Gương Thánh Nhân
Ngày 27/02 Thánh Gabrien của Ðức Mẹ Sầu Bi (c. 1862)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gabrien của Ðức Mẹ Sầu Bi (c. 1862)
Phanxicô, sinh trưởng trong một gia đình có đến 12 người con, và ngài mồ côi mẹ khi mới bốn tuổi. Phanxicô được các cha dòng Tên dạy dỗ, và sau hai lần thoát khỏi bệnh nặng, anh tin rằng Thiên Chúa kêu gọi anh vào đời sống tu trì. Tuy nhiên, ước ao gia nhập dòng Tên của anh bị từ chối, có lẽ vì tuổi còn nhỏ, lúc ấy anh chưa đến 17 tuổi.
Sau cái chết của người chị vì bệnh dịch tả, quyết tâm đi tu của anh lại càng mạnh mẽ hơn bao giờ hết, và anh được các cha dòng Passionist chấp nhận. Khi bắt đầu cuộc sống đệ tử, Phanxicô lấy tên là Gabrien của Ðức Mẹ Sầu Bi.
Là một con người luôn luôn bình dị và vui tươi, không bao lâu Gabrien đã tập được cho mình một đức tính: trung thành trong mọi chuyện dù nhỏ bé. Anh khiến mọi người ngạc nhiên về tinh thần cầu nguyện của anh cũng như việc yêu thương người nghèo, quan tâm đến người khác, tuân giữ quy luật cách nghiêm nhặt và hãm mình phạt xác — luôn luôn tùy theo tôn ý của bề trên.
Cha bề trên rất kỳ vọng nơi Gabrien khi anh đang chuẩn bị cho đời sống linh mục, nhưng chỉ sau bốn năm tu tập, các triệu chứng của bệnh lao bắt đầu xuất hiện. Luôn luôn vâng lời, anh kiên nhẫn chịu đựng sự đau đớn và những hạn chế mà cơn bệnh đòi hỏi, không muốn được lưu ý cách đặc biệt.
Anh từ trần cách êm ái vào ngày 27 tháng Hai 1862, khi mới 24 tuổi, sau khi sống gương mẫu cho mọi người. Gabrien của Ðức Mẹ Sầu Bi được phong thánh năm 1920.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 26/02: Thánh Apollonia (c. 249)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Apollonia (c. 249)
Cuộc bách hại Kitô Hữu đầu tiên ở Alexandria xảy ra trong triều đại Hoàng Ðế Philip. Nạn nhân đầu tiên bị người ngoại giáo tấn công là một cụ già tên Metrius, cụ bị tra tấn và sau đó bị ném đá cho đến chết. Người thứ hai từ chối không chịu thờ tà thần là một phụ nữ Kitô Hữu tên Quinta. Lời nói của bà đã làm đám đông tức giận và bà đã bị đánh đập bằng gậy gộc và ném đá.
Trong khi hầu hết Kitô Hữu rời bỏ thành phố, để lại mọi của cải thế gian thì một nữ phó tế tên là Apollonia bị bắt. Thánh Dionysius, Giám Mục Antiôkia, kể cho chúng ta biết, đám đông đã đánh đập Apollonia, và bẻ gãy mọi cái răng của ngài. Sau đó họ đốt một đám lửa thật lớn và đe dọa nếu ngài không chịu nguyền rủa Thiên Chúa thì họ sẽ ném ngài vào lửa. Ngài xin đợi một vài giây phút như để suy nghĩ về điều họ yêu cầu. Nhưng thay vào đó, ngài đã tự ý nhảy vào lửa và được phúc tử đạo.
Có nhiều nhà thờ được dâng kính cho thánh nữ. Là quan thầy của các nha sĩ, Thánh Apollonia thường được cầu khẩn để chữa răng đau và các bệnh liên hệ đến răng. Ngài thường được vẽ với đôi kìm đang kẹp một cái răng hoặc một chiếc răng vàng đeo trên cổ. Thánh Augustine giải thích về sự tử đạo của ngài là do sự thúc giục đặc biệt của Chúa Thánh Thần, vì không ai được phép tự ý gây ra cái chết cho mình.
Ngày 25-02: Chân Phước Sebastian ở Aparicio (1502 - 1600)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Chân Phước Sebastian ở Aparicio (1502 - 1600)
- Những con đường và nhịp cầu mà Chân Phước Sebastian xây dựng thì nối liền nhiều chỗ thật xa cách. Nhịp cầu sau cùng ngài hoàn tất là giúp người ta nhận biết phẩm giá và cùng đích mà Thiên Chúa đã ban cho loài người.
Cha mẹ của Sebastian là nông dân Tây Ban Nha. Vào năm 31 tuổi, ngài xuống tàu đi Mễ Tây Cơ, ở đây ngài làm việc đồng áng. Sau đó ngài xây đắp những con đường để thuận tiện cho việc trao đổi nông nghiệp và thương mãi. Con đường ngài xây từ Mexico City cho đến Zacatecas dài 466 dặm và phải mất 10 năm mới hoàn tất, và vừa phải khéo léo thương thuyết với những người thổ dân.
Sau cùng, Sebastian là một điền chủ giàu có. Khi 60 tuổi ngài lập gia đình với một trinh nữ. Ðộng lực chính mà người trinh nữ kết hôn với ngài có lẽ là số gia tài kếch sù; phần ngài thì muốn giúp đỡ người con gái nghèo nàn không có của hồi môn ấy một cuộc đời xứng đáng. Khi người vợ thứ nhất qua đời, ngài lấy một trinh nữ thứ hai cũng vì lý do như trước; và người vợ thứ hai cũng chết sớm.
Vào năm 72 tuổi, Sebastian phân phát tài sản cho người nghèo rồi gia nhập dòng Phanxicô với tư cách của một thầy trợ sĩ. Ðược giao cho công việc ẩm thực của tu viện rộng lớn ở Puebla de los Angeles (100 thành viên) nằm về phía nam của Mexico City, Thầy Sebastian đã chu toàn bổn phận đi khất thực trong 25 năm. Lòng bác ái của thầy đối với tất cả mọi người thật xứng với cái tên mà người ta đã đặt cho ngài, "Thiên Thần của Mễ Tây Cơ."
Thầy Sebastian được phong chân phước năm 1787 và là quan thầy của những người lữ hành.
