Sống Lời Chúa Hôm Nay
09/7 Phải thực hiện thánh ý Thiên Chúa trong các biến cố của cuộc đời
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 14 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 44:18-21, 23-29, 45:1-5; Mt 10:7-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải thực hiện thánh ý Thiên Chúa trong các biến cố của cuộc đời.
Trong sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa, chẳng có một biến cố nào ngẫu nhiên xảy ra mà không có ý định của Thiên Chúa trong đó cho cá nhân, gia đình, và tập thể. Thái độ của con người là phải tìm ra và làm theo thánh ý của Thiên Chúa để sinh ích lợi cho mình và cho tha nhân; chứ đừng kêu la, than khóc, hay trách móc Thiên Chúa và tha nhân về số phận hẩm hiu của mình.
Các Bài Đọc hôm nay vạch ra cho chúng ta thấy thánh ý của Thiên Chúa trong mọi biến cố lớn hay nhỏ của cuộc đời. Trong Bài Đọc I, sau khi đã có thời gian để suy gẫm về cuộc đời mình và các biến cố đã và đang xảy ra cho gia đình, ông Giuse đã tỏ mình ra cho anh em và nói: "Chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em." Nói rõ hơn, Thiên Chúa đã chuẩn bị cuộc đời Giuse để cứu sống gia đình, cho dẫu phải ngang qua sự ghen ghét và nhẫn tâm của các anh. Trong Phúc Âm, chính vì hạnh phúc đời sau của nhân loại mà Chúa Giêsu đã thu thập các môn đệ để huấn luyện, trao quyền, và sai các ông đi để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em.
1.1/ Nỗi lòng của cha già: Vì Giuse muốn gặp em ruột của mình là Benjamin, nên đã giữ một người anh là Simeon làm con tin ở lại Ai-cập trong chuyến đi mua thực phẩm lần trước. Ông truyền cho các anh phải đem Benjamin tới gặp, ông mới tha cho tất cả trở về. Nếu không, đừng bao giờ đến gặp mặt ông nữa.
Khi anh em ông đem chuyện này để thưa với cha già Jacob, ông tâm sự với các con: "Các con biết rằng vợ của cha đã sinh cho cha hai đứa. Một đứa đã lìa cha, và cha đã nói: Đúng là nó đã bị xé xác, và cho đến nay cha chẳng được nhìn lại nó. Nếu các con đem cả đứa này đi xa cha, và nó gặp tai hoạ, thì các con sẽ làm cho kẻ bạc đầu này phải đau khổ mà xuống âm phủ." Jacob vẫn tin Giuse đã bị thú dữ ăn thịt như lời các con nói với ông.
1.2/ Ông Giuse tỏ mình cho các anh: Khi nghe những lời tường thuật về cha già, ông Giuse không thể cầm lòng trước mặt tất cả những người đứng bên ông, nên ông kêu lên: "Bảo mọi người ra khỏi đây!" Khi không còn người nào ở với ông, ông Giuse mới tỏ cho anh em nhận ra mình. Ông oà lên khóc và người Ai-cập nghe được, triều đình Pharao cũng nghe thấy.
+ Phản ứng của các anh em: Họ bàng hoàng khi nghe những lời ông nói. Họ cảm thấy xấu hổ về những thiệt hại họ đã gây ra cho ông. Họ không thể thốt lên một lời nào vì quá xấu hổ.
+ Phản ứng của ông Giuse: Ông nói với anh em: "Hãy lại gần tôi." Họ lại gần. Ông nói: "Tôi là Giuse, đứa em mà các anh đã bán sang Ai-cập. Nhưng bây giờ, các anh đừng buồn phiền, đừng hối hận vì đã bán tôi sang đây: chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em."
Như một con người, ông có thể trả thù bằng cách bắt giữ các anh làm nô lệ cho mình; nhưng ông không làm điều đó, vì ông xác tín mọi việc xảy ra trong đời ông là do sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài gởi ông qua Ai-cập trước để dọn đường và để bảo vệ sự sống cho chính ông, cho gia đình, và cho các dân tộc. Nhiều tác giả đã so sánh Chúa Giêsu cũng mang trong mình sứ vụ như Giuse: Ngài hy sinh chịu mọi đau khổ để mưu cầu sự sống cho mọi người.
2/ Phúc Âm: Chính để loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã sai các môn đệ của Ngài đi.
2.1/ Bổn phận các môn đệ: Chúa chọn các Tông-đồ để huấn luyện các ông là cho một mục đích. Ngài biết sẽ phải từ bỏ thế gian để trở về với Chúa Cha, nên Ngài huấn luyện các ông để các ông thay Ngài tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Mục đích của việc rao giảng Tin Mừng là để con người nhận ra tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn con người tin vào Đức Kitô để được chung hưởng hạnh phúc với Ngài trên Thiên Đàng.
(1) Việc phải làm: Bổn phận hàng đầu của các môn đệ được Chúa Giêsu nói rất rõ ràng: "Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần." Để muôn dân tin vào lời các môn đệ rao giảng, Chúa Giêsu cũng ban cho các ông quyền chữa lành các vết thương hồn xác: "Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ." Mục đích của việc chữa lành là để muôn dân nhận ra quyền năng Thiên Chúa và tin vào Ngài, chứ không phải để kiếm các lợi lộc vật chất. Ngài truyền cho các ông: "Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy."
(2) Việc không được phép làm: Vì Chúa Giêsu biết trước những cám dỗ vật chất có thể làm các môn đệ xao lãng bổn phận rao giảng Tin Mừng; nên Ngài ngăn cấm các ông:
+ Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng: Người môn đệ trung thành của Đức Kitô không bao giờ được phép tìm kiếm những thứ này; ngày nào người môn đệ tìm kiếm những thứ này, họ không thể là người môn đệ của Đức Kitô, và lời rao giảng của họ sẽ mất hết hiệu lực.
+ Đừng tích trữ của cải mang theo: "Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy." Nhiều người cho những lời dạy này không thực tế, vì lên đường mà không có những vật dụng cần thiết, khi cần đến lấy gì mà dùng. Điều chính yếu Chúa Giêsu muốn nêu lên ở đây là người môn đệ phải sống một cuộc đời đơn giản. Nếu người môn đệ có quá nhiều của cải, làm sao ông có thể sẵn sàng lên đường đến những nơi xa xôi hẻo lánh để rao giảng Tin Mừng? Hơn nữa, Đức Kitô muốn các môn đệ phải tuyệt đối tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa, "vì thợ thì đáng được nuôi ăn." Thiên Chúa sẽ không để những nhà rao giảng Tin Mừng của Ngài phải chết đói dọc đường.
2.2/ Kiếm người xứng đáng để ở trọ: Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài sẽ không ngừng thúc đẩy những tâm hồn có lòng quảng đại để họ lo chăm sóc đời sống vật chất của các nhà rao giảng. Chính vì điều này mà Đức Kitô đã dạy các môn đệ: "Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi."
(1) Phần thưởng cho những người tiếp đón các môn đệ Chúa: "Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. Nếu nhà ấy xứng đáng, bình an của anh em sẽ đến với họ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em."
(2) Hình phạt cho những người không tiếp đón các môn đệ Chúa: "Nếu người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi nhà hay thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại. Thầy bảo thật anh em, trong Ngày Phán Xét, đất Sodom và Gomorrah còn được xử khoan hồng hơn thành đó."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi một biến cố xảy ra trong cuộc đời, chúng ta hãy tìm xem Thiên Chúa đang muốn chúng ta làm gì, và mau mắn thực hiện thánh ý của Ngài.
- Mọi điều Chúa răn dạy đều có lý do của nó, vì Chúa không bao giờ làm việc vô ích. Nếu chưa nhận ra lý do, hãy cầu nguyện để Thánh Thần giúp chúng ta nhận ra thánh ý của Ngài.
- Thiên Chúa cho chúng ta vào trần gian là cho một mục đích. Chúng ta phải nhận ra thánh ý của Ngài, và mau mắn chu toàn trước khi trở về với Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
08/7 Nhận ra sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 14 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 41:55-57, 42:5-7, 17-24; Mt 10:1-7.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nhận ra sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa.
Biến cố 30 tháng tư năm 1975 đã thay đổi cuộc đời của rất nhiều cá nhân, gia đình, cộng đoàn, quốc gia Việt-nam cũng như các quốc gia đón nhận người tị nạn. Khi biến cố này xảy ra, đa số cho là một biến cố tủi nhục, kinh hoàng, và gây ra biết bao đau khổ cho con dân Việt-nam; nhưng gần 40 năm sau nhìn lại, chúng ta nhận ra nhiều điều tốt đẹp đến từ biến cố này: (1) Mỗi năm, việt kiều trên khắp năm châu gởi về Việt-nam cả hàng tỷ bạc để giúp người thân bên quê nhà có phương tiện sinh sống. (2) Rất nhiều Việt-kiều có cơ hội tiếp xúc với và đón nhận tinh hoa của các nền văn minh của thế giới; mà nếu không có biến cố 1975, họ chỉ quanh quẩn bên lũy tre xanh và con trâu của làng quê. (3) Nhiều linh mục và tu sĩ Việt-nam đang truyền giáo và làm việc tông đồ cho các dân tộc đã từng truyền giáo và làm việc tông đồ bên Việt-nam; để đáp ứng sự khan hiếm linh mục và tu sĩ đang xảy ra trong Giáo Hội... Nhìn lại lịch sử của biến cố 30 tháng tư, chúng ta phải chấp nhận bàn tay của Thiên Chúa làm việc qua biến cố này.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta nhận ra sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa qua các biến cố lịch sử. Trong Bài Đọc I, vì ghen tị, các anh em ông Giuse đã bán ông cho các lái buôn người Ai-cập, và nói dối cha em mình bị thú dữ ăn thịt. Cha ông và các anh em tưởng sẽ không bao giờ còn gặp lại Giuse nữa; nhưng Chúa quan phòng đã định liệu cách khác. Các anh em ông bị đói và phải lặn lội qua Ai-cập để mua thức ăn, và họ đã gặp lại Giuse. Trong Phúc Âm, có ai ngờ một nhóm môn đệ Chúa Giêsu thiết lập: quê mùa, thất học, yếu đuối, sợ hãi... lại có thể đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng và làm nền tảng cho một tôn giáo gần một nửa dân số địa cầu?
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Cứ đến với ông Giuse; ông bảo gì, các ngươi hãy làm theo.
1.1/ Thiên Chúa chuẩn bị cho cuộc đời ông Giuse: Để hiểu trình thuật hôm nay, chúng ta phải trở về với biến cố các anh em bán Giuse cho các lái buôn Ai-cập tại Dothan. Giuse là một trong 12 người con của tổ-phụ Jacob, và là anh em cùng mẹ với em út là Benjamin. Vì Jacob có Giuse trong lúc tuổi già, nên ông thương Giuse hơn mọi anh em khác. Giuse được Thiên Chúa ban cho có biệt tài giải thích các điềm chiêm bao. Vì những điều này mà anh em ghét và tìm cách triệt hạ ông. Và cơ hội tới khi Jacob sai Giuse mang thức ăn ra đồng cho các anh em. Thoạt đầu họ muốn thủ tiêu Giuse; nhưng nhờ sự can thiệp của anh cả Reuben, họ đồng ý ném Giuse xuống một cái giếng khô và để đó cho chết đói. Họ lại đổi ý khi đang ngồi ăn, vì anh Judah đề nghị bán em mình cho các lái buôn; và họ đồng ý bán em với giá 20 đồng bạc. Những người này đưa Giuse về Ai-cập. Cuộc đời Giuse ba chìm bảy nổi kể từ đó, nhưng nhờ có biệt tài giải thích điềm chiêm bao, Giuse đã được triệu tập vào cung điện để giải thích điềm chiêm bao cho vua Pharao, và được thăng chức Tể Tướng trong triều đình chỉ thua vua Pharao (x/c Gen 37-50).
