Gương Thánh Nhân
Ngày 21/4 Thánh Anselm (1033-1109)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Anselm (1033-1109)
Lược sử
Thánh Anselm sinh trong một gia đình quyền quý ở Aoust, thuộc Piedmont. Ngài được người mẹ đạo đức chăm sóc và dạy dỗ về giáo lý, và ảnh hưởng tốt đẹp ấy đã kéo dài suốt cuộc đời ngài.
Khi 15 tuổi, Anselm muốn gia nhập một đan viện, nhưng bị từ chối vì người cha phản đối. Sau thời gian mười hai năm sống trong sự thờ ơ tôn giáo và theo thói đời, sau cùng ngài đã trở thành một đan sĩ như lòng mong ước. Ngài gia nhập đan viện Bec ở Normandy, ba năm sau ngài được bầu làm đan viện trưởng, và 15 năm sau ngài được bầu làm viện phụ.
Được coi là một nhà tư tưởng độc lập và độc đáo, Đức Anselm được mọi người thán phục vì sự kiên nhẫn, hiền hòa và tài giảng dạy của ngài. Quả thật, ngài hiểu biết nhiều về thực chất và sự đam mê của con người đến độ dường như ngài đọc được tư tưởng và hành động của họ, bởi đó ngài nhìn thấy các nhân đức cũng như tật xấu của họ và khuyên bảo họ một cách thích hợp. Dưới sự lãnh đạo của ngài, Đan Viện Bec trở nên trường đào tạo các đan sĩ, có ảnh hưởng đến các tư duy triết học và thần học thời ấy.
Trong những năm này, theo lời yêu cầu của cộng đoàn, Đức Anselm bắt đầu công bố các công trình thần học của ngài, có thể sánh với các văn bản của Thánh Augustine. Công trình nổi tiếng nhất của ngài là cuốn Cur Deus Homo ("Tại Sao Thiên Chúa Làm Người").
Khi 60 tuổi, ngài được bổ nhiệm làm Đức Tổng Giám Mục của Canterbury vào năm 1093, trái với ý muốn của ngài. Việc bổ nhiệm ngài, lúc đầu bị vua nước Anh là William Rufus chống đối nhưng sau đó phải chấp nhận. Rufus cố chấp từ chối cộng tác với các nỗ lực cải cách Giáo Hội.
Sau cùng Đức Anselm phải đi lưu đầy cho đến khi Rufus từ trần năm 1100. Ngài được gọi về nước Anh bởi Henry I, là em và là người kế vị Rufus. Tuy nhiên, Đức Anselm lại bất đồng với Henry về việc nhà vua nhúng tay vào các vấn đề của hàng giám mục, do đó ngài lại phải đi lưu đầy ba năm ở Rôma.
Không chỉ lưu tâm đến hàng quý tộc, Đức Anselm còn để ý và lo lắng cho người nghèo. Ngài là người đầu tiên trong Giáo Hội chống đối việc buôn nô lệ. Và ngài đã được Hội Đồng Quốc Gia Westminster thông qua đạo luật cấm buôn bán con người.
Ngài từ trần ở Canterbury, Anh Quốc năm 1109, và được phong thánh năm 1494.
Suy niệm 1: Thờ ơ tôn giáo
Sau thời gian mười hai năm sống trong sự thờ ơ tôn giáo và theo thói đời, sau cùng ngài đã trở thành một đan sĩ như lòng mong ước.
Nào có ai ngờ: Là 1 thanh niên lãnh đạm với tôn giáo, Thánh Anselm đã trở nên 1 trong những nhà lãnh đạo và thần học gia vĩ đại của Giáo Hội. Ngài có danh xưng "Ông Tổ Phái Kinh Viện" vì những cố gắng phân tích và làm sáng tỏ các chân lý đức tin qua sự hỗ trợ của lý lẽ.
Nào có ai ngờ: ba năm sau khi gia nhập đan viện Bec ở Normandy, ngài được bầu làm đan viện trưởng, và 15 năm sau ngài được bầu làm viện phụ. Rồi khi 60 tuổi, ngài được bổ nhiệm làm Đức Tổng Giám Mục của Canterbury vào năm 1093.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng có định kiến về quá khứ lầm lỗi của bất cứ một ai, nhưng đón nhận thiện ý canh tân đời sống để không lãng phí một nhân tài và đánh mất một thánh nhân.
Suy niệm 2: Khuyên bảo
Thánh Anselm nhìn thấy các nhân đức và tật xấu của mỗi người và khuyên bảo họ một cách thích hợp.
Cũng như linh dược tự nó có hiệu năng chữa lành bệnh tật, nhưng cũng phải thích hợp với địa tạng của bệnh nhân và liều lượng điều trị. Lời khuyên bảo tự nó cũng có giá trị, nhưng để có giá trị thuyết phục và thực dụng cần thiết phải mang tính thích hợp với từng người và từng trường hợp.
Nhờ hiểu biết nhiều về thực chất và sự đam mê của con người đến độ dường như đọc được tư tưởng và hành động của tha nhân với các nhân đức và tật xấu của họ, nên Thánh Anselm đã có được những lời khuyên bảo thật thích hợp và hữu ích.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn chú tâm đến tính thích hợp của các lời khuyên bảo.
Suy niệm 3: Công trình
Theo lời yêu cầu của cộng đoàn, Đức Anselm bắt đầu công bố các công trình thần học của ngài.
Suy tư cũng như viết ra những điều mình suy tư và giữ riêng cho chính mình thì chắc hẳn ai cũng làm được, nhưng để phổ biến cho những người khác cùng chia sẻ thì thật không phải dễ thực hiện.
Chính Đức Anselm có được danh xưng "Ông Tổ Phái Kinh Viện" thế mà ngài cũng không vượt qua được rào cản này, vì chẳng ai cả dám tự hào về suy tư của mình là tuyệt tác, mà ngược lại luôn nhận ra sự hạn hẹp và yếu kém của mình, vì thế chỉ khi có lời yêu cầu của cộng đoàn và vì lợi ích của tha nhân thì ngài mới công bố được.
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn can đảm cho nhiều người để họ mạnh dạn phổ biến các suy tư của mình như một chia sẻ khiêm tốn nhằm phục vụ tha nhân.
Suy niệm 4: Thánh ý Thiên Chúa
Khi 60 tuổi, ngài được bổ nhiệm làm Đức Tổng Giám Mục của Canterbury, trái với ý muốn của ngài.
Dầu trái với ý muốn của ngài, nhưng ngài sẵn lòng đón nhận sứ vụ vì đó là thánh ý Thiên Chúa, điều mà mọi tín hữu phải khao khát thực hiện không chỉ ở tại thế mà ngay cả trên thiên đàng.
Đúng như tâm tình của ngài đã ngỏ: "Trên thiên đàng không ai có sự khao khát nào hơn là thánh ý Thiên Chúa; và sự khao khát của một người sẽ là sự khao khát của mọi người; và sự khao khát của mọi người cũng như mỗi người sẽ là sự khao khát của Thiên Chúa" (Thánh Anselm, Opera Omnis, Thư 112).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chuẩn bị sống trên thiên đàng, bằng việc luôn thực hiện Thiên Ý khi còn ở tại thế.
Suy niệm 5: Chính quyền
Đức Anselm lại bất đồng với Henry về việc nhà vua nhúng tay vào các vấn đề của hàng giám mục.
Thánh Anselm, cũng như bất cứ môn đệ trung kiên nào khác của Đức Kitô, đã phải vác thập giá của mình, nhất là dưới hình thức chống đối và xung đột với những người đang nắm quyền chính trị.
Mặc dù bản tính là một người hiền hòa và yêu chuộng hòa bình, Thánh Anselm không nhượng bộ trước sự đàn áp và mâu thuẫn với cac nguyên tắc đang bị đe dọa, cho dầu phải bị đi lưu đầy dưới thời vua Rufus, và ngài lại phải đi lưu đầy ba năm ở Rôma dưới thời vua Henry I, là em và là người kế vị Rufus.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm.
Suy niệm 6: Nô lệ
Thánh Anselm là người đầu tiên trong Giáo Hội chống đối việc buôn nô lệ. Và ngài đã được Hội Đồng Quốc Gia Westminster thông qua đạo luật cấm buôn bán con người.
Mang thân phận của một người làm nô lệ đã là khốn khổ lắm rồi. Thế mà còn bị hạ giá xuống như một đồ vật để bị buôn bán. Thật là thảm hại vô cùng. Thấu hiểu tình cảnh này, Thánh Anselm đã ra sức chống đối và đạt được kết quả.
Điều răn thứ bảy nghiêm cấm bất cứ hành vi hoặc dịch vụ nào dẫn tới việc nô lệ hóa con người, không nhìn nhận nhân phẩm của họ, mua bán hoặc trao đổi họ như hàng hóa. Tội này xúc phạm đến nhân phẩm và những quyền căn bản của con người, vì dùng bạo lực biến họ thành một vật dụng hoặc nguồn lợi (Sách Giáo Lý số 2414).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các chủ nhân theo gương Chúa luôn đối xử với tha nhân không như tôi tớ mà là bạn hữu (Ga 15,15).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 20/4 Thánh Conrad ở Parzham (1818 - 1894)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Conrad ở Parzham (1818 - 1894)
Lược sử
Thánh Conrad không phải là vị sáng lập dòng hay ngay cả là một linh mục, nhưng tình yêu của ngài dành cho Thiên Chúa và sự sùng kính Đức Maria đã biến ngài trở nên một anh hùng của Đức Giêsu Kitô. Thánh Conrad trổi vượt về đức bác ái, được biểu lộ trong tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, trong sự sùng kính Thánh Thể và sự tín thác vào Đức Mẹ như trẻ thơ.
Sinh trưởng ở Parzham, ngay từ nhỏ Conrad đã được cha mẹ dạy bảo giáo lý thật kỹ lưỡng. Dù phải làm việc đồng áng vất vả, Conrad vẫn dành nhiều thời giờ để cầu nguyện. Do đó người ta không ngạc nhiên khi thấy người trẻ này đã gia nhập dòng Capuchin sau khi các ngài đến đây truyền giáo.
Conrad gia nhập dòng Capuchin với tư cách thầy trợ sĩ. Ngài khấn trọn năm 1852 và được bài sai đến tu viện ở Altoetting với công việc giữ cửa trong 41 năm. Vì tu viện là trung tâm hành hương nên việc giữ cửa rất bận rộn, mỗi ngày có đến cả ngàn người thăm hỏi, và dù già hay trẻ, lịch thiệp hay thiếu lễ độ, Thầy Conrad đều ân cần và hòa nhã đón tiếp họ. Qua cách đối xử nhân từ ấy, thầy đã đưa nhiều người về với Thiên Chúa. Thầy ngủ ít, siêng năng làm việc và luôn luôn kết hợp với Đức Kitô. Thầy rất quý trọng Thánh Thể, và sung sướng khi được giúp lễ. Bất cứ lúc nào có chút thời giờ rảnh rỗi, thầy đều dùng để cầu nguyện trước Thánh Thể.