Lời Bàn
Theo Quy Luật Thánh Phanxicô, các tu sĩ phải làm việc để có miếng ăn. Nhưng đôi khi công việc của họ không đủ cung cấp cho nhu cầu; thí dụ, họ chăm sóc người cùi là những người không có gì để đáp trả. Trong trường hợp ấy, các tu sĩ được phép đi xin, và luôn nhớ đến điều nhắc nhở của Thánh Phanxicô là hãy làm gương tốt để khuyến dụ dân chúng. Cuộc đời của Chân Phước Sebastian, dù tuổi già nhưng vẫn hăng say, chắc chắn đã đưa nhiều người đến gần Thiên Chúa hơn.
Lời Trích
Có lần Thánh Phanxicô nói với các môn sinh:"Giữa thế gian và tu sĩ có một giao kèo. Tu sĩ phải đem lại cho thế gian gương mẫu tốt lành; và thế gian phải cung ứng cho các nhu cầu của họ. Khi các tu sĩ hư hỏng đức tin và không còn làm gương tốt, thế gian sẽ rút tay lại như một sự khiển trách chính đáng" (2 Celano, #70).
Nguồn: All Of The Saints
Ngày 24 - 02 Chân Phước Luca Belludi (1200 - 1285)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Chân Phước Luca Belludi (1200 - 1285)
Năm 1220, khi Thánh Antôn rao giảng cho cư dân ở Padua thì một thanh niên thuộc dòng dõi quý tộc, là Luca Belludi, đã đến với thánh nhân và xin được theo nếp sống của những môn đệ Thánh Phanxicô. Thánh Antôn rất mến mộ tài năng, kiến thức của Luca và đích thân giới thiệu anh với Thánh Phanxicô, sau đó chính thánh nhân đã nhận anh vào dòng.
Lúc ấy, Luca chỉ mới 20 tuổi, là bạn đồng hành của Thánh Antôn trong những công tác rao giảng, đã săn sóc thánh nhân vào những ngày cuối đời và sau khi Thánh Antôn từ trần, Luca đã thế chỗ của thánh nhân. Sau đó ngài được bổ nhiệm việc quản lý các tu sĩ Phanxicô ở Padua.
Vào năm 1239, thành phố rơi vào tay quân thù. Những người quý tộc bị tử hình, thị trưởng và hội đồng thành phố bị dẹp bỏ, trường đại học ở Padua từ từ bị đóng cửa và việc xây cất nhà thờ để kính nhớ Thánh Antôn phải bỏ dở. Chính Luca bị trục xuất ra khỏi thành phố nhưng ngài bí mật trở về. Hàng đêm, ngài và thầy quản lý xuống mộ Thánh Antôn trong nguyện đường đang xây cất dở dang để cầu xin sự trợ giúp. Một đêm kia, có tiếng nói vang lên từ ngôi mộ, đảm bảo với các ngài là thành phố sẽ thoát khỏi tay bạo chúa hung dữ.
Sau khi lời tiên đoán ấy thành sự thật, Luca được bầu làm bề trên tỉnh dòng và sau đó ngài hoàn tất vương cung thánh đường để kính nhớ Thánh Antôn, là thầy của ngài. Trong cuộc đời của Chân Phước Luca, ngài thành lập nhiều tu viện, và cũng như Thánh Antôn, ngài được ơn làm phép lạ. Sau khi từ trần, ngài được an nghỉ trong chính vương cung thánh đường mà ngài đã giúp hoàn tất và được tiếp tục sùng kính cho đến ngày nay.
Ngày 23-02 Thánh Polycarpô
- Viết bởi daminhvn.net
Thánh POLYCARPÔ Giám mục tử đạo (...... - 155)
Từ khi thánh Inhaxiô qua đời, thánh Polycarpô đã trở thành khuôn mặt sáng giá nhất của kitô giáo đông phương. Ngài đã trở thành giám mục Smyrna khoảng năm 96.
Thánh Inhaxiô, sau khi gặp Ngài đã viết cho Ngài rằng: - "Hãy giúp đỡ người khác như Chúa đã trợ giúp Ngài... Hãy cầu nguyện không mệt mỏi... hãy như các lực sĩ mang lấy các yếu đau của mọi người, bởi vì người lực sĩ chiến thắng bất kể mọi cú đánh xâu xé thân mình".
Thực sự suốt cả đời, Polycarpô đã là một chiến sĩ chiến đấu cho đức Kitô. Đến lượt Ngài, Ngài cũng đã đào luyện các môn đệ của mình trong số đó có giám mục Lyon là thánh Irênê, người còn nhớ: - "Tôi không bao giờ quên bước đi trịnh trọng, nét mặt uy nghiêm, cuộc sống trong trắng của Ngài và nhận những lời khuyên thánh thiện Ngài dạy dỗ dân chúng".
Lúc đã quá tám mươi tuổi, thánh Polycarpô đi Rôma nói chuyện với Đức Giáo Hoàng Anicêtô về ngày thích đáng để kỷ niệm lễ phục sinh. Sau đó Ngài trở lại Smyrna để chịu tử đạo. Cuộc bách hại đã nghiêm trọng và Ngài sẵn sàng hiến đời mình. Nhưng bạn bè thân thiết xin Ngài hãy sống vì đoàn chiên, nên Ngài đã nhận ẩn mình ở miền quê. Các binh sĩ lùng tìm Ngài đã khám phá ra hai người giúp việc của Ngài và tra tấn dã man đến độ một trong hai người, khi quá đau đớn, đã tố cáo Ngài.
Và đã quá trễ khi họ đến căn nhà tại miền quê. Thấy họ đến, thánh Polycarpô đã nói: - Xin cho ý Chúa được thể hiện.
Và Ngài từ chối không muốn trốn đi. Ngài đi xuống tìm đón các binh sĩ, đàm thoại với họ, cho họ ăn uống, vì họ mệt nhọc tìm kiếm Ngài quá lâu và cuối cùng thì những binh sĩ này đã hoàn thành nhiệm vụ của họ. Thánh Polycarpô xin họ để giờ cho Ngài cầu nguyện. Ngài nói lớn với Thiên Chúa như người ta nói chuyện với cha mình, Ngài ký thác cho Chúa những anh em của mình, giàu cũng như nghèo, mọi Kitô hữu rải rác trên khắp thế giới. Suốt hai giờ liền, người ta nghe Ngài cầu nguyện như vậy.
Các binh sĩ kinh ngạc khi nghe Ngài cầu nguyện như thế và coi như là một phá hoại, khi họ ép buộc phải bắt giam một con người quảng đại và can đảm. Nhưng trung thành với mệnh lệnh họ dẫn cụ già đi.