1.2/ Cuộc gặp gỡ giữa Giuse và các anh em ông: Thiên Chúa làm cho xảy ra một nạn đói lớn trên toàn xứ sở. Khắp nơi trong xứ bị đói kém. Toàn xứ Ai-cập bị đói và dân chúng kêu lên Pharao xin bánh ăn. Pharao nói với mọi người Ai-cập: "Cứ đến với ông Giuse; ông bảo gì, các ngươi hãy làm theo." Nạn đói không những chỉ hoành hành trong Ai-cập mà lan tràn ra khắp nơi. Từ mọi xứ, người ta đến Ai-cập để mua lúa mì của ông Giuse. Giữa đám người đến mua lúa, cũng có mặt các con ông Israel, vì đất Canaan bị đói kém.
(1) Phản ứng của Giuse: Ông Giuse bấy giờ có toàn quyền trong xứ, và ông bán lúa cho toàn dân trong xứ. Các anh ông Giuse đến và cúi sấp mặt xuống đất lạy ông. Vừa nhìn thấy các anh mình, ông Giuse nhận ra họ, nhưng làm như người xa lạ đối với họ, và nói với họ cách cứng cỏi. Ông hỏi họ: "Các người từ đâu đến?" Họ đáp: "Thưa từ đất Canaan, để mua lương thực." Ông giam giữ họ ba ngày. Đến ngày thứ ba, ông Giuse bảo họ: "Các người muốn sống thì hãy làm thế này, vì ta kính sợ Thiên Chúa. Nếu các người là những kẻ lương thiện, thì một anh em cứ phải chịu giam trong nhà tù này, còn các người khác thì hãy ra đi, đem lúa về cho gia đình khỏi đói. Rồi các người hãy đem đứa em út đến cho ta. Bấy giờ sẽ rõ là các người nói đúng, và các người sẽ không phải chết." Họ đã làm như vậy.
(2) Phản ứng của các anh em ông: Họ không nhận ra Giuse trong y phục của triều đình; nhưng họ ăn năn hối hận vì đã gây thiệt hại cho ông. Họ bảo nhau: "Than ôi! Chúng ta có lỗi với em chúng ta: chúng ta đã thấy nó phải ngặt nghèo. Nó đã năn nỉ chúng ta, nhưng chúng ta chẳng nghe. Chính vì thế mà chúng ta gặp cảnh ngặt nghèo này."
Họ biết đã vay, phải đền trả. Người anh cả Reuben nhắc nhở các anh em truyện quá khứ: "Tôi đã chẳng bảo các chú thế này sao: "Đừng phạm tội hại đến thằng bé!" nhưng các chú đã không chịu nghe. Bây giờ thì phải đền nợ máu nó!"
Họ không biết rằng ông Giuse hiểu được ngôn ngữ họ đang nói. Bấy giờ ông lánh ra chỗ khác mà khóc, sau đó mới trở lại nói chuyện với họ. Trong số họ, ông bắt ông Simeon và cho trói trước mặt họ. Còn các anh em khác, sau khi bán lúa mì, ông phóng thích cho họ về nhà.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu huấn luyện các Tông-đồ và sai đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng.
2.1/ Chúa ban cho các Tông-đồ mọi quyền năng để phân phát cho dân chúng: Trong sự quan phòng rất khôn ngoan, Chúa Giêsu không làm việc một mình; nhưng Ngài chọn các Tông-đồ để huấn luyện, ban quyền năng, và ủy thác cho sứ vụ tiếp tục loan truyền Tin Mừng đến mọi người. Noi gương Chúa Giêsu, Giáo Hội trải qua bao thế hệ vẫn tiếp tục sứ vụ này: một mặt không ngừng rao giảng Tin Mừng đến mọi dân tộc, một mặt lo đào tạo hàng giáo sĩ, ban quyền năng, và sai đi, để họ có thể tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho thế hệ tương lai. Nhìn lại lịch sử của Giáo Hội, chúng ta không còn gì nghi ngờ về sự hiện diện luôn của Đức Kitô trong Giáo Hội.
2.2/ Tập hợp của các môn đệ Chúa Giêsu: "Sau đây là tên của mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Simon, cũng gọi là Phêrô, rồi đến ông Anrê, anh của ông; sau đó là ông Giacôbê con ông Zebedee và ông Gioan, em của ông; ông Philíp và ông Bartholomeo; ông Tôma và ông Matthêu người thu thuế; ông Giacôbê con ông Alphê và ông Tađêô; ông Simon thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giuđa Iscariot, là chính kẻ nộp Người."
- Nhìn vào danh sách các Tông-đồ, điều đầu tiên chúng ta nhận ra là những con người tầm thường, chẳng có gì nổi bật so với tiêu chuẩn của thế gian, đấy là chưa kể đến yếu đuối, tội lỗi. Điều này chứng minh: sức mạnh và uy quyền hoàn toàn của Thiên Chúa. Ngài giúp con người tầm thường làm những việc phi thường.
- Con người thường hay chọn những người cùng một sở thích hay tính tình giống nhau. Chúa Giêsu chọn các Tông-đồ có tính tình khác nhau, nhiều khi đến chỗ xung khắc: một Phêrô nhanh nhẩu nói năng phải ở với Gioan thâm trầm, ít nói; một Simon nhiệt thành chống lại uy quyền ngoại bang phải ở với Matthew, người thu thuế cho ngoại bang; một Thomas từ chối không tin tất cả lời chứng Chúa đã sống lại và hiện ra của tất cả Tông-đồ khác. Thế mà Thiên Chúa có thể làm cho các ông dẹp khác biệt cá nhân, để sống chung và cùng nhau thi hành sứ vụ Ngài trao.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa là Đấng quan phòng mọi biến cố xảy ra trong vũ trụ này, chứ không có một thần nào khác. Chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng nơi quyền năng của Ngài.
- Chúng ta đừng vội trách Chúa, trách người, khi các biến cố xảy ra; nhưng hãy tìm đâu là ý Thiên Chúa, và cố gắng hết sức thi hành để sinh ích cho cá nhân, gia đình, và cộng đoàn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
07/7 Thiên Chúa kiên trì cứu độ con người
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 14 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 32:23-33; Mt 9:32-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa kiên trì cứu độ con người.
Người Hy-lạp và một số tôn giáo lớn, mặc dù tin có một Đấng dựng nên và điều khiển mọi sự, nhưng họ không tin Đấng Tạo Hóa quan tâm đến đời sống vất vả và cực khổ của con người. Lý do: Họ tin Đấng Tạo Hóa không bao giờ thay đổi. Nếu Đấng Tạo Hóa quan tâm hay nhận lời cầu xin của con người, Ngài đã bị con người thay đổi. Ngược lại, chúng ta tin Thiên Chúa luôn quan tâm và săn sóc cho mọi nhu cầu của con người. Thiên Chúa có uy quyền đến độ, tuy Ngài đáp ứng những lời cầu xin của con người, vẫn không thay đổi trong sự quan phòng vũ trụ của Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay chứng minh Thiên Chúa quan tâm đến cuộc sống con người và luôn kiên trì để dạy dỗ và chữa lành con người. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế tường thuật biến cố Thiên Chúa hiện ra và vật lộn với tổ-phụ Jacob suốt đêm. Biến cố này muốn nói Thiên Chúa kiên trì trong việc cứu độ con người, và con người luôn phải bám lấy Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu vất vả ngược xuôi để dạy dỗ, rao giảng Tin Mừng, và chữa lành mọi vết thương hồn xác cho con người. Ngài thương dân vất vả tả tơi như chiên không người chăn, và dạy các môn đệ phải luôn cầu nguyện để Thiên Chúa gởi đến các mục tử tốt lành chăn dắt chiên.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Jacob vật lộn với Thiên Chúa.
1.1/ Mối thù hận giữa Esau và Jacob: Để hiểu trình thuật hôm nay, chúng ta cần phải biết mối thù hận giữa hai anh em sinh đôi, Esau và Jacob. Tuy Esau là anh vì sinh ra trước; nhưng bà mẹ Rebekah đã lập kế hoạch để Jacob tước đoạt quyền trưởng nam và lời chúc lành từ cha là Isaac. Esau tức giận về kế hoạch này và tìm cách trả thù. Esau cùng với 400 thuộc hạ của ông đang trên đường đi gặp Jacob, và Jacob đang trên đường chạy trốn Esau, anh mình. Ông rất lo lắng cho số phận của ông và gia đình, nên ông đã cầu nguyện với Thiên Chúa: "Xin giải thoát con khỏi tay anh con, khỏi tay anh Esau, vì con sợ anh ấy, sợ anh ấy đến đánh chúng con, đánh cả mẹ lẫn con" (Gen 32:12).
(1) Cuộc vật lộn suốt đêm giữa Jacob và người lạ mặt: "Đêm đó, ông Jacob dậy, đem theo hai bà vợ, hai người nữ tỳ và mười một đứa con, và ông lội qua sông Jabbok. Ông đem họ theo, đưa họ qua sông, rồi đưa tài sản của ông qua. Ông Jacob ở lại một mình; và có một người đến vật lộn với ông cho đến lúc rạng đông."
Cuộc vật lộn giữa con người với thần minh thường xảy ra trong các truyện thần thoại. Trong các câu truyện như thế, thần minh thường là người trấn giữ các con sông, thường có mặt lúc ban đêm, và thường bị buộc phải tiết lộ tông tích hay những điều bí mật cho con người. Tất cả những yếu tố này đều có trong trình thuật hôm nay. Điều này nói lên tác giả Sách Sáng Thế có thể bị ảnh hưởng bởi những truyện này, với mục đích để chuyển giao ý định của Thiên Chúa cho con người.
(2) Kết quả cuộc vật lộn: "Thấy không thắng được ông, người đó bèn đánh vào khớp xương hông của ông, và khớp xương hông của ông Jacob bị trật đang khi ông vật lộn với người đó." Người lạ yêu cầu: "Buông ta ra, vì đã rạng đông rồi." Nhưng ông đáp: "Tôi sẽ không buông ngài ra, nếu ngài không chúc phúc cho tôi." Người đó hỏi ông: "Tên ngươi là gì?" Ông đáp: "Tên tôi là Jacob." Ông Jacob hỏi: "Xin cho tôi biết tên ngài." Người đó nói: "Sao ngươi lại hỏi tên ta?" Và người đó chúc phúc cho ông tại đấy.