Ngoài việc tôn thờ Thánh Thể và Chúa Giêsu Đóng Đinh, Thầy Conrad còn đặc biệt sùng kính Đức Maria. Ngài là Nữ Vương và là Trạng Sư của thầy trong những khi thử thách. Thầy luôn cổ võ lòng sùng kính Đức Maria qua việc phân phát chuỗi Mai Khôi.
Vào ngày 18 tháng Tư 1894, thầy bị liệt. Ba ngày sau, khi các trẻ em mà thầy đã dạy chúng lần hạt, đang đọc kinh ngoài cửa sổ thì thầy trút hơi thở cuối cùng.
Với các nhân đức anh hùng và phép lạ của Thầy Conrad, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã tuyên phong chân phước vào năm 1930, và bốn năm sau, cũng chính Đức Piô XI đã tuyên phong hiển thánh.
Suy niệm 1: Anh hùng
Thánh Conrad không phải là vị sáng lập dòng hay ngay cả là một linh mục, nhưng tình yêu của ngài dành cho Thiên Chúa và sự sùng kính Đức Maria đã biến ngài trở nên một anh hùng của Đức Giêsu Kitô.
Nếu hiểu anh hùng là một người có tên tuổi (St 6,4), thì Nimrốt là người anh hùng đầu tiên trên mặt đất (St 10,8), như có câu: "Như Nimrốt, thợ săn anh hùng trước mặt Đức Chúa" (St 10,9).
Thánh Conrad cũng được xưng tụng là một anh hùng của Đức Giêsu Kitô. Ngài nổi danh là nhờ vào tình yêu nổi bật của ngài dành cho Thiên Chúa và sự sùng kính Đức Maria, cho dầu không phải là một chức sắc cao cấp trong Giáo Hội.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không tìm nổi danh nhưng chủ sống hết mình tình Chúa và Mẹ.
Suy niệm 2: Bác ái
Thánh Conrad trổi vượt về đức bác ái, được biểu lộ trong tình yêu Thiên Chúa và tha nhân.
Nhờ đức ái trổi vượt này mà Thánh Conrad đã chu toàn công việc khiêm tốn là giữ cửa tu viện trong suốt 41 năm, với một bối bảnh thật đặc biệt: Vì tu viện là trung tâm hành hương nên việc giữ cửa rất bận rộn, mỗi ngày có đến cả ngàn người thăm hỏi, và dù già hay trẻ, lịch thiệp hay thiếu lễ độ, Thầy Conrad đều ân cần và hòa nhã đón tiếp họ.
Thật đúng như lời tâm sự của ngài: “Những gì tôi muốn thực hiện trong cuộc đời, chính yếu là: sống bác ái và chịu đau khổ, luôn suy tưởng, tôn thờ và ngưỡng mộ tình yêu khôn tả của Thiên Chúa đã dành cho các tạo vật thấp hèn nhất của Ngài".
* Lạy Chúa Giêsu, xin đốt lên trong lòng chúng con ngọn lửa mến nồng nàn để dễ dàng phụng sự Chúa cũng như phục vụ tha nhân.
Suy niệm 3: Dạy giáo lý
Sinh trưởng ở Parzham, ngay từ nhỏ Conrad đã được cha mẹ dạy bảo giáo lý thật kỹ lưỡng.
Cha mẹ phải giáo dục đức tin cho con cái ngay từ tuổi ấu thơ. Việc giáo dục này khởi đầu ngay khi các phần tử trong gia đình giúp nhau lớn lên trong đức tin, nhờ chứng từ của đời sống đạo phù hợp với Tin Mừng.
Việc dạy giáo lý trong gia đình đi trước, đồng hành và làm phong phú thêm các hình thức giáo dục đức tin khác. Cha mẹ có sứ mạng dạy cho con cái biết cầu nguyện và khám phá ra ơn gọi làm con Thiên Chúa (Sách Giáo Lý số 2226).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các gia đình công giáo luôn coi trọng việc dạy giáo lý trong gia đình.
Suy niệm 4: Tu trì
Người ta không ngạc nhiên khi thấy người trẻ Conrad đã gia nhập dòng Capuchin sau khi các ngài đến đây truyền giáo.
Người ta không ngạc nhiên vì ngay từ bé Conrad đã say mê sống đời cầu nguyện như một người tu trì, đến mức dù phải làm việc đồng áng vất vả, Conrad vẫn dành nhiều thời giờ để cầu nguyện.
Vì thế việc được gia nhập dòng là một niềm hạnh phúc lớn lao đối với ngài như mẫu tâm sự: "Thiên Chúa muốn tôi từ bỏ tất cả những gì ưa thích và gần gũi với tôi. Tôi cảm tạ Thiên Chúa đã gọi tôi vào đời sống tu trì, là nơi tôi tìm thấy sự bình an và niềm vui mà không thể nào tìm thấy trong thế gian”.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bậc tu trì luôn cảm nghiệm được niềm hạnh phúc, để sống hết mình ơn gọi mình trong bất cứ tình huống nào.
Suy niệm 5: Nhân từ
Qua cách đối xử nhân từ ấy, thầy Conrad đã đưa nhiều người về với Thiên Chúa.
Mácđala cũng được cảm hóa để xa lánh cuộc đời tội lỗi mà trở về với Chúa trong cuộc sống lành thánh, chắc chắn không phải do thái độ hung hăng kết tội của quần chúng, mà nhờ vào lối xử sự đầy nhân từ của Đức Giêsu khi vừa tha tội vừa tha án tử hình.
Vì sao thế? Thông thường trước một thái độ hung hăng, thì đối phương co mình tự vệ với bất cứ giá nào, do đó khó cởi mở và đón nhận thiện ý tha nhân. Ngược lại lối xử sự nhân từ giúp dễ cảm thông và gần gũi nhau hơn nên tạo điều kiện cho đối phương dễ tiếp thu đến mức được cảm hóa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng cứng rắn đối chọi, nhưng hãy luôn nhân từ đối thoại, để dễ đạt được mục tiêu là cảm hóa người.
Suy niệm 6: Đức Maria
Thầy Conrad còn đặc biệt sùng kính Đức Maria. Ngài là Nữ Vương và là Trạng Sư của thầy trong những khi thử thách.
Đức Maria quả là Nữ Vương và là Trạng Sư không chỉ của thầy Conrad mà còn cho mọi người đang gặp thử thách, vì đời Mẹ cũng đã trải qua không ít thử thách với bao khổ đau như lời Simêôn tiên báo: Một lưỡi gươm sẽ dâm thâu tâm hồn bà (Lc 2,35).
Với cảm nghiệm và kinh nghiệm lướt thắng, Mẹ đồng cảm và giúp con cái Mẹ vượt qua. Xác tín điều đó nên thầy Conrad đã tín thác vào Đức Mẹ như một trẻ thơ qua việc phân phát chuỗi Mai Khôi cũng như dạy trẻ em lần hạt.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con siêng năng lần hạt và cũng động viên người khác lần hạt tỏ lòng sùng kính Đức Mẹ để được nhiều hồng ân từ Mẹ.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 19/4 Chân Phước Luchesio và Buonadonna (c. 1260)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Luchesio và Buonadonna (c. 1260)
Lược sử
Ông Luchesio và bà Buonadonna là hai vợ chồng muốn sống theo gương Thánh Phanxicô. Do đó họ đã gia nhập Dòng Ba Phanxicô.
Hai ông bà sống ở Poggibonzi, nơi họ hành nghề thương mãi và là con buôn tham lam. Nhưng sau khi gặp Thánh Phanxicô -- có lẽ năm 1213 -- họ đã thay đổi đời sống. Ông Luchesio bắt đầu thi hành nhiều việc bác ái.
Lúc đầu, bà Buonadonna không nhiệt tình sống bác ái như ông Luchesio, và thường than phiền chồng là đã bố thí quá nhiều của cải cho các người lạ. Một ngày kia, khi có người gõ cửa xin được giúp đỡ, và ông Luchesio nhờ vợ lấy cho họ ít bánh mì. Bà nhăn mặt khó chịu nhưng cũng đi vào bếp, và lạ lùng thay, bà nhận thấy số bánh mì đang có thì nhiều hơn khi trước. Không bao lâu, bà cũng trở nên hăng say sống đời khó nghèo và thanh bạch như chồng. Cả hai bán cả tiệm buôn, chỉ giữ lại ít đất để cầy cấy trồng trọt đủ cho nhu cầu và phân phối đất đai còn lại cho người nghèo.
Vào thế kỷ thứ 13, với sự ưng thuận và sự cho phép của Giáo Hội, một số vợ chồng sống ly thân để người chồng vào dòng tu nam và người vợ vào dòng tu nữ. Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ son sẻ hoặc con cái đã trưởng thành. Ông bà Luchesio lại muốn kiểu khác, họ muốn sống đời tu trì, nhưng bên ngoài tu viện.
Hai ông bà Luchesio và Buonadonna đều từ trần vào ngày 28 tháng Tư 1260. Ông được phong chân phước năm 1273. Truyền thống địa phương cũng gọi bà Buonadonna là "chân phước" dù rằng Tòa Thánh chưa chính thức công bố.
Suy niệm 1: Gặp gỡ
Hai ông bà Luchesio và Buonadonna sống ở Poggibonzi, nơi họ hành nghề thương mãi và là con buôn tham lam. Nhưng sau khi gặp Thánh Phanxicô -- có lẽ năm 1213 -- họ đã thay đổi đời sống.
Trên đời không thiếu những cuộc gặp gỡ giữa người với người. Nhưng thật ít thấy những trường hợp mang đến hiệu quả lành thánh từ một người buôn bán tham lam trở nên một người tốt lành biết hết mình sống vì Chúa và vì người như hai vợ chồng chân phước Luchesio và Buonadonna.
Điều tốt nảy sinh điều tốt. Một ngày kia, khi ông Luchesio đang cõng một người tàn tật mà ông bắt gặp bên vệ đường thì có một thanh niên đến hỏi ông, "Cái tên quỷ quái nào mà ông đang cõng trên lưng đó?" Ông Luchesio trả lời, "Tôi đang cõng Đức Giêsu Kitô." Ngay lập tức người thanh niên ấy đã phải xin lỗi ông.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tranh thủ những cuộc gặp gỡ lành thánh để được mỗi ngày một nên tốt hơn.
Suy niệm 2: Bác ái
Ông Luchesio bắt đầu thi hành nhiều việc bác ái.
Công việc bác ái của hai ông bà Luchesio đã thu hút người nghèo đến với họ, và cũng như các vị thánh khác, dường như hai ông bà không bao giờ thiếu của cải để giúp đỡ tha nhân.
Vì “Thương xót kẻ khó nghèo là cho Thiên Chúa vay mượn” (Cn 19,17), mà Thiên Chúa là Đấng công bình và giàu có tuyệt đối thì người làm việc bác ái như hai ông bà Luchesio làm sao có thể rơi vào tình cảnh túng thiếu được.