Trên đường họ gặp chỉ huy và vị chỉ huy mời Polycarpô lên xe mình, ở đó ông muốn làm cho Ngài chối bỏ Thiên Chúa. Ông nói rằng: - Ngài xem này, xấu xa gì khi nói vài lời người ta yêu cầu và dâng một của lễ cho các thần minh của chúng ta... Sau đó Ngài được cứu thoát.
Trước sự từ chối của Polycarpô, viên lãnh binh đánh đập Ngài. Vị giám mục già nua té xuống đường, bị thương, Ngài chỗi dậy và đi theo các binh sĩ.
Một đám đông chờ đợi thánh Polycarpô tại vận động trường là nơi vui chơi, diễn ra cả các trò chơi tiêu khiển lẫn những cuộc vui hành hình.
Nhà cầm quyền khuyên nhủ Ngài: - Hãy thương lấy thân mà khinh miệt ông Kitô tôi sẽ trả tự do cho ông.
Nhưng thánh Polycarpô trả lời: - Đã tám mươi sáu năm tôi phụng sự đức Kitô và người chỉ ban sự lành cho tôi, làm sao tôi có thể phạm thượng tới Thiên Chúa và Đấng cứu chuộc tôi được ?
Dân chúng la hét ghê rợn, nhà cầm quyền nói: - Tôi có nhiều thú dữ, tôi sẽ thải ông cho chúng ăn thịt.
Thánh Polycarpô điềm tĩnh trả lời: - Ông hãy cho chúng tới đây.
Nhà cầm quyền mất bình tĩnh nói: - Vì ông khinh thú dữ, tôi sẽ thiêu sống ông, nếu ông không đổi ý.
Vị tử đạo trả lời: - Ông đe tôi bằng thứ lửa chỉ thấy có một lúc . Ong không biết thứ lửa đời đời dành cho bọn bất lương sao ?
Và mặt Ngài sáng rực ánh sáng trên trời. Viên nhiếp chính cho người hô lớn ba lần: - Polycarpô xưng mình là Kitô hữu.
Nghe vậy, lương dân và người Do thái đòi mạng Ngài, Họ tố cáo: - Nhà đại tiến sĩ của Á Châu, cha các Kitô hữu, kẻ phá hoại các đề thờ thần minh của chúng ta đó.
Ba ngày trước, thánh Polycarpô đã được thị kiến thấy gối mình bốc lửa và đã tin cho các bạn biết mình sẽ bị thiêu. Bây giờ Ngài nghe dân chúng la ó: - Đốt nó đi.
Và dân chúng vơ chất củi thành giàn thiêu, Ngài điềm nhiên xem họ làm. Khi mọi sự đã xong Ngài cởi áo, cởi giày, cầu nguyện. Ngài thờ lạy Chúa cứu thế và tạ ơn Người đã cho mình được chết vì đạo.
Binh sĩ đốt lửa. Ngọn lửa bao quanh thánh Polycarpô và thân thể Ngài sáng chói như vàng bạc. Người ta ngửi thấy mùi hương thơm quí giá.
Sau cùng một mũi giáo đâm vào thân xác đang bốc cháy và các Kitô hữu thấy linh hồn Ngài như cánh chim bồ câu bay thẳng lên trời cao.
(daminhvn.net)
Ngày 21-02 Thánh Phêrô Đamianô
- Viết bởi daminhvn
Thánh Phêrô Đamianô, Giám mục, Tiến sĩ (St. Peter Damian) (1007 - 1072)
Vị tu sĩ và Hồng Y sẽ nắm giữ một vai trò hàng đầu trong Ktô giáo này chào đời năm 1007 tại Ravenne, trong một gia đình nghèo túng, đến nỗi một trong số các anh Ngài đã phải thốt lên khi Ngài sanh ra: - "Chỉ còn thiếu nỗi bất hạnh này nữa thôi. Sao lại phải có nhiều người thừa hưởng cái di sản nhỏ nhoi này vậy"
Và người mẹ kiệt sức đã không muốn cho đứa trẻ sơ sinh bú sữa mà thất vọng bỏ mặc nó. Một bà hàng xóm giảng giải cho bà rằng: - "Những con báo con hùm không bỏ con chúng, trong khi chúng ta là những người Kitô hữu lại bỏ rơi con cái mình sao ? Đứa trẻ mà người ta xua đuổi này, một ngày kia biết đâu lại chẳng là niềm hân hạnh của gia đình ?"
Người đàn bà can đảm này không tin lời mình nói lắm, nhưng đã cung ứng những săn sóc đầu tiên cho đứa bé nghèo khổ. Người mẹ mắc cỡ nên âu yếm ẵm lấy đứa trẻ. Bà đặt tên là Phêrô.
Năm năm sau, Phêrô mồ côi cha mẹ, người được trao cho người anh đã giận dữ đón nhận cuộc sinh hạ của Ngài. Bị đối xử như người làm thuê Ngài phải chăn heo, ngủ chuồng của súc vật, mặc rách rưới và ăn bánh đen. Một ngày kia nhặt được đồng tiền, của trời ơi ngạc nhiên đối với đứa trẻ không hề ăn hàng, Ngài mang tiền đi xin lễ cho cha mẹ. Chính vì vậy mà dường như cha mẹ đã chúc lành cho cả đời đứa trẻ, con mình.
Đamianô, người anh cả của Ngài đã làm linh mục đưa Ngài về Ravenna ở với mình. Anh cho Ngài ăn học và Phêrô đã tỏ ra thông minh, đến nỗi Ngài đã sớm trở thành giáo sư. Đứa trẻ bị khinh miệt ngày trước, bây giờ dạy học tại Parma rồi tại Ravenna. Để bày tỏ lòng biết ơn với người anh cả, Ngài nhận tên mình là Phêrô Đamiano. Ngài được may mắn về mọi mặt. Nhiều gia đình quí, phải gọi Ngài tới ở. Song những thành công không làm cho Ngài thôi cầu nguyện ăn chay. Dưới bộ áo ngoài, Ngài mặc một chiếc áo nhặm.
Trước danh tiếng ngày càng gia tăng, Ngài tự nhủ: - Ích lợi gì nếu tôi dính bén vào được của cải chóng qua này? Bởi vì một ngày kia, tôi sẽ phải giã từ tất cả, tại sao ngay từ bây giờ tôi không hiến dâng chúng cho Thiên Chúa ?