Người lạ mặt từ chối mặc khải tên mình cho Jacob; nhưng sự kiện người đó chúc lành cho Jacob mặc khải phần nào tông tích của Ngài. Jacob có thể đoán ra được qua việc ông đặt tên cho nơi đó là Peniel, có nghĩa "mặt của Thiên Chúa." Hơn nữa, lời giải thích sau đó cũng chứng minh Jacob biết đó là Thiên Chúa: Ông Jacob đặt tên cho nơi đó là Penuel, "vì ông nói: tôi đã thấy Thiên Chúa mặt đối mặt, mà tôi đã được tha mạng."
1.2/ Hậu quả của cuộc vật lộn:
(1) Thiên Chúa đổi tên và chúc lành cho Jacob: Thiên Chúa đổi tên cho Jacob thành Israel, có nghĩa: "người đã đấu với Thiên Chúa và với người ta, và ngươi đã thắng." Động từ thi đấu dùng ở đây là "sarah" được dùng ở thời quá khứ với tiếp vĩ ngữ là "yisra-el." Mối liên hệ giữa Thiên Chúa và Israel được ví như một cuộc vật lộn, và Israel sẽ thắng dù không xứng đáng. Đổi tên ai là trao cho người đó cho một sứ vụ. Thiên Chúa trao cho Jacob sứ vụ là tổ-phụ của một dân riêng. Dân riêng này mang tên của ông là Israel, dân luôn được Thiên Chúa chúc lành.
(2) Jacob bị trật xương hông: Tuy Jacob thắng thế, nhưng ông phải trả giá cho cuộc vật lộn chứ không hoàn toàn bình an vô sự: ông phải đi khập khiễng vì bị trật xương hông. Việc dân Do-thái không ăn gân đùi có lẽ là một truyền thống xa xưa, vì người Do-thái không còn thói quen này nữa.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu kiên trì chữa lành và dạy dỗ con người.
2.1/ Chúa Giêsu đi khắp nơi để chữa lành và rao giảng Tin Mừng: Trong 3 năm công khai rao giảng, Chúa Giêsu đã lang thang khắp miền Palestine để rao giảng Tin Mừng và chữa lành các vết thương hồn xác cho con người. Tuy thế, Ngài cũng gặp biết bao chống đối từ các kinh-sư, luật sĩ, và nhà cầm quyền Rôma. Trình thuật hôm nay là một trường hợp điển hình.
(1) Hai phản ứng trước phép lạ Chúa Giêsu trục xuất quỉ ám ra khỏi người câm:
+ Dân chúng kinh ngạc, nói rằng: "Ở Israel, chưa hề thấy thế bao giờ!" Người chất phác thành thật thấy sao nói vậy; họ không bị ảnh hưởng bởi thành kiến và các tính toán lợi nhuận.
+ Nhưng người Pharisees lại bảo: "Ông ấy dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ." Họ buộc tội Chúa có liên hệ với quỷ vương để khỏi phải tin và giữ những gì Chúa dạy; hơn nữa, họ không muốn toàn dân tin theo Chúa vì họ sẽ mất uy quyền, thế lực, và những lợi nhuận vật chất.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Chẳng quan tâm đến những lời phê bình của họ, Chúa Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Ba việc tông đồ Ngài làm gương cho chúng ta:
+ Dạy dỗ: để dân chúng biết đâu là sự thật từ biết bao điều sai trái trong thế gian.
+ Rao giảng Tin Mừng: loan báo tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho con người, và chỉ đường cho con người biết sống làm sao để đạt được hạnh phúc muôn đời bên Ngài.
+ Chữa lành mọi vết thương hồn xác: Chúa Giêsu cảm thương với những đau khổ hồn xác của con người. Ngài muốn mặc lấy để cứu chữa hay cất đi tất cả khổ đau mà con người phải chịu.
2.2/ Chúa Giêsu lo lắng nhân loại không đủ người dẫn dắt: Không phải chỉ lo cho thế hệ đương thời, Ngài còn lo cho các thế hệ tương lai. Chỉ một câu vắn vỏi, nhưng đã lột tả hết sự quan tâm của Chúa Giêsu: "Khi Đức Giêsu nhìn thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt." Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa luôn quan tâm đến cuộc sống của mỗi người chúng ta. Ngài tìm đủ mọi cách để săn sóc, dạy dỗ, và chữa lành mọi vết thương hồn xác của chúng ta.
- Chúng ta phải kiên trì với Thiên Chúa trong đau khổ và thử thách. Một khi đã được chữa lành, chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa trong việc săn sóc, dạy dỗ, và chữa lành tha nhân.
- Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt quá ít ỏi. Trong Năm Thánh Linh Mục, chúng ta hãy tìm mọi cách để gia tăng ơn gọi linh mục và tu sĩ; để có nhiều thợ rành nghề làm việc cho Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
06/7 Thiên Chúa quan tâm đến cuộc sống con người
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 14 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 28:10-22; Mt 9:18-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa quan tâm đến cuộc sống con người.
Nhiều người trong chúng ta tự hỏi: Làm sao Thiên Chúa có thể nghe một lúc biết bao những lời cầu xin dâng lên Ngài, và làm sao Ngài có thể nhớ hết những lời cầu xin này mà ban ơn? Kinh Thánh chứng minh: nhiều lần Thiên Chúa dùng các thiên thần như những sứ giả để chuyển đến Ngài những lời cầu xin của con người, và chuyển đến con người những mệnh lệnh của Thiên Chúa. Các thiên thần hộ thủ là những người có bổn phận trực tiếp với con người.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng Thiên Chúa vẫn hằng quan tâm đến con người, nhất là trong những lúc lo âu, tuyệt vọng, và chết chóc. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế tường thuật giấc mơ chiếc thang bắc từ đất lên tới trời, với sứ thần của Thiên Chúa lên xuống trên chiếc thang này để làm những sứ giả giữa Thiên Chúa và con người. Trong giấc mơ, Thiên Chúa hứa sẽ thực hiện lời Ngài đã hứa với Abraham và Isaac; đồng thời Ngài cũng hứa sẽ bảo vệ Jacob ở mọi nơi và trong tất cả việc ông làm. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chữa lành hai bệnh nhân "không sạch:" Một người bị băng huyết nhưng với một niềm tin vững mạnh tới và sờ vào tua áo của Ngài. Một em bé đã chết, nhưng nhờ lòng tin của người cha, đã được Chúa Giêsu cho sống lại.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa xác tín lời chúc lành của Isaac cho Jacob.
1.1/ Giấc mơ chiếc thang của Jacob: Trình thuật kể: "Jacob ra khỏi Beer Sheba và đi về Haran. Cậu đến một nơi kia và nghỉ đêm tại đó vì mặt trời đã lặn. Cậu lấy một hòn đá ở nơi đó để gối đầu và nằm ngủ ở đó. Cậu chiêm bao thấy một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống."
Jacob đang trên đường trốn chạy Esau, anh ông; vì ông đã theo kế hoạch của mẹ, tước đoạt quyền trưởng nam của Esau. Jacob sợ anh sẽ kiếm kế trả thù, nên phải chạy trốn để bảo toàn tính mạng. Chiêm bao là một cách thường xuyên Thiên Chúa dùng để mặc khải ý định của Ngài, như chúng ta sẽ thấy được dùng thường xuyên trong trình thuật của Giuse, con của Jacob. Chiếc thang được dùng để nối kết giữa Trời và đất; và các thiên thần là những sứ giả của Thiên Chúa. Họ đem lệnh truyền từ Thiên Chúa xuống con người và dâng lời cầu nguyện của con người lên Thiên Chúa.
Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu nhắc lại biến cố chiếc thang nối liền giữa trời và đất này cho Nathanael; trong đó, Chúa Giêsu ví mình như chiếc thang mà các thiên thần sẽ lên xuống (Jn 1:51). Lời hứa của Thiên Chúa với Jacob gồm hai phần.
- Phần thứ nhất, Thiên Chúa lặp lại lời Ngài đã hứa với Abraham và Isaac về việc ban Đất Hứa và con đàn cháu đống: "Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của Abraham, tổ phụ ngươi, và là Thiên Chúa của Isaac. Đất ngươi đang nằm, Ta sẽ ban cho ngươi và giòng dõi ngươi. Giòng dõi ngươi sẽ nhiều như bụi trên đất; ngươi sẽ lan tràn ra khắp đông tây nam bắc. Nhờ ngươi và giòng dõi ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc."
- Phần thứ hai là lời hứa của Thiên Chúa sẽ bảo vệ Jacob: "Này Ta ở với ngươi; ngươi đi bất cứ nơi nào, Ta sẽ giữ gìn ngươi, và Ta sẽ đưa ngươi về đất này, vì Ta sẽ không bỏ ngươi cho đến khi Ta hoàn thành điều Ta đã phán với ngươi." Qua lời hứa này, Thiên Chúa muốn chứng tỏ cho Jacob biết Ngài không bị giới hạn vào không gian hay thời gian; Jacob không phải lo sợ bất cứ một kẻ thù nào cả. Lời hứa này được thực hiện khi Jacob sang Ai-cập đoàn tụ với Giuse, con mình, và khi chết được mang về an nghỉ trong phần đất của tổ tiên mà Thiên Chúa đã hứa.
Khi Jacob tỉnh giấc, ông nói: "Quả thật, có Đức Chúa ở nơi này mà tôi không biết!" Đất Canaan mà Jacob đang nằm là vùng đất của Dân Ngoại. Nêu lên điều này, tác giả Sách Sáng Thế muốn chứng minh chỉ có Thiên Chúa của Do-thái là Thiên Chúa thật. Ngài hiện diện ở mọi nơi, ngay cả những vùng được coi là chỗ linh thiêng của Dân Ngoại.
1.2/ Hành động của Jacob sau khi tỉnh giấc mơ.
(1) Đặt tên cho nơi đó là Bethel: Jacob phát sợ và nói: "Nơi này đáng sợ thay! Đây là nhà của Thiên Chúa, là cửa trời, chứ không phải là gì khác." Sáng hôm sau, Jacob dậy sớm, lấy hòn đá cậu đã gối đầu, dựng lên làm trụ và đổ dầu lên đầu trụ. Cậu đặt tên cho nơi đó là Bethel; trước đó, tên thành ấy là Luz. Sự kiện đặt viên đá và đổ dầu lên trên là hành động thánh hiến nơi thánh như thánh đường chúng ta hay làm hiện nay. Nhà của Thiên Chúa sẽ được dựng nên tại Bethel, và trở thành Đền Thờ của vương quốc Israel sau này. Bethel chỉ cách Jerusalem khoảng 10 km về phía Nam, và là một vị thế chiến lược rất quan trọng.
(2) Lời khấn hứa của Jacob cũng gồm hai phần:
+ Phần của Thiên Chúa: Ông khấn: "Nếu Thiên Chúa ở với tôi và giữ gìn tôi trong chuyến đi tôi đang thực hiện, nếu Người ban cho tôi bánh ăn áo mặc, nếu tôi được trở về nhà cha tôi bình an... "
+ Phần của Jacob: "Đức Chúa sẽ là Thiên Chúa của tôi, hòn đá này là hòn đá tôi đã dựng lên làm trụ sẽ là nhà của Thiên Chúa, và lạy Chúa, mọi sự Ngài ban cho con, con sẽ dâng cho Ngài một phần mười." Thói quen dâng cúng một phần mười lợi tức cho Thiên Chúa, được mô tả rõ ràng trong Sách Lêvi, có nguồn gốc từ đây.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu hy sinh việc giữ Lề Luật để chữa lành cho hai bệnh nhân không sạch.
