Sống Lời Chúa Hôm Nay
30/6 Niềm tin là món quà quí giá nhất của cuộc đời
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 13 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Gen 19:15-19; Mt 8:23-27.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Niềm tin là món quà quí giá nhất của cuộc đời.
Con người lo âu sợ hãi khi phải đương đầu với những thiên tai và đau khổ của cuộc sống. Biết được yếu điểm này, ma quỉ và thế gian dùng nó để đe dọa con người không dám sống theo sự thật. Con người cần tập luyện để có một niềm tin vững mạnh nơi Thiên Chúa; chỉ như thế họ mới có thể đương đầu với cám dỗ và những phong ba của cuộc đời, để sống cho sự thật.
Các Bài Đọc hôm nay liệt kê những hoàn cảnh sợ hãi và lo âu của con người. Trong Bài Đọc I, ông Lot và gia đình lo âu và sợ hãi khi nhìn thấy hai thành Sodom và Gomorrah bị thiêu hủy bởi lửa diêm sinh; mặc dù đã được Đức Chúa cứu thoát và chỉ đường cho chạy trốn. Trong Phúc Âm, các môn đệ lo âu và sợ hãi khi phải đương đầu với sóng gió của Biển Hồ. Chúa Giêsu thức dậy và dẹp tan sóng gió. Ngài mắng các ông là những kẻ hèn tin.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Án phạt của Thiên Chúa trên hai thành Sodom và Gomorrah
1.1/ Đức Chúa cứu gia đình ông Lot khỏi bị tàn sát:
(1) Lý do Sodom bị tàn sát: Hai sứ thần của Đức Chúa nhận lời mời và vào nhà ông Lot để tá túc qua đêm. Tối hôm ấy, nhiều nam nhân trẻ cũng như già trong vùng đến đập cửa nhà ông Lot, để đòi ông mang hai người khách ra cho họ phạm tội "sodomy, có nghĩa nam nhân ăn ở với nam nhân trước mặt mọi người." Ông Lot năn nỉ chuộc bằng hai cô con gái; nhưng họ nhất định không chịu. Hai sứ thần của Thiên Chúa nghe những lời phạm thượng của họ từ trong nhà, nên đã quyết định số phận của thành Sodom.
(2) Sứ thần cứu gia đình ông Lot: Khi hừng đông ló rạng, các sứ thần giục ông Lót rằng: "Đứng lên! Đưa vợ và hai con gái ông đang ở đây đi đi, kẻo ông phải chết lây khi thành bị phạt."
Ông còn đang chần chừ thì hai người khách nắm lấy tay ông, tay vợ ông và tay hai người con gái ông, vì Đức Chúa muốn cứu ông; các ngài đưa ông ra và để bên ngoài thành.''
Một điều kỳ lạ làm chúng ta phải suy nghĩ: Sống trong một nơi nguy hiểm và tội lỗi như vậy, mà ông Lot vẫn quyến luyến. Ông đã không có can đảm từ chối những cám dỗ vật chất để đưa gia đình ra khỏi nơi đó, để tìm một môi trường lành mạnh và thánh thiện hơn. Điều này hoàn toàn là do ý riêng của ông ngay từ đầu, khi Abraham để cho ông tự do lựa chọn. Nếu hai sứ thần không quyết liệt cầm tay lôi gia đình ông đi, mà để tùy ông lựa chọn, ông đã chung số phận với dân thành tội lỗi đó.
(3) Lệnh truyền của sứ thần: Khi đưa ông ra ngoài rồi, một vị nói: "Ông hãy trốn đi để cứu mạng sống mình! Đừng ngoái lại đằng sau, đừng dừng lại chỗ nào cả trong cả vùng. Hãy trốn lên núi kẻo bị chết lây."
1.2/ Ông Lot thương lượng với sứ thần: Không biết vì tiếc nuối tài sản đã gầy dựng được, hay sợ cuộc sống trên núi, ông Lót nói với hai người khách: "Thưa ngài, xin miễn cho! Này, tôi tớ ngài đây đã được đẹp lòng ngài, và ngài đã tỏ lòng thương lớn lao của ngài đối với tôi khi để cho tôi sống. Nhưng tôi không trốn lên núi được đâu, tai ương sẽ đuổi kịp, và tôi chết mất!"
Trước hết, ông Lot không có niềm tin nơi Thiên Chúa như Abraham, cậu ông. Chết đến nơi rồi mà ông vẫn thương lượng với sứ thần. Ông không tin Thiên Chúa có thể lo cho cuộc sống tương lai của gia đình ông trên núi, nên ông thương lượng với sứ thần để xin vào tị nạn trong thành nhỏ Zoar gần đó.
Bà vợ của ông Lot, không biết vì quá tiếc của hay vì tò mò, Bà bất tuân lệnh sứ thần và ngoái lại nhìn, lập tức Bà hóa thành tượng muối. Biến cố này phải giúp chúng ta đặt trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa, và cẩn thận giữ các điều Ngài truyền. Con người chúng ta không biết trước tương lai, cũng không sáng suốt đủ để biết những gì có lợi cho mình; vì thế, chúng ta cần phải tuyệt đối vâng lời và làm theo thánh ý của Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: "Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!"
2.1/ Hai phản ứng khi phải đương đầu với sóng gió:
(1) Phản ứng của Chúa Giêsu: Tin Mừng tường thuật: "Biển động mạnh đến độ sóng nước ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ!" Tại sao Chúa Giêsu có thể ngủ được khi sóng biển động mạnh như thế? Thưa có hai lý do: Thứ nhất, Ngài không sợ hãi chi cả. Chỉ một người không biết sợ là gì mới có tâm hồn bình an như vậy; như chúng ta thường khôi hài chọc nhau: "Điếc không sợ súng!" Nếu một người không nghe thấy tiếng súng, người ấy sẽ không sợ súng đạn. Thứ hai, mọi quyền lực thế gian phải sợ Ngài. Khi các môn đệ hoảng hốt đánh thức Chúa dậy, "Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ."
(2) Phản ứng của các môn đệ: Có ngư phủ nào mà không sợ sóng gió, vì họ biết sóng gió chẳng những đe dọa, mà có thể lấy đi mạng sống của họ bất cứ lúc nào. Truyền thống ngư phủ có thói quen cầu trời khấn Phật bắt đầu mùa tôm cá và trước khi ra khơi, để xin Trời Phật phù hộ cho qua khỏi những cơn sóng gió lúc nào cũng đe dọa. Nếu đã cầu xin, họ phải tin tưởng sự phù hộ của Trời Phật; nhưng phản ứng sợ hãi khi sóng gió xảy đến chứng tỏ họ không tin, hay đức tin của họ còn yếu kém như Chúa mắng các môn đệ hôm nay. Các môn đệ đã từng nhìn thấy Chúa Giêsu làm các phép lạ mà sức con người không thể làm nổi; vả lại, các ông đang có Chúa Giêsu quyền năng trong thuyền, thế mà các ông vẫn lo sợ sóng gió!
2.2/ Niềm tin cần thiết để con người chống chọi với sóng gió của cuộc đời: Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!" Đức tin có thể ví như kinh nghiệm mà một người sở hữu trong đời. Cả hai đều cần phải được thử thách. Người đã có kinh nghiệm hay từng trải không dễ sợ hãi như người mới ra trường, chưa có kinh nghiệm. Cũng vậy, người đã có đức tin vững mạnh, sẽ không sợ hãi trước những đe dọa và bắt bớ của các quyền lực thế gian, ngay cả việc chấp nhận cái chết để làm chứng cho Đức Kitô.
Khi con người không sợ hãi ngay cả cái chết, họ bắt đầu sống và sống tròn đầy. Khi con người không sợ hãi các quyền lực thế gian, thế gian phải sợ hãi họ. Chúng ta có thể thấy điều này nơi các môn đệ của Đức Kitô: Trước khi Ngài về trời, các môn đệ là những người nhát sợ khi phải đương đầu với quyền lực thế gian, nên các ông chạy trốn Chúa và Phêrô đã chối Ngài 3 lần; nhưng khi đã thấy Chúa sống lại từ cõi chết, các ông không còn sợ hãi chi cả. Tại sao vậy? Vì các ông biết rằng quyền lực thế gian có thể lấy đi sự sống thể lý, nhưng Đức Kitô sẽ cho các ông sống lại; và không một quyền lực thế gian nào có thể động tới linh hồn của các ông. Vì thế, sau khi được Thánh Thần tác động, các ông mở tung cửa để vào đời làm chứng cho Đức Kitô. Những người trong Thượng Hội Đồng phải ngạc nhiên, vì thấy các ông không còn sợ hãi họ nữa. Các ông tranh luận với họ cách công khai và họ không thể đối đầu với các ông. Thay vì thẳng tay đàn áp như trước, giờ đây họ sợ phải đàn áp các ông. Lý do không phải họ không còn quyền, nhưng vì họ sợ dân chúng ném đá họ khi dân chúng đã nhận ra sự giả hình của họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta sống trên đời này là để lo làm sao đạt được đích điểm của cuộc đời; chứ không phải để kiếm tiền hay hưởng thụ. Vì thế, chúng ta phải có can đảm quyết định và tránh xa những nơi ngăn cản không cho cá nhân hay gia đình đạt tới đích.
- Chúng ta cần đào tạo để có một niềm tin vững mạnh nơi sự quan phòng của Thiên Chúa, thì mới có thể đương đầu với những phong ba bão táp của cuộc đời. Nếu không, chúng ta sẽ dễ dàng rơi vào cám dỗ của ba thù và bị tiêu diệt với chúng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
29/6 Trung thành làm chứng nhân cho Thiên Chúa tới cùng
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Thánh Phêrô và Phaolô
Bài đọc: Acts 12:1-11; 2 Tim 4:6-8, 17-18; Mt 16:13-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành làm chứng nhân cho Thiên Chúa tới cùng.
Hội Thánh được xây dựng vững chắc trên hai cột trụ; vì nếu chỉ xây trên một cột trụ, sẽ không đứng vững, giống như người chỉ có một chân. Phêrô rao giảng cho dân Do-thái, Phaolô rao giảng cho Dân Ngoại. Phêrô lo tổ chức và bảo vệ Hội Thánh, Phaolô lo phát triển và bành trướng Hội Thánh.
Các Bài Đọc hôm nay nói lên sự lựa chọn, bảo vệ, và ban ơn của Thiên Chúa dành cho hai ông. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật việc thiên sứ giải thoát Phêrô khỏi ngục tù. Trong Bài Đọc II, Phaolô xác quyết nhờ sức mạnh của Thiên Chúa, ông đã chiến đấu một trận chiến cao đẹp, đã chạy đến cùng đường, và đã trung thành giữ vững đức tin. Trong Phúc Âm, sau khi Phêrô được Thiên Chúa soi sáng để nhận ra và tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô, Ngài đã chính thức thiết lập Giáo Hội trên Đá Tảng Phêrô; và Ngài hứa sẽ bảo vệ Giáo Hội khỏi mọi quyền lực của thế gian và ma quỉ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ông Phêrô được thiên sứ giải thoát khỏi ngục tù.
1.1/ Giáo Hội bị bách hại: Chúa Giêsu đã báo trước cho các tông-đồ: "Tôi tớ không trọng hơn chủ và môn đệ không hơn Thầy. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em." Sau khi Chúa Giêsu về trời, Giáo Hội tại Jerusalem bị bắt bớ dữ dội, bắt đầu bằng cuộc tử đạo tiên khởi của phó tế Stephanô. Trình thuật hôm nay liệt kê cuộc bắt bớ của vua Herode: "Thời kỳ ấy, vua Herode ra tay ngược đãi một số người trong Giáo Hội. Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê là anh ông Gioan. Thấy việc đó làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phêrô nữa. Bấy giờ đang là tuần lễ Bánh Không Men. Bắt được rồi, nhà vua truyền tống ngục và giao cho bốn tốp lính canh gác, mỗi tốp gồm bốn người, định sau lễ Vượt Qua sẽ điệu ông ra cho dân chúng."
Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: "Họ sẽ giết chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác." Phêrô, Giacôbê, và Gioan được coi như những môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu; giờ đây Giacôbê đã bị giết, Phêrô bị cầm tù. Vì thế, Giáo Hội không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông.