Thế là Ngài từ bỏ cuộc sống dễ dãi và gia nhập dòng Camaldules, Ngài chọn cái gì nặng nhọc nhất và lui vào vô tịch ở nhà dòng Phonte Avellna. Đời khổ hạnh và cầu nguyện sắp biến Ngài thành một vị thánh lớn. Ngài chỉ muốn khiêm tốn vâng phục và thống hối, nhưng trong khi ẩn mình đi, thì năm 1043, vì vâng lời, Ngài đã được đặt làm tu viện trưởng. Khi đó, Ngài tăng số các tu sĩ, lập nhiều tu viện, giúp đỡ các dòng khác. Ý kiến của Ngài luôn hướng thượng, đến nỗi người ta nói rằng: Ngài được Thánh Thần soi sáng.
Giáo hội đang trải qua một thời u buồn và người tu sĩ nghèo khổ hôm qua sắp giữ một vai trò lớn lao làm giảm bớt đau đớn của Roma. Những nết xấu bỉ ổi đè nặng trên triều đại Giáo hoàng. Lời nói của Thánh Thần lẫn sự hiện diện của Ngài chưa đủ, Ngài viết một tác phẩm, "cuốn sách về thành Gomorrha", để lột trần những lạm dụng đang làm cho Giáo hội phải tủi hổ. Còn chính Ngài, để làm cân bằng cho sự yếu đuối của những giám mục bất xứng, đã tự mình đền tội đánh đòn hàng ngày đến độ chảy máu, dành giờ để hát mười thánh vịnh như Ngài đã khuyên nhủ các tu sĩ. Ngài ăn chay ba ngày mỗi tuần.
Phêrô Đamianô đã muốn là một tu sĩ rốt cùng suốt đời. Nhưng năm 1057, Đức Stephanô IX đã đặt Ngài làm Hồng Y giám mục Ostia. Ngài phản đối, nhưng Đức Thánh Cha khi giảng giải cho Ngài đã cầm tay xỏ nhẫn và đeo thánh giá cho Ngài. Trách vụ giao phó cho Ngài thật lớn lao. Phêrô Damianô hiến trọn tâm hồn cho gia đình mới rộng lớn này. Ngài đón nhận mọi khó khăn, chiến đấu chống các lạc giáo, chấm dứt các xáo trộn của Giáo hội Milanô dẹp tan những bất đồng với xã hội giáo hoàng. Những lo lắng mệt nhọc không cản trở Ngài sẵn sàng hiến dâng đời mình, dù chỉ cho một linh hồn thôi.
Dù kiệt sức, Ngài vẫn dậy sớm để giải tội, không nản lòng, Ngài săn sóc những người bất hạnh, phân phát áo mặc bánh ăn cho họ, thăm viếng các bệnh nhân. Mỗi ngày để nhắc lại tình yêu của Chúa Kitô, Ngài rửa chân cho 12 người nghèo. Đối với những người về quê lập nghiệp, Ngài gửi đồ trợ giúp họ, Ngài nhân hậu đồng đều đối với những người giàu có, những người cũng gặp khó khăn và cố gắng làm cho họ sống bác ái vị tha hơn. Thư từ còn làm cho ảnh hưởng của Ngài lan rộng hơn.
Sau bao nhiêu nhọc mệt và phục vụ, Phêrô trở nên già nua, Đức Thánh cha cho phép Ngài trở lại với nếp sống nhà dòng, Ngài đã muốn căn phòng xấu nhất, ăn thứ bành dành cho heo, hành hạ mình bằng dây lưng sắt, tìm đền bù cho các tội nhân và thánh hóa mình hơn nữa. Ngài nói:
- Một chiến sĩ của Chúa Kitô phải biết mình có thể tiến đến đâu trên đường nhân đức.
Phêrô Đamianô đã định ngày thứ sáu phải được thánh hiến bằng chay tịnh và thống hối, để kính nhớ Chúa Giêsu đã chịu chết trên thánh giá, và ngày thứ bảy kính Đức Mẹ, Đấng mà Ngài đã soạn một bản kinh Nhật tụng để chúc khen.
Tuy đã cao niên, nhưng khi Đức Thánh Cha xin Ngài làm đại diện cho mình tại Pháp. Thánh nhân lên đường ngay. Ngài viếng thăm nhiều địa phận, dẹp tan nhiều cuộc cãi vã, đi tới tận Nước Đức, hoà giải nhà vua với vợ mình là hoàng hậu Berthe, mẹ vua xin được Ngài hướng dẫn. Rồi Ngài tiêu diệt các bè rối tại Florence và mang an bình lại cho Ravenna. Phêrô Đamianô lên cơn sốt ở Faenza. Tu viện Nữ Vương các thánh thiên thần tiếp đón Ngài,
Ngài đã qua đời năm 1072 đang khi xin các tu sĩ vây quanh mình đọc kinh nhật tụng. Chính Ngài đã trước tác mộ bia của mình như sau: - "Mọi cái hôm nay đều phải qua đi để cho điều tồn tại mãi mãi tới gần. Hãy mộ mến những sự trên trời hơn những sự dưới đất, mộ mến điều tồn tại hơn cái rữa tàn. Ước gì tinh thần bạn đạt tới những đỉnh cao, tới được những nơi phát ra sự sống bạn".
(daminhvn.net)
Ngày 20/2 Chân Phước Jacinta and Francisco Marto
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Chân Phước Jacinta and Francisco Marto
Từ trái sang: Jacinta, Lucia, Francisco
(1910-1920; 1908-1919)
"Anh cho em gửi lời chào Chúa và Ðức Mẹ, và nói với các Ngài rằng em sẵn sàng chịu đựng mọi sự mà các Ngài muốn để hoán cải kẻ tội lỗi." (Lời Jacinta nói với Francisco)
Trong quãng thời gian từ 13 tháng Năm đến 13 tháng Mười 1917, ba trẻ chăn chiên người Bồ Ðào Nha ở Aljustrel đã được thấy Ðức Bà hiện ra ở Cova da Iria, gần Fatima, một thành phố cách thủ đô Lisbon 110 dặm về phía bắc. Vào lúc đó, Âu Châu đang can dự vào một cuộc chiến đẫm máu. Chính Bồ Ðào Nha, sau khi lật đổ chế độ quân chủ vào năm 1910, cũng đang trong sự rối loạn chính trị; sau đó không lâu nhà cầm quyền giải tán các tổ chức tôn giáo.
