các Thầy, cũa các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian.
Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh lễ cầu cho các Thầy, các Chị Em Tu sĩ.
- 5. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen thân, các vị ân nhân ngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn, những kỷ niệm êm đẹp. Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.
Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng ta đã trao cho nhau, và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời sống và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.
- 6. Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua đời vì thiên tai bão lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những người mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến.
Họ tất cả cũng là con Chúa và niềm tin dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ. Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.
Xin cùng với ánh nến tình tương quan liên đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện cho linh hồn họ đã về nơi chín suối ngàn thu.
- 7. Xin tưởng nhớ đến những thành viên trong Cộng đoàn chúng ta đã được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.
Cộng đoàn xứ đạo chúng ta được thành lập cho chúng ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ những chục năm qua. Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch xây dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.
Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đã cùng chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi về với Chúa trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng biết ơn và cảm phục.
Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát hòa lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa Ba ngôi.
- 8. Xin nhớ đến các em hài nhi đã qua đời hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ phát triển thành hình nơi cung lòng mẹ.
Các em thai nhi vô tội bị phá hủy hình hài sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ tí hon của con người trước tòa Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống và lòng nhân lành.
Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ về các Thiên Thần vô tội. Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa tình yêu.
- 9. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại sứ điệp của những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:
- Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, hay đã bị thiêu hủy thành tro bụi. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.
- Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này. Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.
- Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá. Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi. Vì Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.
Và tôi tâm niệm rằng:
- Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại.
- Những gì ngày xưa tôi thu góp tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.
- Nhưng những gì ngày xưa tôi cho đi, bây giờ tôi nhận lãnh trở lại.
Lễ cầu cho các Linh Hồn mùng 02.Tháng Mười một
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh thiện…dưới đất cũng như trên trời!
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Kinh Lạy Cha có lời cầu xin: „ Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Như thế lời cầu xin hướng trải rộng dài hai chiều trên trời và dưới đất.
Trái đất là công trình tạo dựng của Thiên Chúa như không gian ngôi nhà cho con người cùng mọi loài thụ tạo sinh sống.
Chúa Giêsu, con Thiên Chúa đã sinh xuống làm người trên mặt đất . Và qua đó đời sống con người nhận được một ý nghĩa mới. Ngài mang đến cho trần gian ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, ánh sáng đức tin vào Thiên Chúa. Và từ ngày đó đức tin vào Thiên Chúa đã lan tỏa khắp nơi trên mặt đất với trên hai tỷ người tin nhận vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa luôn có mặt trên trái đất. Và đời sống con người có giới hạn có bắt đầu và có tận cùng. Nhưng dẫu vậy, còn có một viễn tượng hướng lên trời cao.
Trời cao theo tầm nhìn suy hiểu của đức tin vượt lên trên chiều kích không gian hình thể địa lý. Trời cao là nơi chốn của sự toàn vẹn tròn đầy bên nơi Thiên Chúa.
Chúng ta tin nhận Thiên Chúa ngự nơi trời cao, và đặt niềm hy vọng đời sống cộng đoàn với Người nơi đó. Chúng ta cũng tin nhận rằng tất cả mọi người đã hoặc sẽ cùng bên Người trên trời trong cộng đoàn các Thánh, khi đời sống kết thúc vẹn toàn.
Hằng năm Giáo hội mừng chung ngày lễ Các Thánh vào ngày 01.11. Ngày lễ này tất cả mọi vị Thánh được mừng kính trọng thể, có tên trong lịch phụng vụ hay không hoặc chưa có tên trong đó. Giáo hội Chúa to rộng hơn cộng đoàn tín hữu Chúa trên mặt đất. Giáo hội Chúa muốn nhấn mạnh đến cộng đoàn đức tin là những người thuộc về Chúa thời qúa khứ, thời hiện tại và thời tương lai. Nơi Thiên Chúa không ai bị quên lãng bỏ rơi, khi họ muốn tin nhận thuộc vào Ngài:“ Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta.“ ( Kh 7,10).
Khát vọng của người tin nảy sinh từ sự gặp gỡ với Thiên Chúa „ Phàm ai đặt hy vọng vào Chúa Giêsu Kitô thì làm cho mình nên thanh sạch như Người Đấng Thánh.