2.1/ Chúa chữa lành người đàn bà bị loạn huyết: Luật không cho phép đụng vào người phụ nữ đang bị chảy máu như người đàn bà này, vì không sạch (Lv 15:25). Có lẽ vì lý do để tránh cho Chúa Giêsu trở thành không sạch "cách công khai," mà một người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm tiến đến phía sau Chúa Giêsu, và sờ vào tua áo của Người, vì bà nghĩ bụng: "Tôi chỉ cần sờ được vào áo của Người thôi là sẽ được cứu!"
Trong trình thuật dài hơn của Marcô, Chúa Giêsu quay lại hỏi "Ai đã sờ vào áo Ta?" Trình thuật của Matthew chỉ tường thuật phần sau của câu truyện: Chúa Giêsu quay lại thấy bà thì nói: "Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con." Và ngay từ giờ ấy, bà được cứu chữa.
2.2/ Chúa cho con gái viên thủ lãnh đã chết được sống lại: Luật cũng không cho phép đụng vào xác chết, ai đụng vào xác chết sẽ trở thành không sạch. Biết như thế, nhưng một vị thủ lãnh vẫn đến gần bái lạy Người và nói: "Con gái tôi vừa mới chết. Nhưng xin Ngài đến đặt tay lên cháu, là nó sẽ sống." Đức Giêsu đứng dậy đi theo ông ấy, và các môn đệ cũng đi với Người.
Đức Giêsu đến nhà viên thủ lãnh; thấy phường kèn và đám đông xôn xao, Người nói: "Lui ra! Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy!" Nhưng họ chế nhạo Người. Khi đám đông bị đuổi ra rồi, thì Người đi vào, cầm lấy tay con bé, nó liền trỗi dậy.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa hằng quan tâm đến cuộc sống của con người. Chúng ta hãy luôn giữ thái độ tin tưởng và cầu xin với Ngài trong mọi trạng huống của cuộc đời: khi vui cũng như lúc sầu khổ.
- Chúng ta không bao giờ được phép tuyệt vọng cho dù hoàn cảnh có bi đát đến đâu chăng nữa. Nếu Thiên Chúa có thể cho kẻ đã chết sống lại, không gì là không thể đối với Ngài.
- Thiên Chúa luôn trung thành giữ những gì Ngài hứa: Ngài luôn bảo vệ con cái Ngài dù họ lưu lạc bất cứ nơi nào.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
05/7 Nhận ra sứ giả của Thiên Chúa
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
NHẬN RA SỨ GIẢ CỦA THIÊN CHÚA
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN NĂM B (05/07/2015)
[Ed 2,25; 2 Cr 12,710; Mc 6,16]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Kinh nghiệm đời sống tâm linh cho thấy nhiều người hoặc vì cứng đầu cứng cổ, hoặc vì thành kiến mà không nhận ra sứ giả của Thiên Chúa. Con cái Ítraen thời
ngôn sứ Êdêkien, vì cứng đầu cứng cổ, nên không nhận ra có một ngôn sứ đang ở
giữa họ là Êdêkien. Vị ngôn sứ là tiếng nói của Thiên Chúa, là người nói thay
Thiên Chúa, để chỉ dậy cho dân biết đường lối, ý định, kế hoạch cứu độ của Thiên
Chúa.
Còn dân làng Nadarét, vì thành kiến và không tin, nên không nhận ra Chúa Giêsu
là vị đại ngôn sứ, là chính Lời Thiên Chúa nhập thể làm người và ở giữa dân Người. Kinh nghiệm của người xưa phải giúp mỗi người, mỗi cộng đoàn chúng ta nhậy bén
và tỉnh thức trong việc nhận ra các sứ giả của Thiên Chúa! Vậy xin mời các bạn đọc
kỹ và tìm hiểu các bài Sách Thánh hôm nay.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Ed 2,25): Chúng vốn là nòi phản loạn, chúng phải biết
rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng. "2 Bấy giờ, thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Người phán với tôi và làm cho
chân tôi đứng 3 Người phán với tôi: "Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con
cái Ítraen, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như
cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. 4 Những đứa con mặt dày
mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: "Đức Chúa là Chúa
Thượng phán thế này." 5 Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc
không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng." 2.2 Trong bài đọc 2 (2 Cr 12,710): Tôi tự hào về những yếu đuối của tôi để sức
mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. "7 Thưa anh em, để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận
được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xatan được sai
đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. 8 Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi
khổ này. 9 Nhưng Người quả quyết với tôi: "Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức
mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối." Thế nên tôi rất vui mừng
và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. 10
Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ,
ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh." 2.3 Trong bài Tin Mừng(Mc 6,16): Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở
chính quê hương mình.
"1 Hồi ấy, Đức Giêsu trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. 2 Đến ngày
sabát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc
nhiên. Họ nói: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy,
nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? 3 Ông ta
không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết,
Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta
sao?" Và họ vấp ngã vì Người. 4 Đức Giêsu bảo họ: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì
cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia
đình mình mà thôi." 5 Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ
đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. 6 Người lấy làm lạ vì họ không tin."
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA
BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): 1o) Bài đọc 1 (Ed 2,25) là một trích đoạn của Sách Ngôn Sứ Êdêkien trong đó vị
ngôn sứ nói về sứ mạng mà Thiên Chúa đã ép ông phải nhận. Sứ mạng đó là nói Lời
Thiên Chúa cho những người Ítraen nổi tiếng là ngỗ ngược và cứng đầu cứng cổ!
Trong đoạn Thánh Kinh này chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng chịu đựng sự ngỗ
ngược và cứng đầu cứng cổ của dân Ítraen và tìm mọi cách để thay đổi họ, để biến
họ thành những người dễ bảo và vâng phục.
2o) Bài đọc 2 (2 Cr 12,710) là một trích đoạn của thư 2 Côrintô trong đó Thánh
Phaolô nói về sự yếu đuối hoặc khiếm khuyết hoặc cám dỗ thiêng liêng mà ngài
phải chịu đựng suốt cuộc đời. Chúng ta không rõ đó là gì, vì Thánh Phaolô nói một
cách rất mơ hồ là "một cái dằm." Cái dằm thì không đủ làm cho người ta chết,
nhưng nó làm cho người ta khó chịu và đau đớn. Điều chúng ta cần ghi nhận là nhờ
cái dằm ấy mà Thánh Phaolô sống cách khiêm tốn giữa bao ơn huệ lớn lao mà
Thiên Chúa đã ban cho ngài. Trong đoạn Thánh Thư này chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng ban mọi ơn cần thiết
cho Phaolô (và chúng ta), để Phaolô (và chúng ta) sống đẹp lòng Thiên Chúa, làm
chứng cho quyền năng của Người và phục vụ kế hoạch làm cho dân ngoại nhận biết
Thiên Chúa.
3o) Bài Tin Mừng (Mc 6,16) là bài tường thuật của Phúc âm Máccô về cách suy
nghĩ và hành động của những người đồng hương đối với Đức Giêsu ở Nadarét. Khi thấy Đức Giêsu bộc lộ sự khôn ngoan khác người, dân làng Nadarét cũng
ngạc nhiên và thắc mắc; nhưng họ hoặc chỉ dựa vào những gì họ biết về Người (cha
mẹ, họ hàng, nghề nghiệp, tài sản và giai cấp xã hội) hoặc ganh tỵ không muốn
Người hơn họ, nên sinh ra nghi ngờ và không tin, thậm chí còn tìm cách xô đẩy
Người xuống vực (xem Lc 4,29). Trong đoạn Phúc âm này chúng ta thấy Chúa Giêsu là Đấng rất đơn sơ chân chất và
hiền hòa, dễ thương. Bằng chứng là Người tỏ ra ngạc nhiên về thái độ không tin của
những người đồng hương và vui vẻ đi đến các làng chung quanh để giảng dạy.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?):
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là
mỗi người,
mỗi cộng đoàn (gia đình/giáo xứ/hội dòng) chúng ta
bỏ tính ngỗ ngược và thái độ cứng đầu cứng cổ, bỏ thành kiến và thái độ không tin,
mà nhận ra sứ giả của Thiên Chúa trong cuộc đời (cá nhân và cộng đoàn) mình.
Sứ giả của Thiên Chúa có thể là một người đóng vai sứ ngôn nói lời ngay thẳng khó
nghe vì lời ấy là lời của Thiên Chúa chân thật; có thể là chính Thiên Chúa dưới vẻ
bề ngoài của một người nghèo hèn, bị khinh rẻ và bị bỏ rơi bởi đồng loại.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng đã vì yêu thương chúng ta mà dùng các sứ gỉa để
nhắc nhở chúng ta nhớ Lời của Người, để cảnh cáo chúng ta về thái độ cứng đầu
cứng cổ hay thành kiến và không tin, mà sống theo Thánh Ý Người. 4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Chúng ta được mời gọi chuyên cần lắng nghe và thực hành Lời Chúa, và mở rộng
tâm hồn và đời sống đón rước các sứ giả mà Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta, rất
nhiều khi là một cách hết sức bất ngờ!
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý
thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ
bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe,
nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.» Chúng ta hiệp
lời cầu nguyện cho các dân tộc cứng lòng và mù quáng nên không nhận ra các sứ giả
và không đón nhận các sứ ngôn của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu nguyện!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Bấy giờ, thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Người phán với tôi và làm
cho chân tôi đứng.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Đức Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, cho các linh mục và phó tế,
luôn được Thần Khí Thiên Chúa chiếm hữu và hướng dẫn để các vị vững vàng trong
sứ mạng bênh vực công lý và sự thật. Xướng: Chúng ta cùng cầu nguyện!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Người lấy làm lạ vì họ không tin.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho giáo dân
của giáo xứ chúng ta, cách riêng cho những người tham dự thánh lễ này, để ai nấy
có lòng tin mạnh mẽ vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu nguyện!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Chính Ta sai ngươi đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta.»
Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho các chiến sĩ truyền giáo, cho các cá nhân và tổ
chức bênh vực nhân quyền, bảo vệ sự sống và môi trường để họ trung kiên với sứ
mạng khó khăn trong các xã hội ngày nay. Xướng: Chúng ta cùng cầu nguyện!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
05/7 Những điều ngăn cản con người không nhìn ra sự thật
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 14 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Eze 2:2-5; II Cor 12:7-10; Mk 6:1-6.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những điều ngăn cản con người không nhìn ra sự thật.