Trong lần hiện ra đầu tiên, Ðức Maria yêu cầu các trẻ trở lại nơi này vào ngày mười ba mỗi tháng trong sáu tháng kế tiếp. Ngài cũng yêu cầu các trẻ học hành để biết đọc biết viết, và lần chuỗi mai khôi "để thế giới được hòa bình và chấm dứt chiến tranh." Các trẻ cũng được khuyên hãy cầu nguyện cho những người tội lỗi và xin cho nước Nga được hoán cải, mà lúc bấy giờ Nga Hoàng Nicholas II vừa mới bị lật đổ và sau đó không lâu nước Nga rơi vào sự thống trị của chế độ cộng sản. Vào lần thị kiến sau cùng, 13-10-1917, có đến 90,000 người tụ tập tại Cova da Iria.
Chưa đầy hai năm sau, Francisco từ trần vì bệnh cúm ở ngay quê nhà. Em được chôn cất trong nghĩa trang giáo xứ và sau đó được cải táng về vương cung thánh đường Fatima vào năm 1952. Jacinta cũng chết vì bệnh cúm ở Lisbon sau khi dâng hiến sự đau khổ của mình để hoán cải người tội lỗi, để xin bình an cho thế giới và cho Ðức Thánh Cha. Cô được cải táng về vương cung thánh đường Fatima năm 1951. Người bà con với hai em là Lucia dos Santos, đã trở thành một nữ tu dòng Camêlô và hiện còn sống khi Jacinta và Francisco được phong chân phước vào năm 2000. Hàng năm, có đến 20 triệu người đến viếng đền Ðức Mẹ Fatima ở Bồ Ðào Nha.
Lời Bàn
Giáo Hội luôn luôn rất thận trọng khi phải chứng thực các việc hiện ra, nhưng Giáo Hội đã chứng kiến kết quả tốt đẹp của sứ điệp Ðức Bà Fatima khi người ta thay đổi đời sống. Cầu nguyện cho kẻ tội lỗi, tận hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Ðức Maria và lần chuỗi mai khôi--tất cả những điều này đã củng cố Tin Mừng mà Ðức Giêsu rao giảng.
Lời Trích
Trong bài giảng lễ phong chân phước, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc lại lời của Jacinta nói với Francisco ngay trước khi em từ trần, "Anh cho em gửi lời chào Chúa và Ðức Mẹ, và nói với các Ngài rằng em sẵn sàng chịu đựng mọi sự mà các Ngài muốn để hoán cải kẻ tội lỗi."
Ngày 20/2 Thánh Claude de la Combière (1641-1682)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh CLAUDE DE LA COMBIÈRE (1641-1682)
Lược sử
Thánh Claude sinh năm 1641 gần Lyons, nước Pháp, trong một gia đình đạo đức, giầu có. Ngài theo học trường của các cha dòng Tên về âm thanh và nghệ thuật.
Sau đó Claude vào trường đệ tử dòng Tên ở Avignon, là nơi ngài học xong triết học và bắt đầu dạy về nhân văn. Trong thời gian ngài dạy học ở Avignon là khi đạo quân của Louis XIV chiếm đóng, dù đó là nơi đức giáo hoàng cư ngụ. Khi hòa bình trở lại, thành phố Avignon cử mừng lễ Thánh Phanxicô Sales; mặc dù chưa được thụ phong linh mục, Claude là một trong những người được yêu cầu giảng thuyết. Để hoàn tất chương trình thần học ngài được gửi sang Balê là trung tâm văn hóa của nước Pháp, ở đó ngài được chọn làm thầy giáo tư cho các con của một bộ trưởng Pháp, là ông Colber. Nhưng trong một bài viết, ông Colbert có những lời châm biếm tôn giáo mà Cha Claude không tán thành với ông bộ trưởng, do đó ngài bị gửi trả về Avignon và được bổ nhiệm việc thuyết giảng ở một nhà thờ thuộc trường đại học.
Trong các bài giảng, ngài thường tố cáo những sai lầm của lạc thuyết Jansen mà ngài thấy đầy dẫy ở Balê. Cha Claude bài trừ tà thuyết bằng cách giảng dạy về việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Trong một cuộc tĩnh tâm ngài thề tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Hai tháng sau khi thề hứa, ngài được bổ nhiệm làm bề trên cho một trụ sở nhỏ của dòng Tên ở Paray. Chính ở đây mà ngài gặp Sơ Margaret Mary Alacoque, và là cha giải tội cho sơ và nhấn mạnh đến việc sùng kính Thánh Tâm Chúa.
Sau đó Cha Claude được sai đến nước Anh với công việc giải tội cho Nữ Công Tước của York. Ngài rao giảng không những bằng lời nói mà còn bằng hành động, và đã đưa nhiều người Tin Lành trở lại đạo. Trong thời gian ở đây, những chống đối người Công Giáo ngày càng gia tăng. Có tiếng đồn cho rằng người Công Giáo âm mưu giết vua để tái lập đạo Công Giáo tại Anh. Cha Claude bị bắt và bị cầm tù về tội tham dự vào âm mưu này trước khi thành công trong việc hoán cải nhà vua. Chính nhờ vua Louis XIV can thiệp mà Cha Claude không bị xử tử.
Cha Claude bị trục xuất, nhưng thời gian tù đầy đã ảnh hưởng tệ hại đến sức khỏe của ngài. Theo lời khuyên của Sơ Margaret Mary, ngài trở về Paray và từ trần tại đây năm 1682. Một ngày sau khi ngài chết, Sơ Margaret Mary được thị kiến siêu nhiên, đảm bảo rằng Cha Claude La Colombiere không cần được cầu nguyện, vì ngài đã ở trên thiên đàng.
Cha Claude được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh ngày 31 tháng Năm 1992.
Suy niệm 1: Gia đình
Thánh Claude sinh năm 1641 gần Lyons, nước Pháp, trong một gia đình đạo đức, giầu có.
Gia đình là môi trường tiên khởi mỗi người lớn lên theo năm tháng, vì thế việc giáo dục đóng một vai trò rất quan trọng cho tương lai của một đời người.
Không thiếu những thánh nhân đã xuất thân từ lò đào tạo đạo đức của gia đình. Và ngược lại vẫn hằng tồn tại những ác nhân đến từ ảnh hưởng xấu của tổ ấm gia đình, đúng như lời Đức Giêsu khẳng định: Cây mà tốt thì quả cũng tốt, cây mà sâu thì quả cũng sâu (Mt 12,33).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bậc phụ huynh ý thức và chu toàn trách nhiệm trọng đại của mình.
Suy niệm 2: Trường học
Claude vào trường đệ tử dòng Tên ở Avignon, là nơi ngài học xong triết học và bắt đầu dạy về nhân văn.