Thiên Chúa và con người cùng gặp gỡ nhau, Đấng Tạo Hóa và loài thụ tạo không chia lìa xa nhau, khi con người để cho sự tương quan thánh đức xảy ra , như thế là đạt được tới sự thánh thiện.
Con đường lên tới trời cao phải được thực hiện ngay trên mặt đất. Đó là đời sống nỗ lực hy sinh cố gắng“ Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên.“ ( Kh 7,14). Con đường lên trời không là con đường đi dạo mát thanh thản, nhưng là con đường chiến đấu chọn lựa trong đời sống thực tế giữa tốt lành và sự xấu cám dỗ, giữa sự khiêm nhường và sự kiêu hãnh, giữa tôn trọng và coi thường khinh rẻ.
Chúa Giêsu đã rao giảng bản hiến chương nước trời Tám Mối Phúc Thật là căn bản phương hướng chỉ dẫn cho nếp sống của con đường đời sống trên trần gian hướng tới nước trời: sự chân thành, lòng khiêm nhường, tình yêu thương thay vì hận thù ghen ghét, xây dựng hòa bình, lòng bác ái sự thương xót, tình liên đới cùng chia sẻ.
Cộng đòan các Thánh trên trời là ai? Thánh Gioan tông đồ thuật lại“ “ Tôi thấy kìa một đoàn người đông đảo thật không tài nào đếm nổi, thuộc mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ.“ ( Kh 7,9).
Trên trời họ họp thành ca đoàn các Thánh hát chúc tụng Thiên Chúa, mà trước đó khi còn sinh sống trên trần gian họ đã một mực luôn cố gắng hy sinh sống kinh qua thử thách như „ ca đoàn còn tập thử“ .
Sự trường tồn vĩnh cửu của trời cao đã xâm nhập đi vào cuộc sống chóng qua trên mặt đất thể hiến qua những con người sống đề cao gía trị của Thiên Chúa.
Ngày lễ kính mừng các Thánh, theo tập tục nếp sống Giáo hội Công giáo cũng là ngày tưởng nhớ cách đặc biệt đến các người đã được Thiên Chúa, nguồn đời sống, gọi ra khỏi trần gian về nơi vĩnh cửu.
Họ là những người thân yêu ruột thịt trong gia đình. Họ là những người chúng ta đã quen biết hay không quen biết. Sau quãng đường đời hành trình trên trần gia, nay họ đã tìm được nơi chốn yên nghỉ nơi Đấng Tạo Hóa đã sinh thành nuôi dưỡnng đời sống họ khi xưa trên trần gian.
Họ là những người đã cùng đồng hành với chúng ta trên con đường đời sống khi xưa. Mẫu gương đời sống là nhân chứng đức tin, lòng yêu mến cùng sự trông cậy vào Thiên Chúa của họ là bài học chỉ đường dẫn lối cho đời sống tinh thần của chúng ta được phát triển lớn lên hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Mỗi người có đời sống khác nhau
- Viết bởi Dân Chúa
Đó đây có tâm tư so sánh: Nhìn lên cao không bằng ai, nhưng nhìn xuống vẫn còn hơn nhiều người, xin cám ơn Chúa!
Thoạt nghe qua tâm tư so sánh này như có vẻ biểu lộ một nếp sống đạo đức lòng khiêm cung. Nhưng đàng sau lại ẩn chứa điều gì tự xét đoán đề cao mình!
Trong đời sống có những luật lệ đạo cũng như pháp luật xã hội. Con người dựa vào để thi hành trong cuộc sống cho chính đáng trật tự hợp ý nghĩa tình và lý.
Và như thế có được sắp xếp xét đoán không?
Nơi công đường tòa án việc tranh cãi kiện tụng được các vị thẩm phán có trách nhiệm phân định xét sử cho rõ ràng dựa theo luật lệ cùng tập tục đời sống xã hội.
Trong đức tin tôn giáo đời sống tinh thần thiêng liêng nơi trần gian không có việc kiện tụng xét sử ai là người công chính, ai là người sống đẹp lòng Chúa, ai là người có đời sống bác ái. Ai hơn ai kém.
Giáo hội Công giáo lập ra Tòa hòa giải để nhắc nhở cảnh tỉnh những trường hợp sai phạm về kỷ luật trong nếp sống đức tin.