1.2/ Thiên sứ giải thoát Phêrô: Đức Kitô biết đau khổ do bắt bớ và tù đày cần thiết để tôi luyện niềm tin của các tông-đồ và để bành trướng đức tin; nên Ngài để cuộc bách hại xảy ra. Nhưng Ngài cũng biết Giáo Hội của Ngài cần sự lãnh đạo của Phêrô, nên Ngài sai một thiên sứ tới để giải thoát ông khỏi ngục tù, như Ngài sẽ làm tương tự với Phaolô sau này.
- Xiềng xích và lính canh trở nên vô hiệu trước quyền lực của Thiên Chúa: Trình thuật kể: "Trong đêm trước ngày bị vua Herode đem ra xử, ông Phêrô ngủ giữa hai người lính, và bị khoá vào hai cái xiềng. Trước cửa ngục lại có lính canh. Bỗng thiên sứ của Chúa đứng bên cạnh ông, và ánh sáng chói rực cả phòng giam. Thiên sứ đập vào cạnh sườn ông Phêrô, đánh thức ông và bảo: "Đứng dậy mau đi!" Xiềng xích liền tuột khỏi tay ông."
- Phêrô làm theo lệnh thiên sứ một cách vô thức: "Thiên sứ nói tiếp: "Thắt lưng lại và xỏ dép vào!" Ông làm như vậy. Rồi thiên sứ lại bảo ông: "Khoác áo choàng vào và đi theo tôi!" Ông liền theo ra, mà không biết việc thiên sứ làm đó có thật hay không, cứ tưởng là mình thấy một thị kiến. Qua vọng canh thứ nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ và ông tới trước cửa sắt thông ra phố. Cửa tự động mở ra trước mặt hai người. Ra đến ngoài, đi hết một đường phố, thì bỗng nhiên thiên sứ bỏ ông mà đi." Tất cả những việc này xảy ra khi lính vẫn canh và cửa tù vẫn khóa.
- Phêrô ý thức mình đã được cứu thoát: "Lúc ấy ông Phêrô mới hoàn hồn và nói: "Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Herode, và khỏi mọi điều dân Do-thái mong muốn tôi phải chịu."" Khi Thiên Chúa muốn, Ngài vô hiệu hóa mọi quyền lực thế gian.
2/ Bài đọc II: Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính.
2.1/ Chiến đấu cho chính nghĩa: Giống như Chúa Giêsu khi sắp rời bỏ thế gian để về cùng Thiên Chúa, Ngài dành thời gian để kiểm điểm những gì Ngài đã làm, những gì sắp xảy đến, và vinh quang Ngài sẽ được hưởng trong tương lai; Phaolô cũng thế.
(1) Nhìn lại quá khứ: "Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin."
+ Cuộc thi đấu cao đẹp: Thế gian là một bãi chiến trường để Thiên Chúa thử luyện đức tin của con người. Nhìn lại quá khứ, Phaolô biết mình đã cố gắng hết sức vượt qua các gian khổ để chu toàn sứ vụ Đức Kitô đã trao phó cho ngài.
+ Đã chạy hết chặng đường: Cuộc đời con người có thể ví như một cuộc chạy Marathon, có nguồn gốc từ quốc gia Hy-lạp. Đây là một cuộc chạy đường dài rất gian khổ, đòi người chạy phải có sức khỏe dẻo dai để chịu đựng. Nhiều người ghi danh, không nhằm chạy nhanh để đạt đích trước, nhưng chỉ cần thử xem mình có thể dẻo dai để về tới đích hay không. Nhiều người không chịu nổi phải bỏ cuộc dọc đường.
+ Đã giữ vững niềm tin: Đây là điều tối quan trọng để lãnh phần thưởng từ Đức Kitô. Nếu ai chạy đến đích mà đánh mất niềm tin ở dọc đường, người ấy sẽ không được lãnh nhận phần thưởng từ Đức Kitô.
(2) Kiểm điểm hiện tại: "Tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi." Thánh Phaolô được Đức Kitô hiện ra cho biết trước: ông sẽ bị bắt ở Jerusalem để làm chứng cho Ngài; không những thế, ông sẽ còn làm chứng cho Đức Kitô tại Rôma nữa. Nhiều tín hữu khóc thương ngăn cản; nhưng ông vẫn quyết chí lên Jerusalem để chịu bắt bớ như Đức Kitô đã từng trải qua.
(3) Hy vọng tương lai: Con người chiến đấu là cho một mục đích. Giống như lực sĩ thắng giải được khoác vòng hoa chiến thắng, Phaolô biết rõ mình cũng sẽ được Đức Kitô đeo vòng hoa chiến thắng cho như vậy. Ngài nói: "Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy."Phaolô dùng kinh nghiệm cá nhân để động viên tinh thần các môn đệ: "Và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện." Nếu Timothy, Titô, hay bất cứ một tín hữu nào trung thành giao chiến tới cùng, họ cũng sẽ lãnh nhận phần thưởng của các chứng nhân từ Đức Kitô.
2.2/ Phaolô chiến thắng là nhờ sức mạnh của Thiên Chúa: Ông biết rõ con người yếu đuối của mình, nhất là qua biến cố ngã ngựa và bị mù trên đường đi Damascus; nhưng ông cũng biết sức mạnh của Thiên Chúa hoạt động để nâng đỡ các yếu đuối của ông. Ông xác tín niềm tin này nhiều lần, và trong trình thuật hôm nay: "Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. "
3/ Phúc Âm: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?"
3.1/ Người môn đệ phải biết Thầy của mình là ai:
(1) Kiến thức về Đức Kitô: Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Caesarea Philippi, Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai?" Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Elijah, có người lại cho là ông Jeremiah hay một trong các vị ngôn sứ." Vua Herode đã từng nghĩ Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại từ cõi chết. Elijah là một tiên tri làm nhiều phép lạ như Chúa Giêsu; truyền thống tin ông sẽ trở lại trước thời Đấng Thiên Sai, vì ông chưa chết. Jeremiah là tiên tri rất khí khái dám nói và làm chứng cho sự thật, mà không lui bước trước bất cứ quyền lực nào của vua chúa. Tất cả các nhận định này chỉ nói lên một khía cạnh của Đức Kitô, nhưng chưa nói lên được căn tính của Ngài.
(2) Mối liên hệ của người môn đệ với Đức Kitô: Chúa Giêsu không chỉ bằng lòng với những gì các môn đệ biết về Ngài qua người khác; nhưng Ngài muốn các ông nghĩ sao về Ngài, nên Ngài hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Simon Phêrô, đại diện cho các tông đồ, tuyên xưng: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." Đây là câu trả lời mà Chúa Giêsu muốn nghe: Ngài chính là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã nói tới; đồng thời, Ngài cũng là Người Con Một của Thiên Chúa hằng sống. Chỉ khi nghe được lời tuyên xưng này từ miệng các môn đệ, Chúa Giêsu mới hoàn thành sứ mệnh mặc khải của Ngài.
3.2/ Hội Thánh được xây dựng trên Tảng Đá là Phêrô: Đức Giêsu nói với ông Phêrô: "Này anh Simon, con ông Jonas, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời." Thánh Phaolô cắt nghĩa rõ ràng điều này hơn: Không ai tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa, mà không do Thánh Thần soi sáng. Thánh Thần được gởi tới cho các tông-đồ là do sự can thiệp của Chúa Giêsu với Chúa Cha.
Nhận ra niềm tin xác thực của Phêrô, Chúa Giêsu thành lập Giáo Hội khi Ngài nói với Phêrô: "Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi." Trong Kinh Thánh, khi Thiên Chúa đổi tên cho ai, Ngài tin tưởng và trao sứ vụ cho người ấy. Ví dụ, Abraham từ Abram, Phaolô từ Saul, và Phêrô từ Simon ... Chúa Giêsu muốn trao quyền điều khiển Giáo Hội vào tay Phêrô và các người kế vị ông. Tảng Đá đây không phải là con người yếu đuối của Phêrô với ba lần chối Thầy; nhưng là đức tin của ông vào Đức Kitô sau nhiều lần sa ngã và chịu gian khổ.
Đức tin của Giáo Hội được đặt trên niềm tin nền tảng của các tông-đồ. Đức tin này được ví như "đá," có nghĩa vững chắc và không thay đổi với thời gian. Nhiều người chỉ trích Giáo Hội cổ hủ, cứng nhắc, không chịu theo thời ... nhưng cũng chính vì điều này mà Giáo Hội được thiết lập. Nếu Giáo Hội cũng thay đổi để được con người chấp nhận, hòa giải nhượng bộ trước áp lực của ma quỉ và thế gian, Giáo Hội sẽ không tồn tại đến ngày hôm nay.
Chúa Giêsu trao chìa khóa Nước Trời để nói lên quyền cầm buộc và tháo cởi: "Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy." Công dụng của chìa khóa là để mở ra và đóng lại, cho phép vào và từ chối không cho vào. Giáo Hội dùng quyền này để tha thứ hay cầm buộc hối nhân nơi tòa cáo giải.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức Kitô cần cả Phêrô lẫn Phaolô. Ngài muốn hai ông hợp tác để củng cố, bảo vệ, và phát triển Giáo Hội. Chúng ta cũng phải biết cộng tác với nhau trong việc mở mang Nước Chúa.
- Để có thể làm việc cho Đức Kitô và bảo vệ Giáo Hội, chúng ta không chỉ cần biết về Đức Kitô, nhưng phải sống mối liên hệ với Ngài.
- Giáo Hội không phải chỉ là Đức Thánh Cha và hàng Giáo Phẩm; nhưng là tất cả các tín hữu ở khắp nơi. Tất cả đều có bổn phận trong việc mở mang Nước Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
28/6 Thiên Chúa có toàn quyền trên đau khổ và sự chết
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 13 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Wis 1:13-15, 2:23-24; II Cor 8:7, 9, 13-15; Mk 5:21-43.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa có toàn quyền trên đau khổ và sự chết.
Theo Sách Sáng Thế, Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành, và Ngài mong muốn cho mọi loài tồn tại; nhưng con người luôn phải đương đầu với đủ loại đau khổ và cái chết. Câu hỏi được đặt ra: Đâu là nguyên nhân của đau khổ và cái chết? Sách Sáng Thế tường thuật biến cố cám dỗ và sự sa ngã của con người trong vườn Địa Đàng. Vì con người lạm dụng quyền tự do để bất tuân lệnh Thiên Chúa và nghe lời quỷ dữ, nên tội lỗi và sự chết đã đột nhập vào thế gian và tác hại trên con người.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh ý hướng và quyền năng của Thiên Chúa trong việc tạo dựng và quan phòng vũ trụ. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan xác quyết: Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành và tiền định cho muôn loài được trường tồn; nhưng quỉ dữ cám dỗ con người và là nguyên nhân của đau khổ và sự chết. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu Corintô giúp đỡ Giáo Hội tại Jerusalem để duy trì sự sống trong trận đói đang xảy ra tại đây. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài có toàn quyền trên đau khổ và sự chết qua việc chữa lành người phụ nữ bị loạn huyết và cho con gái ông Jairus sống lại.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sáng tạo con người và cho họ được trường tồn bất diệt.
1.1/ Thiên Chúa muốn con người được sống trường sinh bất tử: Tác giả Sách Khôn Ngoan, dựa theo trình thuật tạo dựng thế giới và con người trong Sách Sáng Thế, quả quyết: Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành, không một loài nào là xấu hay mang những nọc độc trong người. Vì Thiên Chúa tạo dựng, nên mọi loài hiện hữu; nếu Thiên Chúa không tạo dựng, không loài nào có cả. Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài, và muốn cho con người được sống trường sinh bất tử. Ngài không sáng tạo cái chết, cũng chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong.
1.2/ Lý do tại sao con người phải chết: Tác giả Sách Khôn Ngoan ý thức rõ sự hiện hữu của cái chết và cố gắng đi tìm nguyên nhân của nó, vì Thiên Chúa không tạo dựng nên cái chết. Ông tìm ra nguyên nhân là: "Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết."