Trường học là nơi truyền đạt kiến thức, nhưng cũng là nơi đào tạo đạo đức con người. Tiên học lễ, hậu học văn. Người có tài mà không có đức thì chỉ gây tai họa cho người và xã hội.
Ý thức được điều đó, mẫu thân của thầy Mạnh Tử đã chấp nhận dời nhà xa rời phố chợ để đến gần trường học hơn, hầu tránh được cho con mình những thói xấu thường có ở chợ, và hấp thụ được nhiều điều hay ở trường học.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bậc phụ huynh hy sinh tiện ích cá nhân để chọn trường tốt cho con cái.
Suy niệm 3: Giảng thuyết
Mặc dù chưa được thụ phong linh mục, Claude là một trong những người được yêu cầu giảng thuyết.
Giá trị của việc giảng thuyết không chỉ hệ tại ở lời mà nhất là còn chủ yếu ở việc sống những lời mình rao giảng. Chính vì thế mà Claude được chọn dầu chưa là linh mục, vì ngài rao giảng không những bằng lời nói mà còn bằng hành động, và đã đưa nhiều người Tin Lành trở lại đạo.
Đấy là điều mà Đức Giêsu nhấn mạnh khi dạy dân chúng hãy nghe chứ đừng làm theo lối sống của các kinh sư, vì họ nói mà không làm (Mt 23,3). Và đó cũng là điểm mà quần chúng nhận thấy Đức Giêsu trổi vượt các kinh sư (Mc 1,22).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con rao giảng bằng hành động chứng nhân nhiều hơn bằng lời nói.
Suy niệm 4: Tử đạo
Ông Colbert có những lời châm biếm tôn giáo mà Cha Claude không tán thành với ông bộ trưởng, do đó ngài bị gửi trả về Avignon.
Claude không tử đạo bằng việc đổ máu, nhưng lại tử đạo cách thiêng liêng, khi chấp nhận bị thôi việc làm gia sư tại nhà ông bộ trưởng, vì không tán thành những lời châm biếm tôn giáo của ông bộ trưởng.
Xưa kia thánh Gioan Tẩy Giả cũng can đảm phản đối cuộc hôn nhân bất hợp pháp của vua Hêrôđê, cho dầu phải bị xiềng xích và sau đó bị chém đầu trong ngục thất (Mc 6,17-29).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bỏ qua một dịp nào để đón nhận cuộc tử đạo thiêng liêng.
Suy niệm 5: Lạc thuyết Jansen
Trong các bài giảng, Cha Claude thường tố cáo những sai lầm của lạc thuyết Jansen mà ngài thấy đầy dẫy ở Balê. Ngài bài trừ tà thuyết bằng cách giảng dạy về việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Cornelius Jansen - Giám Mục của Yprés - chủ trương rằng bản tính loài người quá hư hỏng vì tội nguyên tổ nên không có khả năng chống lại sự cám dỗ, không xứng đáng được rước lễ thường xuyên.
Jansen chống lại sự thờ kính nhân tính của Chúa Giêsu được thể hiện qua việc sùng kính Thánh Tâm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp những người theo lạc thuyết biết hồi tâm trở về với ràn chiên Chúa.
Suy niệm 6: Thánh Tâm Chúa Giêsu
Trong các bài giảng, Cha Claude thường tố cáo những sai lầm của lạc thuyết Jansen mà ngài thấy đầy dẫy ở Balê. Ngài bài trừ tà thuyết bằng cách giảng dạy về việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Nhằm bài trừ tà thuyết, ngài giảng dạy về việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, để rồi trong một cuộc tĩnh tâm ngài thề tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu. Hơn thế, 2 tháng sau khi thề hứa, ở Paray, ngài gặp Sơ Margaret Mary Alacoque, và là cha giải tội cho sơ, nhưng cũng được hỗ trợ về lòng sùng kính này.
Quả vậy, Thánh Margaret Mary Alacoque là người đã được Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần, và sứ điệp đặc biệt là sùng kính Thánh Tâm Chúa. Thánh nữ được Chúa Giêsu gọi là "Người môn đệ yêu dấu của Thánh Tâm Ta".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn ẩn náu trong Thánh Tâm Chúa, để không bao giờ sa vào bất cứ tà thuyết nào.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 19/2 Thánh Conrad ở Piacenza (1290-1350)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Conrad ở Piacenza (1290-1350)
Lược sử
Sinh trong một gia đình giầu có thuộc miền bắc nước Ý, Conrad kết hôn với Euphrosyne, con gái của một người quý phái.
Một ngày kia, trong khi đi săn Conrad ra lệnh đốt một số bụi rậm để lùa thú ra ngoài. Lửa cháy lan ra cánh đồng kế cận và thiêu hủy cả một cánh rừng. Một nông dân vô tội bị cầm tù, bị đánh đập ép phải nhận tội và bị kết án tử hình. Tuy nhiên Conrad đã ra thú tội, cứu mạng người nông dân ấy và ông phải bồi thường thiệt hại.
Sau biến cố ấy không lâu, Conrad và vợ đồng ý ly thân: bà gia nhập tu viện Dòng Thánh Clara Nghèo Hèn và ông đến với một nhóm người sống ẩn dật theo quy luật Dòng Ba Phanxicô. Tuy nhiên, không bao lâu, sự thánh thiện nổi tiếng của ông lan tràn. Vì sự cô quạnh bị khuấy động bởi các khách thăm viếng, Conrad di chuyển đến một nơi hoang vắng ở Sicily và ông sống ẩn dật ở đây trong 36 năm, cầu nguyện cho chính mình cũng như cho thế gian.
Sự cầu nguyện và ăn năn đền tội là cách ông đáp trả với những cám dỗ cản trở ông nên thánh. Ông từ trần khi còn quỳ gối trước tượng thánh giá. Ông được phong thánh năm 1625.
Suy niệm 1: Giàu và nghèo
Một nông dân vô tội bị cầm tù, bị đánh đập ép phải nhận tội và bị kết án tử hình.
Trong khi đó người giàu có đi săn, dùng lửa đốt một số bụi rậm để lùa thú ra ngoài khiến cả một cánh rừng bị thiêu hủy, thế mà lại không bị truy tố. Một phân biệt đối xử thường gặp trong xã hội.
Ngôn sứ Amốt cũng cho thấy giá trị người cùng khốn bị người giàu đánh giá chỉ bằng một đôi dép (Am 8,6). Hoặc một tục ngữ cho hay: người giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống công minh chính trực, không nể người giàu và không khinh người nghèo.