Chỉ mình Thiên Chúa, đấng tạo dựng nên đời sống con người, nuôi sống con người mới có thẩm quyền xét đoán về đời sống tinh thần con người thôi.
Giáo hội của Chúa luôn nhắc nhớ con người là tạo vật do Chúa tạo thành cùng được Thiên Chúa phú bẩm ban cho cơ hội khả năng sinh sống. Nhưng mỗi người đều có giới hạn về mọi khía cạnh từ thân xác đến tinh thần. Mỗi người là một tác phẩm hình ảnh do Chúa tạo thành, từ thân xác hình hài đến trí khôn tinh thần khác biệt không giống nhau.
Không ai là người có thể biết cùng làm được tất cả, và cũng không ai không thể làm được gì. Không ai có tất cả, và cũng không ai không có gì.
Lòng biết ơn cảm tạ Thiên Chúa là việc đạo đức cần thiết trong đời sống đức tin tinh thần. Nhưng so sánh với đời sống người khác là điều không xứng hợp với ý Chúa. Trong so sánh ẩn chứa ý nghĩ hơn kém, bình phẩm đề cao. Điều này nằm ngoài khả năng của mỗi con người là tạo vật có giới hạn.
Chân thành nhận rõ lằn ranh giới hạn khả năng đời sống mình là điều cần thiết cùng đạo đức trong tương quan sống với Thiên Chúa, đấng tạo dựng phú ban cho sự sống, và cùng trong tương quan tình liên đới với những người cùng chung sống.
Thánh Phaolô đã viết về cung cách sống tinh thần chân thành cho học trò Timotheo với Thiên Chúa qua chính bản thân cuộc sống của mình:
„ Con thân mến, phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Ðấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy; nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện (2 Tm4,6-8).
Chân thành khiêm cung cùng đầy lòng tin tưởng phó thác vào bàn tay Thiên Chúa như thế khó có thể hơn được.
Và đó cũng là kim chỉ nam cho đời sống tinh thần đạo giáo của người tín hữu Chúa Kitô.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Kinh mân côi mầu nhiệm năm sự sáng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- 1. Suy niệm
Trong nhiều Thánh đường có xây Giếng Nước Rửa tội nổi trên mặt nền nhà và chung quanh miệng giếng có khắc vẽ hình chim bồ câu. Hay ở trên cây nến Rửa tội cho em bé cũng khắc vẽ hình chim bồ câu đang bay lượn bên dưới có làn nước chảy.
Chim bồ câu là hình ảnh chỉ về Đức Chúa Thánh Thần , và qua hình ảnh đó diễn tả trình bày con đường của Thiên Chúa với con người, như sách Phúc âm thuật lại: “Chúa Giêsu chịu phép rửa, rồi bước lên khỏi nước. Này đây các tầng trời mở ra, và Người thấy Thánh Thần Chúa ngự xuống như một bồ câu và đậu trên Người.” ( Mt 3,16; Ga 1,32).
Từ đó chim bồ câu được vẽ trình bày là hình ảnh ngày lễ Đức Chúa Thánh thần hiện xuống, cũng như hình lưỡi lửa bốc cháy tỏa sáng trên đầu Đức Mẹ Maria và các Thánh Tông đồ.
Sống trong xã hội có nhiều phức tạp đua chen cạnh tranh, và cả những điều trái ngược mạnh được yếu thua, nhưng hình ảnh chim bồ câu nói cho ta con đường của Thiên Chúa với con người. Đó là con đường hòa bình, con đường đời sống đơn sơ chân thành, con đường tình yêu và lòng khiêm nhượng.
Thứ nhất thì ngắm: Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con Thiên Chúa.
2. Suy niệm
„6 Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước.“
06 chum đá nói lên hình ảnh dấu chỉ về Thiên Chúa tạo dựng công trình thiên nhiên trong 6 ngày như trong sách Sáng Thế ký thuật lại. Điều này muốn nói lên Chúa Giêsu nơi đây và bây giờ qua phép lạ ngài làm mang lại sự sáng tạo mới.: niềm vui và ơn cứu chuộc cho con người.