Trong hành trình đi tìm sự thật, con người cần phải học biết Thiên Chúa, biết tha nhân, và biết chính mình. Nếu chỉ ngông cuồng biết mình thôi, con người dễ phản loạn chống lại Thiên Chúa và tha nhân. Hơn nữa, khi con người chỉ biết mình, con người sẽ dễ kiêu hãnh và khinh thường Thiên Chúa và tha nhân.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra một số lý do tại sao con người không tin Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I: Vì tính ngông cuồng và phản loạn, dân tộc Israel đã lạc xa đường lối Thiên Chúa. Tiên tri Ezekiel được Thiên Chúa sai tới để chinh phục họ về cho Ngài. Trong Bài Đọc II: Để ngăn ngừa tính kiêu hãnh của Phaolô, Thiên Chúa đã bắt ông chịu đau khổ để ông nhận ra một điều quan trọng: sức mạnh ông có được đến từ Thiên Chúa. Ngài hoạt động trong những yếu đuối của Phaolô. Trong Phúc Âm: Được chứng kiến những lời khôn ngoan từ miệng Chúa và chứng kiến những phép lạ Ngài làm, thay vì những người đồng hương Nazareth đánh giá Chúa trên những giá trị này để tin vào Chúa; họ lại đánh giá gia đình, tài sản, địa vị, và các môn đệ, những điều không phải là Chúa, để rồi khinh thường và không tin vào Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Giống nòi phản loạn không chịu tin vào Thiên Chúa.
1.1/ Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá: Dân tộc Israel bị Thiên Chúa mắng là giòng giống phản loạn. Thiên Chúa phán với Tiên-tri Ezekiel: "Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng."
Đặc tính của người phản loạn:
+ Họ không muốn nghe lời của bất cứ ai: Họ lấy mình làm tiêu chuẩn để phán xét mọi người. Họ không muốn nghe lời Thiên Chúa hay những gì Ngài nói qua các ngôn sứ.
+ Họ khó chịu khi thấy ai làm gì không giống họ: Họ không muốn tin Thiên Chúa; đã vậy, họ còn ngăn cản những ai tin vào Thiên Chúa. Lý do: những tín hữu khuấy động lương tâm của họ. Người Do-thái bắt bớ và truy tố các ngôn sứ, vì các ngôn sứ không chịu phản loạn như họ.
+ Họ muốn làm gì thì làm: Giống như con ngựa bất kham, không muốn đeo bất cứ điều gì trên người để tự do bay nhảy tung tăng khắp chốn; nhưng người chủ phải chế ngự nó bằng giây cương hàm thiết, nó mới chịu ngoan ngoãn thi hành lệnh của chủ. Giống người phản lọan cũng thế, họ không muốn giữ bất cứ luật lệ nào của Thiên Chúa cũng như của loài người. Nhưng loại người như thế sẽ không tồn tại lâu dài, vì luật pháp sẽ không dung thứ họ. Cho dù họ có thể qua mặt loài người, họ sẽ không qua khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
1.2/ Các ngôn sứ là khí cụ Thiên Chúa dùng để vạch ra lầm lỗi của họ: Chúa muốn Tiên-tri Ezekiel phải can đảm nói những gì Chúa muốn nói: "Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng."
Thái độ của ngôn sứ: Không được sợ hãi loại người phản loạn này, nhưng phải can đảm vạch ra lầm lỗi của chúng: "Phần ngươi, hỡi con người, đừng sợ chúng, cũng đừng sợ những lời chúng nói, dù ngươi có bị chống đối, có gặp chông gai tư bề, hay ngồi trên bò cạp. Những lời chúng nói, ngươi đừng sợ; có phải giáp mặt chúng, cũng đừng khiếp, vì chúng là nòi phản loạn. Ngươi cứ nói với chúng những lời của Ta, dù chúng nghe hay không, vì chúng là quân phản loạn" (Eze 2:6-7).
2/ Bài đọc II: Sức mạnh của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.
2.1/ Đau khổ giúp con người khỏi tự cao tự đại: Phaolô, trước khi trở thành môn đệ của Đức Kitô, là người nhiệt thành và kiêu hãnh. Ông hãnh diện với truyền thống của cha ông, và nhiệt thành truy tố những tín hữu của Đức Kitô, Người mà ông cho là xúi giục dân chúng chống lại Lề Luật của cha ông. Để dạy Phaolô một bài học, Chúa để ông té ngựa và bị mù; đồng thời Ngài cũng mặc khải cho ông biết nguy hiểm của những ai mù quáng giơ chân đạp mũi nhọn. Kể từ đó Phaolô suy nghĩ về thái độ quá khích của mình, và khiêm nhường để Đức Kitô hướng dẫn cuộc đời của ông.
Trình thuật hôm nay kể: "Và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại." Qua các Thư Phaolô, chúng ta biết ông đã được Đức Kitô thân hành hiện ra dạy dỗ và cho hiểu biết nhiều mầu nhiệm. Chính vì được thấu hiểu các mầu nhiệm mà Satan ganh tị với ông. Không lạ gì khi Satan đến vả mặt ông vì chúng không muốn ai thấu hiểu những mầu nhiệm này. Hơn nữa, biết những điều phi thường dễ đưa con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu. Chúng ta không biết rõ "cái dằm đâm vào thân xác Phaolô" là cái gì: có người cho là cám dỗ thân xác, có người cho là các bệnh tật mà ông phải chịu; nhưng điều quan trọng ông đã nói ra là "cái dằm" ngăn ngừa ông để khỏi tự cao, tự đại.
2.2/ Phaolô nhận ra sức mạnh đến từ Thiên Chúa: Qua kinh nghiệm của biến cố trở lại và của "cái dằm đâm vào thân xác," Phaolô hiểu rõ con người kiêu hãnh và yếu đuối của mình. Ông biết nếu không có sức mạnh của Thiên Chúa chữa lành và ở với ông, ông sẽ mù lòa suốt đời về cả thể lý và tâm linh; nhưng vì tình yêu Thiên Chúa dành cho ông, Ngài cho ông lại được nhìn thấy ánh sáng và thấu hiểu sự quan trọng của Đức Kitô trong Kế Hoạch Cứu Độ.
Trong trình thuật hôm nay, vì nhiệt thành rao giảng đức tin, Phaolô đã ba lần xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ của "cái dằm;" nhưng Đức Kitô quả quyết với ông: "Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối." Chúng ta ít nhiều cũng có những kinh nghiệm như Phaolô, khi đang hăng hái nhiệt thành rao giảng hay làm việc tông đồ, mà chúng ta bị những ngăn trở như bệnh tật, bắt bớ, hiểu lầm; chúng ta muốn Chúa lấy đi những trở ngại này với ý hướng tốt lành, để chúng ta mạnh khỏe và có cơ hội tiếp tục phục vụ Chúa. Thiên Chúa có kế hoạch khác: nhiều khi Ngài muốn chúng ta chậm lại để có thời giờ suy nghĩ chín chắn hơn, hay muốn chúng ta nghỉ ngơi để chuẩn bị cho sứ vụ sắp tới cam go hơn.
Thái độ chúng ta cần có là học nơi Phaolô: "Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh."
3/ Phúc Âm: Tại sao con người từ chối không tin vào Chúa Giêsu?
3.1/ Đức Kitô chuẩn bị cho người đồng hương để họ tin vào Ngài: Để một người có thể tin vào Đức Kitô, họ cần nhiều yếu tố quan trọng. Ngài chuẩn bị cho họ những điều cần thiết này:
(1) Ngài cho họ có cơ hội gặp gỡ Ngài: Họ không đi tìm Chúa, nhưng Đức Giêsu trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. Đến ngày Sabbath, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường.
(2) Ngài cho họ nhận ra sự khôn ngoan của Thiên Chúa nơi Ngài: Khi Ngài giảng dạy trong hội đường, nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Chính họ đã phải thốt lên: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao?"
(3) Ngài cho họ nhận ra Ngài có uy quyền của Thiên Chúa: Khi chứng kiến các phép lạ Chúa Giêsu đã làm, họ đã phải ngạc nhiên thốt lên: "Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?"
3.2/ Người đồng hương không nhận ra Đức Kitô: Lý do chính khiến người đồng hương không nhận ra Đức Kitô là thay vì họ phải phán xét chính Đức Kitô và các việc Ngài làm, họ lại quay qua phán xét gia đình của Chúa. Họ nói: "Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?" Và họ vấp ngã vì Người.
Một ví dụ người Việt-nam chúng ta có kinh nghiệm là biến cố thi cử sau 1975, mà chúng ta thường nói khôi hài: "học tài thi lý lịch." Thay vì chấm điểm thí sinh, giám khảo quay sang xét lý lịch gia đình. Nếu thí sinh là con của ngụy quân ngụy quyền, hay thuộc các gia đình "tư sản mại bản;" họ sẽ bị đánh rớt trước khi giám khảo có cơ hội xem bài thi của họ.
3.3/ Bụt nhà không thiêng: Đức Giêsu bảo họ: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi." Đây là một thực tế đau lòng, mà người Mỹ có câu "Familiarity breeds contempt." Tục ngữ Việt-nam cũng có câu tương tự: "Quen chó, chó liếm mặt."
(1) Nơi quê hương: Nhiều người chúng ta có thói quen thổi phồng người ngoại quốc. Cái gì của Mỹ cũng hay, cũng tốt, cũng đẹp; cái gì của Việt-nam cũng dở cũng xấu. Họ có biết đâu họ đang bị thành kiến chi phối, vì dân tộc nào cũng có cái hay cái dở; và không phải người Mỹ nào cũng tốt hay người Việt-nam nào cũng xấu.
(2) Giữa họ hàng: Nhiều người thường đánh giá người đồng hương trên bằng cấp, địa vị, hay tài sản. Trình thuật hôm nay cho biết lý do họ khinh thường Chúa Giêsu là vì họ biết gia đình của Ngài. "Con bác xã chùa phải quét lá đa;" con bác thợ mộc, làm sao có cơ hội để quán thông Lề Luật? Qui tụ một đám môn đệ thất học như thế, thầy cũng chẳng hơn trò!
(3) Trong gia đình: Nhiều người trong chúng ta đã từng có kinh ngiệm này. Chúng ta không thể hiểu lý do tại sao khi chúng ta làm cho người ngoài gia đình chỉ một việc rất nhỏ bé như chỉ bài, cho một ly nước, giới thiệu một việc làm, họ đã biết ơn hết sức và trả ơn bội hậu cho chúng ta. Trong khi ở nhà, chúng ta hy sinh tất cả mọi sự cho gia đình đến chỗ chỉ còn chấp nhận cái chết; nhưng người trong nhà vẫn vô ơn, bạc nghĩa, đến chỗ một lời cám ơn cũng không được lãnh nhận. Có lẽ vì người trong gia đình giả sử chúng ta phải làm những việc đó!
Trình thuật Marcô kết luận: "Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải dẹp bỏ tính ngông cuồng và phản loạn, vì chúng gây thiệt hại cho chúng ta. Trái lại, chúng ta phải biết vâng lời Thiên Chúa và giữ các huấn lệnh của Ngài.
- Chúng ta phải dẹp bỏ tính kiêu hãnh vì nó đánh lừa chúng ta. Ngược lại, chúng ta hãy luyện tập cho biết khiêm nhường để nhìn nhận những yếu kém và giới hạn của mình.