Suy niệm 2: Thú tội
Conrad đã ra thú tội, cứu mạng người nông dân ấy và ông phải bồi thường thiệt hại.
Không bị xã hội buộc tội, nhưng lại bị lương tâm cắn rứt do việc sai trái mình làm vốn gây nên án tử cho một người vô tội, Conrad can đảm thú tội và chấp nhận bồi thường thiệt hại.
Đời người thường tốt khoe xấu che và khéo léo chạy tội khi bị phát hiện, chỉ có bậc chính nhân quân tử với tâm hồn đạo đức thánh thiện như một Conrad mới anh dũng tự thú tội để cứu sống người vô tội.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đã phạm lỗi thì biết sửa sai và bước đầu là can đảm thú lỗi.
Suy niệm 3: Ly thân
Conrad và vợ đồng ý ly thân: bà gia nhập tu viện Dòng Thánh Clara Nghèo Hèn và ông đến với một nhóm người sống ẩn dật theo quy luật Dòng Ba Phanxicô.
Hôn nhân công giáo không chấp nhận ly dị theo giáo huấn của Đức Kitô (Mt 19,9), nhưng cho phép ly thân khi có lý do chính đáng và được sự chuẩn y của Đấng bản quyền (Sách Giáo Lý số 2383).
Dầu sao đi nữa thì đây cũng là một trong những trường hợp ngoại lệ, mà đã là ngoại lệ thì không nên lạm dụng, trừ phi đó là kế đồ của Thiên Chúa, vì thế cần phải rất sáng suốt và sốt sắng cầu nguyện để nhận ra Thiên Ý trước khi quyết định.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn quyết định và sống theo Thiên Ý trong mọi tình huống.
Suy niệm 4: Hoang vắng
Conrad di chuyển đến một nơi hoang vắng ở Sicily và ông sống ẩn dật ở đây trong 36 năm.
Nơi hoang vắng cũng là một môi trường thích hợp để chiêm niệm. Vì thế khi sự cô quạnh bị khuấy động bởi các khách thăm viếng, Conrad tìm đến nơi thật yên tịnh.
Trong Huấn Thị về Đời Sống Chiêm Niệm, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI có viết: "Rút lui vào nơi vắng vẻ là để người Kitô kết hợp chính mình cách mật thiết với sự thống khổ của Đức Kitô, và trong một phương cách đặc biệt, giúp họ chia sẻ mầu nhiệm vượt qua và hành trình của Đức Kitô từ trần thế đến quê trời".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con phải biết thỉnh thoảng rút lui vào nơi hoang vắng, để sống những giây phút nhiệm hiệp với Chúa.
Suy niệm 5: Chiêm niệm
Conrad di chuyển đến một nơi hoang vắng ở Sicily và ông sống ẩn dật ở đây trong 36 năm, cầu nguyện cho chính mình cũng như cho thế gian.
Thánh Phanxicô Assisi vừa quý trọng sự chiêm niệm vừa yêu quý đời sống rao giảng; giai đoạn cầu nguyện mãnh liệt là để nuôi dưỡng sức mạnh rao giảng. Tuy nhiên, một số môn đệ đầu tiên của ngài cảm thấy được mời gọi đến đời sống chiêm niệm, và ngài chấp nhận điều đó.
Mặc dù đời sống Thánh Conrad ở Piacenza không phải là một quy tắc trong Giáo Hội, nhưng ngài và các vị chiêm niệm khác nhắc nhở chúng ta về sự vĩ đại của Thiên Chúa và niềm vui của thiên đàng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng mãi mê hoạt động mà chểnh mảng việc chiêm niệm.
Suy niệm 6: Ăn năn
Sự cầu nguyện và ăn năn đền tội là cách ông đáp trả với những cám dỗ cản trở ông nên thánh.
Thể theo lời Đức Giêsu chỉ dạy, Conrad đã dùng phương thức tỉnh thức cầu nguyện để khỏi phải sa chước cám dỗ, vì tinh thần vốn hăng hái nhưng thể xác lại yếu hèn (Mt 26,41).
Ăn năn tội là đau đớn trong lòng và chê ghét tội đã phạm, dốc lòng chừa từ nay không phạm tội nữa. Đó cũng là phương thức hữu hiệu Conrad sử dụng phối hợp với việc cầu nguyện để chống trả cám dỗ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con học theo gương thánh Conrad, để luôn đứng vững được trước mọi chước cám dỗ.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 18/2 Thánh Simêon (c.107)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Simêon (c.107)
Lược sử
Simêon, hoặc Simon, dường như là bà con với Đức Giêsu. Người ta cho rằng cha của ngài là Clêopha, anh của Thánh Giuse và mẹ ngài là chị họ Đức Maria. Có lẽ ngài là một trong những người "anh em của Đức Giêsu" có mặt ở căn phòng bên trên vào ngày Ngũ Tuần. Ngài được chọn là Giám Mục thứ hai của Giêrusalem khi anh của ngài là Giacôbê Nhỏ tử vì đạo.
Vào năm 66, cuộc nội chiến bùng nổ ở Palestine như hậu quả việc người Do Thái chống đối đế quốc La Mã. Cộng đồng Kitô Hữu ở Giêrusalem được tiên báo là sẽ bị người Rôma tiêu diệt trong năm đó, trước khi Vespasian đưa quân vào Giuđêa, Thánh Simêon đã dẫn dắt cộng đoàn nhỏ bé đến nơi an toàn trong một thành phố nhỏ bé tên là Pella, ở bên kia sông Giođan.
Sau khi Giêrusalem bị đốt và chiếm đóng, người Kitô trở về và sống giữa những hoang tàn đổ nát cho đến khi Hoàng Đế Hadrian sau đó đã san bằng Giêrusalem.
Thánh Epiphanius và Eusebius kể rằng giáo hội ở đây đã phát triển cách đáng kể, và nhiều người Do Thái đã tòng giáo sau những phép lạ của các thánh. Khi Vespasian và Domitian ra lệnh tiêu diệt tất cả những ai thuộc dòng dõi Đavít, Thánh Simêon đã trốn thoát sự bắt bớ đó; nhưng đến thời Trajan cũng ra một lệnh tương tự, thì ngài đã bị bắt với tư cách không những là hậu duệ của Đavít mà còn là một Kitô Hữu, và ngài đã bị đưa ra trước Atticus, quan tổng trấn Rôma. Ngài bị kết án tử hình và, sau khi bị tra tấn, ngài đã chết treo trên thập giá.