„ Đức Giê-su bảo họ: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi! " Và họ đổ đầy tới miệng.“ .
Hình ảnh đổ nước vào 6 chum đầy tới miệng nói lên chiều kích rộng lớn của phép lạ Chúa Giêsu làm, và sự giầu có quảng đại lòng thương xót của Chúa Giêsu.
„ Nước dùng để tẩy rửa - theo tục lệ nghi thức người Do Thái- được biến hóa thành rượu, trở nên dấu chỉ và qùa tặng góp phần cho niềm vui mừng trong bữa tiệc cưới. Qua đó, sự hoàn thành của Lề Luật được hiển thị ra rõ nơi bản thân cùng việc làm của Chúa Giêsu.
Lề luật không bị chối bỏ hay đẩy sang một bên, nhưng được thi hành cho trọn vẹn như mong đợi. Nghi thức tẩy rửa trước sau vẫn là nghi thức, nó thể hiện một cử chỉ niềm hy vọng. Nước, như việc làm của con người trước mặt Chúa, vẫn là nước. Nghi thức tẩy rửa không bao giờ làm cho con người trở nên thần thánh.
Nước hóa thành rượu. Sự hy sinh cố gắng của con người được biến thành của lễ nhờ được Chúa chấp nhận, Đấng đã tự trao tặng mình và mang đến sự vui mừng cho lễ mừng. Điều này chỉ có Thiên Chúa hiện diện và qùa tặng của Ngài mới có thể thành hiện thực được.
Thứ hai thì ngắm: Đức Chúa Giêsu làm phép lạ tại tiệc cưới Cana. Ta hãy xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa.
3. Suy niệm
Việc đạo đức kính lòng Chúa thương xót từ hai thập niên qua ngày càng lan rộng phổ thông trên khắp toàn thể Hội Thánh hoàn cầu. Việc đạo đức bình dân này thể hiện nhu cầu tinh thần thiêng liêng đạo tấm lòng tin tưởng sâu xa của con người vào ân sủng của lòng Chúa thương xót, Đấng là nguồn đời sống và lòng thương xót cho con người.
Chúa Giêsu đoan hứa cho những ai sống có lòng thương xót:„ Phúc thay ai xót thương người, họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.“. Và cho cả những ai phải sống đau khổ trong nước mắt, những ai có lòng khoan dung thanh sạch, họ được Thiên Chúa ban cho an ủi lòng thương xót.
Lòng Chúa thương xót là sự tràn đầy từ nơi Chúa, sự tràn đầy của con người. Một đời sống có lòng thương xót chính là một đời sống của Thiên Chúa.
Lòng thương xót trong ngôn ngữ Kinh Thánh diễn tả nét rộng rãi hơn là một khía cạnh suy tưởng về Thiên Chúa. Lòng thương xót là bản tính của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu nói“ Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em là đấng giầu lòng thương xót.“ là lời phản ảnh về giới răn cũ: „ Hãy sống thánh thiện như Ta là Thiên Chúa các người là đấng thánh.“. Như thế Chúa Giêsu đã cho sự thánh thiện bộ mặt lòng thương xót.
Lòng thương xót là ánh sáng phản chiếu bộ mặt Thiên Chúa trong đời sống con người. Thánh Basilius đã có suy niệm:“ Khi tỏ hiện lòng thương xót với người khác bạn trở nên giống Thiên Chúa.“. Lòng thương xót là khía cạnh con người của Chúa., và cũng là tương lai thần thánh của con người.
Đức giáo hoàng Benedictô XVI. đã có suy niệm phân tích: „ Sự công bằng và lòng thương xót, sự công bằng và tình yêu chỉ với con người chúng ta là hai thực tế khác biệt nhau. Vì con người chúng ta phân biệt rất tỷ mỉ giữa một hành động công bằng và một hành động tình yêu. Công bằng với chúng ta là điều gì một người còn nợ người khác. Trong khi đó lòng thương xót là nói điều gì tốt đẹp được thực hiện. Điều này đối nghịch hay loại trừ điều kia. Nhưng với Thiên Chúa thì khác, không vậy“ nơi Ngài công bằng và tình yêu quy chung lại thành một. Không có hành động công bằng nào mà không có một hành động lòng thương xót và sự tha thứ. Và đồng thời không có hành động lòng thương xót nào mà không hoàn toàn công bằng.“
Tình yêu cha mẹ ban tặng dành cho con cái mình thể hiện qua lòng thương xót. Tình thương yêu của các ngài luôn hướng tới sự tha thứ, sự công bằng sao cho đời sống con mình được bằng an.