Thái độ bác ái quan tâm và gần gũi giới nghèo của Đức Giêsu đã từng cuốn hút quần chúng đến mức họ bỏ các đầu mục Dothái mà đến với Ngài (Ga 12,11). Chính vì thế các mục tử cũng luôn được mời gọi phải theo gương Đức Giêsu để quan tâm đến người nghèo (LG 23).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng ngoảnh mặt làm ngơ đối với ai nghèo khổ, để rồi đối với chúng con, Thiên Chúa cũng sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ (Tb 4,7).
Suy niệm 3: Vợ chồng
Lúc đầu, bà Buonadonna không nhiệt tình sống bác ái như ông Luchesio, và thường than phiền chồng là đã bố thí quá nhiều của cải cho các người lạ.
Vợ chồng vốn là bạn đường tuyệt vời hằng giúp nhau vượt qua cuộc hành trình lữ thứ trần gian. Thế nhưng một thực tế không phải là hiếm có, đó là một trong hai vô tình lại là một cản trở cho người kia trong bước đường phục vụ Chúa và tha nhân.
Từ đó cho thấy giá trị nổi bật của đời sống độc thân khiến thánh Phaolô tông đồ phải lên tiếng: “Đàn ông không đàn bà là điều tốt” (1Cr 7,1), có nghĩa là không lập gia đình là điều tốt hơn (1cr 7,37-38) vì “thuộc trọn về Chúa (1Cr 7,33-34b), vì dễ “lo được ích chung” (1Cr 12,7) cũng như dễ dàng chuyên lo việc cầu nguyện (2Cr 7,5).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bậc hôn nhân biết luôn hợp tác và trợ lực nhau để tránh tình trạng Chúa đã tiên liệu có thể xảy ra trong gia đình (Lc 12,52-53).
Suy niệm 4: Nghèo
Cả hai bán cả tiệm buôn, chỉ giữ lại ít đất để cầy cấy trồng trọt đủ cho nhu cầu và phân phối đất đai còn lại cho các người nghèo.
Thật dễ để chế nhạo người nghèo, và chà đạp phẩm giá con người mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Mẹ Têrêsa Calcutta thường đề cập đến sự nghèo túng như "sự đau khổ tiềm ẩn" của Đức Kitô.
Chúng ta dễ khiến người khác cảm thấy là họ vô ích -- người nghèo, người bệnh hoạn, người tật nguyền thể xác cũng như tâm thần, người lớn tuổi, người thất nghiệp -- do đó, chống lại sự cám dỗ ấy đòi hỏi một mức độ đại lượng trong cuộc sống chúng ta. Nếu ai nấy cũng đều nhìn thấy Đức Kitô trong người nghèo như hai ông bà Luchesio, họ sẽ phong phú hóa Giáo Hội và giữ được sự trung tín với Thiên Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn ghi khắc lời tâm huyết của Thánh Phanxicô: "Bất cứ ai nguyền rủa người nghèo là tổn thương đến Đức Kitô, vì họ đang mang hình ảnh của Người, hình ảnh của Đấng đã trở nên nghèo hèn vì chúng ta" (1 Celano, 76).
Suy niệm 5: Tu trì
Ông bà Luchesio lại muốn kiểu khác, họ muốn sống đời tu trì, nhưng bên ngoài tu viện.
Để đáp ứng nhu cầu này, Thánh Phanxicô đã lập Dòng Phanxicô Thế Tục. Đầu tiên, thánh nhân viết một Quy Luật đơn giản cho Dòng Ba (Phanxicô Thế Tục), sau đó Đức Giáo Hoàng Honorius III đã chấp thuận một quy luật chính thức vào năm 1221.
Đời sống tu trì thuộc về mầu nhiệm Hội Thánh. Đó là hồng ân Hội Thánh tiếp nhận từ Chúa và trao lại như một bậc sống ổn định cho tín hữu... Đời sống tu trì được mời gọi để bày tỏ đức ái của Thiên Chúa trong ngôn ngữ thời đại dưới nhiều dạng khác nhau (Sách Giáo Lý số 926).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra ơn gọi Chúa đặt để cho mỗi người, và hết mình sống theo đấng bậc mình.
Suy niệm 6: Truyền thống
Truyền thống địa phương cũng gọi bà Buonadonna là "chân phước" dù rằng Tòa Thánh chưa chính thức công bố.
Chúng ta phải phân biệt “Truyền Thống” các tông đồ với các “truyền thống” thuộc diện thần học, kỷ luật, phụng vụ hoặc sùng kính đã phát sinh theo thời gian trong các giáo đoàn địa phương...
Chính trong ánh sáng truyền thống các tông đồ, mà các truyền thống này được giữ lại, sửa đổi hay bị loại bỏ, theo sự hướng dẫn của Huấn Quyền Hội Thánh (Sách Giáo Lý số 83).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tôn trọng và tuân theo phán quyết của Huấn Quyền Tòa Thánh.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 18/4 Chân Phước Pedro de San José Betancur (1626 - 1667)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Pedro de San José Betancur (1626 - 1667)
Lược sử
Pedro sinh trong một gia đình nghèo ở Tenerife thuộc quần đảo Canary. Ngay từ nhỏ, cậu rất muốn trở thành một linh mục, nhưng Thiên Chúa đã có hoạch định khác cho cậu.
Pedro làm nghề chăn cừu cho đến khi 24 tuổi, anh thực hiện cuộc du hành sang Guatemala, hy vọng sẽ tìm được một người bà con đang làm việc cho chính phủ ở đây. Nhưng mới đến Havana, anh đã cạn hết tiền. Sau khi phải làm việc để kiếm thêm tài chánh, mãi một năm sau anh mới đến thủ đô Guatemala. Đến nơi, anh quá túng thiếu đến độ phải sống nhờ vào nhà phát chẩn của dòng Phanxicô.
Sau đó không lâu, Pedro ghi tên theo học trường Dòng Tên với hy vọng sẽ trở thành một linh mục. Nhưng dù cố gắng đến đâu đi nữa, anh vẫn không thể tinh thông các môn học; do đó anh phải bỏ dở. Năm 1655 anh gia nhập Dòng Phanxicô Thế Tục. Ba năm sau thầy Pedro mở một chẩn y viện cho người nghèo; một trung tâm cho người vô gia cư và sau đó ít lâu, thầy mở một trường học cho các trẻ em nghèo. Cũng không quên đến người giầu có ở thủ đô Guatemala, thầy đi vào khu phố của họ, vừa rung chuông vừa kêu gọi họ ăn năn sám hối.
Dần dà nhiều người khác đến chia sẻ công việc của Pedro. Không bao lâu, họ thành lập Tu Hội Bêlem mà tu hội này đã được Tòa Thánh chính thức công nhận sau khi Thầy Pedro từ trần.
Thầy thường được coi là người khởi xướng hoạt cảnh Đêm Giáng Sinh, trong đó Đức Maria và Thánh Giuse đi từng nhà để tìm chỗ trọ. Truyền thống này lan ra tới Mễ Tây Cơ và các quốc gia Trung Mỹ cho đến ngày nay.
Thầy được phong chân phước năm 1980.
Suy niệm 1: Nghèo
Pedro sinh trong một gia đình nghèo ở Tenerife thuộc quần đảo Canary.
Xuất thân nghèo khó, Pedro phải sống bằng nghề chăn cừu cho đến khi 24 tuổi. Cái nghèo vẫn đeo đuổi Pedro mãi. Vì thế mới đến Havana, anh đã cạn hết tiền. Sau khi phải làm việc để kiếm thêm tài chánh, mãi một năm sau anh mới đến thủ đô Guatemala. Đến nơi, anh quá túng thiếu đến độ phải sống nhờ vào nhà phát chẩn của dòng Phanxicô.
Sống chung với kiếp nghèo, Pedro không ưu phiền than trách mà vận dụng hết mình để cảm thông với người nghèo. Nên Pedro mở một chẩn y viện cho người nghèo, một trung tâm cho người vô gia cư và một trường học cho các trẻ em nghèo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con can đảm chấp nhận số phận và luôn vươn lên bằng hướng phục vụ tích cực.
Suy niệm 2: Ước nguyện
Ngay từ nhỏ, Pedro rất muốn trở thành linh mục.
Ước muốn được làm linh mục là một ước nguyện tốt lành và chính đáng, nên Pedro đã âm thầm nuôi dưỡng ngay từ nhỏ mãi cho đến tuổi trưởng thành. Khi đến thủ đô Guatemala, Pedro đã ghi tên theo học trường Dòng Tên với hy vọng sẽ trở thành một linh mục, nhưng anh phải bỏ dở.
Dầu chí nguyện làm linh mục không được thực hiện, nhưng mong muốn sống ơn gọi tu trì bằng thiên chức linh mục thì vẫn được thành tựu, khi năm 1655, Pedro gia nhập Dòng Phanxicô Thế Tục, để rồi sau đó thành lập Tu Hội Bêlem.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu rằng làm linh mục hay làm thầy dòng cũng đều quý hóa và tốt đẹp cả, miễn là sống trọn vẹn ơn gọi của mình.
Suy niệm 3: Hoạch định
Thiên Chúa đã có hoạch định khác cho Pedro.
Đề cập đến Thầy Pedro và bốn vị khác cùng được phong chân phước với thầy, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: "Thiên Chúa rộng rãi ban phát cho họ sự nhân hậu và lòng thương xót của Ngài cũng như ban cho họ tràn đầy ơn sủng...
Thiên Chúa yêu thương họ với tình yêu của một người cha, nhưng rất đòi hỏi, mà sự hứa hẹn chỉ là những khổ nhọc và đau thương. Thiên Chúa mời gọi họ sống cuộc đời thánh thiện cách anh hùng; Ngài lôi họ ra khỏi quê hương và gửi họ đến các phần đất xa lạ để loan truyền phúc âm, giữa những khó khăn và cực nhọc không thể diễn tả được" (L'Observatore Romano).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn ngoan ngoãn đi theo chương trình mà Chúa đã hoạch định cho mỗi người chúng con.
Suy niệm 4: Giầu có
Không quên đến người giầu có ở thủ đô Guatemala, thầy Pedro đi vào khu phố của họ, vừa rung chuông vừa kêu gọi họ ăn năn sám hối.
Đức Giêsu đã từng lên tiếng cảnh báo hạng người giàu có về mặt của cải: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa" (Mt 19,24), vì thông thường người giàu có ít làm chủ được tiền bạc của cải mà cách chung là làm nô lệ chúng do lòng tham vô đáy.
Do đó họ cần cải thiện đời sống, không được làm tôi hai chủ mà phải chọn hoặc tiền của hoặc Thiên Chúa mà thôi (Mt 6,24). Chình vì thế Pedro đi vào khu phố của họ, vừa rung chuông vừa kêu gọi họ ăn năn sám hối.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng vị nể nhưng mạnh dạn mở lời mời gọi người giàu có sống theo lời Chúa dạy bảo.
Suy niệm 5: Chia sẻ
Dần dà nhiều người khác đến chia sẻ công việc của Pedro.