Mặc dù ngài thật cao tuổi - truyền thống nói rằng ngài sống đến 120 tuổi - nhưng sự can đảm chịu đựng tra tấn mà không chối bỏ đức tin của ngài đã khiến ngay cả Atticus cũng phải thán phục.
Suy niệm 1: Anh em
Có lẽ Simêon là một trong những người "anh em của Đức Giêsu" có mặt ở căn phòng bên trên vào ngày Ngũ Tuần.
Dĩ nhiên Simêon là anh em họ cùng huyết thống với Đức Giêsu. Nhưng ngài đã sống thật xứng đáng, chứ không làm hổ danh cho gia tộc mình, khi được tín nhiệm để giữ chức vụ Giám Mục cũng như chấp nhận cuộc tử hình thập giá.
Qua bí tích Rửa Tội, mỗi kitô hữu cũng được vinh dự thuộc về linh tộc của Đức Giêsu. Chớ gì mỗi người luôn nỗ lực sống xứng đáng với danh hiệu này, cho dầu phải chịu bao thiệt thòi trên đường đời cũng như bao gian truân thử thách vì đạo Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tôn vinh và sống rạng danh Chúa mọi nơi mọi lúc.
Suy niệm 2: Giám Mục
Simêon được chọn là Giám Mục thứ hai của Giêrusalem khi anh của ngài là Giacôbê Nhỏ tử vì đạo.
Để Tin Mừng luôn luôn được gìn giữ nguyên vẹn và sống động trong Hội Thánh, các tông đồ đã đặt các Giám Mục làm người kế nhiệm, và trao lại cho họ trách nhiệm giáo huấn của các ngài (DV 7).
Nhiệm vụ giải nghĩa cách chân chính Lời Thiên Chúa đã được viết ra hay lưu truyền, chỉ được ủy thác cho Huấn Quyền sống động của Hội Thánh, và Hội Thánh thi hành quyền đó nhân danh Đức Giêsu Kitô, nghĩa là được ủy thác cho những Giám Mục sống hiệp thông với Giám Mục Rôma là người kế nhiệm thánh Phêrô (DV 10).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị Giám Mục luôn là những mục tử nhân lành như lòng Chúa mong ước.
Suy niệm 3: Nội chiến
Vào năm 66, cuộc nội chiến bùng nổ ở Palestine như hậu quả việc người Do Thái chống đối đế quốc La Mã.
Cuộc nội chiến nào nói chung cũng có thời gian kết thúc dầu sớm hay muộn. Nhưng có một cuộc nội chiến thiêng liêng luôn kéo dài mãi đến ngày tận cùng thế giới, đó cuộc nội chiến giữa thế lực tối tăm của ma quỷ với Thiên Chúa cùng các tôi trung của Người.
Thật vậy kể từ ngày tội lỗi xuất hiện (St 3), Con Mãng Xà luôn săn đuổi người Phụ Nữ và hậu duệ của Bà (Kh 12; 17; 19). Vì thế nảy sinh một cuộc nội chiến triền miên mãi đến chết nơi bản thân mỗi người giữa thiện và ác (Rm 7,15; 2Cr 12,7) .
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sức mạnh thần linh để luôn chiến thắng trong cuộc chiến nội tâm.
Suy niệm 4: Dẫn dắt
Trước khi Vespasian đưa quân vào Giuđêa, Thánh Simêon đã dẫn dắt cộng đoàn nhỏ bé đến nơi an toàn trong một thành phố nhỏ bé tên là Pella, ở bên kia sông Giođan.
Người mục tử nhân lành có sứ vụ chăn dắt với mối quan tâm chu đáo (Ed 34,11tt) và mang lại sự sống dồi dào (Ga 10,10) ngay cả phần thân xác. Vì thế Thánh Simêon đã tìm nơi an toàn cho đoàn chiên.
Đức Giêsu chẳng những làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi sống đoàn người theo Chúa (Ga 6), mà còn xin binh lính đừng bắt nhưng để cho các tông đồ được an toàn ra đi (Ga 18,8).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con an tâm tín thác vào sự chăn dắt của các vị mục tử của chúng con.
Suy niệm 5: Hoang tàn
Sau khi Giêrusalem bị đốt và chiếm đóng, người Kitô trở về và sống giữa những hoang tàn đổ nát.
Đức Giêsu đã thấy trước cảnh hoang tàn đổ nát của Giêrusalem đến mức không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào khiến Ngài phải khóc thương (Lc 19,44).
Những giọt lệ này chẳng là gì sánh với dòng máu đổ ra đến giọt máu cuối cùng (Ga 19,34) để ban ơn cứu độ cho mọi người, nhưng rồi Ngài lại phải chứng kiến bao tâm hồn hoang tàn đổ nát do hậu quả tội lỗi gây nên (Kh 18,2-5).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn giữ tâm hồn trong sạch, để lòng được tràn đầy ân sủng Thiên Chúa chứ không trở nên cảnh hoang tàn.
Suy niệm 6: Giờ
Thánh Simêon đã trốn thoát sự bắt bớ đó; nhưng đến thời Trajan cũng ra một lệnh tương tự, thì ngài đã bị bắt với tư cách không những là hậu duệ của Đavít mà còn là một Kitô Hữu.
Sở dĩ Thánh Simêon đã trốn thoát được sự bắt bớ thời Vespasian và Domitian cũng như giúp đoàn chiên tìm được nơi an toàn, vì giờ chưa đến. Nhưng đến thời Trajan thì giờ điểm nên ngài đã bị bắt và bị tử hình.
Xác tín vào giờ Chúa định liệu, mỗi kitô hữu nên tận dụng thời gian để sống thật tốt nhằm chuẩn bị cho lúc giờ điểm, vì giờ Chúa đến thì như kẻ trộm, không một ai có thể biết (Mt 24,42-44).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống tinh thần tỉnh thức để chờ đón giờ Chúa đến.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 17/2: Bảy vị sáng lập Dòng Tôi Tớ Ðức Mẹ (thế kỷ 13)
- Ngày 16/2: Thánh Gilbe ở Sempringham (1083-1189)
- Ngày 15/2: Thánh Gioan ở Valoa (1464-1505)
- Ngày 14/2: Thánh Valentine (c. 269)
- Thánh Ciryl và Thánh Methodius (c. 869, c. 884)
- Thánh Phaolô Lê Văn Lộc, Linh mục (1830-1859)
- Thánh Phêrô Baptist Blasquez và các bạn (c. 1597)
- Lễ Đức Mẹ Lộ Đức
- Thánh Scholastica (480-542?)
- Thánh Giles Mary của Thánh Giuse (1729-1812)