Tình yêu, lòng thương xót đó là ánh phản chiếu tình yêu, lòng thương xót thần thánh của Thiên Chúa từ trời cao xuống trên trần gian nơi công trình thiên nhiên của Người hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Lòng thương xót Chúa thể hiện qua Bí tích giải tội. Tình yêu lòng thươngn xót Chúa tha thứ mọi tội lỗ con người đã vập phạm đến Chúa av` tha nhân.
Thứ ba thì ngắm: Đức Chúa Giêsu rao giảng Nước Trời và kêu gọi sám hối. Ta hãy xin cho được tin vào lòng Chúa thương xót và siêng năng lãnh nhận bí tích giao hòa.
4. Suy niệm
Núi là công trình sáng tạo trong thiên nhiên. Núi có độ cao hơn mặt đất liền từ vài chục tới hàng ngàn thước, tùy theo từng ngọn núi. Núi thành hình do những khối tảng đá chồng chất lên nhau. Nơi núi có hang động sâu vào bên trong và có cây cối mọc trên đó nữa. Núi có ở khắp nơi trên trái đất, và cả dưới lòng đại dương nữa.
Về phương diện hình thể địa lý thì như thế. Nhưng về khía cạnh tâm linh, núi cao ẩn chứa một ý nghĩa khác nữa .
Núi là hình ảnh của sự lên cao không chỉ mặt hình thức bên ngoài, nhưng cả về mặt tinh thần tâm linh nữa.
Nơi cao trên núi con người cảm thấy được thanh thoát nhẹ nhàng, tâm hồn cảm thấy như gần gũi thiên nhiên cùng Đấng Tạo Hóa hơn.
Trên núi cao Chúa Giêsu biến hình như phúc âm thuật lại: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và Tiên tri Maisen và Êlia hiện ra nói chuyện với Người.
Quang này làm liên tưởng nhớ tới cảnh Tiên Tri Maisen ngày xưa cũng ở trên núi Chúa mạc khải: Trong khi Ông Maisen từ trên núi đi xuống, mặt ông chiếu sáng, vì Ông đã đàm đạo nói chuyện với Thiên Chúa.
Được diện kiến nói chuyện với Thiên Chúa, ánh sáng của Thiên Chúa chiếu tỏa trên Ông Maisen. Ông nhận được ánh sáng từ nơi Thiên Chúa, và do đó ánh sáng sáng chiếu tỏa ra nơi gương mặt của Ông.
Nơi Chúa Giêsu trái lại, áng sáng chiếu tỏa ra từ nơi Ngài. Ngài không tiếp nhận ánh sáng, nhưng Ngài là ánh sáng.
Còn áo của Chúa Giesu trở nên trắng như tuyết nói về tương lai của chúng ta. Trong sách Khải huyền của Thánh Gioan áo mầu trắng là mầu của bản chất trên trời, và cũng là mầu của các Thiên Thần . Thánh Gioan nơi sách Khải huyền còn diễn tả áo mầu trắng của các người được cứu chuộc. Đó cũng là mầu áo của những người được tuyển chọn. Vì họ được tắm gội trong máu cin chiên Kh 7,14. Qua phép rửa tội họ được liên kết với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kito, và cuuộc khổ nạn của Người thanh tẩy họ trở nên trắng trong tinh tuyền. Qua bí tích rửa tội chúng ta được mặc khoác ánh sáng với Chúa Giêsu Kito und trở nên sáng trong tinh tuyền.
Trong nghi lễ Rửa tội, linh mục nói với em bé vừa nhận lãnh làn nươuc rửa tội: Chiếc áo trắng con đang trong mình là tước hiệu nhân vị Kito đời ncon. Con hãy mang nó tinh tuyền luôn mãi trong đời sống cho đến cõi trường sinh.
Thứ bốn thì ngắm: Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi. Ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần.