Sách Sáng Thế tường thuật rõ ràng cám dỗ của quỉ dữ và sự sa ngã của con người trong vườn Địa Đàng. Vì lý do này mà tội lỗi đã xâm nhập con người và làm cho họ phải chết. Sách Sáng Thế cũng tường thuật sự lan tràn của tội lỗi nơi con người: Cain giết Abel, em ông; Lụt Hồng Thủy là hậu quả của tội lỗi con người đã xúc phạm đến Thiên Chúa quá nhiều; việc xây tháp Babel không thành vì Thiên Chúa làm cho con người không hiểu nhau...
Không những nọc độc của tội lan tràn và cư ngụ trong con người, mà tất cả các tạo vật của Thiên Chúa đều bị ảnh hưởng bởi tội của con người. Trước khi phạm tội, con người sống chung với muôn thú. Sau khi phạm tội, chúng rời xa con người. Nọc độc của rắn lửa hay bò cạp, phản ứng hung hăng của muông thú, các thiên tai, động đất, bão lụt ... đều là những hậu quả từ sự phạm tội của con người.
2/ Bài đọc II: Người tín hữu phải có tinh thần tương thân, tương ái.
Bối cảnh lịch sử của Bài Đọc II là Phaolô muốn tổ chức cuộc lạc quyên để giúp các tín hữu tại Jerusalem, đang chịu một nạn đói dữ dội. Thánh Phaolô muốn các tín hữu Corintô hiểu lý do tại sao họ phải đóng góp; ông muốn họ rộng lượng giúp đỡ các anh/chị/em đang lâm cảnh túng thiếu.
2.1/ Chúng ta phải giúp đỡ mọi người trong cảnh túng thiếu: Ngài cho họ ít là hai lý do để đóng góp:
(1) Đã nhận lãnh nhưng không, cũng phải cho đi nhưng không: Ngài nói: "Cũng như anh em từng trổi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái mà anh em đã học được nơi chúng tôi, thì anh em cũng phải trổi vượt về lòng quảng đại trong dịp lạc quyên này nữa." Thánh Phaolô muốn các tín hữu biết ngài đã hy sinh rất nhiều thời gian, tài năng, và sức khỏe để giúp các tín hữu Corintô có đức tin và hiểu biết về Thiên Chúa. Để trả ơn, họ phải hăng hái đóng góp cho các tín hữu tại Jerusalem.
(2) Gương của Đức Kitô: Ngài nói: "Quả thật, anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có." Ví dụ: Chúa chọn mang kiếp phàm nhân để chịu đau khổ, hầu mang lại ơn cứu độ cho con người. Chỉ cần một ơn cứu tử này thôi, con người có hy sinh tất cả những gì mình có cũng chưa báo đền được. Đó là chưa kể biết bao ơn lành Đức Kitô mang lại cho con người qua cái chết của Ngài.
2.2/ Tha nhân sẽ giúp lại khi chúng ta lâm cảnh khốn khó: Con người ích kỷ thường kiếm đủ mọi lý do để biện minh cho việc từ chối đóng góp: phải mua cái này, đang cần cái kia, phải để dành cho con cái ăn học, cần tiết kiệm để lo cho tuổi già hay khi bệnh tật ... Thánh Phaolô biết rõ những điều này, nên ngài cắt nghĩa: "Vấn đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho người khác bớt nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự đồng đều. Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều, hợp với lời đã chép: Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu."
Lịch sử xoay vần, không ai sung sướng mãi, cũng như không ai khổ cực mãi. Kinh ngiệm của biến cố 30 tháng tư năm 1975 là một trường hợp điển hình: Cả thế giới xúc động về những đau khổ của người tỵ nạn Việt-nam phải đổ xô ra biển cả để tìm đường sinh sống, nên đã giúp đỡ đồng bào ta có nơi ăn, chốn ở, và định cư nơi quốc gia đệ tam. Giờ đây, hầu hết chúng ta đã ổn định cuộc sống, chúng ta phải góp phần phát triển các quốc gia đã giúp đỡ chúng ta: những người bản xứ nghèo, những người di dân mới tới, những đồng bào bị thiên tai bão lụt trong nước. Làm ngơ trước những nhu cầu này là vô ơn với Thiên Chúa và những người ân nhân của chúng ta. Hơn nữa, cuộc đời chúng ta chưa hết, mọi sự khó đếu có thể xảy ra, ai sẽ giúp đỡ khi chúng ta lâm nạn?
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu có toàn quyền trên sự chết và sự đau khổ.
3.1/ Chúa làm cho con gái ông Trưởng Hội Đường Jairus được sống lại: Trình thuật Chúa chữa con gái của ông được xen kẽ bởi trình thuật Chúa chữa người đàn bà bị loạn huyết. Chúng ta sẽ phân tích 3 phản ứng trong trình thuật này:
(1) Phản ứng của ông Jairus Trưởng Hội Đường: Niềm tin của ông được biểu lộ qua hành động ông sụp xuống dưới chân Ngài và khẩn khỏan nài xin: "Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống." Là một Trưởng Hội Đường, ông Jairus phải là người có danh giá và địa vị; thế mà ông lại sụp lạy công khai một nhà rao giảng mà các kinh sư và luật sĩ khinh thường. Thấy niềm tin và lòng thương xót của ông dành cho con, Chúa Giêsu chấp nhận về nhà ông để chữa lành em bé.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Ngài muốn ông Jairus phải tiếp tục tin tưởng, ngay trong khi vừa nghe hung tin về cái chết của con gái mình: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi." Để dạy các môn đệ luôn tin tưởng và can đảm đối diện với cái chết, Ngài không cho ai đi theo mình, trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là ông Gioan.Người bắt tất cả những kẻ không có lòng tin ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm. Người cầm lấy tay nó và nói: "Talitha qum," nghĩa là: "Này bé, hãy trỗi dậy đi!" Lập tức em bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Mọi người hiện diện sững sờ, kinh ngạc. Đức Giêsu ngiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.
(3) Phản ứng của những người chung quanh: Họ không tin Chúa Giêsu có uy quyền làm cho người chết sống lại. Vì thế, có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: "Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?" Khi thấy Chúa Giêsu và các môn đệ tiến vào nhà và Ngài bảo họ: "Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!" Họ chế nhạo Người.
3.2/ Chúa chữa lành một bà bị băng huyết 12 năm: "Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác."
(1) Phản ứng của bà bị băng huyết: Bà đã nghe đồn về Chúa Giêsu, và đây là cơ hội ngàn năm một thuở để Bà xin Chúa cứu. Tại sao Bà không can đảm đến xin Ngài chữa lành mà lại sờ vào tua áo của Ngài? Có ít nhất hai lý do ngăn cản Bà: Thứ nhất, đây là thứ bệnh đàn bà, có lẽ Bà cảm thấy xấu hổ khi phải thú nhận bệnh của Bà trước đám đông chăng? Hơn nữa, Bà cũng muốn tránh cho Chúa khỏi phải trở nên không sạch, vì Lề Luật ngăn cấm không cho đụng tới những người có bệnh như thế. Thứ hai, Chúa Giêsu đang bận rộn trên đường đi chữa bệnh, và cả một đám đông chen lấn theo sau Ngài; làm sao một phụ nữ yếu đuối như Bà có thể chen lại đám đông? Vì thế, Bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu." Với niềm tin đó, Bà chạy theo và sờ vào tua áo Chúa; tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Ngay lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: "Ai đã sờ vào áo tôi?" Và Đức Giêsu ngó quanh để tìm người đã làm điều đó. Đây là giây phút giao linh giữa người được tin và người tin. Giống như tình yêu, hai kẻ yêu nhau không cần phải nói; chỉ một hành động được làm từ một trong hai người, họ có thể hiểu tình yêu người khác dành cho mình. Người đàn bà loạn huyết sợ phát run lên, vì Bà không ngờ hành động bí mật của Bà bị phát hiện. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. Tưởng rằng Ngài sẽ la mắng Bà, nhưng Chúa Giêsu nói với Bà: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh."
Trình thuật này phải giúp chúng ta tin tưởng vững mạnh vào Ngài khi mang bệnh phần hồn cũng như phần xác. Chúa thấu hiểu sức mạnh của lòng tin chúng ta dành cho Ngài, và Ngài sẽ ban ơn cần thiết để chữa lành. Ngài cũng thấu hiểu mọi bí mật trong tâm hồn chúng ta; vì thế, chúng ta hãy thú nhận và đừng giấu diếm chi cả. Chúng ta sẽ hưởng được bình an thực sự khi làm như thế.
(3) Phản ứng của các môn đệ: Các môn đệ dùng sự suy nghĩ của con người để thưa với Chúa: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: ''Ai đã sờ vào tôi?" Khi nói như thế, các môn đệ đã tỏ vẻ khinh thường Thầy mình, và không hiểu những gì xảy ra trong lãnh vực đức tin. Phản ứng của Chúa Giêsu hôm nay phải dạy chúng ta biết thận trọng khi phán xét những điều thuộc lãnh vực tinh thần. Đừng bao giờ lấy sự khôn ngoan con người để phán xét những sự thuộc về Thiên Chúa; nhưng phải biết khiêm nhường và lấy đức tin để hiểu những sự thuộc về Thiên Chúa và phán xét tha nhân.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa có toàn quyền trên sự chết và sự đau khổ
- Chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa trong việc bảo vệ sự sống và tiêu diệt sự chết.
- Để bảo vệ sự sống, chúng ta phải can đảm sống theo nền "văn minh tình thương" và loại bỏ nền "văn hóa sự chết," như lời ĐGH Gioan-Phaolô II kêu gọi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
28/6 Sự sống là Thánh Thiêng
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
SỰ SỐNG LÀ THÁNH THIÊNG
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN NĂM B (28/06/2015)
[1 Kn 1,1315;2,2324; 2 Cr 8,7.9.1315; Mc 5,2143]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Không biết trong lịch sử loài người có giai đoạn nào mà cuộc chiến bảo vệ và bênh
vực sự sống lại quyết liệt như ngày hôm nay không? Những chuyện tiêu cực như
tham nhũng, hối lộ, ăn cắp của công, lãng phí tài sản của nhân dân, chà đạp nhân
phẩm, buôn bán phụ nữ và trẻ em, phá thai, cướp giật, lừa đảo v.v.. thường xuyên
được nhắc đến trên các trang báo nhà nước cũng như báo lề trái và trên các đài
truyền thanh truyền hình. Người đọc dễ có cảm tưởng rằng thế lực của hủy diệt và
tàn phá đang thắng thế và tự hỏi: Phải chăng lực lượng bảo vệ và bênh vực sự sống
đang bị yếu thế?
Là Kitô hữu chúng ta tin rằng Thiên Chúa là Đấng tạo nên và bảo vệ sự sống. Vì
xuất phát từ chính Thiên Chúa sự sống là thánh thiêng vô cùng cao quý nên chúng ta
có bổn phận phải bênh vực và bảo vệ!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Kn 1,1315; 2,2324): Chính vì quỷ ganh tỵ mà cái chết đã
xâm nhập thế gian.
13 Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. 14 Vì
Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu, mọi loài thọ tạo trên thế giới đều
hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất hủy hoại. Âm phủ không thống
trị địa cầu. 15 Quả vậy, đức công chính thì trường sinh bất tử.
23 Phải Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được
Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. 24 Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị
mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết.
2.2 Trong bài đọc 2 (2 Cr 8,7.9.1315): Anh em có được dư giả là để giúp đỡ
những người đang lâm cảnh túng thiếu.
7 Thưa anh em, cũng như anh em từng trổi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự
hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái mà anh em đã học
được nơi chúng tôi, thì anh em cũng phải trổi vượt về lòng quảng đại trong dịp lạc
quyên này nữa. 9 Quả thật, anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng
quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo
khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có. 13 Vấn
đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho người khác bớt nghèo khổ. Điều
cần thiết là phải có sự đồng đều. 14 Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả,
là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ
cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng
đều, 15 hợp với lời đã chép: Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không
thiếu.
2.3 Trong bài Tin Mừng(Mc 5,2143): Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy
đi.
21 Khi ấy, Đức Giêsu xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại
quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. 22 Có một ông trưởng hội
đường tên là Giaia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Người,
23 và khẩn khoản nài xin: "Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên
cháu, để nó được cứu thoát và được sống." 24 Người liền ra đi với ông. Một đám rất
đông đi theo và chen lấn Người.