- Khi phải phán xét, hãy phán xét biến cố xảy ra hay người làm biến cố đó; đừng phán xét biến cố không liên quan đến sự việc hay những người không liên quan gì đến biến cố đó.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
04/7 Sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 13 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 27:1-5, 15-29; Mt 9:14-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã từng nhận định: "Con cái thế gian khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng" (Lk 16:8). Nhưng không phải sự khôn khéo nào của con người cũng tốt lành. Để được coi là khôn ngoan, sự khôn khéo của con người cần được hướng dẫn bởi sự thật; nếu không, nó chỉ là xảo thuật để lừa đảo tha nhân. Hơn nữa, sự khôn ngoan của Thiên Chúa thắng vượt mọi khôn khéo của con người. Ngài có thể dùng chúng để đạt những gì Ngài muốn.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng cho chúng ta thấy sự khôn ngoan của Thiên Chúa và sự khôn khéo của thế gian. Trong Bài Đọc I, vì bà Rebekah muốn quyền trưởng nam thuộc về Jacob như Thiên Chúa đã mặc khải cho bà trước khi sinh hai con (Gen 25:23), nên bà đã dùng kế hoạch khôn khéo để Isaac phải chúc lành cho Jacob. Trong Phúc Âm, các môn đệ của Gioan dùng sự khôn ngoan của con người đến chất vấn Chúa Giêsu: "Tại sao chúng tôi và các người Pharisees ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?" Chúa Giêsu trả lời họ: "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Esau bị Rebekah và Jacob tước quyền trưởng nam.
1.1/ Kế hoạch của bà Rebekah: Khi ông Isaac đã già, mắt ông loà không trông thấy nữa; ông bèn gọi Esau, con trai lớn của ông và nói: "Con thấy không, cha già rồi, không biết chết ngày nào. Bây giờ con hãy lấy khí giới của con, ống tên và cây cung của con, ra đồng săn thú cho cha. Con hãy làm cho cha một món ăn ngon như cha thích, rồi đem đến cho cha ăn, để cha đích thân chúc phúc cho con trước khi chết." Theo truyền thống Do-thái cũng như Việt-nam, người cha thường chúc lành cho người con cả; vì người con cả sẽ thay cha để quyết định mọi sự trong gia đình khi cha vắng mặt.
Đang khi ông Isaac nói với Esau, con trai ông, thì bà Rebekah, vợ ông, nghe được. Bà vẫn tin khi Thiên Chúa hứa điều gì, điều ấy phải được hoàn tất; nên bà phác họa một kế hoạch để ý Thiên Chúa được hoàn thành. Trong khi Esau đi ra đồng để săn thú mang về; bà Rebekah lấy áo của Esau, con trai lớn của bà, áo sang nhất mà bà có ở nhà, và mặc cho Jacob, con trai nhỏ của bà.
Bà lấy da dê non mà bọc lấy tay và phần cổ nhẵn nhụi của cậu. Rồi bà đặt món ăn ngon và bánh đã làm vào tay Jacob, con bà.
1.2/ Isaac chúc lành cho Jacob:
(1) Thiên Chúa dùng con người để đạt những gì Ngài muốn: Trong sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa, Ngài vẫn dùng sự khôn khéo và sức mạnh của con người để đạt những gì Ngài muốn. Chẳng hạn, Ngài dùng cái roi là Vua Babylon để sửa phạt Israel; nhưng khi đã sửa phạt xong, Ngài lại bẻ gẫy cái roi Babylon bằng cách trao vương quốc Babylon vào tay Cyrus, vua Ba-tư. Chính vua này đã thi hành ý định của Thiên Chúa qua việc phóng thích dân Do-thái khỏi cảnh lưu đày, cho hồi hương về Jerusalem, và giúp họ xây dựng lại Đền Thờ và quê hương. Điều này chứng minh cho chúng ta thấy sự khôn ngoan của Thiên Chúa vẫn đang điều khiển mọi quyền lực của thế gian, ma quỉ, và con người.
Trình thuật hôm nay là một ví dụ của sự quan phòng: Thiên Chúa muốn trao quyền trưởng nam vào tay Jacob, và Ngài dùng sự khôn khéo của bà mẹ Rebekah để thực hiện điều này; mặc dù nhiều người không thể chịu được sự gian dối trắng trợn này.
(2) Thiên Chúa chọn Israel làm dân riêng dù họ không xứng đáng: Mục đích của trình thuật hôm nay cũng muốn dẫn chứng việc Thiên Chúa chọn dân tộc Do-thái làm dân riêng. Ngài chọn vì Ngài thương họ, mặc dù họ chẳng có gì hơn các dân tộc khác: Họ chỉ là một nhóm người nhỏ bé đang làm nô lệ bên Ai-cập; nhưng vì Lời Hứa với các tổ-phụ Abraham, Isaac, và Jacob, nên Ngài đã giải thoát họ khỏi làm nô lệ người Ai-cập và ban Đất Hứa làm sản nghiệp riêng. Lời chúc lành của Isaac cho Jacob hôm nay dẫn chứng những điều này:
- Lời hứa ban Đất Hứa làm gia nghiệp: "Kìa, mùi thơm con tôi như mùi thơm cánh đồng Đức Chúa đã chúc phúc. Xin Thiên Chúa ban cho con, sương trời với đất đai màu mỡ, và lúa mì rượu mới dồi dào."
- Lời hứa chọn làm dân riêng của Thiên Chúa: "Các dân phải làm tôi con, các nước phải sụp xuống lạy con. Con hãy làm chủ các anh em con, và các con của mẹ con phải sụp xuống lạy con. Kẻ nguyền rủa con sẽ bị nguyền rủa, kẻ chúc phúc cho con sẽ được chúc phúc."
2/ Phúc Âm: Phải khôn ngoan để nhận ra sự quan phòng của Thiên Chúa.
2.1/ Ăn chay có mục đích: Khi con người làm bất cứ việc gì, là cho một mục đích; chứ không làm theo hứng, cũng không theo thời, hay thấy người ta làm mình cũng làm. Các môn đệ ông Gioan tiến lại hỏi Đức Giêsu rằng: "Tại sao chúng tôi và các người Pharisees ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?"
Đức Giêsu trả lời: "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay." Câu trả lời của Chúa Giêsu nhắc nhở cho các môn đệ của Gioan biết: một trong những mục đích của việc ăn chay là để một người sống mối liên hệ của họ với Thiên Chúa. Nếu một người đang sống mối liên hệ đó như các môn đệ đang có Chúa Giêsu, các môn đệ chưa cần phải ăn chay. Họ sẽ ăn chay khi Chúa Giêsu rời xa họ.
2.2/ Phải có tinh thần mới để đón nhận mặc khải và đạo lý mới: Nếu con người muốn tiến bộ, họ phải có một tinh thần hay thái độ cầu tiến; nếu không có tinh thần này, họ sẽ giữ chặt những gì họ đã có hay đã biết. Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ để khán giả suy xét:
(1) Không ai lấy vải mới vá vào áo cũ: "vì miếng vá mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm." Vải mới có độ co dãn mạnh hơn áo cũ, vì chưa được giặt giũ nhiều. Nếu một người vá vải mới vào áo cũ, nó sẽ co lại và làm cho chỗ rách càng tệ hơn.
(2) Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ: "vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai." Một ví dụ tân thời hiện đại giúp chúng ta dễ hiểu hơn: Các softwares mới ra phải được dùng trong các máy vi tính mới, vì chúng đòi nhiều chỗ để chứa các dữ kiện và một vận tốc nhanh hơn, mà các máy vi tính cũ không thể đáp ứng nổi. Nếu một người ngoan cố cứ dùng các softwares mới này trong máy vi tính cũ của mình, mà không chịu update, họ sẽ chỉ chuốc lấy thất bại mà thôi.
Trong lãnh vực tri thức cũng thế, để có thể hiểu truyền thống của một nước, người nghiên cứu phải đặt mình trong hoàn cảnh và lối suy tư của dân địa phương; nếu không, họ sẽ không bao giờ hiểu được truyền thống của dân địa phương, và dễ đi tới những phê phán sai lầm. Cũng vậy, để tiếp nhận đạo lý của Chúa Giêsu, người nghe phải có một thái độ cởi mở, họ mới có thể tiếp nhận những mặc khải mới của Chúa Giêsu. Nếu họ cho Lề Luật đã hoàn hảo như các kinh-sư, họ sẽ không muốn tiếp nhận đạo lý của Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tin Thiên Chúa vẫn đang quan phòng mọi sự cách khôn ngoan trong vũ trụ này. Chúng ta phải biết nhận ra và xử dụng cách khôn ngoan để đạt tới ơn cứu độ.
- Để nhận ra sự khôn ngoan quan phòng của Thiên Chúa, chúng ta cần có một tinh thần cởi mở, để học hỏi và tiếp thu những khôn ngoan mà Thiên Chúa vẫn không ngừng tiết lộ cho con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
03/7 Phúc cho những ai tuy không thấy mà tin
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Kinh Thánh Thomas Tông Đồ.
Bài đọc: Eph 2:19-22; Jn 20:24-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phúc cho những ai tuy không thấy mà tin!
Thánh Thomas Tông Đồ thường được gọi là "Cha của những kẻ cứng lòng tin;" nhưng cũng nhờ ngài mà chúng ta có thêm những lời dạy dỗ của Đức Kitô, và mở mắt cho chúng ta thấy có nhiều cách thức khác để con người phải tin vào Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong những cách thức khác nhau một người có thể dùng để tin vào Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tác giả Thư Ephesô xác tín đức tin của chúng ta được xây dựng trên Đá Tảng là Đức Kitô, và nền móng là niềm tin của các tông-đồ và các tiên-tri. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trách Thomas đã chỉ dựa vào kinh nghiệm giác quan, mà không chịu tin vào lời Ngài đã loan báo trước Cuộc Khổ Nạn và lời chứng của các tông-đồ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức tin của chúng ta dựa trên niềm tin nền tảng của các Tông-đồ.
1.1/ Vị thế của người Kitô hữu trong gia đình Thiên Chúa: Tác giả Thư Ephesô xác định: "Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa." Một sự phân tích của 4 từ ngữ dùng trong câu này, cho chúng ta hiểu ý của tác giả:
(1) Người xa lạ (xenos): người ngoại kiều, không có một chút liên hệ nào với người bản xứ, cũng không được bảo vệ bởi luật pháp bản xứ. Đó là tình trạng của Dân Ngoại, khi họ chưa biết Đức Kitô.
(2) Người tạm trú (paroikos): người ngoại kiều được phép trong một quốc gia, nhưng chỉ tạm thời trong một thời gian. Họ chỉ được hưởng một số những quyền lợi của người bản xứ, và phải ra khỏi xứ khi thời gian hết hạn.
(3) Người đồng hương (sumpolithi): người cùng sinh ra trong một làng, một nước; có cùng chung niềm tin, thói quen, truyền thống, và văn hóa. Những người này có thói quen lập Hội Ái Hữu để giúp đỡ nhau khi phải di chuyển đi nơi xa hay nơi đất khách quê người. Ví dụ: Hội Ái Hữu Thức Hóa, qui tụ những đồng hương của làng Thức Hóa, Bùi Chu, Bắc Việt Nam. Tác giả Thư Ephesô gọi các tín hữu là những "đồng hương với các người thuộc dân thánh," vì họ có cùng niềm tin nơi Đức Kitô, và cùng được kêu gọi để trở nên thánh thiện.
(4) Người nhà (onkeios): người có liên hệ ruột thịt hay hoàn cảnh đặc biệt, liên kết thành một nhóm rất thân mật, sống chung trong một mái nhà. Những người này được gọi là những thành viên của một nhà. Họ được chung hưởng mọi quyền lợi và có bổn phận bảo vệ nhà mình. Tác giả gọi các tín hữu là những "người nhà của Thiên Chúa;" vì họ cùng được hưởng ơn cứu độ Thiên Chúa đã dọn sẵn. Họ cùng chung bổn phận làm sao cho mọi người trong nhà đạt được ơn cứu độ.