Thật phúc cho Pedro có được nhiều người tự nguyện đến chia sẻ công việc, vì trong thực tế không thiếu trường hợp những người được mời cọng tác làm việc thì khăng khăng từ chối với nhiều lý do khác nhau, chẳng hạn vì đạo hiếu (Lc 9,59.61).
Cũng phải cảm kích Pedro có được tinh thần khiêm tốn và bác ái cao độ. Có khiêm tốn mới nhận ra khả năng hạn hẹp của mình không thể làm một mình hết mọi việc nên sẵn lòng đón nhận người chia sẻ. Có bác ái mời nhận người cọng tác để tạo điều kiện cho người người có việc làm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn học lấy bài học khiêm tốn và bác ái của thầy Pedro.
Suy niệm 6: Hoạt cảnh
Thầy Pedro thường được coi là người khởi xướng hoạt cảnh Đêm Giáng Sinh, trong đó Đức Maria và Thánh Giuse đi từng nhà để tìm chỗ trọ.
Phát minh phim ảnh và truyền hình xuất hiện với đặc điểm trình bày sự kiện hoặc câu truyện đồng thời bằng cả thính giác và thị giác. Sự việc này có sức lôi cuốn con người hơn là việc chỉ dùng thị giác mà đọc sách hoặc chỉ dùng thính giác mà nghe giảng dạy.
Điểm này cho thấy sáng kiến dùng hoạt cảnh của thầy Pedro để trình bày mầu nhiệm Giáng Sinh thật có giá trị. Không lạ gì sáng kiến này đã được đón nhận và loan truyền mãi cho đến ngày nay. Và dĩ nhiên không chỉ mầu nhiệm Giáng Sinh mà từ đó còn có mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh và một số mầu nhiệm khác nữa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ dừng lại ở việc nghe thấy, mà nhất là sống các mầu nhiệm được trình bày qua các hoạt cảnh.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 17/4 Thánh Benedict Joseph Labré (1748 - 1783)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Benedict Joseph Labré (1748 - 1783)
Lược sử
Thánh Benedict Joseph Labré thực sự là một con người lập dị, nhưng rất đặc biệt của Thiên Chúa. Là con cả trong gia đình 15 người con, Benedict Joseph Labré sinh ở Amettes thuộc miền bắc nước Pháp. Cha mẹ của cậu làm chủ một nông trại và có một tiệm buôn nhỏ nên đời sống của họ tương đối thoải mái.
Vào năm 12 tuổi, cậu được gửi đến sống với người chú là một linh mục triều ở Erin. Trong thời gian này, Benedict say mê đọc Kinh Thánh và gương thánh nhân đến nỗi người chú phải nhắc nhở cậu về việc học tiếng Latinh, là điều bắt buộc để trở nên một linh mục. Tuy nhiên, cậu nhận ra ơn gọi của Thiên Chúa trong sự hoàn toàn từ bỏ thế gian. Do đó, sau khi người chú từ trần vì chăm sóc các nạn nhân bệnh dịch tả, Benedict trở về nhà, và đi tìm dòng tu khắc khổ nhất.
Vì sức khoẻ yếu kém và vì thiếu nền tảng học vấn nên Benedict không được nhận vào đời sống tu trì. Sau đó, vào năm 18 tuổi, một thay đổi quan trọng có ảnh hưởng sâu xa đến cuộc đời. Benedict không muốn học hành và từ bỏ ý định đi tu. Ngài bỏ nhà và sống như một vị khổ tu, đi hành hương hết đền thánh này đến đền thánh khác. Ngài mặc quần áo rách rưới và ngủ ngay ngoài trời, thực phẩm của ngài chỉ là mẩu bánh hoặc ít rau trái nhờ vào lòng bác ái của người qua đường hoặc lượm nhặt được từ những nơi phế thải. Ngài không xin ăn và sẵn sàng chia sẻ thực phẩm dư dật với người nghèo. Ngài đặc biệt sùng kính Đức Mẹ và bí tích Thánh Thể.
Bất cứ ai gặp ngài đều không thể quên được một người thật rách rưới nhưng biết tiếng Latinh, thông thạo Kinh Thánh, trông như người ăn xin nhưng không bao giờ xin xỏ. Họ bâng khuâng tự hỏi làm thế nào kẻ lang thang ấy lại có đôi mắt thật nhân từ và một lối sống có phẩm giá. Điều họ thắc mắc đã là một sứ điệp. Thiên Chúa biết loài người dễ đắm chìm trong sự ích kỷ và Ngài đã đặt trước mắt họ hình ảnh của một ngôn sứ, một phản ánh thực sự của tự do đích thực, không bị ràng buộc vào vật chất thế gian. Benedict là người soi dẫn của Thiên Chúa để cảnh giác những người lầm lạc, và là tia hy vọng cũng như sự an ủi cho những người vô gia cư chỉ vì sự tham lam của người đời.
Vào ngày 16 tháng Tư 1783, có thể nói vì đời sống quá cực khổ, ngài kiệt sức ngã quỵ trên bậc tam cấp của một nhà thờ ở Rôma. Vào chiều tối hôm ấy, khi tiếng chuông vang vọng báo hiệu giờ kinh Salve Regina, ngài đã trút hơi thở cuối cùng trong một căn nhà gần đó. Các trẻ em chạy khắp đường phố loan báo, "Ông Thánh chết rồi! Ông Thánh chết rồi!" Tin tức ấy được loan truyền trong khi chuông nhà thờ đang rộn rã liên hồi.
Ngài được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII phong thánh năm 1859.
Suy niệm 1: Lập dị
Thánh Benedict Joseph Labré thực sự là một con người lập dị, nhưng rất đặc biệt của Thiên Chúa.
Dưới con mắt người đời, Thánh Benedict Joseph Labré được xem là một con người lập dị, do cách sống không giống với người đời. Ngài mặc quần áo rách rưới và ngủ ngay ngoài trời, thực phẩm của ngài chỉ là mẩu bánh hoặc ít rau trái nhờ vào lòng bác ái của người qua đường hoặc lượm nhặt được từ những nơi phế thải. Ngài không xin ăn và sẵn sàng chia sẻ thực phẩm dư dật với người nghèo.
Thánh Gioan Tiền Hô không bị đánh giá là lập dị nhưng bị xét một cách nặng nề hơn, đó là người bị quỷ ám (Mt 11,18) cũng do cách sống không giống người khác, chẳng hạn như không ăn không uống, hay đúng hơn chỉ ăn châu chấu và mật ong rừng cũng như mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da (Mc 1,6).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống không vì bia miệng người đời mà chỉ sợ Chúa chê cười.
Suy niệm 2: Môi trường
Vào năm 12 tuổi, cậu được gửi đến sống với người chú là một linh mục triều ở Erin.
Nhờ môi trường này, Benedict say mê đọc Kinh Thánh và gương thánh nhân đến nỗi người chú phải nhắc nhở cậu về việc học tiếng Latinh, là điều bắt buộc để trở nên một linh mục.
Để cho thấy tầm quan trọng của môi trường, Đức Giêsu cũng đã đề cập đến những kết quả khác nhau của những hạt giống được gieo vào vệ đường, sỏi đá, bụi gai hoặc đất tốt (Mt 13,4-8).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hãy luôn chọn sống trong môi trường tốt để dễ trở nên người tốt.
Suy niệm 3: Ơn gọi
Benedict nhận ra ơn gọi của Thiên Chúa trong sự hoàn toàn từ bỏ thế gian.
Để hoàn toàn từ bỏ thế gian, thoạt đầu Benedict đi tìm dòng tu khắc khổ nhất. Nhưng vì sức khoẻ yếu kém và vì thiếu nền tảng học vấn nên Benedict không đươc nhận vào đời sống tu trì, để rồi cuối cùng ngài bỏ nhà và sống như một vị khổ tu vô gia cư, không bị ràng buộc vào vật chất thế gian.
Điều này cho thấy: Tự bản tính và ơn gọi, con người là một hữu thể tôn giáo. Phát sinh từ Thiên Chúa và quy hướng về Thiên Chúa, con người chỉ đạt được cuộc sống nhân bản đầy đủ khi tự do liên kết với Thiên Chúa, dầu ở đấng bậc nào (Sách Giáo Lý số 44).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khiêm tốn đón nhận và sống trọn ơn gọi mà Chúa đã chọn cho mình trong tâm tình kết hiệp mật thiết với Chúa.
Suy niệm 4: Ăn xin
Bất cứ ai gặp Benedict đều không thể quên được một người thật rách rưới... trông như người ăn xin nhưng không bao giờ xin xỏ.
Thật hiếm thấy một người ăn xin mà lại không bao giờ xin xỏ, và nhất là sẵn sàng chia sẻ thực phẩm dư dật với người nghèo.
Thật ra ngài đã nêu gương sống trọn vẹn niềm tín thác vào Thiên Chúa Quan Phòng, Đấng biết rõ chúng ta cần gì, trước khi chúng ta cầu xin (Mt 6,8), để rồi ban dư dật cho chúng ta (Mt 6,33). Vì thế chúng ta phải đáp trả bằng việc đã được cho không thì cũng phải cho không như vậy (Mt 10,8).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chủ xin mà là cho vì cho thì có phúc hơn là nhận (Cv 20,35).
Suy niệm 5: Vô gia cư
Benedict là người soi dẫn của Thiên Chúa để cảnh giác những người lầm lạc, và là tia hy vọng cũng như sự an ủi cho những người vô gia cư chỉ vì sự tham lam của người đời.
Nhằm chia sẻ và ủi an những người vô gia cư, Benedict chấp nhận cuộc sống lang thang nay đây mai đó và sống nhờ vào lòng hảo tâm của tha nhân, để rồi vì đời sống quá cực khổ, ngài kiệt sức ngã quỵ trên bậc tam cấp của một nhà thờ ở Rôma và giả từ cõi đời.
Với sứ mạng loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn (Lc 4,18), Đức Giêsu cũng sống nghèo hèn đến mức vô gia cư (Mt 8,20) và lang thang trên khắp mọi nẻo đường dất nước Do-thái để rao truyền Lời Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn coi trọng việc rao truyền Lời Chúa lên trên hết mọi sự kể cả nơi ăn chốn ở.
Suy niệm 6: Thánh
Các trẻ em chạy khắp đường phố loan báo, "Ông Thánh chết rồi! Ông Thánh chết rồi!"
Benedict quả là một vị thánh sống, không lạ gì vừa mới chết thì các trẻ em đơn sơ chất phác đã buột miệng loan báo trên khắp đường phố: "Ông Thánh chết rồi! Ông Thánh chết rồi!", cho dầu mãi về sau ngài mới được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII chính thức phong thánh năm 1859.