25 Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, 26 bao phen khổ sở vì chạy thầy
chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm
nặng là khác. 27 Được nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía
sau Người, và sờ vào áo của Người. 28 Vì bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo Người
thôi, là sẽ được cứu." 29 Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được
khỏi bệnh. 30 Ngay lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra,
Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: "Ai đã sờ vào áo tôi? " 31 Các môn đệ
thưa: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: "Ai đã sờ vào
tôi?" 32 Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. 33 Bà này sợ
phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người,
và nói hết sự thật với Người. 34 Người nói với bà ta: "Này con, lòng tin của con đã
cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh."
35 Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo:
"Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?" 36 Nhưng Đức Giêsu nghe được
câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi." 37 Rồi
Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là
ông Gioan. 38 Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Đức Giêsu thấy người ta
khóc lóc, kêu la ầm ĩ. 39 Người bước vào nhà và bảo họ: "Sao lại náo động và khóc
lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!" 40 Họ chế nhạo Người. Nhưng Người
bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi
nó đang nằm. 41 Người cầm lấy tay nó và nói: "Talitha kum", nghĩa là: "Này bé,
Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! " 42 Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó
đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ. 43 Đức Giêsu nghiêm cấm
họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA TRONG BA BÀI
THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa
1o) Bài đọc 1 (Kn 1,1315; 2,2324) là một đoạn văn của sách khôn ngoan cho
chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng Phò Sự Sống: từ ý định cho đến chương trình và
hành động của Thiên Chúa đều là vì Sự Sống, ủng hộ Sự Sống! Cái chết, sở dĩ có
mặt, là do quỷ dữ ganh tỵ mà ra. Vì ganh tỵ, quỷ dữ mới cám dỗ nguyên tổ phạm tội
bất tuân mà ăn trái cấm nên cái chết mới xâm nhập vào thế gian.
2o) Bài đọc 2 (2 Cr 8,7.9.1315) là một đoạn văn của thư 2 Côrintô trong đó
Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu Côrintô hãy noi gương bắt chước Chúa Giêsu
là Đấng vô cùng quảng đại, mà tích cực tham gia cuộc lạc quyên mà ngài đang vận
động nhằm giúp anh chị em đồng đạo ở Giêrusalem đang gặp cảnh khó khăn. Lý
lẽ mà Thánh Phaolô Tông đồ đưa ra để thuyết phục các tín hữu Côrintô là "của
cải dư giả là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu" tức cứu sống những
người đang bị cái chết đe dọa.
3o) Bài Tin Mừng (Mc 5,2143): là bài tường thuật của Phúc Âm Máccô về hai
phép lạ mà Chúa Giêsu đã thực hiện trong cùng một chuyến đi: trong khi đi đường
Chúa đã chữa lành người phụ nữ bị băng huyết lâu năm và khi đến nhà ông trưởng
hội đường Giaia, Chúa đã làm cho cô con gái của ông sống lại. Cả hai câu truyện
đều được kể lại cách sinh động với nhiều tình tiết cụ thể và tinh tế. Cả hai câu truyện
đều làm nổi bật "lòng tin" của những người chạy đến cầu cứu Chúa và nhất là lòng
cảm thông sâu sắc và hành động cứu chữa của Chúa Giêsu, là Đấng đã đến trong
thế gian để con người "được sống và sống dồi dào" như lời khẳng định của Người
trong Phúc Âm theo Thánh Gioan (x. Ga 10,10).
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là:
Thiên Chúa là Đấng đã sáng tạo ra sự sống và là Đấng luôn bảo vệ và bênh vực sự
sống ấy, vì sự sống là thánh thiêng vô cùng quý giá, vì con người là hình ảnh của
Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa xuống thế làm người là để
bênh vực, bảo vệ và phục hồi sự sống bằng chính cái chết và sự phục sinh của
Người!
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng đã ban tặng cho chúng ta sự sống thánh thiêng
cao quý và đã giao cho chúng ta sứ mạng bênh vực, bảo vệ và phát huy sự sống ấy.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay bằng nhiều cách sau đây:
* Một là biết trân trọng sự sống của chúng ta cũng như sự sống của những người
khác vì đó là quà tặng vô cùng quý giá của Thiên Chúa. Sự sống được hiểu là sự
sống thể lý cũng như sự sống tinh thần và tâm linh.
* Hai là có tâm tình và lời kinh cảm tạ đối với Thiên Chúa là Đấng đã ban sự sống
cho chúng ta và cho muôn người, muôn vật.
* Ba là cố gắng bênh vực, bảo vệ và phục hồi sự sống ở nơi ta cũng như ở quanh ta,
bằng cách chống lại các thế lực hủy diệt và hỗ trợ các nỗ lực phò sự sống trong gia
đình và cộng đồng xã hội.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý
thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ
bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Phải Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ
được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người.» Chúng ta hiệp lời cầu
nguyện cho nhân loại ngày hôm nay, nhất là cho những người, hoặc vì không nhìn
nhận sự thánh thiêng của sự sống, hoặc vì lợi ích vật chất mà hủy diệt sự sống. Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.2 « Quả thật, anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng
đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó
vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.»
Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Đức Hồng Y,
Tổng Giám Mục và Giám Mục, cho các linh mục và phó tế, luôn trung kiên với sứ
mạng rao giảng sự thánh thiêng của sự sống và đem hết khả năng Chúa ban mà bảo
vệ và bênh vực sự sống.
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.3 «Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn
bệnh.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho tất cả giáo dân thuộc giáo xứ chúng ta,
nhất là những người đang phải đau khổ, bệnh tật, thất vọng..., để mọi người biết đặt
lòng tin vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa Ngôi Hai mà được cứu
chữa. Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.4 «Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu.» Chúng ta
hiệp lời cầu nguyện cho những người đang nỗ lực xây dựng một xã hội công bằng
và bác ái để những người nghèo được tôn trọng và giúp đỡ mà có một cuộc sống
xứng đáng với phẩm giá của con cái Thiên Chúa. Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
[Cũng có thể đọc Kinh của Sự Sống sau đây]
Lạy Cha rất nhân từ, Sự Sống do chính Cha dựng nên. Cha lại sai Con Một của
Cha là Đức Giêsu Kitô đến để thánh hoá và duy trì Sự Sống, và chính Thần
Khí của Cha là Sự Sống.
Xin Cha thương ngăn chặn ngay những hành vi phá hoại Sự Sống con người,
nhất là hành vi nạo phá thai. Vì lầm lỡ, vì yếu đuối, vì ích kỷ, vì hèn nhát, vì
thiếu yêu thương, con người chúng con đã mê lầm mà nảy sinh ra điều ác độc.
Xin Cha gieo vào lòng con người Tình Yêu và Bình An của Cha, Tình Yêu và
Bình An mà thế gian không thể ban cho con người.
Xin Cha hoán cải tâm hồn chúng con, để chúng con luôn nhận ra Cha là Đấng
giàu lòng xót thương và đầy nhân ái đối với mọi người. Xin Cha trải lòng
thương xót của Cha trên thân phận của chúng con.
Chúng con nguyện xin Cha, nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria,
Thánh Cả Giuse và các Thánh Anh Hài.
Amen.
27/6 Thiên Chúa ban ơn cho ai tin Ngài và đối xử tử tế với mọi người
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 12 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 18:1-15; Mt 8:5-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa ban ơn cho ai tin Ngài và đối xử tử tế với mọi người.
Một trong những hiểm họa mà chúng ta đang phải đương đầu với là lối sống ích kỷ và hưởng thụ của con người hiện đại: họ không quan tâm đến người khác, cho dù là Thiên Chúa, cha mẹ, hay thân nhân; nhưng chỉ quan tâm đến bản thân và nhu cầu cá nhân của họ. Chẳng cần phải dùng đến đạo lý sâu xa, chúng ta cũng biết những người này sẽ không tiến xa trên đường đời, vì họ sẽ bị Thiên Chúa và tha nhân đào thải.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những tấm gương sáng trong cách đối xử với Thiên Chúa và tha nhân. Bài Đọc I dạy chúng ta tinh thần hiếu khách của tổ-phụ Abraham: Tuy không biết người khách đến thăm mình là ai, Abraham nài nỉ xin quí khách ở lại để nghỉ chân, ăn uống và dưỡng sức. Nhận ra tinh thần hiếu khách của Abraham, khách đã loan báo tin vui là Abraham sẽ có một người con trai để nối dõi tông đường vào cũng thời gian này năm sau. Trong Phúc Âm, một viên Đại Đội Trưởng người Rôma khiêm nhường đến nài xin Chúa Giêsu chữa bệnh cho người đầy tớ của ông đang nằm bại liệt ở nhà. Biết Chúa là người Do-thái và tin Chúa có quyền năng chữa bệnh bằng lời, ông xin Thiên Chúa không cần đến nhà, mà chỉ cần phán một lời, là đầy tớ của ông sẽ khỏi bệnh. Nhận ra đức tin và lòng thương xót của ông, Chúa ban cho ông được toại nguyện.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lòng hiếu khách của tổ-phụ Abraham
1.1/ Ông Abraham ân cần và nồng hậu tiếp khách: Nhiều học giả Kinh Thánh dùng đoạn này để chứng minh mầu-nhiệm Chúa Ba Ngôi. Trong câu thứ nhất, Đức Chúa được xử dụng ở ngôi thứ nhất số ít: "1 Đức Chúa hiện ra với ông Abraham tại cụm sồi Mamrê, khi ông đang ngồi ở cửa lều, vào lúc nóng nực nhất trong ngày." Trong câu thứ hai, Abraham nhìn thấy ba người: "2 Ông ngước mắt lên thì thấy có ba người đứng gần ông." Câu thứ ba lại tiếp tục dùng ở số ít, trong khi câu thứ 4 và thứ 5 lại dùng ở số nhiều: "Vừa thấy, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống đất lạy và nói: "Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. Để tôi cho lấy chút nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây!" Khách trả lời: "Xin cứ làm như ông vừa nói!"
1.2/ Khách loan tin mừng có con cho gia chủ: Nhận được lòng hiếu khách của Abraham, khách nói với ông: "Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Sarah vợ ông sẽ có một con trai." Đây là một tin ông bà đang mong, nhưng không thể nào xảy ra theo lối thường, vì ông Abraham và bà Sarah đã già nua tuổi tác, và bà Sarah không còn điều thường xảy đến cho đàn bà. Vì thế, Bà Sarah cười thầm tự bảo: "Mình đã cằn cỗi rồi, còn hưởng được vui thú nữa sao? Ông nhà mình lại là một ông lão!" Đức Chúa phán với ông Abraham: "Tại sao Sarah lại cười và nói: "Có thật tôi già thế này mà còn sinh đẻ được chăng?'' Nào có điều gì kỳ diệu vượt sức Đức Chúa? Vào độ này sang năm, Ta sẽ trở lại thăm ngươi, và Sarah sẽ có một con trai."''
2/ Phúc Âm: Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế.
2.1/ Đức tin của viên Đại Đội Trưởng thành Capernaum:
(1) Cách biểu lộ đức tin của ông:
- Ông là người có lòng thương xót: Người ông van xin Chúa Giêsu chữa khỏi bại liệt không phải là máu mủ ruột thịt gì của ông, nhưng chỉ là một người đầy tớ. Theo truyền thống Rôma, người đầy tớ chỉ được coi như một món hàng để mua bán và để xử dụng. Chúng ta không lạ gì khi Chúa Giêsu đáp trả lòng thương xót của ông, vì Ngài là Đấng Thương Xót.
- Ông là người rất tinh tế và khiêm nhường: Ông biết truyền thống Do-thái không cho phép người Do-thái vào cùng một mái nhà với người Dân Ngoại; vì thế, để tránh tai tiếng cho Chúa Giêsu, viên Đại Đội Trưởng đáp: "Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh." Câu trả lời này đã được Giáo Hội dùng để chuẩn bị tâm hồn các tín hữu trước khi rước Mình Thánh Chúa.
- Ông là người rất tin tưởng: Khi nghe Chúa Giêsu trả lời "Chính tôi sẽ đến chữa nó;" ông không một chút nghi ngờ quyền năng của Chúa Giêsu. Hơn nữa, với kinh nghiệm của một sĩ quan, ông còn tin Chúa Giêsu có thể chữa bệnh mà không cần hiện diện.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Trước cách biểu lộ đức tin của một viên sĩ quan Dân Ngoại,
Đức Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: "Tôi bảo thật các ông: Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế." Sự thật đau lòng, nhưng phải mở mắt tất cả tín hữu: những người vô đạo biểu lộ đức tin cách sâu xa hơn những người có đạo!