5. Suy niệm
Người Công giáo, tùy theo phong tục Giáo Hội địa phương, vào lứa tuổi từ 6 đến 9 tuổi được học Giáo lý xưng tội rước lễ lần đầu. Và rồi trong suốt dọc đời sống mỗi khi đi dâng tham dự Thánh Lễ , đều tiếp nhận Tấm Bánh Thánh Thể Chúa Giêsu.
Thánh Thể Chúa Giêsu là một trong bảy Bí Tích của Hội Thánh Công Giáo do chính Chúa Giêsu thiết lập. Và Ngài truyền trối lại cho các Tông đồ và Hội Thánh tiếp tục cử hành Bí Tích tình yêu này.
Từ ngày đó, Hội Thánh cử hành Bí Tích này mỗi khi dâng Thánh lễ Misa.
Thánh lễ Misa còn được gọi là lễ tế tạ ơn - Tiếng Hylạp là Eucharistia, tiếng latinh là Eucharistica.
Thánh lễ Misa hay Lễ tế tạ ơn bắt nguồn từ bữa Tiệc ly ngày thứ Năm tuần thánh của Chúa Giêsu với 12 Môn đệ trước khi Ngài bị bắt chịu khổ nạn và đóng đinh trên thập gía. Trong bữa tiệc ly này Chúa Giêsu dùng tấm bánh mì không men, chén rượu nho, đọc lời tạ ơn Thiên Chúa, làm phép biến đổi thành Mình và Máu của Người, rồi trao cho các Môn Đệ làm của ăn thức uống cho đời sống tâm hồn đức tin vào Chúa.
Sau đó Chúa Giêsu trao quyền chức Linh mục cho các Môn Đệ và Giáo Hội làm nghi lễ tạ ơn như Ngài đã làm. Từ căn bản đó, Giáo Hội Chúa Giêsu từ hai ngàn năm nay luôn luôn gìn giữ nếp sống đạo đức trung tâm đức tin này. Và nhờ như thế đời sống đức tin vào Chúa được củng cố bền vững cùng sống động.
Trong mỗi Thánh lễ Misa, Lời Chúa viết để lại trong Kinh Thánh là nền tảng cho đức tin được đọc suy niệm cắt nghĩa, lời cầu xin khấn nguyện của dân Chúa cho chính mình, cho gia đình, cho Giáo Hội, cho thế giới được mang dâng lên bàn thờ Chúa hòa lẫn vào hy lễ Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên Thánh Gía mang ơn cứu chuộc cho con người.
Trong phần truyền phép, Lời truyền biến đổi Bánh và Rượu, của lễ dâng lên Thiên Chúa, được Gíao hội ủy thác cho Linh mục đọc to tiếng như trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu đã nói:
“Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn: Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con.
Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống: vì này chén máu Thầy, máu giao ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.”
Giây phút lúc này là trung tâm của thánh lễ Misa. Như máu ở trái tim, trung tâm điểm con người, bơm luân chuyển đi khắp thân thể mang đến sức sống cho toàn thân xác. Cũng vậy, Mình Máu Thánh Chúa Giêsu là của ăn nuôi dưỡng tâm hồn đức tin cho có sức sống. Sức sống đó là sức sống thần linh Thiên Chúa.
Tấm bánh Thánh Thể tình yêu Chúa tuy nhỏ, không làm cho bao tử no đầy. Nhưng ân đức của Chúa qua Tấm Bánh Thánh Thể mang đến cho tâm hồn sự sống thần linh liên kết với Chúa và với toàn thể mọi người trong Gíao Hội có cùng một Đức tin vào Thiên Chúa tình yêu.
Trong giây phút long trọng trang nghiêm ngay sau khi Bánh và Rượu đã được truyền phép biến đổi thành Mình và Máu Chúa Giêsu, những ý lời cảm tạ, cầu khẩn cho Giáo Hội, cho người còn đang trên đường lữ hành trần gian, cho người đã qua đời, cho người còn sống, cùng hợp với lời cầu khẩn của Đức Mẹ Maria và các Thánh, được đọc dâng lên Thiên Chúa.
Thứ năm thì ngắm: Đức Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể. Ta hãy xin cho được sốt sắng tham dự Thánh Lễ và rước Mình Máu Thánh Ngài.
Tháng kinh mân côi.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long