Tưởng cũng nên nhắc đến một trường hợp mới mẻ: Trong thánh lễ an táng ĐGH Gioan Phaolô II, đám đông người Ba-Lan đã hô to câu Santo Subitol, Santo Subitol! có nghĩa là “xin phong thánh lập tức, xin phong thánh lập tức” cho ĐGH. Dầu vậy, cũng phải chờ đợi phán quyết cuối cùng của Hội Đồng Tòa Thánh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ thán phục lối sống lành thánh của các thánh nhân bằng lời xưng tụng, mà chủ yếu là hãy tập sống theo gương các ngài.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 16/4 Thánh Bernadette Soubirous (1844 - 1879)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Bernadette Soubirous (1844 - 1879)
Lược sử
Thánh Bernadette Soubirous tên thật là Mary Bernard, con của 1 gia đình thật nghèo làm nghề xay bột ở Lộ Đức, thuộc miền nam nước Pháp. Ngay từ khi còn nhỏ, cô bị bệnh suyễn thật nặng nên sức khỏe rất yếu kém.
Vào ngày 11 tháng Hai 1858, cô được Đức Trinh Nữ Maria hiện ra với cô trong một cái hang nằm trên con đê của sông Gave, gần Lộ Đức. Cô được thị kiến Đức Trinh Nữ tất cả 18 lần, lần sau cùng vào ngày lễ Đức Mẹ Núi Carmel, 16 tháng Bảy. Khi kể lại lần thị kiến đầu tiên, cô đã tự đặt mình vào tình trạng nguy hiểm đối với nhà chức trách. Nhưng Đức Trinh Nữ hiện ra với cô hàng ngày đã khiến đám đông tuốn đến hang ngày càng đông. Nhà chức trách tìm cách đe dọa để cô công khai rút lui, nhưng cô vẫn trung thành với những gì được thấy.
Vào ngày 25 tháng Hai, một suối nước chảy ra từ hang mà cô Bernadette đã dùng tay đào xới khi vâng theo lời Đức Trinh Nữ. Nước suối ấy đã chữa được nhiều người khỏi bệnh kể cả người tàn tật.
Vào ngày 25 tháng Ba, Bernadette cho biết trinh nữ hiện ra với cô tự xưng là Đức Vô Nhiễm Nguyên Tội, và ngài muốn xây một nhà thờ ở đây.
Vào năm 1866, Bernadette được gửi vào dòng Nữ Tu Đức Bà ở Nevers. Ở đây, sơ trở nên một phần tử của cộng đoàn, và bị sơ giám đốc đệ tử đối xử rất tệ hại. Sự bất nhẫn ấy chỉ chấm dứt khi họ khám phá rằng sơ Bernadette đang chịu đau khổ vì một căn bệnh bất trị. Sơ từ trần ở Nevers vào ngày 15 tháng Tư 1879, khi mới 35 tuổi.
Lộ Đức trở nên trung tâm hành hương lớn nhất thế giới, và suối nước nhỏ bé ấy hàng ngày vẫn cung cấp nước cho khách thập phương từ khắp nơi trên thế giới.
Sơ Bernadette được phong chân phước vào năm 1925, và được Đức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh vào năm 1933.
Xác của Thánh Bernadette vẫn còn nguyên vẹn cho đến ngày nay.
Suy niệm 1: Nghèo
Thánh Bernadette Soubirous tên thật là Mary Bernard, con của 1 gia đình thật nghèo làm nghề xay bột ở Lộ Đức, thuộc miền nam nước Pháp. Ngay từ khi còn nhỏ, cô bị bệnh suyễn thật nặng nên sức khỏe rất yếu kém.
Thật huyền nhiệm, trong lúc người đời luôn sợ cái nghèo và do đó cũng thường xa lánh người nghèo, thì Thiên Chúa lại quan tâm và yêu thích chọn người xuất thân nghèo khó, như đã chọn trẻ chăn chiên nghèo nàn Đavít làm vua kế vị Saun (1Sm 16,11-13).
Đức Giêsu hiện thân của Thiên Chúa tại trần gian cũng chọn các ngư phủ nghèo khó làm tông đồ kế nghiệp Ngài (Mt 4,18-22). Tiếp theo đường hướng đó, Đức Maria cũng chọn Thánh Bernadette Soubirous nghèo nàn cả về kinh tế lẫn sức khoẻ để hiện ra và trao ban nhiều mặc khải.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống theo đường hướng Chúa để xứng là người con Chúa.
Suy niệm 2: Hang
Vào ngày 11 tháng Hai 1858, cô Bernadette được Đức Trinh Nữ Maria hiện ra với cô trong một cái hang nằm trên con đê của sông Gave, gần Lộ Đức.
Hang động vốn là một địa danh mang tính tĩnh mịch và thiên nhiên thật thích hợp cho những cuộc gặp gỡ thần thiêng. Chính vì thế Đức Maria đã chọn địa điểm này để hiện ra nhiều lần với cô Bernadette.
Đức Giêsu chào đời cũng chọn một hang đá tại Bêlem ngoài đồng vắng, để tại đây lần lượt đón chào cuộc diện kiến của nhóm mục đồng cũng như ba nhà đạo sĩ phương Đông.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết lui vào nơi tĩnh mịch để dễ gặp gỡ và tâm sự cùng Chúa.
Suy niệm 3: Nhà chức trách
Khi kể lại thị kiến đầu tiên, Bernadette đã tự đặt mình vào tình trạng nguy hiểm đối với nhà chức trách.
Thật vậy nhà chức trách tìm cách đe dọa để cô công khai rút lui, nhưng cô vẫn trung thành với những gì được thấy. Nhiều giới chức dân sự tìm cách đóng suối nước lại và trì hoãn công việc xây cất nhà thờ.
Nhưng ảnh hưởng và tiếng vang đã thấu đến tai Hoàng Hậu Eugenie nước Pháp, vợ của Napoleon III, do đó việc xây cất được tiến hành tốt đẹp. Đám đông lại quy tụ về Lộ Đức, không bị phiền hà bởi các giới chức chống đối tôn giáo và hàng giáo sĩ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương Thánh nữ Bernadette, để luôn trung thành với linh thị bất chấp mọi nghịch cảnh đến từ chính quyền.
Suy niệm 4: Vâng theo
Vào ngày 25 tháng Hai, một suối nước chảy ra từ hang mà cô Bernadette đã dùng tay đào xới khi vâng theo lời Đức Trinh Nữ.
Nhờ vâng lời Thiên Chúa dùng gậy đập vào đá mà Môsê đã giúp toàn dân đang lưu lạc trong sa mạc có nước uống cho cả cộng đồng và súc vật (Ds 20,11).
Cũng thế nhờ vâng lệnh Đức Giêsu thả lưới, dầu vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả, mà Phêrô đã có được một mẻ cá lạ lùng (Lc 5,5).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín về giá trị của đức vâng lời để luôn thực thi trong đời sống.
Suy niệm 5: Đau khổ
Sự bất nhẫn ấy chỉ chấm dứt khi họ khám phá rằng sơ Bernadette đang chịu đau khổ vì một căn bệnh bất trị.
Sự đau khổ thể xác do cơn bệnh hành hạ chẳng là gì so với nỗi đau Bernadette phải gánh chịu, khi vào năm 1866, Bernadette được gửi vào dòng Nữ Tu Đức Bà ở Nevers. Ở đây, sơ trở nên một phần tử của cộng đoàn, và bị sơ giám đốc đệ tử đối xử rất tệ hại.
Nhưng nỗi đau tinh thần của Bernadette làm sao sánh được với Đức Giêsu, khi Ngài là vua trên hết các vua lại bị một vị quan nhu nhược xét xử, khi Ngài là Thiên Chúa vô tội và ba lần thánh lại bị vu cáo với bản án tử hình thập giá.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hãy luôn chiêm ngắm sự đau khổ của Chúa, để kiên tâm chịu đựng nỗi đau của mình.
Suy niệm 6: Hành hương
Lộ Đức trở nên trung tâm hành hương lớn nhất thế giới.
Lộ Đức được đánh giá là trung tâm hành hương lớn nhất thế giới, nhưng đâu phải ai ai cũng có trách nhiệm phải quy tụ về, vì thế Lộ Đức làm sao sánh được với quê hương trên trời là nơi toàn thể nhân loại đều phải nỗ lực hành hương về.
Đàng khác tại Lộ Đức dầu có lắm bệnh nhân được chữa lành cách diệu kỳ nhưng cũng chỉ làm giảm bớt nỗi khổ đau của trần thế trong thời gian, còn trên thiên đàng thì không còn khổ đau mà chỉ toàn là hạnh phúc và hoan hỷ muôn đời (Is 25,7-8).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn chú tâm hoàn thành cuộc hành hương về quê trời vĩnh cửu.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 15/5 Chân Phước Damien ở Molokai (1840 - 1889)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Damien ở Molokai (1840 - 1889)
Lược sử
Chân Phước Damien, tên thật là Giuse "de Veuster", sinh ở Bỉ ngày 3 tháng Giêng 1840, trong một gia đình mà cha là một nông dân cần cù và bà mẹ tận tụy dạy dỗ đức tin cho tám người con.
Ngay từ nhỏ, cậu Giuse mạnh khoẻ và tráng kiện, đã phải thôi học để giúp cha trong công việc đồng áng. Cậu chăm chỉ giúp đỡ gia đình trong nhiều năm, nhưng tâm hồn cậu vẫn ở một nơi nào đó. Vào lúc 19 tuổi, theo gương anh mình, Giuse gia nhập Tu Hội Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria, và lấy tên là Damien. Vì nhất quyết theo đuổi việc học và để hết tâm hồn trong đời sống tu trì, chẳng bao lâu Damien đã bù đắp được sự thiếu hụt trong việc giáo dục trước đây.
Vào năm 1863, Cha Pamphile, anh ruột của Thầy Damien, chuẩn bị đến quần đảo Hạ Uy Di trong công tác truyền giáo. Nhưng cha lâm bệnh nặng, và Thầy Damien tình nguyện thế chỗ. Sau năm tháng dòng dã trên biển, thầy đến hải cảng Honolulu. Trong vòng hai tháng tiếp đó, thầy được thụ phong linh mục và được bổ nhiệm phục vụ ở Đại Đảo của Hạ Uy Di. Sự phục vụ của Cha Damien được ghi nhận là hăng say và tính tình dễ dãi của ngài thu hút được nhiều người. Sau khoảng một thập niên, ngài tình nguyện đến Molokai để phục vụ các người bị mắc bệnh Hansen, thường gọi là bệnh cùi. Vào lúc Cha Damien đến đây, những người mắc bệnh cùi bị đầy ra đảo này đã hơn mười năm qua.
Cha Damien, lúc ấy 33 tuổi, đến Molokai vào tháng Năm 1873 với hành trang là cuốn sách kinh và một ít quần áo. Theo dự định ban đầu của tu hội, ngài chỉ ở đây một vài tháng rồi sau đó có các linh mục khác lần lượt ra thay thế. Nhưng sau khi đến đây được ít lâu, ngài đã viết thư xin cha bề trên cho phép ngài vĩnh viễn ở lại Molokai.