- Ngài cũng cảnh cáo những con cái trong nhà mà thiếu đức tin: "Tôi nói cho các ông hay: từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaac và Jacob trong Nước Trời; nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng." Con cái trong nhà có quyền thừa hưởng gia tài của cha ông để lại; nhưng nếu con cái bất nhân bất nghĩa, gia tài sẽ được trao cho những ai có lòng tin yêu và biết cách xử dụng gia tài tốt hơn. Quyền thừa hưởng gia tài của Thiên Chúa chỉ dành cho những ai tin và trung thành với Thiên Chúa.
- Niềm tin yêu của viên Đại Đội Trưởng được đền đáp xứng đáng: Rồi Đức Giêsu nói với viên đại đội trưởng rằng: "Ông cứ về đi! Ông tin thế nào thì được như vậy!" Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh.
2.2/ Người đã mang lấy các tật nguyền của ta: Matthew tiếp tục tường thuật hai phép lạ nữa và trích dẫn lời tiên-tri Isaiah trong Bài Ca Thứ Tư về Người Tôi Trung của Yahveh: "Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta."
- Gương sáng của bà mẹ vợ Phêrô: Chúa Giêsu chữa bệnh cho bà, vì bà là mẹ vợ của Phêrô, môn đệ yêu mến của Ngài. Được Chúa Giêsu chữa khỏi, Bà không nại cớ mới bệnh dậy để nghỉ ngơi dưỡng sức; nhưng vội vã chỗi dậy để phục vụ Chúa và các môn đệ của Ngài. Đây phải là gương sáng cho chúng ta noi theo: Đã nhận được cách nhưng không thì cũng phải cho đi cách nhưng không. Người chỉ biết đưa tay nhận lãnh sẽ không tiến xa trong cuộc đời.
- Chúa Giêsu chữa lành mọi người bị đau khổ tật nguyền: "Chiều đến, người ta đem nhiều kẻ bị quỷ ám tới gặp Đức Giêsu. Người nói một lời là trừ được các thần dữ và Người chữa lành mọi kẻ ốm đau." Điều này chứng minh: Thiên Chúa không muốn con người phải đau khổ. Các đau khổ xảy ra là do chính con người gây nên hay ảnh hưởng của thời tiết; tuy nhiên, Ngài để các đau khổ xảy ra cho các mục đích tốt đẹp hơn mà chúng ta đã nhiều lần đề cập tới.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải luôn đối xử tử tế với mọi người, vì "ở hiền gặp lành." Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ sai các thiên sứ của Người đến phù trợ và bảo vệ chúng ta.
- Điều quan trọng nhất trong cuộc đời là chúng ta phải tuyệt đối tin và yêu Thiên Chúa, bằng cách thực thi những gì Ngài dạy bảo. Cãi lời Thiên Chúa bằng cách lý luận quanh co để biện minh cho các hành động sai trái của mình, là lý do để bị quăng ra ngoài Nước Trời.
- Chúng ta phải luôn nhớ: danh hiệu Kitô hữu không đủ để cứu chúng ta phải hư mất; nhưng chúng ta phải thành tâm thi hành thánh ý của Thiên Chúa mọi ngày trong cuộc sống.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
26/6 Thiên Chúa có thể làm mọi sự
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 12 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Gen 17:1, 9-10, 15-22; Mt 8:1-4.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa có thể làm mọi sự.
Có những điều tuy không thể làm được bởi con người; nhưng luôn có thể làm bởi Thiên Chúa; chẳng hạn: làm cho có mưa có nắng, cho người cao niên được sinh con, chữa lành các bệnh tật mà con người phải bó tay đầu hàng. Lý do đơn giản: chẳng có gì là chuyện không thể đối với Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay tường thuật 2 phép lạ chứng tỏ uy quyền của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế tường thuật việc Thiên Chúa làm cho tổ-phụ Abraham. Ngài cho ông có con trong khi cả ông và vợ ông đã quá tuổi sinh con, và Ngài lập giao ước với ông và giòng dõi của ông. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chữa lành một người bị bệnh phong hủi, khi thấy anh biểu lộ một niềm tin vững mạnh vào Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ngươi hãy bước đi trước mặt Ta và hãy sống hoàn hảo.
1.1/ Giao Ước Thiên Chúa làm với tổ-phụ Abraham: Khi ông Abram được chín mươi chín tuổi, Đức Chúa hiện ra với ông và phán: "Ta là Thiên Chúa Toàn Năng. Ngươi hãy bước đi trước mặt Ta và hãy sống hoàn hảo.''
(1) Giao ước được ký kết, không phải chỉ với một mình Abraham, nhưng còn với toàn giòng dõi ông: Thiên Chúa phán với ông Abraham: "Phần ngươi, hãy giữ giao ước của Ta, ngươi và giòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đây là giao ước của Ta mà các ngươi phải giữ, giao ước giữa Ta với các ngươi, với giòng dõi ngươi sau này: mọi đàn ông con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì.'' Dấu hiệu bề ngoài của giao ước là mọi đàn ông con trai của người Do-thái sẽ phải chịu cắt bì.
(2) Thiên Chúa đổi tên cho hai ông bà: Thiên Chúa phán với ông Abraham: "Sarai, vợ ngươi, ngươi không được gọi tên là Sarai nữa, nhưng tên nó sẽ là Sarah.'' Abram có nghĩa "cha được tôn vinh" thành Abraham, có nghĩa "cha của nhiều dân tộc." Sarai có nghĩa "công chúa" thành Sarah, có nghĩa "mẹ của nhiều dân tộc."
1.2/ Thiên Chúa hứa sẽ ban cho Abraham một người con trai: ''Ta sẽ chúc phúc cho nó (Sarah), Ta còn cho nó sinh cho ngươi một con trai. Ta sẽ chúc phúc cho nó, nó sẽ trở thành những dân tộc; vua chúa các dân sẽ phát xuất từ nó.''
(1) Ông Abraham không hiểu lời hứa ban con của Thiên Chúa: Ông Abraham cúi rạp xuống; ông cười và nghĩ bụng: "Đàn ông trăm tuổi mà có con được sao? Còn bà Sarah đã chín mươi tuổi mà sinh đẻ được sao?" Ông nghĩ chắc Thiên Chúa muốn nói tới Ismael, người con ông có với Hagar, nàng hầu của bà Sarah, nên Abraham thưa với Thiên Chúa: "Ước chi Ismael được sống trước nhan Ngài!"
(2) Thiên Chúa cắt nghĩa rõ ràng lời hứa ban con của Ngài: Nhưng Thiên Chúa phán: "Không đâu! Chính Sarah, vợ ngươi, sắp sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ đặt tên cho nó là Isaac. Ta sẽ lập giao ước của Ta với nó; đây sẽ là giao ước vĩnh cửu cho giòng dõi nó sau này.
Còn về Ismael, Ta nghe lời ngươi xin: Này Ta chúc phúc cho nó, Ta sẽ cho nó sinh sôi nảy nở ra nhiều, thật nhiều. Nó sẽ sinh ra mười hai hoàng tử, Ta sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn. Nhưng giao ước của Ta thì Ta lập với Isaac, đứa con mà Sarah sẽ sinh cho ngươi vào độ này sang năm."
2/ Phúc Âm: "Tôi muốn, anh sạch đi."
2.1/ Phép lạ Chúa chữa người phong hủi:
(1) Người phong hủi biết cách xin: Ông tiến lại, bái lạy Người và nói: "Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Chỉ với câu một ngắn ngủi, ông đã lột tả được hai điều quan trọng:
+ Ông luôn sẵn sàng vâng theo thánh ý Thiên Chúa: Khi nói "nếu Ngài muốn," ông cũng biết điều đối ngược có thể xảy ra là Thiên Chúa có thể không muốn, và ông sẵn lòng vâng theo thánh ý Thiên Chúa để chịu bệnh. Con người không biết chuyện tương lai nên không biết cách xin làm sao cho đúng; vì thế, điều khôn ngoan là cứ việc xin, nhưng phải khôn ngoan cho thêm câu như người phong hủi hôm nay "nếu Ngài muốn." Lý do: có thể những điều con người muốn sẽ đưa họ đến chỗ thiệt hại hơn; chẳng hạn, nguy hiểm cho phần linh hồn. Thiên Chúa biết những gì ích lợi cho con cái, Ngài sẽ ban điều tốt nhất cho những ai tin tưởng tuyệt đối vào Ngài.
+ Ông tin Chúa Giêsu có thể làm được mọi sự: Khi nói "Ngài có thể làm cho tôi được sạch," người phong hủi không một chút nghi ngờ quyền năng của Chúa Giêsu. Đây là điều kiện tiên quyết để được lành bệnh, như Chúa Giêsu vẫn thường đòi hỏi nơi bệnh nhân.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Thấy cách biểu lộ niềm tin và lối sống của người phong hủi, Chúa Giêsu giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi." Lập tức, anh được sạch bệnh phong hủi.
Đây là hành động rất can đảm và biểu lộ lòng thương xót của Chúa Giêsu, vì Lề Luật ngăn cấm không cho sự tiếp xúc giữa người lành mạnh và người bị phong hủi. Khi Chúa Giêsu giơ tay đụng anh, Ngài đã làm cho mình trở nên không thanh sạch. Người không thanh sạch bị ngăn cấm không được vào Đền Thờ; nhưng lòng thương xót của Chúa Giêsu dành cho anh đã thắng vượt tất cả những ràng buộc của Lề Luật. Tiên tri Isaiah diễn tả rất hay về lòng thương xót như sau: ''Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta'' (Isa 53:4a).
2.2/ Lệnh truyền của Chúa Giêsu:
(1) "Coi chừng, đừng nói với ai cả:'' Thông thường, nhiều người sẽ không hiểu tại sao Chúa Giêsu ngăn cấm anh không được tiết lộ; lẽ ra phải để anh rao truyền quyền năng của Chúa Giêsu để giúp nhiều người tin vào Ngài. Lý do Chúa Giêsu ngăn cấm anh vì Chúa không muốn dân chúng tin Ngài như một Đấng Thiên Sai uy quyền như truyền thống vẫn tin; nhưng là một Đấng Thiên Sai chịu đau khổ để cứu độ con người.
(2) ''Hãy đi trình diện tư tế và dâng của lễ, như ông Moses đã truyền, để làm chứng cho người ta biết." Ngày xưa, xã hội không có bác sĩ như bây giờ; các tư tế có bổn phận khám xét những người bị bệnh phong, để tuyên bố một người có bệnh hay được lành bệnh. Bệnh phong không những nghiêm trọng về thể lý vì tính hay lây; nhưng còn nghiêm trọng hơn trong việc tế lễ. Lề Luật không cho phép người bị bệnh phong vào Đền Thờ dâng của lễ, vì họ được xếp vào hạng người không sạch. Khi tư tế tuyên bố người mắc bệnh đã lành, anh phải dâng của lễ tạ ơn như Lề Luật truyền (Lev 14:4-5).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần có một niềm tin vững mạnh nơi Thiên Chúa trong mọi trạng huống của cuộc đời, vì mọi sự đều có thể xảy ra dưới bàn tay uy quyền của Ngài.
- Không phải những điều chúng ta xin đều đẹp ý Ngài; vì thế, hãy mở lòng để đón nhận lời từ chối của Thiên Chúa, và can đảm vâng theo thánh ý Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
25/6 Phải thực hành Lời Chúa
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 12 TN, Năm lẻ
Bài đọc: Gen 16:1-12, 15-16; Mt 7:21-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải thực hành Lời Chúa.
Con người hay bội hứa, quên thề; Thiên Chúa luôn trung tín. Con người hay thay đổi; Thiên Chúa không bao giờ đổi thay. Con người nghĩ để sống sót, họ cần phải tiêu diệt đối phương. Thiên Chúa chứng minh, Ngài có quyền năng làm cho tất cả hiện hữu chung: Do-thái Giáo, Kitô Giáo, và Hồi Giáo, đều đã được Thiên Chúa chúc lành và có thể sống chung với nhau. Để Lời Chúa có thể sinh ích, con người không chỉ cần lắng nghe, mà còn phải thực hành Lời Chúa dạy. Nếu con người chỉ biết trên lý thuyết mà không chịu thực hành trong đời sống, Lời Chúa có ích chi cho con người đâu!