1.2/ Tòa nhà của Thiên Chúa: được nhân cách hóa để chỉ vị thế và bổn phận của mỗi thành phần của Dân Chúa. Một tòa nhà gồm những phần sau đây:
(1) Đá Tảng góc tường (avkrogwniaios): là chính Đức Giêsu Kitô. Đá Tảng là viên đá góc, viên đá quan trọng nhất nối hai bức tường của tòa nhà và sàn nhà với nhau, trong kiến trúc xây nhà của người Do-thái. Nhiều người cho hai bức tường này tượng trưng một cho Do-thái và một cho Dân Ngoại. Đức Kitô hay niềm tin vào Đức Kitô là Đá Tảng cho tòa nhà này. Nếu không được xây dựng trên Đá Tảng là Đức Kitô, tòa nhà của Thiên Chúa sẽ không thành hình được.
(2) Nền móng (themelios): là các Tông Đồ và ngôn sứ. Cấu trúc quan trọng thứ hai của tòa nhà là nền móng, trên đó tòa nhà được xây dựng lên. Chúa Giêsu đã từng cho chúng ta một ví dụ về việc xây nhà trên đá thay vì trên cát. Các ngôn sứ và các tông-đồ được ví như nền móng của tòa nhà Thiên Chúa, vì đức tin của họ vào Thiên Chúa. Nhờ những cố gắng rao giảng và máu của họ đổ ra, mà đức tin được lan tràn ra cho mọi người.
(3) Các phần khác: là toàn thể các tín hữu. Có thể ví mỗi tín hữu như một viên gạch được xây trong tòa nhà của Thiên Chúa; tuy nhỏ bé, nhưng cần thiết để hoàn thành. Trong Đức Kitô, "toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí."
2/ Phúc Âm: Phúc thay những người không thấy mà tin!
2.1/ Đức tin dựa trên kinh nghiệm: Có những người chỉ tin khi mắt thấy, tai nghe, và tay sờ mó được. Thomas là một trong những người này. Vì ông không có mặt khi Chúa Giêsu hiện ra với các tông-đồ lần thứ nhất, nên họ nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Thomas đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."
2.2/ Đức tin dựa trên các điều khác: Ngoài đức tin dựa trên kinh nghiệm giác quan như Thomas đòi hỏi, chúng ta còn ít nhất 3 cách khác để tin một điều là sự thật:
(1) Thế giá của người nói: Đây là cách mà chúng ta vẫn áp dụng hằng ngày: con cái tin cha mẹ, học sinh tin thầy cô, nhân viên tin chủ mình ... Chúng ta tin vì chúng ta nghĩ những người này không thể đánh lừa chúng ta. Tòa án các cấp cũng thường áp dụng điều này khi đòi phải có hai hoặc ba nhân chứng để xác định một điều xảy ra là sự thật. Chúa Giêsu trách Thomas cứng lòng tin, vì đã không tin lời của 10 nhân chứng là các tông-đồ.
(2) Hậu quả xảy ra: Nguyên lý nhân quả là nguyên lý mà chúng ta vẫn thường dùng trong cuộc sống hằng ngày. Ví dụ, khi chúng ta thấy khói bốc lên, chúng ta biết ngay có lửa đang cháy. Tuy chúng ta không thấy điện chạy, nhưng chúng ta không dám rờ vào ổ điện, vì chúng ta sợ điện giật. Cũng vậy, tuy chúng ta không thấy Thiên Chúa; nhưng nhìn mọi sự vật do tay Chúa sáng tạo, chúng ta tin có Thiên Chúa.
(3) Ghi chép lịch sử: Khi học lịch sử, chúng ta tin những người ghi chép lại những biến cố lịch sử đã xảy ra. Nếu có nghi ngờ, chúng ta có thể đối chiếu các nguồn lịch sử khác nhau, và dùng trí phán đoán để xác định sự trung thực của các biến cố. Khi đọc Kinh Thánh, chúng ta cũng dựa trên lịch sử để xác định sự trung thực của các biến cố xảy ra. Chẳng hạn, chúng ta thường gặp những câu trong Tân Ước như: "để ứng nghiệm lời Kinh Thánh đã nói," hay "để làm tròn lời Kinh Thánh đã chép" ...
2.3/ Ông Thomas tuyên xưng đức tin: Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Thomas ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Thomas: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Ông Thomas thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" Đức Giêsu bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!" Đức tin dựa trên kinh nghiệm là cách thấp nhất để một người tin, Chúa Giêsu khiển trách Thomas vì đã không chịu dùng các cách khác nữa. Thánh Thomas, tuy cứng lòng tin; nhưng một khi đã xác tín niềm tin vào Đức Kitô, ông không bao giờ lui gót nữa. Ông không chỉ tuyên xưng Đức Kitô là Thầy, mà còn là Thiên Chúa của ông.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta là những viên đá sống động trong Đền Thờ của Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là lo sao cho Đền Thờ này luôn sống động và tăng trưởng mỗi ngày.
- Đức tin của chúng ta không chỉ dựa trên kinh nghiệm của giác quan; nhưng còn dựa trên Kinh Thánh, lịch sử, hậu quả, và những lời làm chứng của bao nhiêu chứng nhân trong lịch sử.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
02/7 Đức tin mang lại những điều tốt lành và có thể tha tội cho con người
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 13 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 22:1-19; Mt 9:1-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức tin mang lại những điều tốt lành và có thể tha tội cho con người.
Trong lãnh vực đức tin, con người không thể nói họ chỉ tin những gì họ có thể hiểu được. Lý do đơn giản là có những mầu nhiệm của Thiên Chúa vượt quá tầm hiểu biết của con người; chẳng hạn các Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi, Mình Máu Thánh Chúa, Thánh Giá, đau khổ ... Để hiểu những mầu nhiệm này, con người cần mặc khải của Thiên Chúa qua Đức Kitô.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng cho chúng ta thấy phải tin tưởng và vâng lời Thiên Chúa, mặc dù con người không luôn hiểu lý do tại sao. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế tường thuật đức tin sắt đá của Abraham vào Thiên Chúa, qua việc sẵn sàng sát tế người con duy nhất cho Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chữa người bại liệt và tha thứ tội lỗi vì ông có niềm tin nơi Ngài. Chúa cũng kiên nhẫn mặc khải cho các kinh sư về quyền tha tội của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa thử thách đức tin của Abraham.
1.1/ Đức tin sắt đá của Abraham vào Thiên Chúa: Có nhiều điều chúng ta học hỏi được từ câu truyện lịch sử này, hôm nay chúng ta chỉ chú ý đế hai điểm chính:
(1) Abraham không hỏi lý do tại sao Thiên Chúa muốn ông làm điều đó: Nhiều người trong chúng ta chắc chắn sẽ đặt câu hỏi tại sao Thiên Chúa muốn Abraham làm điều đó, vì nó hoàn toàn đi ngược lại với sự suy luận của loài người: Làm sao người cha có can đảm cầm dao giết con, nhất là đứa con thừa tự mà Thiên Chúa ban cho trong lúc tuổi già!
Abraham không thắc mắc, vì ông đặt trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa: Chúa bảo "Đi!" ông đi. Chúa bảo: "Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Moriah mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho." Sáng hôm sau, ông Abraham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là Isaac, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới nơi Thiên Chúa bảo. Abraham không cần hỏi vì ông quá tin tưởng vào Thiên Chúa; ông biết Thiên Chúa có mục đích khi Ngài truyền ông phải làm bất cứ điều gì. Khi chưa hiểu được lý do, Abraham dùng đức tin để bước đi.
(2) Tình phụ tử vẫn phải đặt sau tình yêu Thiên Chúa: Ba ngày trong cuộc hành trình là khoảng thời gian dài để Abraham có thể đổi ý, không làm theo lệnh truyền của Thiên Chúa, nhất là sau khi nghe câu truyện đối thoại giữa hai cha con:
- Isaac thưa với cha là ông Abraham: "Cha!"
- Ông Abraham đáp: "Cha đây con!"
- Cậu nói: "Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu?"
- Ông Abraham đáp: "Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ." Rồi cả hai cùng đi.
Tuy thế, tình yêu của Abraham dành cho Thiên Chúa mạnh hơn tình phụ tử của Abraham dành cho Isaac; nên khi tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Abraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Isaac con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Abraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình.
1.2/ Phần thưởng dành cho Abraham:
(1) Đức tin cần được tôi luyện trong thử thách: Nếu một người sẵn sàng sát tế người con một của mình để chứng tỏ niềm tin cho Thiên Chúa, chẳng cần gì phải thử thách người đó nữa. Thiên Chúa, Đấng thấu hiểu mọi bí ẩn trong con người, đã hiểu rõ đức tin của Abraham dành cho Ngài. Một khi Thiên Chúa đã nhìn thấy đức tin của ông, việc sát tế Isaac không còn cần thiết nữa; nên Thiên Chúa ra lệnh cho sứ thần đình chỉ việc sát tế Isaac: "Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!"
Chúng ta đã so sánh việc sát tế Isaac trên núi Moriah với việc sát tế Chúa Giêsu, Người Con Một của Thiên Chúa, trên đồi Golgotha, không xa Moriah bao nhiêu. Điểm khác biệt giữa hai biến cố là Isaac không chết; nhưng Chúa Giêsu đã đổ máu chết thực sự để chuộc tội cho con người. Lý do Chúa Giêsu phải chết là Thiên Chúa muốn chứng thực tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Con người cần bằng chứng vì con người không thể nhìn thấu tâm tư của Thiên Chúa.
(2) Thiên Chúa chúc lành cho giòng dõi Abraham: Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Abraham một lần nữa và nói: "Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho giòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Giòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta."
Một người làm quan cả họ được nhờ. Vì hành động anh hùng và vâng lời của tổ-phụ Abraham, Thiên Chúa chúc lành ông và cho toàn giòng dõi của ông. Cũng như vì sự bất tuân của Adam, mà ông và toàn giòng dõi ông bị chúc dữ. Đức tin của một người không bao giờ chỉ giữ lại trong người đó, nhưng sẽ lan tràn và sinh lợi ích cho nhiều người.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu có quyền tha tội và quyền chữa lành (Mk 2:1-12; Lk 5:17-26).
2.1/ Các kinh-sư chất vấn quyền tha tội của Chúa Giêsu: Người ta khiêng đến cho Chúa Giêsu một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: "Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!"
(1) Phản ứng của các kinh-sư: Có mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: "Ông này nói phạm thượng!" Truyền thống Do-thái tin: Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Nhưng Đức Giêsu biết ý nghĩ của họ, liền nói: "Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy? Trong hai điều: một là bảo: "Con đã được tha tội rồi!" hai là bảo: "Đứng dậy mà đi!" điều nào dễ hơn?