Có thể nói, ngài sống với người cùi -- ăn uống với họ, đụng chạm đến họ, chào đón họ. Cha Damien được giao cho trông coi một cộng đồng Công Giáo. Hàng ngày, cha như chìm đắm trong sự cầu nguyện, suy gẫm và đọc sách thiêng liêng, do đó ngài lôi cuốn được hàng trăm người trở lại đạo. Nhưng tâm hồn của cha vẫn ở với tất cả các nạn nhân của bệnh Hansen, dù Công Giáo hay không Công Giáo. Ngài chăm sóc người bệnh, mai táng kẻ chết, lắng nghe những tâm sự đau lòng. Ngài giúp cải tiến hệ thống dẫn nước cũng như nơi ăn ở của họ. Ngài trông coi việc xây cất một trường học, một cô nhi viện và tổ chức sinh hoạt thiếu nhi cũng như ca đoàn. Ngài là người đào huyệt cũng như chủ sự lễ an táng.
Người ta không rõ khi nào thì Cha Damien bị lây bệnh cùi, nhưng chắc chắn là một ngày trong năm 1884 khi ngài bị phỏng ở chân mà không thấy đau. Căn bệnh tấn công ngài như bất cứ người nào khác: từ từ, chân tay và mặt mũi ngài biến dạng, tai ngài sưng to và méo mó. Vào ngày 15 tháng Tư 1889, ngày thứ Hai Tuần Thánh, căn bệnh đã chấm dứt cuộc đời Cha Damien, khi mới 49 tuổi. Lúc ấy được 16 năm sau khi ngài đến Molokai, và 25 năm kể từ khi ngài đến Hạ Uy Di để bắt đầu công việc truyền giáo.
Trong những ngày cuối đời, Cha Damien được Mẹ Bề Trên Marianne Cope chăm sóc, là người đã hứa sẽ tiếp tục công việc mà cha đã khởi sự. Và sơ đã thể hiện điều đó trong 30 năm kế tiếp với sự cộng tác của các sơ trong tu hội.
Cha Damien được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước vào tháng Sáu 1995. Và cuối năm 1999, theo lời yêu cầu của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ và đã được Vatican chấp thuận, Chân Phước Damien được kính nhớ vào ngày 15 tháng Tư trong niên lịch phụng vụ của Giáo Hội Hoa Kỳ.
Suy niệm 1: Cần cù
Chân Phước Damien, tên thật là Giuse "de Veuster", sinh ở Bỉ ngày 3 tháng Giêng 1840, trong một gia đình mà cha là một nông dân cần cù và bà mẹ tận tụy dạy dỗ đức tin cho tám người con.
Thông minh tài trí thì không phải mấy ai cũng có được, nhưng có thể bù đắp bằng đức tính cần cù, như lời cổ nhân dạy: Cần cù bù thông minh.
Hấp thụ được đức tính cần cù của phụ mẫu, Damien dầu thôi học ngay từ nhỏ để giúp đỡ gia đình, nhưng đến năm 19 tuổi, ngài vẫn cần cù theo đuổi việc học và đời sống tu trì, chẳng bao lâu Damien đã bù đắp được sự thiếu hụt trong việc giáo dục trước đây, để rồi được thụ phong linh mục vào năm 1863.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết cần cù không để làm giàu nhưng để khỏi bị thiệt thân như lời Sách Châm Ngôn dạy (Cn 13,4).
Suy niệm 2: Thôi học
Ngay từ nhỏ, Damien mạnh khoẻ và tráng kiện, đã phải thôi học để giúp cha trong công việc đồng áng.
Con đường học vấn vốn là con đường thông thường giúp cho người tiến thân. Nhưng không thiếu những người phải chấp nhận thôi học vì hoàn cảnh túng thiếu của gia đình như một Damien.
Cũng thế Thánh Richard đã phải bỏ dở việc học để giúp anh mình quản trị cơ sở khỏi bị lụn bại. Và khi có cơ hội, ngài cũng không muốn lập gia đình vì muốn đi học trước đã. Ngài vào Đại Học Oxford và với sự chăm chỉ học hành, không lâu ngài đã có được một địa vị quan trọng trong trường. Sau khi được thụ phong linh mục, ngài được tấn phong làm giám mục của Chichester, nước Anh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn coi trọng việc học hành, không nhằm tiến thân nhưng ít là để được thành nhân.
Suy niệm 3: Dễ dãi
Sự phục vụ của Cha Damien được ghi nhận là hăng say và tính tình dễ dãi của ngài thu hút được nhiều người.
Tính tình dễ dãi nhưng không vượt quá giới hạn của các nguyên tắc cơ bản phải tuân thủ thường có hiệu quả thu hút được nhiều người. Chính yếu tố then chốt này đã giúp Cha Damien lôi cuốn được hàng trăm người trở lại đạo.
Tính tình dễ dãi của Đức Giêsu cũng từng tạo điều kiện cho bao người chạy tìm đến với Ngài, từ hạng dân thường đến người có chức quyền, kể cả các bệnh nhân phong cùi mà xã hội loài người loại bỏ và xa tránh, thậm chí cả trẻ em cũng được tiếp nhận.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tránh lối sống quan liêu kẻo bị người người ngại ngùng tìm đến.
Suy niệm 4: Bệnh cùi
Sau khoảng một thập niên, ngài tình nguyện đến Molokai để phục vụ các người bị mắc bệnh Hansen, thường gọi là bệnh cùi.
Người ta không rõ khi nào thì Cha Damien bị lây bệnh cùi, nhưng chắc chắn là một ngày trong năm 1884 khi ngài bị phỏng ở chân mà không thấy đau. Căn bệnh tấn công ngài như bất cứ người nào khác: từ từ, chân tay và mặt mũi ngài biến dạng, tai ngài sưng to và méo mó. Vào ngày 15 tháng Tư 1889, ngày thứ Hai Tuần Thánh, căn bệnh đã chấm dứt cuộc đời Cha Damien, khi mới 49 tuổi.
Đúng như lời ngài tâm sự: "Thiên Chúa là Đấng nhân lành biết rõ những gì cần cho tôi nên thánh, và với tâm hồn sẵn sàng, tôi vui sướng nói rằng, 'Xin cho ý Cha được thể hiện.' Còn phần tôi, tôi chấp nhận là một người cùi để đem các linh hồn về cho Đức Giêsu Kitô".
* Lạy Chúa Giêsu, bệnh cùi thật đáng sợ với việc hủy hoại thân xác, nhưng không sánh được với tội lỗi vốn giết chết cả linh hồn.
Suy niệm 5: Hành trang
Cha Damien, lúc ấy 33 tuổi, đến Molokai vào tháng Năm 1873 với hành trang là cuốn sách kinh và một ít quần áo.
Sở dĩ Cha Damien chỉ mang theo cuốn sách kinh và một ít quần áo, là vì ngài hiểu rõ: Hành trang lên đường của nhà truyền giáo phải được đặt lên hàng đầu, đó là đời sống tâm linh hơn là vật chất.
Để gây ý thức cho các tông đồ về điều này, Đức Giêsu đã từng ra chỉ thị: "Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo” (Lc 9,3).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sắm sẵn hành trang lên đường truyền giáo là chính Chúa vì có Chúa mới trao Chúa cho người được.
Suy niệm 6: Sống
Có thể nói, Cha Damien sống với người cùi.
Ngài sống hòa đồng đến mức cùng ăn uống với họ, đụng chạm đến họ, chào đón họ. Ngài chăm sóc người bệnh, mai táng kẻ chết, lắng nghe những tâm sự đau lòng. Ngài là người đào huyệt cũng như chủ sự lễ an táng, để rồi cuối cùng ngài cũng bị mắc bệnh cùi.
Đức Giêsu đã có lối sống hòa đồng tuyệt hảo đến mức Ngài là Thiên Chúa nhưng khi nhập thế và nhập thể làm người, Ngài đã trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế (Pl 2,7), ngoại trừ tội lỗi (1Pr 2,22;Dt 7,26).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết hạ mình sống hòa đồng với mọi người ngoại trừ tội lỗi.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 14/4 Thánh Gemma Galgani (1878 - 1903)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lược sử
Thánh Gemma Galgani sinh ở Camigliano, nước Ý, và là thứ tư trong gia đình có tám người con. Cô là một người thông minh, thân thiện, hăng hái và dễ mến, nhưng tinh thần cầu nguyện và sự thâm trầm của cô thì không một người trẻ nào sánh được.
Mẹ của Gemma bị mắc bệnh lao và bà từ trần khi Gemma mới bảy tuổi. Mặc dù rất đau khổ khi phải mồ côi mẹ, Gemma đã biết an ủi các anh chị em mình rằng: "Mẹ chúng ta đã về trời, mẹ đã đau khổ nhiều -- nhưng bây giờ mẹ không còn đau khổ nữa."
Cha của Gemma là một dược sĩ và thường rất khá giả, nhưng bệnh tình lâu ngày trong gia đình đã làm kiệt quệ tài chánh. Dần dà, họ trở nên nghèo nàn. Thêm vào đó, cha của Gemma lại mắc bệnh ung thư cổ và cô phải chăm sóc ông cho đến khi ông từ trần lúc Gemma 19 tuổi. Như thế, trước khi hai mươi tuổi, Gemma đã được chứng kiến sự đau khổ của cha mẹ mình và đã thi hành tất cả những gì có thể để khuây khỏa và an ủi các ngài.
Sau khi từ chối lời cầu hôn của hai thanh niên, Gemma ao ước đi tu, nhưng vì lý do sức khoẻ và vì nghèo nên cô bị từ chối. Cô chấp nhận sự thất vọng này như một hy sinh dâng lên cho Chúa. Trong thời gian ấy, Gemma tiên đoán rằng các tu sĩ dòng Thương Khó sẽ thành lập một tu viện ở Lucca, và điều này đã xảy ra sau khi cô từ trần được hai năm.
Vào năm 21 tuổi, một tiếng nói bên trong cho Gemma biết là cô sẽ được ơn lạ thường. Sau đó cô cảm thấy đau nhói ở chân tay và ngực, và có máu tiết ra ở những nơi ấy. Đó là những thương tích như trên thân thể Chúa Giêsu xưa.
Vào tháng Giêng 1903, bác sĩ cho biết Gemma bị lao phổi, và ba tháng sau đó, vào ngày thứ Bảy Tuần Thánh, với sự chứng kiến của cha sở, cô từ giã cõi đời khi mới hai mươi lăm tuổi. Cha sở kể lại: "Cô ấy chết với nụ cười vẫn còn nở trên môi, nên tôi không tin là cô ấy thực sự đã chết."
Cô Gemma được Đức Giáo Hoàng Piô XI phong chân phước năm 1933 và được Đức Giáo Hoàng Piô XII phong thánh vào ngày 2 tháng Năm 1940, chỉ có ba mươi bảy năm sau khi từ trần.
Suy niệm 1: Cầu nguyện
Tinh thần cầu nguyện và sự thâm trầm của Gemma thì không một người trẻ nào sánh được.
Thật vậy, vào mỗi tối thứ Năm, Gemma sốt sắng cầu nguyện đến mức rơi vào trạng thái ngây ngất và các dấu thánh bắt đầu xuất hiện. Mãi cho đến chiều thứ Sáu, các dấu thánh mới tan biến và đến sáng thứ Bảy thì máu mới ngưng chảy, các vết thương như đóng lại, chỉ còn một vệt trắng mờ trên da.
Các dấu thánh tiếp tục xuất hiện cho đến khi cha giải tội cấm cô không được chấp nhận các dấu ấy. Qua lời cầu nguyện của cô, hiện tượng này chấm dứt, nhưng các vết sẹo trắng vẫn còn thấy ở trên da.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chuyên chăm cầu nguyện không nhằm được ơn lạ thường như Gemma nhưng để luôn được Chúa thương nhậm lời.
Suy niệm 2: Đau khổ
Mặc dù rất đau khổ khi phải mồ côi mẹ, Gemma đã biết an ủi các anh chị em mình rằng: "Mẹ chúng ta đã về trời, mẹ đã đau khổ nhiều -- nhưng bây giờ mẹ không còn đau khổ nữa."
Nỗi khổ đau của Gemma lại gia tăng khi phải dành thì giờ để chăm sóc cho thân phụ đang mắc bệnh ung thư cổ đến khi ông từ trần lúc Gemma 19 tuổi.
Nỗi khổ đau của Gemma lai chồng chất khi ước nguyện tu trì bị từ chối vì lý do sức khoẻ và nghèo, để rồi vào quãng cuối đời, chính ngài lại bị cơn bệnh lao phổi hành hạ đến chết lúc được 25 tuổi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vui lòng đón nhận khổ đau đến từ bệnh tật của chính mình hoặc của tha nhân.
Suy niệm 3: An ủi
Mặc dù rất đau khổ khi phải mồ côi mẹ, Gemma đã biết an ủi các anh chị em mình rằng: "Mẹ chúng ta đã về trời, mẹ đã đau khổ nhiều -- nhưng bây giơ mẹ không còn đau khổ nữa".
Dầu là con người đau khổ, nhưng Gemma không tìm kiếm cũng không chờ mong được người an ủi, mà ngược lại chỉ biết tìm an ủi người mà thôi, như đã an ủi anh chị em trước sự ra đi của mẫu thân, cũng như đã từng an ủi phụ mẫu khi họ lâm phải trọng bệnh.
Trên đường thánh giá, Đức Giêsu cũng không nghĩ đến bao đau khổ Ngài đang phải gánh chịu từ tâm hồn đến thể xác cũng như tinh thần, nhưng Ngài lại quan tâm đến niềm đau của các phụ nữ thành Giêrusalem để mở lời an ủi họ (Lc 23,28).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết quên mình để sống lời mời của Thánh Phaolô: Hãy khóc với với khóc (Rm 12,15).
Suy niệm 4: Thất vọng
Sau khi từ chối lời cầu hôn của hai thanh niên, Gemma ao ước đi tu, nhưng vì lý do sức khoẻ và vì nghèo nên cô bị từ chối. Cô chấp nhận sự thất vọng này như một hy sinh dâng lên cho Chúa.
Theo Disraeli, thất vọng là sự kết thúc của những kẻ ngu si. Điều này đã được chứng nghiệm cách hiện thực ở trường hợp của Giuđa Ítcariốt. Thật vậy sau khi phạm tội phản bội và nộp Thầy mình, ông thất vọng và đã tìm đến cái chết tự thắt cổ.
Ngược lại Gemma khi thất vọng vì chí nguyện tu trì bị từ chối, thì ngài phản ứng cách khác, bằng việc chấp nhận thực tế phủ phàng đó, và dâng lên Chúa như một lễ vật hy sinh. Nhờ vậy ngài can đảm tiếp tục sống và trở thành thánh nhân.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bao giờ đi vào vết xe đổ của Giuđa Ítcariốt.
Suy niệm 5: Tiên đoán
Gemma tiên đoán rằng các tu sĩ dòng Thương Khó sẽ thành lập một tu viện ở Lucca, và điều này đã xảy ra sau khi cô từ trần được hai năm.
Thiên Chúa có thể cho các thánh nhân biết về tương lai. Tuy vậy, thái độ đúng đắn của kitô hữu là phó thác hoàn toàn trong tay Chúa Quan Phòng những gì thuộc về tương lai và từ bỏ mọi thứ tò mò thiếu lành mạnh trong lãnh vực này. Thế nhưng, ai không tiên liệu là người thiếu trách nhiệm (Sách Giáo Lý số 2115).
Phải loại bỏ mọi hình thức bói toán: cậy nhờ Xa-tan hay ma quỷ, gọi hồn người chết hay những cách khác ngỡ rằng sẽ đoán được tương lai... Điều này nghịch lại với lòng tôn kính và thần phục chỉ dành cho Thiên Chúa (Sách Giáo Lý số 2116).
* Lạy Chúa Giêsu, xin củng cố niềm tin của chúng con vào tay Chúa Quan Phòng.
Suy niệm 6: Chết
Cô ấy chết với nụ cười vẫn còn nở trên môi, nên tôi không tin là cô ấy thực sự đã chết.
Lời nhận xét của cha xứ về cái chết của Gemma cho thấy rằng: cái chết đối với người đời nói chung đều mang tính đáng sợ, nhưng đối với các thánh nhân như một Gemma thì lại đáng hân hoan đáng vui đáng cười.
Cái chết nên được đón nhận cách lạc quan, vì chết không phải là dấu chấm hết và đi vào cõi tiêu diệt như nhiều người lầm tưởng, mà chết là đi vào cõi sống ngàn thu và đang hưởng an bình hạnh phúc (Kn 3,2-4).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đối diện với cái chết bằng con mắt lạc quan như các thánh nhân.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 13/4 Thánh Giáo Hoàng Martin I (c. 655)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Giáo Hoàng Martin I (c. 655)
Lược sử
Khi Đức Martin I làm giáo hoàng năm 649, Constantinople là thủ đô của Đế Quốc Byzantine và Đức Thượng Phụ Constantinople là vị lãnh đạo Giáo Hội có thế lực nhất của Kitô Hữu Đông Phương. Những tranh chấp hiện có trong Giáo Hội hoàn vũ thời bấy giờ lại càng thêm quyết liệt bởi sự cộng tác chặt chẽ giữa hoàng đế và đức thượng phụ.
Một giáo huấn được Giáo Hội Đông Phương quyết liệt bảo vệ là cho rằng Đức Kitô không có ý chí của loài người. Đã hai lần, các hoàng đế chính thức lên tiếng bảo vệ lập trường này, lần đầu Hoàng Đế Heraclius cho công bố bản tuyên xưng đức tin, và sau đó Hoàng Đế Constant II ra lệnh bác bỏ vấn đề Đức Kitô có một hoặc hai ý chí.
Trước khi được chọn làm giáo hoàng, Đức Martin từng là người đọc sách và là phó tế. Và sau khi nhậm chức không lâu, Đức Martin đã tổ chức một công đồng ở Latêranô mà trong đó các sắc lệnh của vua bị kiểm duyệt, và đức thượng phụ của Constantinople cũng như hai vị tiền nhiệm đều bị lên án là sai lạc. Để đối phó, Hoàng Đế Constant II cố vận động các giám mục và dân chúng chống đối đức giáo hoàng.
Sau khi thất bại trong mưu toan này, hoàng đế sai Olympius, quan tổng trấn Ravenna, bắt đức giáo hoàng đưa về Constantinople xét xử. Nhưng Olympius thất bại, và đến năm 653, quan tổng trấn mới là Theodore Collipas đã xâm chiếm Rôma và bắt giam đức giáo hoàng ở Naxos trong một năm trời. Sau khi điệu về Constantinople, Đức Martin bị kết tội phản loạn và bị tử hình. Mặc dù các tra tấn đã được thi hành, Đức Martin được thoát án tử nhờ sự can thiệp của Đức Phaolô II, vị thượng phụ của Constantinope, là người đã ăn năn sám hối về hành động của mình. Bản án tử hình được đổi thành khổ sai chung thân.
Vì hậu quả của các cuộc tra tấn và cực hình, Đức Martin đã từ trần sau đó không lâu. Ngài là vị giáo hoàng sau cùng chịu tử đạo.
Suy niệm 1: Tranh chấp
Những tranh chấp hiện có trong Giáo Hội hoàn vũ thời bấy giờ lại càng thêm quyết liệt bởi sự cộng tác chặt chẽ giữa hoàng đế và đức thượng phụ.
Tranh chấp vốn luôn gây tác hại cho sự đoàn kết hiệp nhất nhưng lại luôn tồn tại trong mọi thời đại. Thật vậy ngay từ thời Giáo Hội sơ khai đã thấy xuất hiện vấn đề này, dầu tình tiết khác.
Trong lúc các kitô hữu gốc Dothái đòi buộc phải chịu phép cắt bì chứ lãnh nhận phép rửa tội thôi thì chưa đủ, điều mà các kitô hữu ngoài Dothái không chấp nhận được. Cuộc tranh luận xảy ra sôi nổi và cuối cùng đã được giải đáp (Cv 15,1-31).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng vì tranh chấp mà gây bất hòa và chia rẽ nhau.
Suy niệm 2: Chính quyền và tôn giáo
Những tranh chấp hiện có trong Giáo Hội hoàn vũ thời bấy giờ lại càng thêm quyết liệt bởi sự cộng tác chặt chẽ giữa hoàng đế và đức thượng phụ.
Từ một chất vấn mang tính gài bẫy trong lời nói của nhóm kinh sư và thượng tế, Đức Giêsu đã phân định rõ ranh giới phải có giữa chính quyền và tôn giáo: Của Xêda trả về cho Xêda, của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa (Lc 20,25).
Thế nhưng tính xã hội của con người vô tình đã nhiều lần xóa bỏ lằn ranh đó, đến nổi các hoàng đế vận dụng thế quyền để lấn át thần quyền đến mức xen hẳn vào nội bộ của Giáo Hội, như việc vua Philíp II đã tự ý đặt Turibiô Mongrôvêjô làm Giám Mục cai quản giáo phận Lima dầu ngài lúc đó đang còn là một giáo dân. Chính Đức Giáo Hoàng Grêgôriô VII đã lập lại kỷ cương khi hủy bỏ việc hoàng đế trao nhẫn và gậy cho các tân Giám Mục và nhất là tuyên bố tính độc lập giữa thần quyền và thế quyền.
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cùng với thánh Giáo Hoàng Clêmentê dâng lên lời nguyện: xin cho các nhà cầm quyền thực thi đúng đắn quyền hành Chúa đã trao cho họ.
Suy niệm 3: Lạc thuyết độc chí
Một giáo huấn được Giáo Hội Đông Phương quyết liệt bảo vệ là cho rằng Đức Kitô không có ý chí của loài người.
Lạc thuyết độc chí (monothelitism) cho rằng Đức Kitô chỉ có một ý chí độc nhất là ý chí Thiên Chúa.
Đã hai lần, các hoàng đế chính thức lên tiếng bảo vệ lập trường này, lần đầu Hoàng Đế Heraclius cho công bố bản tuyên xưng đức tin, và sau đó Hoàng Đế Constant II ra lệnh bác bỏ vấn đề Đức Kitô có một hoặc hai ý chí.
Đức Martin đã tổ chức một công đồng ở Latêranô mà trong đó các sắc lệnh của vua bị kiểm duyệt, và đức thượng phụ của Constantinople cũng như hai vị tiền nhiệm đều bị lên án là sai lạc.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra giới hạn của trí thông minh con người, do đó sự hiểu biết có thể bị lu mờ và lệch lạc vì lầm lẫn, để rồi luôn vâng phục huấn quyền của Giáo Hội.
Suy niệm 4:: Đọc sách
Trước khi được chọn làm giáo hoàng, Đức Martin từng là người đọc sách và là phó tế.
Thấu hiểu rằng sách là một ngọn đèn sáng bất diệt của sự thông thái tích lũy lại (G.W.Curtis), Đức Martin đã đầu tư thời giờ của mình vào việc đọc sách, và vô tình đã trợ lực cho ngài rất nhiều trong việc thực thi chức vụ giáo hoàng của ngài sau đó.
Thật vậy một cuốn sách tốt mở ra thì gợi niềm hy vọng, khép lại thì thấy điều hữu ích (LM Alcott). Niềm hy vọng và sự hữu ích này đã trở thành hiện thực trong việc chuyển đời của viên sĩ quan đang dưỡng bệnh và sau này là vị sáng lập Dòng Tên mang danh Inhaxiô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con yêu thích việc đọc sách, và dĩ nhiên là các sách tốt và đạo đức.
Suy niệm 5: Công đồng
Sau khi nhậm chức không lâu, Đức Martin đã tổ chức một công đồng ở Latêranô.
Huấn giáo luôn nhận được nguồn năng lực mới từ các Công Đồng. Về phương diện này, Công Đồng Trentô là một gương mẫu phải nêu lên: Các hiến chế và sắc lệnh của Công Đồng này đã đưa huấn giáo lên hàng ưu tiên.
Công Đồng đã khơi nguồn cho quyển Giáo Lý Rôma là một tác phẩm hàng đầu của loại sách yếu lược trình bày giáo lý Kitô giáo; Công Đồng đã khích lệ việc tổ chức dạy và học giáo lý và đã thúc đẩy việc phát hành nhiều bộ sách giáo lý (Sách Giáo Lý số 9).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết giá trị tuyệt hảo của các Công Đồng để hết mình thực hiện.
Suy niệm 6: Tử đạo
Vì hậu quả của các cuộc tra tấn và cực hình, Đức Martin đã từ trần sau đó không lâu. Ngài là vị giáo hoàng sau cùng chịu tử đạo.
Ý nghĩa thực sự của chữ tử đạo không phải là sự chết, mà là sự làm chứng. Vị tử đạo sẵn sàng hy sinh mọi sự, quý giá nhất là sinh mạng của họ, và đặt đức tin lên trên hết.
Tử đạo, chết vì đức tin, là một cao độ bất ngờ mà một số người phải trải qua để thể hiện đức tin của mình nơi Đức Kitô. Một đức tin sống động, một cuộc đời theo gương Đức Kitô bất kể những khó khăn, đó là sự đòi hỏi của tất cả Kitô Hữu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con can đảm sống đời chứng nhân tức tử đạo ở mọi nơi và mọi lúc.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 12/4 Chân Phước William Ward (1560-1641)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước William Ward
(1560-1641)
Lược sử
William Ward sinh ở Anh Quốc vào khoảng năm 1560 với tên họ là Webster trong một gia đình theo Tin Lành. Khi thực hiện cuộc hành trình sang Tây Ban Nha với một người bạn Công Giáo, lúc ấy ngài đã là một thầy giáo trẻ. Ở đây, ngài trở lại đạo Công Giáo, và khi trở về nước, ngài hoán cải chính mẹ mình. Vì công khai tuyên xưng đức tin, ngài bị giam cầm nhiều lần.
Vào năm 40 tuổi, ngài sang Douai, nước Pháp để học làm linh mục. Sau khi được thụ phong và lấy tên là Cha William Ward, ngài được đưa sang Tô Cách Lan. Khi vừa đến đây, lập tức ngài bị cầm tù trong ba năm.
Trong 30 năm kế tiếp, ngài sống ở ngoại ô Luân Đôn, bí mật phục vu người Công Giáo và nổi tiếng là một linh mục thánh thiện với sự quan tâm đặc biệt đến người nghèo. Vì lý do đó, ngài thường bị cầm tù hoặc bị trục xuất khỏi nước. Sau cùng, ngài bị phản bội bởi một tay chuyên săn bắt linh mục và bị giam trong Ngục Newgate.
Bị kết án tử hình bằng cách treo cổ và phanh thây, ngài từ trần ngày 26 tháng Bảy 1641 sau khi thốt ra lời: "Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy linh hồn con!"
Cha William được phong chân phước năm 1929 cùng với 162 vị tử đạo Anh Quốc khác.
Suy niệm 1: Bạn
Khi thực hiện cuộc hành trình sang Tây Ban Nha với một người bạn Công Giáo, lúc ấy William đã là một thầy giáo trẻ.
Bạn đường trong bất cứ cuộc hành trình nào thường là một cuộc gặp gỡ bất ngờ và không tiên liệu trước, từ đó rủi may cũng không thể nào lường trước được. Để tránh điều đó, thầy giáo trẻ William đã chọn một người bạn đường dầu không đồng tín ngưỡng, và không ngờ kết quả lại quá tốt đẹp: Ngài đã trở lại đạo.
Cậu Tôbia vâng lời cha già Tôbít lên đường về quê Mêđi, cũng gặp nỗi khó khăn không biết tìm đâu ra một người bạn đường đáng tin cậy. May thay thiên sứ Raphaen xuất hiện dưới dạng một người lữ hành và nhận vai trò này và giúp Tôbia hoàn thành cuộc hành trình cách mỹ mãn (Tb 5tt).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn gặp được những người bạn đồng hành thật tốt để gặt hái được các thành quả tốt đẹp trong các chuyến đi.
Suy niệm 2: Trở lại
Thầy giáo trẻ William trở lại đạo Công Giáo.
William vốn là một người theo đạo Tin Lành nhưng đã trở lại đạo Công Giáo nhờ vào một người bạn Công Giáo. Đây là điều nhắc nhở bổn phận truyền giáo của mỗi kytô hữu với thách đố: Có người làm được, sao tôi không làm được.
Gioan Ogilvie sinh trong một gia đình Tô Cách Lan mà cha ngài theo phái Calvin và cũng muốn Gioan trở thành người của giáo phái ấy. Nhưng nhờ vào Kinh Thánh đặc biệt 2 câu ở Mt 11,28 và 1Tm 2,4, ngài quyết định trở thành người Công Giáo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chú tâm học hỏi và sống Lời Chúa, để làm cầu nối giúp tha nhân trở về cùng đạo Chúa.
Suy niệm 3: Bác ái là chia sẻ
Trở về nước, William hoán cải chính mẹ mình.
Một đặc tính của bác ái là phải chia sẻ. Vì thế sau khi tận hưởng niềm hạnh phúc được trở lại đạo Chúa tại Tây Ban Nha, William trở về nước, thông chia niềm vui ấy cùng với mẹ mình và giúp mẹ hoán cải, để cùng chung hưởng hạnh phúc được làm con Chúa.
Viên cai ngục canh giữ Phaolô và Xila cảm kích trước nghĩa cử của hai ngài cũng như sự lạ xảy ra trong ngục, ông đã xin học đạo và chịu phép rửa. Niềm vui này cũng được ông chia sẻ với tất cả mọi người trong nhà (Cv 16,33).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nhắc nhở mình phải biết chia sẻ hồng phúc làm con Chúa cho tha nhân.
Suy niệm 4:: Giam cầm
Vì công khai tuyên xưng đức tin, ngài bị giam cầm nhiều lần.
Thật vậy sau khi được thụ phong linh mục và lấy tên là Cha William Ward, ngài được đưa sang Tô Cách Lan. Khi vừa đến đây, ngay lập tức ngài bị cầm tù trong ba năm.
Trong 30 năm kế tiếp, ngài sống ở ngoại ô Luân Đôn, bí mật phục vu người Công Giáo. Vì lý do đó, ngài thường bị cầm tù. Sau cùng, ngài bị phản bội bởi một tay chuyên săn bắt linh mục và bị giam trong Ngục Newgate, bị kết án tử hình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chấp nhận bị giam cầm chỉ vì lý do duy nhất là vì Chúa.
Suy niệm 5: Thánh thiện
Cha William Ward nổi tiếng là một linh mục thánh thiện với sự quan tâm đặc biệt đến người nghèo.
Một nét biểu hiện sự thánh thiện qua tấm gương của Cha William, đó là sự quan tâm đặc biệt đến người nghèo. Phanxicô Átxidi đã trở nên vị thánh lừng danh chẳng những nhờ ngài quan tâm đến người nghèo mà nhất là nhờ ngài từ bỏ giàu sang để làm một nghèo đúng nghĩa qua việc đi xin ăn.
Người nghèo luôn là đối tượng dạt dào yêu thương của Thiên Chúa ba lần thánh (Is 49,13;66,2). Vì thế Đức Giêsu vốn là Đấng thánh thiện tuyệt đối, Ngài chẳng những mở đầu hiến chương nước trời bằng lời chúc phúc cho kẻ nghèo (Mt 5,3) và đến với người nghèo (Mt 11,5), mà còn thật sự chấp nhận kiếp nghèo từ lúc chào đời cho đến chết.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sát cánh với người nghèo để dễ dàng được nên thánh.
Suy niệm 6: Phản bội
Cha William Ward bị phản bội bởi một tay chuyên săn bắt linh mục.
Phản bội phải nói là một tội ác mà ai nấy đều gớm ghét, ngay cả Đức Giêsu vốn hiền lành và quãng đại bậc nhất cũng phải chua xót thốt nên lời về kẻ phản bội: Thà nó đừng sinh ra thì hơn (Mt 26,24).
Dầu vậy xã hội loài người vẫn luôn phải chịu đựng thực trạng ấy. Thật vậy ngay từ thời Macabê, đã có một Pơtôlêmai lấy ác báo thiện mà phản bội và giết Simôn cùng hai người con trai ông với một số lính hầu trong phòng tiệc (1Mcb 16,16-17).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giữ gìn chúng con đừng bao giờ sa vào tội ác phản bội ấy.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 11/4 Thánh Stanislaus (1030-1079)
- Ngày 10/4 Chân Phước Giacôbê Oldo (1364 - 1404)
- Ngày 09/4 Chân Phước Innocent ở Berzo (c. 1890)
- Ngày 08/4 Thánh Julie Billiart (1751 - 1816)
- Ngày 07-4 Thánh Gioan Lasan (1651 - 1719)
- Ngày 05/4 Thánh Vinh Sơn Ferrer (1357 - 1419)
- Ngày 04/4 Thánh Isidore ở Seville (560? - 636)
- Ngày 02/4 Thánh Phanxicô ở Paola (1416-1507)
- Ngày 01/4 Thánh Hugh ở Grenoble (1052-1132)
- Ngày 31/3 Thánh Benjamin (c. 424)