Các Bài Đọc hôm nay vạch ra cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa Thiên Chúa và con người; giữa cách cư xử của Thiên Chúa và cách cư xử của con người. Trong Bài Đọc I, bà Sarai, khi thấy mình không được Đức Chúa cho sinh con, đã hiến người hầu, Hagar, cho Abram để ông có con nối giòng. Khi Hagar có con với Abram, nàng lại coi thường và khinh khi bà chủ. Bà Sarai tức giận và đối xử nhẫn tâm với Hagar đến nỗi nàng phải trốn đi; nhưng sứ thần Thiên Chúa đã hiện ra và loan báo cho nàng biết: Thiên Chúa cũng sẽ chúc lành cho giòng dõi của Ismael, con nàng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố: Nước Trời chỉ dành cho ai nghe và giữ Lời Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ta sẽ làm cho giòng dõi ngươi sinh sôi thật nhiều đến mức không thể đếm được.
1.1/ Con người hay thay đổi: Truyền thống Do-thái và hầu hết truyền thống Á-đông đều có thái độ coi thường người phụ nữ có chồng mà không sinh cho chồng được người con để nối dõi tông đường (I Sam 1:5-6). Trong trường hợp như thế, người vợ thường sẽ hy sinh để chồng ăn ở với vợ lẽ hay nàng hầu để có con nối dõi cho chồng.
(1) Phản ứng của bà Sarai: Trình thuật hôm nay liệt kê một trường hợp điển hình: "Bà Sarai, vợ ông Abram, đã không sinh được cho ông một người con nào. Bà có một người nữ tỳ Ai-cập, tên là Hagar. Bà Sarai nói với ông Abram: "Ông coi: Đức Chúa đã không cho phép tôi sinh con. Vậy xin ông đi lại với nữ tỳ của tôi; may ra nhờ nó mà tôi sẽ có con." Ông Abram nghe lời bà Sarai, ông ăn ở với nàng hầu, Hagar, và nàng đã mang thai. Bà Sarai tức giận với nàng hầu có thể vì hai lý do: (1) Khi ông Abram tỏ cử chỉ yêu thương với Hagar. Điều này có thể hiểu được vì không ai muốn san sẻ tình yêu vợ chồng cho người khác; và (2) Nàng Hagar có những cử chỉ khinh thường bà. Dù sao chăng nữa, bà Sarai cũng có lỗi, vì bà phải biết những chuyện này không thể không xảy ra.
(2) Phản ứng của nàng hầu Hagar: Phản ứng này có thể hiểu được, vì là phản ứng của đa số con người: khinh thường những người có chồng mà không có con. Hơn nữa, nàng đang ở địa vị của nữ tỳ, bỗng nhiên trở nên bà chủ và được Abram thương mến, vì làm cho ông có con nối dõi tông đường, nên nàng càng có thái độ khinh thường và xỉ nhục chủ mình. Nàng Hagar khôn nhưng không ngoan; nếu nàng biết nhận ra tình thương của ông Abram và bà chủ Sarai, và khiêm nhường đáp lại, nàng đã không bị Bà đuổi ra khỏi nhà.
(3) Phản ứng của ông Abram: Ông nhận ra sự quan tâm của vợ và thái độ khinh thường vợ mình của Hagar; nhưng ông bị kẹt vào thế ở giữa, bênh bên nào cũng không được. Khi nghe Bà Sarai than thở, ông Abram nói với bà Sarai: "Nữ tỳ của bà ở trong tay bà đấy; đối với nó, cái gì tốt cho bà thì bà cứ làm!" Thế là Bà Sarai hành hạ Hagar đến nỗi nàng phải trốn khỏi Bà.
1.2/ Lời hứa của Thiên Chúa luôn vững bền: Cách đối xử của Thiên Chúa hoàn toàn khác với cách đối xử của con người. Ngài có thể chúc lành cho cả bà Sarai lẫn nàng hầu Sarai, cho giòng dõi của Sarai và của Hagar. Vì thế, Thiên Chúa sai sứ thần của Ngài đến gặp Hagar, và khuyên nàng: "Cứ về với bà chủ ngươi, và chịu luỵ bà ấy... Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi ra thật nhiều đến mức không thể đếm được vì quá đông."
Lời hứa về giòng dõi của Hagar: Sứ thần của Đức Chúa nói với nàng: "Này đây ngươi đang có thai, sắp sinh hạ con trai và sẽ đặt tên là Ismael, vì Đức Chúa đã nghe thấu nỗi khổ của ngươi. Con người đó đúng là một con lừa hoang, nó giơ tay chống mọi người, mọi người giơ tay chống nó, nó sẽ luôn đối đầu với tất cả anh em nó." Lời hứa này cho chúng ta thấy cả Hồi Giáo và Do-thái Giáo đều nằm trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Ismael là tổ phụ của những người Hồi Giáo và cũng được Thiên Chúa chúc lành. Isaac, đứa con Thiên Chúa ban cho Abram sau này, là tổ phụ của những người Do-thái và được Thiên Chúa chúc lành qua tổ phụ Abram. Lời sấm của sứ thần vẫn đang ứng nghiệm: giòng dõi của tổ phụ Abraham (Do-thái, Hồi Giáo, và Kitô Giáo) chiếm quá nửa dân số trên địa cầu; và mối thù truyền kiếp giữa Do-thái và Hồi Giáo vẫn đang xảy ra.
2/ Phúc Âm: Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.
2.1/ Nước Trời không dành cho những ai chỉ biết nói yêu mến Thiên Chúa: Chúa Giêsu tuyên bố rõ ràng tình yêu phải được biểu tỏ bằng việc làm: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.'' Một người ngây thơ có thể tin vào những lời đường mật của người dẻo miệng lưỡi ca tụng; nhưng không ai có thể đánh lừa Thiên Chúa bằng những lời tán tụng ngoài miệng, vì Ngài thấu suốt mọi ý hướng của con người.
2.2/ Nước Trời chỉ dành cho những ai thực hành Lời Chúa dạy: Để dẫn chứng tầm quan trọng của việc thi hành Lời Chúa, Chúa Giêsu đưa ra một ví dụ mà mọi người đều hiểu.
(1) Xây nhà trên đá: "Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá.'' Nhà xây trên nền đá, tuy khó làm lúc đầu, nhưng sẽ chịu đựng được mọi thay đổi của thời tiết sau này.
(2) Xây nhà trên cát: ''Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành." Nhà xây trên cát rất dễ làm lúc đầu, nhưng không chịu đựng nổi những đe dọa của thời tiết; chỉ cần một cơn sóng gió nhỏ cũng đủ cuốn trôi nhà ấy.
Cuộc đời con người cũng thế: Nếu họ chịu xây dựng cuộc đời của họ trên nền tảng của Lời Chúa, tuy khó khăn lúc đầu, nhưng sẽ giúp họ đứng vững trước bất kỳ cơn phong ba bão táp nào của cuộc đời. Nhưng nếu họ không chịu xây dựng cuộc đời trên nền tảng Lời Chúa, họ sẽ bị cuốn hút, và không thể nào thắng vượt được những cơn lốc của thế gian, và bẫy giăng của ma quỉ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải luôn biết lấy tình thương Thiên Chúa để đối xử với nhau trong mọi hoàn cảnh: khi thịnh vượng cũng như lúc nghèo khổ, khi khỏe mạnh cũng như lúc yếu đau, khi vinh quang cũng như lúc đau khổ; vì đó là lệnh truyền của Thiên Chúa.
- Tri hành đồng nhất. Lời nói phải đi đôi với việc làm. Nếu chúng ta không thực hành những gì Thiên Chúa dạy, lời khôn ngoan cách mấy cũng chẳng giúp được gì cho chúng ta; nhưng nếu chúng ta kiên nhẫn mang Lời Chúa ra áp dụng vào cuộc sống, Lời Chúa sẽ sinh rất nhiều lợi ích cho cuộc đời chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
24/6 Sứ vụ của Gioan là chỉ đường cho mọi người đến với Đức Kitô
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
Bài đọc: Isa 49:1-6, Acts 13:22-26; Lk 1:57-66, 80.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sứ vụ của Gioan là chỉ đường cho mọi người đến với Đức Kitô.
Khi nhìn vào thân thể của con người, các nhà khoa học ngạc nhiên về cách cấu trúc và chức năng của từng chi thể như: não bộ, mắt, tai, phổi, tim ... và còn ngạc nhiên hơn khi tìm ra cách hoạt động hòa điệu và nhịp nhàng của các chi thể, trong việc đem lại sự sống cho con người. Khi nghiên cứu về Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, chúng ta cũng không khỏi ngạc nhiên về sự sắp xếp của Thiên Chúa, trong việc chuẩn bị cho nhân loại một Đấng Thiên Sai, để đem ơn cứu độ cho muôn người. Có những tổ phụ đi trước để chuẩn bị như Abraham, vua David, tiên-tri Isaiah. Có những người đồng thời để dọn đường và giới thiệu Đức Kitô, nhân vật chính của Kế Hoạch Cứu Độ, cho mọi người. Có những người đi sau để loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Đức Kitô như các thánh tông-đồ và tử-đạo. Trải qua bao thế hệ, Thiên Chúa vẫn không ngừng các thánh và mọi tín hữu để loan báo Tin Mừng và làm cho con người tin vào Đức Kitô để đạt được ơn cứu độ. Thánh Phaolô có lý khi so sánh toàn thể nhân loại như những chi thể của một Nhiệm Thể là Đức Kitô. Chúng ta đều là những chi thể của một thân thể, và đều có nhiệm vụ góp phần mang lại sự sống cho Nhiệm Thể Đức Kitô.
Các Bài Đọc trong ngày Sinh Nhật của Gioan Tẩy Giả cho chúng ta thấy sự sắp xếp nhiệm mầu của Thiên Chúa trong việc sửa soạn cho nhân loại một Người Tôi Trung để chuộc tội và mang lại ơn cứu độ cho con người. Trong Bài Đọc I, Bài Ca Thứ Hai của Người Tôi Trung Thiên Chúa, tiên tri Isaiah tường thuật việc Thiên Chúa chuẩn bị cho nhân loại một Người Tôi Trung và trao cho Ngài một sứ vụ gồm hai phần: mang vinh quang cho dân tộc Israel và trở nên ánh sáng cứu độ cho các dân tộc. Trong Bài Đọc II, Sách CVTĐ tường thuật một phần Bài Giảng của Phaolô tại Antioch, Pisidia. Phaolô muốn cho khán giả biết Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa đã được tường thuật bởi các tiên-tri và Thánh Vịnh: Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại một Đấng Cứu Độ từ giòng dõi Vua David, và ông Gioan Tẩy Giả đã chuẩn bị, làm chứng, và chỉ đường cho mọi người đến với Đức Kitô để lãnh nhận ơn cứu độ. Trong Phúc Âm, thánh-sử Luca tường thuật những biến cố lạ lùng xảy ra chung quanh việc chào đời của Gioan Tẩy Giả. Tất cả những biến cố này chỉ cho thấy Thiên Chúa đã dùng ông để đi tiên phong dọn đường cho mọi người đón nhận Đức Kitô, và Gioan đã dùng cả cuộc đời ông để chu toàn sứ vụ và làm chứng cho Đức Kitô.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người Tôi Trung chịu đau khổ để thực thi Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa.
1.1/ Thiên Chúa chuẩn bị cho nhân loại "Người Tôi Trung" ngay từ đầu: Ai là "Người Tôi Trung" trong trình thuật hôm nay? Có ít nhất 3 cách giải thích:
(1) Có người cho là Vua Cyrus, Ba-tư; vì Thiên Chúa dùng ông để phóng thích và cho dân Do-thái trở về quê hương sau Thời Lưu Đày. Quan điểm này không đúng, vì sứ vụ của "Người Tôi Trung" không chỉ giải phóng Israel mà còn là ánh sáng muôn dân và mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến tận cùng trái đất.
(2) Có người cho là dân tộc Israel như được tường thuật rõ ràng bên dưới. Quan điểm này cũng không có cơ sở, vì Israel không tự giải phóng mình, nhưng cần nhờ đến sức mạnh của Thiên Chúa. Hơn nữa, Israel cũng không quan niệm họ sẽ trở nên ánh sáng muôn dân và mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến tận cùng trái đất.
(3) Đa số các học giả Kinh Thánh và Giáo Hội đều đồng ý danh hiệu Người Tôi Trung được Tiên-tri Isaiah dùng để chỉ Đấng Thiên Sai là Đức Kitô, người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa. Isaiah nói về "Người Tôi Trung" này như sau:
+ Người Tôi Trung đã có trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa ngay từ đầu: ''Hỡi các đảo, hãy nghe tôi đây, hỡi các dân tộc miền xa xăm, hãy chú ý: Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi.''
+ Người Tôi trung được Thiên Chúa huấn luyện và bảo vệ: ''Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người.''
+ Người Tôi Trung phải chịu đau khổ, nhưng chắc chắn sẽ chiến thắng: ''Người đã phán cùng tôi: "Hỡi Israel, ngươi là Tôi Trung của Ta. Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang." Phần tôi, tôi đã nói: "Tôi vất vả luống công, phí sức mà chẳng được gì." Nhưng sự thật, đã có Đức Chúa minh xét cho tôi, Người dành sẵn cho tôi phần thưởng.''
1.2/ Sứ vụ của Người Tôi Trung: Người Tôi Trung được Thiên Chúa trao cho hai sứ vụ:
(1) Đem nhà Jacob về cho Người và quy tụ dân Israel chung quanh Người: Đây là sứ vụ đầu tiên của "Người Tôi Trung." Khi một phụ nữ Dân Ngoại đến van xin Đức Kitô chữa bệnh cho con Bà, Người đáp: "Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi." Chính Ngài cũng truyền cho các môn đệ: "Đừng vào thành các Dân Ngoại, nhưng hãy đến với các chiên lạc của nhà Israel" (Mt 10:5-6).
(2) Để trở thành ánh sáng muôn dân, và để đem ơn cứu độ của Thiên Chúa đến tận cùng cõi đất: Đây là sứ vụ thứ hai của "Người Tôi Trung." Ông Simeon lặp lại lời này của Isaiah, khi nói tiên tri về con trẻ Giêsu: "Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho Dân Ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài" (Lk 2:29-34). Tuy Đức Kitô ít ra khỏi ranh giới Israel để loan truyền Tin Mừng cho các Dân Ngoại; nhưng Ngài đã chuẩn bị đầy đủ cho các môn đệ, và truyền cho các ông phải loan báo Tin Mừng cho muôn dân đến tận cùng trái đất (Mk 28:19).
2/ Bài Đọc II: Thiên Chúa đã đưa đến cho Israel một Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu.
2.1/ Lời hứa ban Đấng Cứu Chuộc của Thiên Chúa từ thời Vua David. Đây là một đoạn trích trong Bài Giảng của Phaolô cho người Do-thái tại Antioch, Pisidia. Phaolô muốn dùng lịch sử để chứng minh cho khán giả biết Đức Kitô xuất thân từ giòng dõi của Vua David: ''Sau khi truất phế vua Saul, Người đã cho ông David xuất hiện làm vua cai trị họ. Người đã làm chứng về ông rằng: Ta đã tìm được David, con của Jesse, một người đẹp lòng Ta và sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta. Từ giòng dõi vua này, theo lời hứa, Thiên Chúa đã đưa đến cho Israel một Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu.''
2.2/ Ông Gioan làm chứng, Đức Kitô hoàn thành lời hứa cứu độ của Thiên Chúa: Phaolô nói về sứ vụ của Gioan: ''Để dọn đường cho Đức Giêsu, ông Gioan đã rao giảng kêu gọi toàn dân Israel chịu phép rửa tỏ lòng sám hối. Khi sắp hoàn thành sứ mệnh, ông Gioan đã tuyên bố: "Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa: Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người.""
Và Phaolô thuyết phục khán giả: "Thưa anh em, là con cái thuộc dòng giống Abraham, và thưa anh em đang hiện diện nơi đây, là những người kính sợ Thiên Chúa, lời cứu độ này được gửi tới chúng ta.''
3/ Phúc Âm: Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? Vì quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.
3.1/ Những sự lạ lùng xảy ra trong biến cố sinh nhật của Gioan:
(1) Hai cha mẹ đều cao niên mà lại có con: Theo chu kỳ tự nhiên, con người chỉ có thể sinh con trong một hạn tuổi nào đó. Khi đã quá tuổi, con người không thể có con. Tuy nhiên, khi Thiên Chúa can thiệp, Ngài có thể làm cho những người cao niên có con nối giòng. Lịch sử Cựu Ước đã tường thuật nhiều lần những điều này: Abraham và Sarah mang thai Isaac, cha mẹ của anh hùng Sampson, cha mẹ của tiên tri Samuel, và hôm nay, ông Zachariah và bà Elisabeth.
(2) Ông Zachariah bị câm và nói được: Ông bị câm vì ông không tin ông có thể có con trong lúc tuổi già và bà Elisabeth, vợ ông cũng đã quá tuổi sinh con. Sứ thần Gabriel phạt ông bị câm, vì ông đã không tin tưởng nơi quyền năng Thiên Chúa. Trong trình thuật hôm nay, khi được hỏi muốn đặt tên con là gì, ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: "Tên cháu là Gioan." Ai nấy đều bỡ ngỡ. Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa.
(3) Đặt tên cho con: Tên là người. Tùy vào ước vọng cha mẹ muốn cho con ra sao, trở thành gì, hay kỷ niệm một biến cố gì; họ sẽ đặt tên con như thế. Ví dụ, nếu cha mẹ có con trong khi đã quá tuổi sinh con; họ sẽ đặt tên con là "Hồng Ân." Tên John (hay Gioan), là chữ viết tắt của tiếng kép Do-thái "Jeho-hannah;" có nghĩa "quà tặng của Jehovah," hay "hồng ân Thiên Chúa." Cả hai, ông Zachariah và bà Elisabeth, đều muốn đặt tên con như thế, vì ông bà biết đứa trẻ là quà tặng của Thiên Chúa cho hai ông bà; mặc dù họ hàng láng giềng thắc mắc: "Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả."
3.2/ Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả:
(1) Cha mẹ, họ hàng, và láng giềng đều nhận ra bàn tay Thiên Chúa trong cuộc đời Gioan ngay từ đầu: Trình thuật kể: ''Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Judah. Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?" Vì quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em. Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Israel.''
(2) Gioan chuẩn bị tâm hồn dân và chỉ cho mọi người đến với Đức Kitô: Chúng ta có thể học hỏi ít là 4 điều từ Gioan Tẩy Giả: Thứ nhất, ông sẵn sàng hy sinh mọi thú vui thế gian để chu toàn sứ vụ của mình: ông sống trong sa mạc, mặc áo da thú, ăn chấu chấu và mật ong rừng. Thứ hai, ông chuẩn bị tâm hồn cho dân đón nhận Đấng Cứu Thế bằng cách rao giảng để dân ăn năn thống hối trước khi ông làm phép rửa cho họ. Thứ ba, ông sống rất thành thực và không vị nể bất cứ người nào: khi được hỏi ông có phải là Đấng Thiên Sai, ông trả lời ông chỉ là tiếng người hô trong sa mạc, và ông không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng Thiên Sai. Sau cùng, ông sẵn sàng đổ máu làm chứng cho sự thật. Ông bị vua Herode chém đầu vì ông dám ngăn cản cuộc hôn nhân bất hợp pháp của Nhà Vua.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mọi người chúng ta đều được Thiên Chúa cho vào đời với một sứ vụ; chứ không tình cờ xuất hiện hay chỉ để ăn uống, hưởng thụ. Sứ vụ của chúng ta là làm sao giúp cho mọi người nhận ra tình yêu và đạt được ơn cứu độ của Thiên Chúa.
- Chúng ta đều có bổn phận như Gioan là dọn tâm hồn và chỉ đường cho mọi người đến với Đức Kitô; chứ không hướng mọi người vào chúng ta, hay vào bất kỳ một nhân vật nào khác.
- Để hoàn thành điều này, chúng ta chắc chắn phải chịu nhiều đau khổ, như Đức Kitô và Gioan Tẩy Giả đã trải qua.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
23/6 Chọn đường khó khăn và hẹp để đi
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 12 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Gen 13:5-18; Mt 7:6, 12-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chọn đường khó khăn và hẹp để đi.
Phần đông con người thích chọn lựa đường bằng phẳng và ngắn nhất để đi, cách nào ít đòi cố gắng nhất để làm, việc nào dễ dàng nhất nhưng có tiền nhiều nhất. Thực tế chứng minh, người thành công là người phải chọn lựa ngược lại, như chí sĩ Nguyễn Thái Học đã nói: "Nếu đường đời bằng phẳng cả; anh hùng hào kiệt có hơn ai?" Vài ví dụ cho chúng ta thấy điều này: Các lực sĩ trước khi đoạt huy chương vàng, họ phải hy sinh luyện tập nhiều giờ và kiêng khem ăn uống. Binh lính phải luyện tập nhiều giờ, vì họ tin: ''thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu.''
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta lời dạy quí giá của Chúa Giêsu và gương chọn lựa con đường khó đi của tổ phụ Abraham. Trong Bài Đọc I, vì muốn bảo vệ tình nghĩa gia đình, tổ-phụ Abraham đề nghị với cháu là ông Lot, phải sống xa nhau; và cho cháu quyền ưu tiên chọn đất trước. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ: "Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúng ta đừng tranh chấp, vì chúng ta là anh em họ hàng với nhau!
1.1/ Sự giàu có dễ làm con người tranh chấp với nhau: Giàu có dễ làm thay đổi tâm tính con người. Khi nghèo đói, con người dễ sống đùm bọc với nhau; nhưng khi trở nên giàu có, con người bắt đầu thay đổi cách sống, và dễ dàng tranh chấp để dành thắng lợi. Thuở còn hàn vi, đôi bạn kết nghĩa uống máu để thề sẽ coi nhau như anh em suốt đời; nhưng khi một hay cả hai trở nên giàu có, tình bạn bắt đầu đổi khác. Tục ngữ Việt-nam có câu: giàu đổi vợ, sang đổi bạn là thế.
Hai cậu cháu Abram và Lot cũng thế: Khi họ còn nghèo, hai cậu cháu luôn sống gắn bó với nhau; nhưng khi tài sản lớn dần, họ bắt đầu sự tranh cấp từ những người đầy tớ, như trình thuật hôm nay kể: ''Ông Lót, người cùng đi với ông Abram, cũng có chiên bò và những chiếc lều. Đất ấy không đủ chỗ cho họ ở chung: họ có quá nhiều tài sản nên không thể ở chung với nhau được. Một cuộc tranh chấp xảy ra giữa những người chăn súc vật của ông Abram và những người chăn súc vật của ông Lót.''
1.2/ Cách giải quyết bằng tình nghĩa của Abram: Nhận ra mối nguy hiểm của việc tranh chấp, Abram biết đã đến lúc hai cậu cháu phải sống xa nhau để bảo toàn tình nghĩa, nên ông Abram bảo ông Lót: "Sao cho đừng có chuyện tranh chấp giữa bác và cháu, giữa người chăn súc vật của bác và người chăn súc vật của cháu. Vì chúng ta là anh em họ hàng với nhau!''
Không dùng uy quyền của kẻ cả, ông Abram rộng lượng, để cho cháu chọn trước: ''Tất cả xứ chẳng ở trước mặt cháu đó sao? Cháu hãy xa bác đi. Nếu cháu đi về bên trái thì bác sẽ đi về bên phải; nếu cháu đi về bên phải thì bác sẽ đi về bên trái." Con người tranh chấp vì ai cũng muốn cho mình được phần hơn; nhưng người kính sợ Thiên Chúa sẽ không cần tranh chấp, vì ông biết Thiên Chúa sẽ luôn luôn chúc lành cho ông: Có phúc mặc sức mà ăn là thế.
(1) Lựa chọn của ông Lót: ''Ông Lót ngước mắt lên và nhìn cả vùng sông Jordan: chỗ nào cũng có nước. Trước khi Đức Chúa tiêu diệt thành Sodom và thành Gomorrah, thì vùng đó, cho đến tận Zoar, giống như vườn của Đức Chúa, giống như đất Ai-cập. Ông Lót chọn cho mình cả vùng sông Jordan và đi về hướng đông. Thế là họ xa nhau.'' Ông Lót rất khôn khi chọn chỗ có nước; vì làm nghề chăn nuôi nên ông cần cỏ: không có nước làm sao có cỏ! Còn ông Abram ở đất Canaan, vùng đất chảy sữa và mật.
(2) Thiên Chúa ban Đất Hứa Canaan và chúc lành cho Abram và giòng dõi của ông: Đức Chúa phán với ông Abram sau khi ông Lót xa ông: "Ngước mắt lên, từ chỗ ngươi đang đứng, hãy nhìn về phía bắc, phía nam, phía đông, phía tây, vì tất cả miền đất ngươi đang thấy đó, Ta sẽ ban cho ngươi và cho dòng dõi ngươi mãi mãi. Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi nhiều như bụi trên mặt đất; nếu người ta đếm được bụi trên mặt đất, thì mới đếm được dòng dõi ngươi! Đứng lên! Hãy đi ngang dọc khắp miền đất này, vì Ta sẽ ban nó cho ngươi."
2/ Phúc Âm: Cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong.
2.1/ Phải hiểu thì mới biết quí trọng Lời Chúa: Để dẫn chứng sự cao quí của Lời Chúa, Chúa Giêsu đưa ra 2 hình ảnh cho các môn đệ suy nghĩ: "Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em.'' Có nhiều cách phiên dịch và áp dụng câu này trong lịch sử:
(1) Các tín hữu Do-thái quá khích dùng câu này để loại trừ Dân Ngoại. Họ nghĩ chỉ có họ mới xứng đáng được hưởng những của thánh, và Dân Ngoại bị so sánh với chó và heo.
(2) Giáo Hội sơ khai dùng câu này để bảo vệ Mình Thánh Chúa. Khẩu hiệu "của thánh dành cho người thánh" được dùng để ngăn cản những người không cùng niềm tin đến lãnh nhận Mình Thánh Chúa.
(3) Giáo Hội sơ khai cũng dùng lời này để bảo vệ Lời Chúa và đức tin Công Giáo, vì luôn có những lạc thuyết nổi lên đe dọa đức tin hay muốn thích ứng với những trào lưu hiện hành. Nói tóm, các tín hữu cần phải học hỏi để hiểu, thì mới biết quí trọng Lời Chúa.
2.2/ Hai ví dụ của việc sống Lời Chúa
(1) Luật Vàng của nhân loại còn kém xa Lời Chúa: Luật Vàng dạy: "Điều gì mình không muốn người khác làm cho mình, mình đừng làm cho người khác." Luật này chỉ tiêu cực, vì nó ngăn cản không cho tội xảy ra; nhưng không giúp con người phát triển vác mối liên hệ với tha nhân. Chúa Giêsu đẩy các môn đệ đến một bước tiến xa hơn: "Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Moses và lời các ngôn sứ là thế đó.'' Đây là luật tích cực, vì nó giúp xây dựng và phát triển các mối liên hệ.
(2) Con người thích đường rộng rãi thênh thang, Chúa Giêsu dạy: "Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.''
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Sống xứng đáng như những con cái Thiên Chúa không dễ dàng. Ngài đòi chúng ta phải yêu mến Ngài hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và trên hết mọi sự. Đồng thời, chúng ta cũng phải yêu thương tha nhân như yêu chính mình nữa.
- Con đường trở nên người môn đệ thực sự của Đức Kitô không phải là con đường dễ dàng như nhiều người lầm tưởng. Ngài đòi chúng ta phải biết từ bỏ ý riêng mình, vác thập giá của mình hằng ngày và theo Ngài.
- Để đáp ứng ơn gọi làm con cái Thiên Chúa và môn đệ của Đức Kitô, chúng ta phải hy sinh để sống theo các giới răn; nhưng chúng ta sẽ làm chủ cuộc đời và sẽ đạt được đích mà chúng ta mong muốn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
22/6 Không xét đoán tha nhân và tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 12 TN, Năm B
Bài đọc: Gen 12:1-9; Mt 7:1-5.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Không xét đoán tha nhân và tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa.
Con người thích xét đoán vì nó là dịp để đề cao mình và giảm danh giá tha nhân. Không những xét đoán tha nhân, nhiều người còn nghi ngờ quyền năng Thiên Chúa và xét đoán luôn cả sự quan phòng của Ngài, khi họ chất vấn hay than phiền những đau khổ Thiên Chúa bắt họ phải chịu. Con người xét đoán không năng xét mình; vì thế, họ thấy họ tốt lành và dễ xét đóan tha nhân; nhưng nếu họ chịu khó xét mình, họ sẽ thấy họ mang đầy những khuyết điểm, và không dám xét đoán tha nhân. Con người dễ xét đoán, vì họ nghĩ chẳng có ai rỗi hơi kiểm điểm những lời xét đoán của họ; nhưng nếu họ biết Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự, họ sẽ cẩn thận hơn khi phải xét đoán tha nhân.
Các Bài Đọc hôm nay dạy chúng ta hai bài học rất quan trọng trong cuộc đời. Trong Bài Đọc I, tổ-phụ Abram nêu gương sáng cho chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào những gì Thiên Chúa dạy. Khi được Thiên Chúa truyền: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi;'' tổ phụ Abram tin tưởng lên đường ngay, vì ông hoàn toàn tin tưởng nơi Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy con người tuyệt đối không được đoán xét để khỏi bị đoán xét; vì con người không toàn thiện để đoán xét người khác.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Abram tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa.
1.1/ Abram can đảm vâng lời lên đường để xây đắp tương lai:
(1) Lời hứa của Thiên Chúa với Tổ-phụ Abraham: Đức Chúa phán với ông Abram: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc." Đây là lời hứa khơi mào Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, và sẽ được hoàn thành bởi Đức Kitô. Lời hứa này đòi thời gian 2,000 năm để hoàn thành.
(2) Thái độ tin tưởng và hành động vâng lời của Abram: Không chút do dự về tương lai vô định, Abram ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông. Ông Abram được bảy mươi lăm (75) tuổi khi ông rời Haran. Ông Abram đem theo vợ là bà Sarai, cháu là ông Lót, và mọi tài sản họ đã gầy dựng được, cùng với gia nhân họ đã có tại Haran. Họ ra đi về phía đất Canaan và đã tới đất đó. Có rất nhiều lý do ngăn cản Abram đừng làm theo ý Chúa: tuổi già, sức khỏe, họ hàng, tương lai vô định ... nhưng một điều duy nhất giúp Abram vượt qua mọi trở ngại là niềm tin của ông vào Thiên Chúa. Ông tin: những gì Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ làm.
1.2/ Thiên Chúa ban Đất Hứa cho giòng dõi của Abram: Đức Chúa hiện ra với ông Abram và phán: "Ta sẽ ban đất này cho giòng dõi ngươi." Đất mà Thiên Chúa hứa ban là Đất Hứa nơi mà các người Canaan đang cư ngụ. Đất Hứa này chỉ thực sự là của giòng dõi ông, khi họ xuất hành ra khỏi Ai-cập, và Thủ-lãnh Joshua lãnh đạo họ đánh bại người Canaan, và phân phối Đất Hứa cho 12 chi tộc của Israel; lúc đó, Abram không còn sống trên trần gian!
Dẫu vậy, Abram cũng vẫn đo lường giải đất mà con cháu ông sẽ làm chủ sau này: ''Tại Shechem, ông dựng một bàn thờ để kính Đức Chúa, Đấng đã hiện ra với ông. Từ chỗ ấy, ông sang miền núi, ở phía đông Bethel. Ông cắm lều giữa Bethel ở phía tây và Ai ở phía đông. Tại đây ông dựng một bàn thờ để kính Đức Chúa và ông kêu cầu danh Đức Chúa. Rồi ông đi từ chặng nọ qua chặng kia đến miền Negeb.''
2/ Phúc Âm: Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán.
2.1/ Tuyệt đối không xét đoán: Chúa Giêsu truyền: "Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy.'' Có ít nhất 3 lý do ngăn cấm con người xét đoán tha nhân:
(1) Con người không biết hết hoàn cảnh và các dữ kiện liên quan: Con người dễ phê phán tha nhân vì họ nhìn từ bên ngoài; nhưng để phê phán đúng, họ phải đặt mình vào bên trong để hiểu hòan cảnh của đương sự. Ví dụ, một người nghèo đói phải ăn cắp để có của ăn nuôi sống là điều hợp lý phải làm; chứ không phải trường hợp ăn cắp nào cũng xấu. Tục ngữ Việt-nam có câu: "Có ở trong chăn mời biết chăn có rận." Hay trong truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: "Đoạn trường ai có qua cầu mới hay." Nàng Kiều phải bán mình để chuộc cha để trả ơn sinh thành nuôi dưỡng là điều một người con hiếu thảo phải làm, chứ không phải trường hợp mãi dâm nào cũng bị kết án.
(2) Con người bị chi phối bởi rất nhiều thành kiến: ngôn ngữ, chủng tộc, màu da, giai cấp, liên hệ, quyền lợi ... Một khi đã có những thành kiến, rất khó để con người phán đoán cách chí công vô tư. Người Hy-lạp có thói quen phân xử nạn nhân trong phòng tối để tránh thành kiến; nhưng cả hai bên vẫn có thể nghe tiếng nói của nhau và đoán được nguồn gốc của nhau.
(3) Con người không sạch hoàn toàn để phán xét: Trong câu truyện "Người phụ nữ ngoại tình" của Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu thách thức những người đòi kết án và ném đá người phụ nữ: "Ai trong các ông sạch tội, hãy quăng viên đá trước." Và họ dần dần rút lui đến khi chỉ còn mình Chúa Giêsu, Đấng có quyền phán xét mọi người vì Ngài không bao giờ phạm tội. Nhưng Ngài nói với chị: "Tôi cũng vậy, tôi không phán xét chị. Thôi! chị về đi và từ nay đừng phạm tội nữa" (Jn 8:12).
Có những trường hợp con người buộc phải xét xử như: bề trên, quan tòa, cha mẹ ... Trong những trường hợp buộc phải xét xử, hãy xét xử cách rộng lượng, phải có đầy đủ các dữ kiện, và theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, vì theo Lời Chúa cảnh cáo: "Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em."
2.2/ Hãy kiểm điểm mình trước: Một trong những cách giúp con người đừng đóan xét tha nhân là năng kiểm điểm bản thân mình. Khi con người thành thật với chính mình, họ tìm ra trong người họ cũng đầy dẫy những tính hư, nết xấu, nhiều khi còn to lớn hơn của tha nhân gấp bội. Nhận ra bản thân như thế, họ sẽ dễ dàng thông cảm và không đoán xét tha nhân. Ngược lại, khi con người không năng xét mình, họ dễ dàng đoán xét tha nhân, vì họ nghĩ họ sạch tội. Chúa Giêsu đưa ra một ví dụ để cảnh cáo hạng người này: ''Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em: ''Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn," trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.''
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, và đừng bao giờ xét đoán sự quan phòng của Ngài.
- Chúng ta cần tập thói quen tuyệt đối không xét đoán tha nhân, vì đó không phải là việc của chúng ta. Trường hợp vì bổn phận phải xét xử, hãy theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, có tất cả các bằng chứng liên quan, hiểu hoàn cảnh của đương sự, và phán xét cách rộng lượng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 21/6 Thiên Chúa có uy quyền trên sóng gió
- 21/6 Sóng Gió Cuộc Đời
- 19/6 Phải có mắt sáng và trí tuệ khôn ngoan để nhận ra sự thật
- 18/6 Phải đặt cùng đích của cuộc đời lên trên những lợi lộc vật chất
- 17/6 Bổn phận làm việc lành phúc đức
- 16/6 Bổn phận trở nên hoàn thiện
- 15/6 Những đòi hỏi của người môn đệ Đức Kitô
- 14/6 Uy quyền tối thượng của Thiên Chúa trên mọi hoạt động của con người
- 14/6 Nước Thiên Chúa giống như hạt cải
- 13/6 Yêu thương thành thật