Dĩ nhiên điều dễ làm hơn là bảo: "Con đã được tha tội rồi!" vì chẳng ai có thể xác quyết quyền này. Điều khó hơn là truyền cho bệnh nhân: "Đứng dậy mà đi!" vì ai ai cũng có thể chứng nhận người truyền có thể làm việc ấy hay không. Để chứng minh cho họ biết Ngài có cả hai quyền, Chúa Giêsu truyền cho người bại liệt: "Đứng dậy, vác giường đi về nhà!" Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà.
2.2/ Quyền tha tội liên quan đến việc chữa lành:
(1) Chúa Giêsu có quyền tha tội: Bệnh tật là hậu quả của tội; nếu chữa lành bệnh tật là cũng lấy đi tội lỗi, nguyên nhân của bệnh. Chúa Giêsu dùng việc chữa lành để chứng minh Ngài có quyền tha tội.
(2) Chúa Giêsu là Thiên Chúa: Ngoài ra, như mấy kinh sư tin tưởng: Chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội; mà Chúa Giêsu có quyền tha tội; cho nên Ngài phải là Thiên Chúa. Như thế, lời kết tội Chúa Giêsu của các kinh sư "Ông này nói phạm thượng!" là sai.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải vâng lời những gì Thiên Chúa truyền và sự quan phòng của Ngài, cho dù chúng ta không hiểu tại sao xảy ra như vậy. Ngài sẽ soi sáng hay mặc khải cho chúng ta hiểu sau.
- Để hiểu các mầu nhiệm của Thiên Chúa, chúng ta cần khiêm nhường nhận giời hạn hiểu biết của con người, và cầu xin sự soi sáng và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
01/7 Quan tâm lợi lộc trước mắt mà không nhìn thấy thiệt hại tương lai
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 13 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 21:5, 8-20; Mt 8:28-34.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Quan tâm lợi lộc trước mắt mà không nhìn thấy thiệt hại tương lai.
Thiên Chúa khôn ngoan và yêu thương, Ngài biết những gì hữu ích và những gì gây thiệt hại cho con người; nên đã thân hành ban Thập Giới, để con người cứ theo đó sống để có hạnh phúc cả đời này và đời sau. Ma quỉ rất tinh ranh và ghen tị, chúng không muốn con người được yêu thương và hạnh phúc, nên không ngừng cám dỗ và xúi giục con người vi phạm Thập Giới để phải chịu đau khổ cả đời này lẫn đời sau. Theo căn bản của Thập Giới, con người phải kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình vậy. Ma quỉ, chúng thừa biết sự thiển cận của con người: chỉ biết nhìn cái lợi trước mắt; nên không ngừng bày ra những ảo ảnh của vật chất để xúi giục con người chọn vật chất trên tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra những bài học thực tế để cho chúng ta suy tư và học hỏi. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế tường thuật lý do tại sao bà Sarah bắt ông Abraham phải trục xuất mẹ con Hagar ra khỏi nhà, vì bà không muốn Ismael, con của Hagar, được đồng thừa tự với Isaac, con bà. Trong Phúc Âm, dân làng Gadara, vì quá quan tâm đến sự thiệt hại của đàn heo, và không quan tâm đến sự lành mạnh tinh thần của hai con người; nên đã lạnh nhạt mời Chúa ra khỏi làng, để họ tiếp tục sống nô lệ cho ma quỉ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa vượt xa tính ích kỷ nhỏ nhen của con người.
1.1/ Cách cư xử ích kỷ và bất công của bà Sarah: Đọc Sách Sáng Thế, chúng ta biết rõ lý do tại sao Hagar có con với Abraham: đó là do kế hoạch của bà Sarah, vì bà không thể sinh con cho Abraham có con nối giòng. Nhưng khi được Thiên Chúa đoái thương và ban cho bà có một con trai là Isaac trong lúc tuổi già, bà đổi ý định và đày đọa Hagar và con của nàng.
Khi bà Sarah thấy đứa con mà Hagar, người Ai-cập, đã sinh ra cho ông Abraham, đang cười giỡn, bà liền nói với ông Abraham: "Ông hãy đuổi hai mẹ con đứa nữ tỳ này đi, vì con trai đứa nữ tỳ không được thừa kế cùng với Isaac, con trai tôi." Lý do chính bà lo lắng là Ismael sẽ được cùng thừa kế gia tài của Abraham để lại với Isaac con bà!
Sự việc xảy ra là hoàn toàn do ý định của bà Sarah, lẽ ra bà phải có can đảm lãnh trách nhiệm do quyết định của mình, bà lại đổ xuống trên Abraham và mẹ con Hagar. Ông Abraham rất bực mình vì lời ấy, bởi đó là con ông. Nhưng Thiên Chúa phán với ông Abraham: "Đừng bực mình vì chuyện đứa trẻ và người nữ tỳ của ngươi. Tất cả những gì Sarah nói với ngươi, cứ nghe, bởi vì chính nhờ Isaac mà ngươi sẽ có một giòng dõi mang tên ngươi. Còn con trai của người nữ tỳ, Ta cũng sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn, vì nó là giòng dõi ngươi."
1.2/ Kế hoạch của Thiên Chúa cho mẹ con Hagar: Nghe lời Thiên Chúa, sáng hôm sau, ông Abraham dậy sớm, lấy bánh và một bầu da đựng nước đưa cho Hagar. Ông đặt đứa bé lên vai nàng và bắt nàng phải đi.
(1) Phản ứng của Hagar: Mẹ góa con côi, hành trang lên đường chỉ có ít bánh và nước. Nàng đi mà không biết đi về đâu. Chán nản, mệt mỏi, tuyệt vọng ... Khi nước trong bầu da đã cạn, nàng vất đứa bé dưới một bụi cây, rồi đi ngồi đối diện, cách xa khoảng tầm cung bắn. Nàng nói: "Sao cho tôi đừng nhìn thấy đứa bé chết!" Nàng ngồi đối diện và bật tiếng khóc.
(2) Thiên Chúa vẫn rộng tình thương: Thiên Chúa nghe thấy tiếng đứa trẻ và từ trời Ngài sai sứ thần đến an ủi Hagar: "Sao thế, Hagar? Đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nghe thấy tiếng đứa trẻ, ở chỗ nó nằm. Đứng lên! Đỡ đứa trẻ dậy và ôm nó trong tay, vì Ta sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn." Thiên Chúa mở mắt cho nàng, và nàng thấy một giếng nước. Nàng đi đổ nước đầy bầu da, rồi cho đứa trẻ uống. Thiên Chúa ở với đứa trẻ, nó lớn lên, sống trong sa mạc, và trở thành người bắn cung.
(3) Hậu quả của cách cư xử của bà Sarah: Chúng ta không phủ nhận tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa; nhưng mối thù truyền kiếp giữa dân tộc Do-thái và người Hồi-giáo là do kết quả của hành động thiếu khôn ngoan của bà Sarah. Abraham là tổ phụ của cả hai bên: Do-thái và Hồi-giáo. Nếu bà biết khiêm nhường dàn xếp để bà và Hagar có thể ở chung một nhà, và hai con trẻ Isaac và Ismael có thể cười giỡn và đối xử với nhau như anh em; mối thù truyền kiếp chắc đã không xảy ra và kéo dài như ngày nay.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu trục xuất quỉ thần ra khỏi hai người.
2.1/ Chúa Giêsu đương đầu với quyền lực ma quỉ: Khi Đức Giêsu sang bờ bên kia của Biển Hồ đến miền Gadara, có hai người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả ra đón Người; chúng rất dữ tợn, đến nỗi không ai dám qua lại lối ấy. Gặp Chúa Giêsu, chúng la lên rằng: "Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây làm khổ chúng tôi sao?"
(1) Thiên Chúa và ma quỉ không thể ở chung: chỗ nào có sự hiện diện của Thiên Chúa, là không có sự hiện diện của ma quỉ và ngược lại. Ma quỉ biết Thiên Chúa sẽ tiêu diệt chúng vĩnh viễn trong Ngày Phán Xét. Thời gian trước ngày đó, chúng được quyền cám dỗ con người. Đó là lý do chúng nhắc khéo Chúa Giêsu là "chưa tới lúc" để Ngài tiêu diệt chúng.
(2) Kế hoạch của ma quỉ: Nhiều người thắc mắc tại sao ma quỉ xin nhập vào đàn heo và tại sao chúng lại lao xuống biển? Ma quỉ rất khôn ngoan, chúng đã có sẵn kế hoạch để dân làng mời Chúa Giêsu đi khỏi!
2.2/ Sợ hãi mất lợi tức làm dân thành quyết định thiếu khôn ngoan: Trình thuật của Matthew không cho biết số lượng của bầy heo lao xuống biển; trình thuật của Marcô cho biết số lượng khoảng 2,000 con. Nhiều tác giả thắc mắc lý do tại sao Chúa Giêsu cho quỉ nhập vào đàn heo để gây thiệt hại cho dân làng như vậy. Chúng ta cần công bằng khi phán xét: Chúa Giêsu không phải là lý do chính gây ra việc đàn heo lao xuống biển; ma quỉ là nguyên nhân chính và chúng có uy quyền để gây ra thiệt hại cho đàn heo. Hơn nữa, mục đích của chúng khi gây thiệt hại là để dân làng mời Chúa Giêsu đi khỏi, để chúng có dịp tác hại dân làng.
Đây chỉ là một ví dụ trong muôn ngàn ví dụ dẫn chứng con người hành xử thiếu khôn ngoan và không theo thứ tự ưu tiên của cuộc đời:
(1) Mời Đức Kitô ra khỏi thành của họ: Mối liên hệ với Thiên Chúa phải là mối liên hệ được ưu tiên hàng đầu; thế mà vì lợi nhuận vật chất, dân làng mời Chúa Giêsu ra khỏi làng của họ, để họ tiếp tục sống dưới ảnh hưởng của quỉ thần. Chúng biết con người chỉ biết nhìn lợi lộc thấp hèn như chúng đã từng cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc.
(2) Coi linh hồn và an sinh của con người thua kém một bầy heo: Mối liên hệ giữa con người với con người phải được đặt trên những lợi lộc vật chất; thế mà dân làng không vui vì hai con người được chữa lành và từ nay không gây thiệt hại cho dân làng nữa, nhưng buồn giận vì đàn heo bị thiệt hại!
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Con người chỉ biết nhìn lợi lộc trước mắt, Thiên Chúa quan tâm đến tương lai. Chúng ta cần học cách đối xử công bằng của Thiên Chúa, để tránh thiệt hại cho tương lai.
- Con người luôn nhìn lợi lộc vật chất, Thiên Chúa quan tâm đến sự lành mạnh của linh hồn. Chúng ta cần học biết cách suy xét và hành động như Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 30/6 Niềm tin là món quà quí giá nhất của cuộc đời
- 29/6 Trung thành làm chứng nhân cho Thiên Chúa tới cùng
- 28/6 Thiên Chúa có toàn quyền trên đau khổ và sự chết
- 28/6 Sự sống là Thánh Thiêng
- 27/6 Thiên Chúa ban ơn cho ai tin Ngài và đối xử tử tế với mọi người
- 26/6 Thiên Chúa có thể làm mọi sự
- 25/6 Phải thực hành Lời Chúa
- 24/6 Sứ vụ của Gioan là chỉ đường cho mọi người đến với Đức Kitô
- 23/6 Chọn đường khó khăn và hẹp để đi
- 22/6 Không xét đoán tha nhân và tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa