Gương Thánh Nhân
Thánh Hiêronimô Emilianô, (St.Jerome Emiliani)
- Viết bởi Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Thánh Hiêronimô Emilianô, (St.Jerome Emiliani)
Lập dòng
Ngày 8/2
Chúa nói:” Ai thực hành các điều răn và dạy người khác làm như thế, sẽ được coi là kẻ lớn nhất trong Nước Trời “( Mt 5, 19 ). Thánh Hiêronimô là người nhiệt thành phục vụ các trẻ em mồ côi. Thánh nhân có tinh thần bác ái cao độ và lòng yêu thương trẻ em khốn khổ, những bệnh nhân, những người đau yếu tật nguyền.
THÁNH HIÊRONIMÔ :
Thánh Hiêronimô sinh tại Venise nước Ý vào năm 1481 trong một gia đình đạo đức. Vào tuổi trưởng thành như bao chàng trai khác thời đó, Thánh Hiêronimô gia nhập quân đội Ý để cùng với đất nước bảo vệ miền Castelnovo và miền Quero, thành phố đang bị địch quân chiếm đóng. Như các người lính khác, thánh nhân bị địch bắt làm tù binh và Ngài được Mẹ Maria cứu thoát một cách lạ lùng. Thánh nhân có một tấm lòng bác ái siêu vời, vì thế, Ngài hướng về các trẻ em mồ côi, những trẻ em bị mất cha mất mẹ, giáo dục và yêu thương chúng theo tinh thần Kitô giáo. Bắt đầu công việc bác ái từ thành Venise, thánh nhân rảo qua các miền khác như Brescia, Berfame, Côme và hướng dẫn, điều hành nhiều viện mồ côi và nhiều hội đoàn bác ái. Với tinh thần quảng đại, lòng bác ái vị tha, sự quan tâm yêu thương người nghèo, trẻ mồ côi, thánh nhân đã dừng chân ở Somasque, một miền quê hẻo lánh tại Bergame.
THÁNH NHÂN LẬP DÒNG BÁC ÁI PHỤC VỤ BỆNH NHÂN VÀ TRẺ EM MỒ CÔI:
Thánh Gioan đã ghi lại lời Chúa:” Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng thương yêu nhau”( Ga 13, 35 ). Tại Somasque, thánh nhân được ơn soi sáng của Chúa và sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Ngài đã lập một Hội Dòng mới lấy tên là Somasque và Dòng của Ngài đã được Đức Thánh Cha Piô V phê chuẩn. Dòng của thánh nhân thành lập có mục đích chăm sóc bệnh nhân và lo cho các em cô nhi, các trẻ mồ côi không ai chăm sóc. Năm 1537, Ngài bị lây nhiễm bệnh đang khi hăng say săn sóc bệnh nhân và qua đời lúc 56 tuổi.
Lạy Chúa là Cha giầu lòng thương xót, Chúa đã ban cho những kẻ mồ côi một người Cha và một người bảo trợ là thánh Hiêronimô. Xin nhận lời thánh nhân chuyển cầu cho chúng con biết trung thành giữ tinh thần nghĩa tử, nhờ đó, chúng con được xứng danh là con cái Chúa.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Thánh Blasiô Giám mục
- Viết bởi Nguồn conggiao.info
Có nhiều câu chuyện vây quanh thánh Blasiô. Ngài là giám mục Sêbasta, miền Armênia; Ngài hiến cả xác hồn cho dân chúng... nhất là dân nghèo, Ngài đã học nghề thuốc, nhưng không bao giờ chữa bệnh cho ai mà không xin Chúa giúp trước đã, dường như vị y sĩ vĩ đại này muốn nói rằng: "Tôi băng bó cho họ nhưng Thiên Chúa chữa lành cho họ". Ngài rao giảng, dạy dỗ, nhưng không có bài học nào hay hơn chính gương mẫu đời Ngài. Năm 315, một cuộc bách hại bùng ra dưới triều đại vua Luciniô. Đức giám mục giúp đỡ các vị tử đạo. Rồi để trốn thoát các kẻ thù địch, Ngài ẩn mình ở hang núi Agêa, là nơi Ngài sống bằng rễ cây và nước lã. Thú rừng thân tình bao quanh Ngài và Ngài chữa lành cho những con bệnh tật. Mỗi ngày một đông dân chúng tuốn đến với với Ngài. Nếu thấy Ngài đang cầu nguyện chúng lặng lẽ không ngăn trở và đợi cho đến khi Ngài cầu nguyện xong. Khi đó Thánh nhân quay lại với đoàn vật và chúc lành cho chúng và đoàn vật mãn nguyện trở lại sa mạc. Agricôla, quan cai trị Cappadecia tìm thú rừng sống trong các khu rừng gần Sêbasta, để xé các Kitô hữu. Đoàn người đi săn ngạc nhiên khi thấy cả bầy sói, gấu, sư tử trong một cái hang vây quanh một người, đang cầu nguyện. Họ vội về báo tin cho Agricôla và ông này đã truyền bắt vị tu rừng này. Thấy binh sĩ của nhà vua. Blasiô bình thản nói :- Tôi đã sẵn sàng. Đêm qua Chúa hiện ra và nói với tôi, là Ngài ưng nhận lễ hy sinh của tôi. Trên đường Ngài đi qua, dân chúng tuốn đến, trong số ấy có cả các lương dân. Họ khóc lóc xin người chúc lành. Một người mẹ đặt đứa trẻ đang hấp hối dưới chân Blasiô và nhìn trời bà la : - Lạy Chúa nhân từ, xin đừng bỏ qua lời cầu của tôi tớ Ngài. Xin hãy trả lại sức khỏe cho tạo vật bé bỏng của Ngài. Blasiô cúi xuống đứa trẻ hấp hối, cầu nguyện. Trời cao đã nghe Ngài, và người mẹ hân hoan đón nhận lại đứa con tràn đầy sức sống. Khi đức Giám mục xuất hiện, Agricôla đưa nhiều hứa hẹn lẫn lời đe dọa. Nhưng điều này đã luống công. Thánh nhân nói : - Tôi không sợ các cực hình Ngài đe dọa vì thân xác tôi nằm trong tay Ngài, nhưng linh hồn tôi thì không. Ngài đã bị đánh đập tàn nhẫn và bị tống ngục. Các Kitô hữu tới thăm, Ngài an ủi khích lệ và chữa lành cho họ. Ngài đã giải cứu cho một đứa trẻ gần ngộp thở vì mắc xương cá. Vì kỷ niệm này và cũng vì lời cầu nguyện sau cùng khi đưa cổ cho lý hình, thánh Blasiô được kêu cầu cách đặc biệt để xin Ngài chữa lành các bệnh nhân đau cổ họng. Những tường thuật về các phép lạ đi kèm với cái chết của Ngài thành gia sản truyền tụng rất được các giáo phụ ưa thích. Sau mỗi cuộc tra xét với một cực hình mới lại có một phép lạ đánh dấu cuộc trở lại ngay trong phòng giam của Ngài. Phép lạ lừng danh nhất là phép lạ về ngẫu tượng. Các Kitô hữu đến săn sóc những vết thương cho Ngài, đã ném xuống hồ các thần tượng của nhà cầm quyền. Họ bị tố giác và chịu tử dạo. Blasiô cũng bị kết án dìm vào hồ này, nhưng Ngài làm dấu thánh giá và đi trên mặt nước, rồi Ngài mời các quan tòa đi theo để minh chứng uy quyền các thần linh họ thờ. Những người nhận lời bị chết chìm ngay. Vị tử đạo vừa mới cho thấy vinh quang Thiên Chúa, liền được một thiên thần mời trở lại bờ hồ để chịu cực hình, Ngài vâng lời ngay. Agricôla bối rối liền truyền chém đầu Ngài. Blasiô trước khi chết, đã nài xin Chúa tỏ lòng nhân từ với những ai nhờ lời Ngài bầu cử mà xin cứu giúp.
Nguồn: conggiao.info
Thánh Colette
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh COLETTE (1381-1447)
Lược sử
Thánh Colette không muốn được mọi người biết đến, nhưng trong khi thi hành thánh ý Thiên Chúa, ngài đã gây được sự chú ý của rất nhiều người.
Thánh Colette là con của người thợ mộc tên DeBoilet ở Tu Viện Corby trong thành phố Picardi, nước Pháp. Ngài sinh ngày 13 tháng Giêng, khi rửa tội lấy tên là Nicolette, và thường được gọi là Colette. Năm mười bảy tuổi ngài mồ côi cha mẹ, và đã chia bớt di sản cho người nghèo. Ngài gia nhập dòng Ba Phanxicô, và sống cô độc ở Corby trong một căn phòng mà lối mở ra thế giới bên ngoài chỉ là cánh cửa sổ sát vách với nhà thờ.
Sau bốn năm, với sự chấp thuận và khuyến khích của đức giáo hoàng, ngài từ bỏ cuộc sống cô độc, gia nhập dòng Thánh Clara Nghèo Hèn và cải tổ dòng theo như quy tắc ban đầu của Thánh Clara. Bất kể sự chống đối dữ dội, ngài kiên trì theo đuổi ý định, thành lập mười bảy tu viện sống theo quy tắc này và cải tổ một vài tu viện cũ. Các nữ tu của ngài nổi tiếng là nghèo hèn -- họ từ chối bất cứ lợi tức nào -- và thường xuyên chay tịnh.
Thánh Colette nổi tiếng vì sự thánh thiện, sự xuất thần, và các lần thị kiến sự Thương Khó, và ngài đã tiên đoán đúng về cái chết của ngài trong tu viện ở Ghent, nước Bỉ.
Phong trào cải cách của thánh nữ đã lan tràn sang các quốc gia khác. Cho đến ngày nay, một nhánh của dòng Thánh Clara Nghèo Hèn thường được gọi là các nữ tu Colette.
Suy niệm 1: Thi hành Thiên Ý
Thánh Colette không muốn được mọi người biết đến, nhưng trong khi thi hành thánh ý Thiên Chúa, ngài đã gây được sự chú ý của rất nhiều người.
Đức Maria là một thôn nữ nghèo hèn nhưng đã được nổi danh, là nhờ vào việc thi hành thánh ý Thiên Chúa (Lc 1,38), và cũng nhờ đó mà hoàn thành sứ mạng đồng công cứu chuộc. Cũng thế, nhờ đó mà Đức Giêsu đã hoàn thành công cuộc cứu nhân độ thế.
Thiên Ý thường được bày tỏ trong Thánh Kinh (Ga 21,24-25), trong lề luật (Đnl 30,10), trong tiếng lương tâm (Gr 31,33), cũng như qua các vị hữu trách (Mt 10,40-44). Nhận ra Thiên Ý là cần thiết nhưng quan trọng hơn nữa đó là thực hiện.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn thi hành Thiên Ý để được vào Nước Trời (Mt 7,21).
Suy niệm 2: Bác ái
Năm mười bảy tuổi Colette mồ côi cha mẹ, và đã chia bớt di sản cho người nghèo.
Dầu còn nhỏ tuổi và ở tình huống mồ côi, nhưng Colette đã sớm sống tình bác ái vị tha đối với người nghèo khi sẵn sàng chia bớt di sản của mình cho họ.
Vị kỷ vốn là một đặc tính của giới thiếu niên, thế nhưng Colette đã sớm vượt lên chính mình để sống vị tha, quả là một tấm gương sáng lạng cho cả người lớn lẫn trẻ nhỏ: tìm hạnh phúc trong việc cho hơn là nhận.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp giới trẻ biết sống xã thân quên mình hơn là tìm lợi ích cho bản thân.
Suy niệm 3: Cải tổ
Thánh Colette từ bỏ cuộc sống cô độc, gia nhập dòng Thánh Clara Nghèo Hèn và cải tổ dòng theo như quy tắc ban đầu của Thánh Clara.
Colette bắt đầu cuộc cải cách trong thời kỳ Đại Ly Giáo Tây Phương (1378-1417), là thời kỳ có đến ba giáo hoàng và bởi đó đã chia cắt Giáo Hội Tây Phương. Một cách tổng quát, Giáo Hội phải trả một giá rất đắt cho sự nhũng lạm của các giáo sĩ trong thế kỷ 15.
Lời cầu nguyện và sự hy sinh của Thánh Colette và các nữ tu của ngài có lẽ đã vơi bớt những khốn khó cho Giáo Hội trong thời gian ấy. Trong bất cứ trường hợp nào, sự cải tổ của Thánh Colette cho thấy Giáo Hội luôn luôn cần theo sát Đức Kitô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp hàng giáo sĩ luôn sống theo sát Đức Kitô, để tránh tình trạng phân hóa Giáo Hội là Nhiệm Thể Chúa Kitô.
Suy niệm 4: Kiên trì
Thánh Colette kiên trì theo đuổi ý định, thành lập mười bảy tu viện sống theo quy tắc này và cải tổ một vài tu viện cũ.
Kiên trì quả là một đức tính nhân bản cần thiết cho người lãnh đạo, cũng như cho bậc tu trì vốn đã có những lời khấn hứa.
Chính vì thế, trong chúc thư tinh thần, Thánh Colette viết cho các nữ tu: "Chúng ta phải trung tín với những gì đã hứa. Nếu vì sự yếu đuối con người mà chúng ta sa ngã, một cách mau mắn chúng ta phải chỗi dậy luôn qua sự thành tâm sám hối, và chú ý đến một đời sống tốt lành, cũng như một cái chết thánh thiện."
* Xin Thiên Chúa là Cha của lòng thương xót, xin Chúa Con qua sự thống khổ thánh thiện, và xin Chúa Thánh Thần, nguồn mạch của bình an, nhân hậu và tình yêu, luôn tràn lấp chúng ta với ơn an ủi của các Ngài.
Suy niệm 5: Nghèo hèn
Các nữ tu của ngài nổi tiếng là nghèo hèn -- họ từ chối bất cứ lợi tức nào -- và thường xuyên chay tịnh.
Đức khó nghèo sẽ dễ sống được khi được hậu thuẫn bởi tinh thần nghèo khó. Quả vậy một người nghèo của cải vật chất mà thiếu tinh thần nghèo khó thì luôn bất an vì hằng bị thiêu dốt bởi lòng ham mê của cải để rồi có thể sinh lòng trộm cắp (Cn 30,9).
Ngược lại một người lắm tiền nhiều của nhưng có tinh thần nghèo, thì không trở thành nô lệ chúng, để rồi biết sử dụng như một viên quản lý tốt lành, hầu giúp đỡ cho những người thiếu may mắn hơn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin đừng để chúng con túng nghèo, cũng đừng cho chúng con giàu có; chỉ xin cho chúng con cơm bánh cần dùng, kẻo được quá đầy dư, chúng con sẽ khước từ Ngài mà nói: "Đức Chúa là ai vậy?" hay nếu phải túng nghèo, chúng con sinh ra trộm cắp, làm ô danh Thiên Chúa (Cn 30-8-9).
Suy niệm 6: Thương Khó
Thánh Colette nổi tiếng vì sự thánh thiện, sự xuất thần, và các lần thị kiến sự Thương Khó
Tự bản chất sự Thương Khó là chén đắng không phàm nhân nào muốn uống (Mt 26,39), nhưng Đức Giêsu đã uống cạn, vì đó là con đường cứu thế (Lc 24,26).
Đức Maria cũng đã can đảm vững tiến trên con đường Thương Khó này (Lc 2,35), cũng như các tông đồ dấu yêu (Mt 20,23), và dĩ nhiên những ai muốn làm môn sinh tín trung của Đức Giêsu (Mt 16,24).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cùng chết với Chúa để được cùng sống lại với Ngài (Rm 6,8).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Phaolô Miki (St. Paul Miki) và các bạn tử đạo
- Viết bởi Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
THÁNH PHAOLÔ MIKI, linh mục
(St. Paul Miki)
và các bạn tử đạo.
Ngày 6/2
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Tertullien đã viết:” Máu tử đạo là hạt giống trổ sinh người tín hữu”. Thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo đã làm kiên vững Hội Thánh tại Nhật Bản.
PHAOLÔ MIKI và CÁC BẠN TỬ ĐẠO: Thánh Phaolô Miki sinh ra tại đất nước Nhật Bản vào thế kỷ XVI giữa lúc nước Nhật cấm cách, bắt bớ đạo công giáo một cách thật gắt gao. Thánh nhân là một tu sĩ Nhật Bản rất hăng say, nhiệt thành với công việc loan báo Tin Mừng. Điều mà sử gia Tertullien đã viết quả thực được thể hiện nơi
Phaolô Miki và các bạn. Vì hăng say với công việc truyền giáo, ngày 5/2/1597 trên một chuyến tầu, Phaolô Miki và 25 người bạn đã bị quan quân Nhật Bản bắt nhốt, bị lên án tử bằng hình phạt treo Phaolô và các bạn của Ngài trên những cây thập giá đối diện với bờ biển. Bị cực hình, bị treo lên những cây thập tự giá, nắng, gió, đau đớn, nhưng với ơn Chúa giúp thánh Phaolô Miki và các bạn vẫn tươi vui, phấn khởi, không hề sợ sệt và vẫn hăng hái, sốt sắng giảng đạo, khuyên răn các người đến xem ăn năn hối cải, trở về với Thiên Chúa. Thánh nhân tha thứ cho những kẻ sỉ nhục, hành hạ và kết án Ngài cùng các bạn. Quan quân Nhật Bản quá tức giận vì thái độ bình tĩnh và không sợ sệt của các Ngài, nên đã đâm chết Phaolô Miki và các bạn của Ngài.
THIÊN CHÚA TRAO BAN TRIỀU THIÊN: Lời thánh vịnh viết:” Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong vui sướng. Ai gieo trong nước mắt, sẽ về giữa tiếng cười”. Thánh Phaolô Miki và 25 người bạn đã được diễm phúc tử vì đạo với hình phạt nặng nề như Thầy của mình là bị đóng đinh trên thập tự giá.Thiên Chúa và Giáo Hội đã tôn vinh các Ngài.
Lạy Chúa là nguồn sức mạnh của các thánh, Chúa đã gọi thánh Phaolô Miki và các bạn bước lên thập giá để vào cõi trường sinh. Xin Chúa thương nhận lời các Ngài cầu thay nguyện giúp cho chúng con hằng can đảm tuyên xưng đức tin và trung thành giữ vững đến hơi thở cuối cùng ( Lời nguyện ca nhập lễ, lễ thánh Phaolô và các bạn, tử đạo ).
Thánh Phaolô Miki và Các Bạn (c. 251?)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Phaolô Miki và Các Bạn (c. 251?)
Lược sử
Thành phố Nagasaki, Nhật Bản, rất quen thuộc với mọi người vì đó là nơi trái bom nguyên tử thứ hai đã được thả xuống và giết hại hàng trăm ngàn người. Trước đó ba thế kỷ rưỡi, 26 vị tử đạo Nhật Bản đã bị treo trên thập giá ở một ngọn đồi nhìn xuống Nagasaki, bây giờ thường được gọi là Núi Thánh.
Thánh Phaolô Miki là con của một sĩ quan chỉ huy thuộc quân đội Nhật. Ngài sinh ở Tounucumanda và theo học trường dòng Tên ở Anziquiama, gia nhập dòng năm 1580, và trở nên nổi tiếng vì tài rao giảng.
Trong thời kỳ bách hại đạo Công Giáo dưới thời Taiko, Toyotomi Hideyoshi, vào ngày 5 tháng Hai, ngài bị treo trên thập giá cùng với hai mươi lăm người Công Giáo khác, trong đó có nhiều giáo dân, như: Phanxicô, một thợ mộc bị bắt trong khi theo dõi cuộc hành quyết và sau đó bị treo trên thập giá; Gabrien, mười chín tuổi là con trai của người gác cổng dòng Phanxicô; Leo Kinuya, hai mươi tám tuổi làm thợ mộc ở Miyako; Diego Kisai, phụ tá của các cha Dòng Tên; Joachim Sakakibara, người làm bếp cho các cha Phanxicô ở Osaka; Peter Sukejiro, được một linh mục dòng Tên sai đến giúp đỡ các tù nhân thì bị bắt; Cosmas Takeya quê Owari nhưng đi truyền giáo ở Osaka; và Ventura ở Miyako, lúc đầu được các cha dòng Tên rửa tội, sau đó khi thân phụ từ trần, ông trở nên một nhà sư, và sau cùng được các cha Phanxicô đưa trở lại Công Giáo.
Trong khi bị treo trên thập giá, Thầy Phaolô Miki đã nói với những người đến xem cuộc hành quyết: "Bản án nói rằng những người này đến Nhật Bản từ Phi Luật Tân, nhưng tôi đâu có đến từ quốc gia nào. Tôi đích thực là người Nhật. Lý do duy nhất tôi bị giết là vì tôi rao giảng giáo lý Đức Kitô. Quả thật tôi đã rao giảng giáo lý Đức Kitô. Tôi tạ ơn Thiên Chúa vì lý do này mà tôi chết. Tôi tin rằng những lời trăn trối của tôi là sự thật. Tôi biết quý vị tin tôi và một lần nữa tôi muốn nói với quý vị: Hãy xin Đức Kitô giúp cho quý vị có được hạnh phúc. Tôi vâng lời Đức Kitô. Theo gương Đức Kitô, tôi tha cho những người đã hành quyết tôi. Tôi không ghét họ. Tôi xin Thiên Chúa thương xót tất cả chúng ta, và tôi hy vọng máu của tôi sẽ đổ trên dân tôi như một cơn mưa nhiều kết quả."
Khi các nhà truyền giáo trở lại Nhật trong những năm 1860, lúc đầu họ không thấy một vết tích nào của Kitô Giáo. Nhưng sau một thời gian, họ tìm thấy hàng ngàn người Kitô đã sống chung quanh Nagasaki và họ sống đạo một cách lén lút.
Tất cả các vị tử đạo Nhật Bản được phong chân phước năm 1627, và phong thánh năm 1862.
Suy niệm 1: Rao giảng
Thánh Phaolô Miki là con của một sĩ quan chỉ huy thuộc quân đội Nhật. Ngài sinh ở Tounucumanda và theo học trường dòng Tên ở Anziquiama, gia nhập dòng năm 1580, và trở nên nổi tiếng vì tài rao giảng.
Giáo dân cũng chu toàn sứ mạng ngôn sứ của họ bằng việc phúc âm hóa, “nghĩa là loan báo Đức Kitô bằng đời sống chứng tá và lời nói”. Nơi giáo dân, “hoạt động phúc âm hóa này... mang sắc thái và có một hiệu năng đặc biệt vì được thể hiện trong những hoàn cảnh thông thường ở trần gian” (LG 35).
Hoạt động tông đồ này không chỉ là làm chứng bằng đời sống. Người tông đồ đích thực còn phải tìm dịp loan truyền Đức Kitô bằng lời nói, cho người chưa tin... hoặc cho tín hữu” (AG 15).
* Lạy Chúa Giêsu, sứ mạng rao giảng thật là cao cả nhưng Chúa lại sẵn sàng trao ban cho mọi người. Xin giúp chúng con ý thức và quyết tâm chu toàn.
Suy niệm 2: Nhà sư
Ventura ở Miyako, lúc đầu được các cha dòng Tên rửa tội, sau đó khi thân phụ từ trần, ông trở nên một nhà sư, và sau cùng được các cha Phanxicô đưa trở lại Công Giáo.
Tình yêu Thiên Chúa thật bao la hải hà vượt xa lối xử sự của loài người. Người đón nhận và sẵn sàng sử dụng hết mọi người thành tâm thiện chí, cho dầu đó là một viên chức thu thuế như Mátthêu, một người bắt đạo như Saolô, một nhà sư như Ventura, miễn là họ chấp nhận viết lên trang sử mới với Chúa.
Đối với Chúa, quá khứ lầm lỗi không quan trọng vì đã trôi qua. Điểm cần lưu ý, đó là hiện tại sửa sai và tương lai phấn đấu nhằm bù đắp. Phêrô chối Chúa nhưng khóc lóc thảm thiết và thể hiện tình mến Chúa bằng cái chết thập giá vào cuối đời. Thế là đủ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng nhìn quá khứ lầm lỗi để xét người, nhưng theo gương Chúa để giúp vực họ dậy và tạo một tương lai tươi sáng cũng như lành thánh cho họ.
Suy niệm 3: Lý do chết
Thầy Phaolô Miki đã nói: Lý do duy nhất tôi bị giết là vì tôi rao giảng giáo lý Đức Kitô. Quả thật tôi đã rao giảng giáo lý Đức Kitô. Tôi tạ ơn Thiên Chúa vì lý do này mà tôi chết.
Cái chết có thể đến cho người từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Với Aben thì bị chính Cain anh ruột mình giết do lòng ghen tị (St 4,8). Với hai vợ chồng Khanania và Saphira là do lừa dối Thiên Chúa (Cv 5,4.9). Còn Giuđa Ítcariốt thì tự thắt cổ (Mt 27,5).
Chết là quy luật của phàm nhân, không ai tránh khỏi ngay cả Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa hằng sống và bất tử (Lc 23,46). Điều quan trọng là chọn cho mình lý do để chết, chết mà vẫn lưu danh muôn thuở, chết mà vẫn cảm nhận được niềm hạnh phúc như thầy Miki.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống thánh để được chết lành.
Suy niệm 4: Sự thật
Thầy Phaolô Miki đã nói: Tôi tin rằng những lời trăn trối của tôi là sự thật. Tôi biết quý vị tin tôi.
Lời trăn trối thường mang tính chân thật nên dễ tạo được niềm tin nơi tha nhân. Còn ở trong các trường hợp khác thì thật là khó, vì cách chung người đời hay sống dối gian và lường gạt nhau (Gr 5,1), nên ai nấy đều phải dè dặt, không lạ gì có vấn đề thề thốt.
Đúng ra nếu sống chân thật đến mức “có thì nói có và không thì nói không” (Mt 5,37) ở mọi nơi, mọi lúc và với mọi người, thì đâu cần phải thề thốt làm gì (Mt 5,34), như lời Đức Giêsu chỉ dạy.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống chân thật cho dầu phải chịu thiệt thân, để xứng danh là người con Chúa vốn là Đấng Chân Thật tuyệt đối (Tb 14,6; Ga 14,6).
Suy niệm 5: Tha thứ
Thầy Phaolô Miki đã nói: Theo gương Đức Kitô, tôi tha cho những người đã hành quyết tôi. Tôi không ghét họ.
Tha thứ là một biểu hiện của tình thương, lòng yêu thương thậm chí đối với cả kẻ thù (Mt 5,44). Đức Giêsu mời gọi và đã nêu gương (Lc 23,34). Thánh Têphanô tử đạo thực thi (Cv 7,60).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết thứ tha để xứng đáng được Chúa tha thứ.
Suy niệm 6: Tử đạo
Thầy Phaolô Miki đã nói: Tôi xin Thiên Chúa thương xót tất cả chúng ta, và tôi hy vọng máu của tôi sẽ đổ trên dân tôi như một cơn mưa nhiều kết quả.
Ngay từ thời sơ khai, một số Kitô Hữu đã được mời gọi -- và chắc chắn sẽ được mời gọi luôn -- để làm chứng cho tình yêu đối với kẻ thù cách hùng hồn trước muôn dân, nhất là những kẻ bách hại. Do đó, Giáo Hội coi sự tử đạo như một ơn huệ đặc biệt và là bằng chứng cao cả nhất của tình yêu.
"Mặc dù chỉ một ít người được ban cho cơ hội tử đạo, nhưng tất cả phải chuẩn bị để tuyên xưng Đức Kitô trước mặt mọi người, và bước theo Người trên đường thập giá giữa những sự bách hại không bao giờ thiếu trong Giáo Hội" (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, số 42).
* Lạy Chúa Giêsu, một đức tin như của 26 vị tử đạo thì rất cần thiết cho ngày nay cũng như trước đây. Xin thương ban đức tin ấy cho chúng con.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Agata, trinh nữ, tử đạo (St. Agatha)
- Viết bởi Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Thánh Agata, trinh nữ, tử đạo (St. Agatha)
Ngày 05/2
Ca nhập lễ, lễ các thánh trinh nữ viết rằng:” Đây là một trong số các trinh nữ khôn ngoan, đã cầm đèn sáng ra đón Đức Kitô”. Thánh Agata là người trinh nữ khôn ngoan đã làm rạng danh Chúa Kitô.
THÁNH AGATA: Được sinh ra trong một gia đình đạo đức, thế giá tại Sicilia. Thánh nhân ngay từ nhỏ đã khấn giữ mình đồng trinh, hiến trọn cuộc đời cho Thiên Chúa. Các chị của thánh nữ là Anê, Lucia và Cécilia đều đã được phước tử vì đạo dưới thời bạo vương Đêciô, năm 251. Thánh Agata chỉ có một chí hướng là hiến toàn thân của mình cho Thiên Chúa để Chúa định liệu cuộc đời của mình. Chính vì thế, khi quan trấn ở Sicilia thấy Người có nhan sắc, thùy mị, tốt lành đã động lòng xin cầu hôn với Agata. Vì đã khấn hứa giữ mình đồng trinh, thánh nhân đã từ khước lời cầu hôn của quan trấn Quintianô. Quá tức giận trước đề nghị của mình, quan trấn Sicilia đã bắt giam Agata trong ngục vịn cớ Agata có đạo. Quân lính và cai ngục đã hành hạ hết sức dã man thánh nhân và dùng nhiều cực hình để trả thù Agata, khinh khi thánh nữ với dụng ý làm cho thánh nhân bị nhụt chí mà bỏ cuộc. Quan trấn Sicilia trả thù thánh Agata hết sức tàn nhẫn, Oâng hạ lệnh nướng thánh nhân trên giường sắt nung đỏ và sau đó lại hạ lệnh tống ngục thánh nữ. Tuy nhiên, Thiên chúa yêu thương thánh nữ, sai thánh Phêrô đêm hôm ấy đến ngục thất chữa lành cho thánh nữ Agata. Thánh nhân dù nhiều lần bị quan trấn dụ dỗ, trấn áp, tra tấn dã man, vẫn một mực trung kiên với Thiên Chúa. Tức giận, quan trấn càng đàn áp, hạ lệnh nướng thánh nhân trên giường sắt, đau đớn quằn quại và dùng mảnh chai nhọn bắt thánh nữ lăn lộn trên đó, thánh nữ Agata luôn kiên trung, cậy trông, phó thác vào Thiên Chúa nhân từ, vì chỉ có Chúa mới cứu được linh hồn của Ngài. Cử chỉ anh hùng và thái độ dũng mãnh của thánh nhân đã làm cả thành phố náo động, Quintianô sợ dân chúng nổi loạn, đã hạ lệnh truyền giam thánh nữ trong ngục.
CHÚA THƯỞNG CÔNG THÁNH NỮ: Bị nhốt trong ngục tù, bị hành hạ trăm bề, thánh nữ đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 5/2/251. Thiên Chúa đã thưởng công thánh nhân bằng muôn vàn phép lạ. Phép lạ lạ lùng là thánh nữ đã che chở thành Catana khỏi hiểm họa núi lửa Eùtna. Dân chúng rất sùng kính thánh nữ ngay từ thời đó.Thánh nữ đã cầu thay nguyện giúp cho dân được muôn vàn ơn phúc. Hội Thánh thưởng công Ngài bằng cách cho tôn kính thánh nữ vào ngày 5/2 mỗi năm.
Lạy Chúa, thánh nữ Agata đã luôn luôn làm đẹp lòng Chúa, vì vừa sống cuộc đời kiên trinh, vừa can trường hy sinh tử đạo. Xin nhận lời thánh nữ chuyển cầu cho chúng con được ơn tha thứ( Lời nguyện ca nhập lễ, lễ thánh Agata, trinh nữ, tử đạo ).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Thánh Agatha (c. 251?)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Agatha (c. 251?)
Lược sử
Cũng như trường hợp của Thánh Agnes, vị đồng trinh tử đạo thời Giáo Hội tiên khởi, chúng ta không có dữ kiện lịch sử chắc chắn về Thánh Agatha, ngoại trừ sự kiện ngài chịu tử đạo ở Sicily trong thời kỳ cấm đạo của hoàng đế Rôma là Decius năm 251.
Theo truyền thuyết, ngài sinh trưởng trong một gia đình giầu có. Khi còn trẻ, ngài đã tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa, và từ chối bất cứ lời cầu hôn nào. Một trong những người say mê ngài là Quintian, một người có địa vị cao trong xã hội nên ông nghĩ rằng có thể ép buộc thánh nữ. Biết ngài là Kitô Hữu nên ông ra lệnh bắt giữ và đưa ra xét xử -- bởi chính ông. Hy vọng rằng vì sợ hãi sự tra tấn và cái chết, thánh nữ sẽ đành phải trao thân cho ông. Nhưng ngài nhất quyết tin tưởng vào Thiên Chúa, và cầu nguyện rằng: "Lạy Đức Giêsu Kitô, là Chúa mọi sự! Ngài đã thấy lòng con, Ngài biết con muốn gì. Xin hãy làm chủ toàn thể con người của con -- chỉ mình Chúa mà thôi. Con là chiên của Ngài; xin giúp con vượt qua sự dữ một cách xứng đáng".
Sau đó, Quintian tống Agatha vào nhà gái điếm với hy vọng ngài sẽ thay đổi ý định. Sau một tháng bị đánh đập và xỉ nhục, Quintian lại đưa ngài ra xét xử, nhưng Thánh Agatha vẫn không lay chuyển, vẫn can đảm tuyên xưng rằng chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể ban cho ngài sự tự do. Quintian lại tống ngài vào ngục thay vì nhà gái điếm. Và khi ngài tiếp tục tuyên xưng đức tin nơi Chúa Giêsu, Quintian ra lệnh tra tấn. Trước khi chết, ngài cầu nguyện: "Lạy Chúa, là Đấng dựng nên con, Ngài đã gìn giữ con từ khi còn trong nôi. Bởi tình yêu thế gian Ngài đã dẫn dắt con và ban cho con sự kiên nhẫn để chịu đựng đau khổ. Xin hãy nhận lấy linh hồn con".
Ngài được coi là quan thầy của xứ Palermo và Catania.
Suy niệm 1: Tận hiến
Khi còn trẻ, ngài đã tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa, và từ chối bất cứ lời cầu hôn nào.
Từ thời các tông đồ, đã có các trinh nữ và góa phụ Kitô giáo được Chúa mời gọi để tâm hồn, thể xác và tinh thần được tự do hơn mà gắn bó hoàn toàn với Người (1Cr 7,34-36). Họ quyết định sống trong bậc đồng trinh hoặc khiết tịnh vĩnh viễn vì “Nước Trời” (Mt 19,12). Lối sống này được Hội Thánh phê chuẩn (Sách Giáo Lý số 922).
Ngay từ thời sơ khai của Hội Thánh, đã có những người nam cũng như nữ, quyết theo Chúa Kitô với một tinh thần tự do thanh thoát hơn, bắt chước Người khắng khít hơn, và mỗi người một cách, tất cả đều sống tận hiến cho Thiên Chúa (Sách Giáo Lý số 918).
* Lạy Chúa Giêsu, xin luôn giữ gìn và bảo vệ các tâm hồn tự nguyện tận hiến cho Thiên Chúa.
Suy niệm 2: Ép buộc
Một trong những người say mê ngài là Quintian, một người có địa vị cao trong xã hội nên ông nghĩ rằng có thể ép buộc thánh nữ.
Người đời thường nói: Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên. Một người có địa vị cao trong xã hội như Quintian không thể nào không biết điều này, nhưng tại sao ông lại xử sự như thế?
Đúng là con tim có những lý lẽ mà lý trí không kiểm soát được. Thánh Phaolô thật có lý khi nói: Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô... và cũng không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta (Rm 8,35.39)
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết điều chỉnh con tim chúng con theo một đối tượng duy nhất là chính Chúa.
Suy niệm 3: Tin tưởng
Thánh Agatha nhất quyết tin tưởng vào Thiên Chúa, và cầu nguyện.
Quyết tâm của thánh nữ quả không sai. Chim trời không gieo không gặt mà Chúa vẫn nuôi, phương chi là con người vốn quý trọng hơn chúng nhiều. Hoa cỏ đồng nội nay còn mai mất mà Chúa vẫn tô điểm sắc màu tuyệt đẹp hơn cả hoàng bào của vua Salômôn, phương chi là các nghĩa tử của Chúa (Mt 6,26.30).
Thậm chí một sợi tóc trên đầu cũng đã được đếm và có rụng xuống cũng nằm trong Thiên Ý (Mt 10,30; Lc 21,18). Còn phàm nhân đâu hóa trắng ra đen được một sợi tóc (Mt 5,36), và dù lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm dù chỉ một gang tay (Lc 12,25). Thế thì không gì bằng là hãy sống niềm tin tưởng vào Thiên Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương thánh nữ Agatha để luôn tin tưởng vào Thiên Chúa.
Suy niệm 4: Cầu nguyện
Thánh Agatha nhất quyết tin tưởng vào Thiên Chúa, và cầu nguyện.
Cầu nguyện là một cách bày tỏ niềm tín thác vào Thiên Chúa quan phòng và toàn năng. Quả vậy cầu nguyện giúp thánh nữ nhận ra thân phận bất lực và hạn hẹp của chính mình trước khó khăn đang đối diện mà tự sức chẳng thể vượt qua, do đó phải cậy dựa vào quyền năng của Đấng có thể làm được mọi sự.
Càng cầu nguyện, con người càng cảm nhận được sự nhỏ bé của mình trước sự cao cả của Thiên Chúa, để rồi dễ dàng sống niềm tín thác tuyệt đối vào tình phụ tử vốn yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một dấu yêu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết cách cầu nguyện như Chúa đã từng dạy các tông đồ Chúa.
Suy niệm 5: Tự do
Thánh Agatha vẫn không lay chuyển, vẫn can đảm tuyên xưng rằng chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể ban cho ngài sự tự do.
Sự tự do đích thực không có nghĩa là muốn làm gì thì làm nhưng là làm theo Thiên Ý, theo một trật tự mà Đấng Tạo Hóa đã an bài, vì thế chỉ một mình Chúa mới có thể ban cho sự tự do đó.
Vũ trụ bao la rộng lớn vẫn tồn tại từ muôn thuở và đến ngày thế mạt, nhờ các tinh tú luôn vận hành theo một trật tự đã được ấn định (Tv 74,16; Is 40,26; Br 6,59). Cá không bay trên trời và chim không sống dưới nước; lạm dụng sự tự do không trật tự đó, chúng chỉ có một con đường là tự hủy diệt chính mình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử dụng đúng hồng ân tự do mà Chúa đã ban cho chúng con, để không phải đi vào chỗ chết mà được sống và được sống muôn đời.
Suy niệm 6: Tuyên xưng
Khi Thánh Agatha tiếp tục tuyên xưng đức tin nơi Chúa Giêsu, Quintian ra lệnh tra tấn.
Lời tuyên xưng chỉ có giá trị thật sự khi được biện minh bằng việc làm, nhất là khi được tôi luyện bằng khổ hình, bằng tra tấn và bằng cái chết tử đạo. Cái chết của thánh nữ đã là một lời tuyên xưng tuyệt hão và trở thành mẫu gương sáng lạng cho hậu thế.
Trước đó, cái chết của Đức Giêsu đã ban ơn đức tin cho viên đại đội trưởng đang điều hành cuộc hành hình (Lc 23,47). Và tiếp đó cái chết của thánh Têphanô đã cảm hóa được tâm hồn chai đá của một Saolô thành một tông đồ Phaolô nhiệt thành.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không những tuyên xưng bằng lời trên môi miệng mà bằng cuộc sống chứng nhân trong hành động.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Giuse ở Leonissa (1556-1612)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Giuse ở Leonissa (1556-1612)
Lược sử
Thánh Giuse sinh ở Leonissa thuộc Vương Quốc Naples, ngài gia nhập dòng Capuchin ở nơi ngài sinh trưởng năm 1573. Ngài rèn luyện bản thân bằng cách kiêng ăn thịt và khước từ những tiện nghi, chuẩn bị cho thiên chức linh mục và cuộc đời rao giảng.
Năm 1587 ngài đến Constantinople để chăm sóc các người Kitô Giáo đang làm nô dịch cho các chủ nhân người Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ. Ngài bị cầm tù vì công việc ấy, và được cảnh cáo là không được tái phạm sau khi được thả tự do. Nhưng ngài lại tiếp tục sứ vụ và lại bị cầm tù, lần này ngài bị kết án tử hình. Lạ lùng thay ngài được trả tự do và trở về Ý, là nơi ngài rao giảng cho người nghèo và hòa giải hận thù giữa các gia đình, cũng như sự tranh chấp giữa các thành phố đã kéo dài trong nhiều năm trời.
Ngài được phong thánh năm 1746.
Suy niệm 1: Rèn luyện
Thánh Giuse ở Leonissa rèn luyện bản thân bằng cách kiêng ăn thịt và khước từ những tiện nghi, chuẩn bị cho thiên chức linh mục và cuộc đời rao giảng.
Theo cách văn ôn võ luyện, Thánh Giuse ở Leonissa cũng biết rèn luyện bản thân bằng cách kiêng ăn thịt và khước từ những tiện nghi, vì có tu thân mới có thể tề gia rồi trị quốc và bình thiên hạ được.
Để tránh tình huống “thượng bất chính thì hạ tác loạn”, việc tu thân phải luôn được quan tâm và đặt lên hàng đầu. Ngay cả Đức Giêsu cũng đã vào hoang địa 40 đêm ngày, để chuẩn bị cho cuộc đời công khai rao giảng, với thực tế không có nơi gối đầu (Mt 8,20), không có thì giờ nghỉ ngơi ăn uống (Mc 6,31).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín bài học quý giá của Chúa về thể xác “tinh thần thì hăng hái nhưng thân xác thì nặng nề”, để rồi luôn chú tâm rèn luyện bản thân.
Suy niệm 2: Tiện nghi
Thánh Giuse ở Leonissa rèn luyện bản thân bằng cách kiêng ăn thịt và khước từ những tiện nghi, chuẩn bị cho thiên chức linh mục và cuộc đời rao giảng.
Các thánh thường làm chúng ta nhột nhạt vì đời sống các ngài như thách đố chúng ta hãy suy nghĩ về những gì chúng ta cho là cần thiết của "một đời sống thoải mái." Chúng ta nghĩ, "Tôi sẽ hạnh phúc khi...," và chúng ta tốn không biết bao nhiêu thời giờ để lo lắng cho cái bề ngoài của cuộc sống.
Thánh Giuse ở Leonissa thách đố chúng ta hãy can đảm đối diện với cuộc đời, và hãy nhìn vào tâm điểm của nó: đó là một đời sống với Thiên Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng tìm tiện nghi, nhưng tìm phục vụ, vì tiện nghi chỉ là phương tiện trợ giúp, chứ không bao giờ là mục đích.
Suy niệm 3: Rao giảng
Thánh Giuse ở Leonissa rèn luyện bản thân bằng cách kiêng ăn thịt và khước từ những tiện nghi, chuẩn bị cho thiên chức linh mục và cuộc đời rao giảng.
Thánh Giuse ở Leonissa quả thật là một người rao giảng đại tài vì ngài đã minh chứng lời ngài nói bằng chính cuộc đời của ngài. Trong một bài giảng, Thánh Giuse ở Leonissa nói: "Mỗi Kitô Hữu phải là một cuốn sách sống động mà người ta có thể đọc được sự giảng dạy của Phúc Âm”...
Đây là điều mà Thánh Phaolô nói với tín hữu Côrintô: 'Hiển nhiên anh em là bức thư của Đức Ki-tô mà tôi được giao phó, một bức thư không viết bằng mực, nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng xương thịt trong tâm hồn con người.' (2 Cr 3,3). Tâm hồn chúng ta là những mảnh giấy da; qua sứ vụ của tôi, Chúa Thánh Thần là người viết vì 'lưỡi tôi như cây bút của người viết' (Tv 45,1)".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con rao giảng điều chúng con tin, và sống điều chúng con rao giảng.
Suy niệm 4: Nô dịch
Năm 1587 ngài đến Constantinople để chăm sóc các người Kitô Giáo đang làm nô dịch cho các chủ nhân người Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ.
Thật phúc cho ai được làm nô dịch cho một ông chủ tốt bụng, tốt đến mức chẳng những trả công hợp lẽ công bằng (Mt 20,4), mà còn quan tâm đến nhu cầu sức khoẻ, để rồi sẵn sàng đích thân tìm thầy cứu chữa (Lc 7,3), chứ không bỏ mặc hoặc vắt chanh bỏ vỏ.
Thật phúc cho chúng ta là người con Chúa vốn tốt lành vô song (Mt 19,17), vốn tha thứ lỗi lầm đến bảy mươi lần bảy (Mt 18,22) và đã tha thì xóa sạch và không còn nhớ đến nữa (Gr 31,34). Nhất là Ngài luôn tưởng thưởng gấp trăm (Mc 10,30).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con, một khi đã chọn Chúa thì quyết làm tôi Chúa suốt đời, chứ đừng bao giờ làm tôi hai chủ.
Suy niệm 5: Tiếp tục
Ngài bị cầm tù vì công việc ấy, và được cảnh cáo là không được tái phạm sau khi được thả tự do. Nhưng ngài lại tiếp tục sứ vụ và lại bị cầm tù, lần này ngài bị kết án tử hình.
Dầu đã được cảnh báo trước, Giuđa Ítcariốt vẫn tiếp tục con đường bội phản Thầy mình. Ông đi gặp các thượng tế và dùng cái hôn để nộp Con Người (Ga 13,21; Mt 26,14; Lc 22,48).
Ngược lại, hai tông đồ Phêrô và Gioan vẫn tiếp tục rao giảng về Danh Đức Giêsu, cho dầu đã bị Thượng Hội Đồng Dothái xét xử, đánh đòn và nghiêm cấm (Cv 4,18; 5,40-42).
* Lạy chúa Giêsu, tiếp tục phạm tội thì dễ mà tiếp tục làm việc lành thì thật là khó. Xin giúp chúng con kiên trì tiếp tục làm việc lành dù không phải là việc dễ.
Suy niệm 6: Hòa giải
Ngài được trả tự do và trở về Ý, là nơi ngài rao giảng cho người nghèo và hòa giải hận thù giữa các gia đình, cũng như sự tranh chấp giữa các thành phố đã kéo dài trong nhiều năm trời.
Bằng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh, Đức Giêsu đã hoàn thành công cuộc hòa giải giữa Trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người.
Nỗ lực không biệt mệt mõi của Thánh Giuse ở Leonissa cũng được bù đắp bằng thành quả hòa giải tại địa phương.
* Lạy Chúa Giêsu, gây hận gieo thù xem ra không khó, nhưng để hòa giải thì thật đòi hỏi nhiều công sức và thời gian. Xin giúp chúng con ý thức được điều đó để đừng bao giờ gây nên chia rẽ mà luôn tận lực xây dựng hòa bình.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Blasiô, giám mục, tử đạo và Thánh Ansgariô, giám mục (St. Blase, St. Ansgar)
- Viết bởi Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Thánh Blasiô, giám mục, tử đạo và Thánh Ansgariô, giám mục (St. Blase, St. Ansgar)
Ngày 03/02
Thánh Blasiô
Thánh Blasiô đã có một đức tính hiền lành, khiêm nhu ngay từ khi còn nhỏ tuổi. Với tấm lòng đạo đức và tinh thần nhiệt thành phục vụ, thánh nhân càng lớn tuổi càng trở nên khôn ngoan nhưng vẫn giữ được sự khiêm nhường và lòng đạo đức mà người ta ít gặp nơi những người khác.
MỘT CON NGƯỜI ĐẠO ĐỨC ĐƯỢC MỌI NGƯỜI QUÍ MẾN:
Thánh nhân là con người thánh thiện, nổi bật trong những người cùng trang lứa lúc bấy giờ đang sống ở làng quê của Ngài. Với tính tình khiêm nhu, đơn sơ, và lòng đạo đức trổi vượt, thánh nhân đã được mọi người yêu thương, quí mến, kính trọng, do đó họ đã đồng thanh đề cử Ngài lên chức giám mục thành Sébaste thuộc xứ Arménie, nước Thổ Nhĩ Kỳ. Trên ngai tòa giám mục, thánh nhân đã hết lòng yêu thương đàn chiên và luôn chứng tỏ Ngài là vị mục tử nhân lành đến cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. Ngài củng cố lòng tin của đàn chiên và yêu thương từng con chiên một. Tuy nhiên, vào năm 320-324, Licimius ra lệnh bắt bớ đạo Chúa và tiêu diệt chủ chiên hầu làm cho đàn chiên tan rã. Đây là chính sách rất thâm độc của Licimius. Bị truy nã gắt gao, thánh Blasiô phải bỏ tòa giám mục trốn lên trên rừng vắng xa xôi, tránh cơn bắt bớ thảm khốc của Licimius, suốt ngày đêm cầu nguyện và tâm sự cùng Thiên Chúa.
THÁNH NHÂN BỊ BẮT VÀ ĐƯỢC PHÚC TỬ VÌ ĐẠO:
Cuộc bách hại đạo Chúa càng lúc càng gia tăng. Đàn chiên tan tác, đau khổ, chạy tán loạn như gà con mất mẹ.
Thánh Blasiô bị truy lùng càng lúc càng gắt gao: tổng trấn Agricola cho quân lính bủa vây khắp nơi, lùng xục mọi chỗ, nên họ đã bắt được Ngài và đem về bỏ tù, giam cầm trong ngục thất với trăm ngàn cực hình khốn khổ. Trong ngục tù, thánh Blasiô đã làm nhiều phép lạ rất lạ lùng cứu chữa nhiều người khỏi tật bệnh. Biết bao phép lạ của thánh nhân đã được các nước Tây Phương cũng như Đông phương biết đến và trân trọng. Sau cùng, thánh nhân được phúc đổ máu đào làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh và giúp cho Giáo Hội Arménie bền vững.
Lạy Chúa, nhờ lời thánh Blasiô tử đạo chuyển cầu, xin nghe tiếng dân Chúa nài van mà ban ơn phù trợ để chúng con sống bình an trong cuộc đời hiện tại, và mai ngày đạt tới phúc trường sinh ( Lời nguyện ca nhập lễ, lễ thánh Blasiô, giám mục, tử đạo )
Thánh Ansgariô, giám mục
ngày 03/2
Thánh Ansgariô là thầy dòng Bênêđitô sinh năm 801 trong một gia đình đạo đức, cha mẹ của Ngài luôn chỉ biết làm theo lời Chúa. Năm 823, thánh nhân được sai đến Nouvelle Corbie để phục vụ Tin Mừng của Chúa.
THÁNH ANSGARIÔ LÀ CON NGƯỜI THÁNH THIỆN:
Được sinh ra trong một gia đình có đời sống đạo đức, thánh Ansgariô lớn lên và tiến triển mau lẹ trên đường nhân đức. Thánh nhân, gia nhập dòng Bênêđitô và mau chóng trở nên con người gương mẫu trong đời sống tận hiến. Vì là con người đạo đức, thánh thiện, sáng trí và rất bề mực thước, thánh Ansgariô được trao giữ nhiều chức vụ quan trọng khác nhau ở các nước Đan Mạch, Thụy Điển và ở Schleswig. Thánh Ansgariô có một đời sống gương mẫu, trổi vượt sáng chói về sự thánh thiện và có tài điều khiển, tổ chức. Do đó, Giáo Hội đã cất nhắc Ngài lên chức giám mục thành Hamburg vào năm 831 và năm 847, thánh nhân coi sóc địa phận Brême. Có tài, có đức, thánh nhân lại được tòa thánh bổ nhiệm làm khâm sứ tòa thánh ở tất cả các nước Bắc Âu.
THÁNH ANSGARIÔ LUÔN SỐNG ĐỜI SỐNG CỦA MỘT THẦY DÒNG BÊNÊĐITÔ:
Là một giám mục, một khâm sứ tòa thánh, nhưng thánh nhân luôn sống đời sống khắc khổ khó nghèo của một thầy dòng Bênêđitô. Thánh nhân luôn tin tưởng, phó thác, cậy trông vào Chúa. Dù rằng kết quả chẳng được bao nhiêu qua những năm làm giámmmục, thánh Ansgariô không bao giờ chùn bước, không bao giờ tỏ ra thất vọng, bỏ cuộc. Thánh nhân đã gieo hạt Tin Mừng với tất cả nỗ lực, cố gắng, nhưng kết quả xem thấy chẳng được bao nhiêu. Thánh nhân luôn kiên trì, phó thác, cậy trông và vun đắp Giáo Hội Chúa Kitô làm cho Giáo Hội triển nờ, sinh hoa kết quả tươi tốt.
THÁNH NHÂN RA ĐI VỚI TẤT CẢ TIN TƯỞNG:
Dù rằng không được phúc đổ máu làm chứng cho Chúa, nhưng thánh Ansgariô đã ra đi bình an trong Chúa vào năm 865 tại giáo phận Brême với tâm hồn thánh thiện, thanh thản và hoàn toàn tin tưởng vào Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Ansgariô, giám mục,đem ánh sáng Tin Mừng đến cho các dân tộc Bắc Aâu. Xin nhận lời thánh nhân chuyển cầu mà ban cho chúng con được bước đi luôn mãi trong ánh sáng chân lý của Chúa ( Lời nguyện ca nhập lễ, lễ thánh Ansgariô, giám mục ).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Thánh Blaise (c. 316)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Blaise (c. 316)
Lược sử
Chúng ta biết nhiều về sự sùng kính của Kitô Hữu đối với Thánh Blaise hơn là tiểu sử của ngài. Trong Giáo Hội Đông Phương, ngày lễ kính ngài được coi là một ngày lễ lớn. Công Đồng Oxford, vào năm 1222 đã cấm làm việc xác trong ngày lễ Thánh Blaise. Người Đức và người Đông Âu rất kính trọng thánh nhân, và trong nhiều thập niên, người Công Giáo Hoa Kỳ thường chạy đến với thánh nhân để xin chữa bệnh đau cổ họng.
Chúng ta được biết Đức Giám Mục Blaise chịu tử đạo ngay trong giáo phận của ngài ở Sebastea, Armenia, năm 316. Mãi cho đến 400 năm sau mới có huyền thoại viết về ngài. Theo đó, Thánh Blaise là một giám mục tốt lành, làm việc vất vả để khuyến khích giáo dân sống lành mạnh về tinh thần và thể xác.
Mặc dầu Chỉ Dụ Toleration, năm 311, đã cho phép tự do tôn giáo ở Đế Quốc Rôma hơn năm năm, nhưng ở Armenia, việc bách hại vẫn còn dữ dội. Hiển nhiên là Thánh Blaise buộc phải rời bỏ giáo phận và sống trong rừng núi. Ở đó ngài sống trong cô độc và cầu nguyện, làm bạn với thú rừng.
Một ngày kia, có nhóm thợ săn đi tìm thú dữ để sử dụng trong đấu trường và tình cờ họ đã thấy hang động của Thánh Blaise. Từ kinh ngạc cho đến sợ hãi, họ thấy vị giám mục đi lại giữa đám thú dữ một cách điềm tĩnh để chữa bệnh cho chúng. Nhận ra ngài là giám mục, họ bắt ngài về để xét xử. Trên đường đi, ngài ra lệnh cho một con sói phải thả con heo nó đang cắn giữ vì đó là của người đàn bà nghèo. Khi Thánh Blaise bị giam trong tù và bị bỏ đói, người đàn bà này đã đền ơn ngài bằng cách lẻn vào tù cung cấp thức ăn cho thánh nhân.
Ngoài ra, truyền thuyết còn kể rằng, một bà mẹ có đứa con trai bị hóc xương đã chạy đến ngài xin cứu giúp. Và sau lời truyền của Thánh Blaise, đứa bé đã khạc được chiếc xương ra khỏi cổ.
Agricolaus, Thủ Hiến xứ Cappadocia, tìm mọi cách để dụ dỗ Thánh Blaise bỏ đạo mà thờ tà thần. Lần đầu tiên từ chối, ngài bị đánh đập. Lần kế tiếp, ngài bị treo trên cây và bị tra tấn bằng chiếc lược sắt cào vào thân thể. Sau cùng ngài bị chém đầu.
Suy niệm 1: Sùng kính
Chúng ta biết nhiều về sự sùng kính của Kitô Hữu đối với Thánh Blaise hơn là tiểu sử của ngài. Trong Giáo Hội Đông Phương, ngày lễ kính ngài được coi là một ngày lễ lớn.
Trong mọi thời, cảm thức của dân thánh được diễn đạt bằng những hình thức đa dạng, quy tụ quanh đời sống bí tích của Hội Thánh, như lòng sùng kính các thánh (Sách Giáo Lý số 1674).
Óc thực tiễn của người dân Kitô có khả năng nhận định tổng quát về cuộc sống. Do đó, họ có thể hòa hợp một cách sáng tạo những gì thuộc về Thiên Chúa và những gì thuộc về con người... Nguồn khôn ngoan này là một nền nhân bản Kitô giáo khẳng định triệt để phẩm giá con Thiên Chúa của từng người (Sách Giáo Lý số 1676).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khi thi hành các hình thức đạo đức, phải luôn tuân theo các chỉ thị của Đấng Bản Quyền.
Suy niệm 2: Chữa bệnh
Người Đức và người Đông Âu rất kính trọng thánh nhân, và trong nhiều thập niên, người Công Giáo Hoa Kỳ thường chạy đến với thánh nhân để xin chữa bệnh đau cổ họng.
Thánh Blaise được coi là một thí dụ điển hình về quyền năng của những ai tận hiến cho Đức Kitô. Như Đức Kitô đã nói với các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly, "Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, hãy xin bất cứ gì anh em muốn thì sẽ được ban cho" (Ga 15,7). Với đức tin, chúng ta có thể vâng theo sự dẫn dắt của Giáo Hội để được sự che chở của Thánh Blaise.
Thánh Phêrô đã chữa lành một người què, chỉ nhờ nhân danh Đức Giêsu (Cv 3,1-10; 4,10). Thế nhưng trong thực tế, lắm người đã chẳng xin gì nhân danh Đức Giêsu (Ga 16,24). Quả là một thiếu sót trầm trọng.
* "Qua lời cầu bầu của Thánh Blaise, là giám mục và là vị tử đạo, xin Thiên Chúa chữa con khỏi bệnh tật của cổ họng và khỏi mọi sự dữ. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần" (Kinh cầu Thánh Blaise).
Suy niệm 3: Huyền thoại
Chúng ta được biết Đức Giám Mục Blaise chịu tử đạo ngay trong giáo phận của ngài ở Sebastea, Armenia, năm 316. Mãi cho đến 400 năm sau mới có huyền thoại viết về ngài.
Bốn thế kỷ đủ để những điều tưởng tượng xen lẫn với những dữ kiện có thậThánh Ai dám đoan chắc tiểu sử Thánh Blaise là có thật? Nhưng chi tiết của một đời người thì không cần thiếThánh
Do đó không nên bới lông tìm vết, càng không nên vạch áo cho người xem lưng. Tốt hơn, hãy dành quyền xét đoán cho Thiên Chúa (1Cr 4,4; Gc 4,12). Bằng không, hãy xét đoán ý ngay lành nơi tha nhân. Sai lầm vì đoán ý ngay còn hơn là sai lầm vì đoán ý gian. Các phán đoán đại lượng thường là những phán đoán gần sự thật hơn cả.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nhìn mọi sự qua lăng kính của đức ái trọn hảo, vì nếu có vì thế mà đôi khi sai lầm, cũng chẳng sao, vì sự sai lầm đó không bao giờ gây nên một hậu quả đáng phàn nàn.
Suy niệm 4: Tốt lành
Thánh Blaise là một giám mục tốt lành, làm việc vất vả để khuyến khích giáo dân sống lành mạnh về tinh thần cũng như thể xác.
Một đặc điểm của Vị Mục Tử tốt lành theo Đức Giêsu, đó là phải hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 4,11). Thánh Blaise thật xứng để được tôn vinh là một giám mục tốt lành.
Thánh Blaise chẳng những khuyến khích giáo dân sống lành mạnh về tinh thần cũng như thể xác, mà nhất là ngài còn bị đánh đập, bị treo trên cây và bị tra tấn bằng chiếc lược sắt cào vào thân thể, và sau cùng ngài bị chém đầu vì đoàn chiên.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị chủ chăn luôn sống tinh thần hiến tế vì đoàn chiên theo gương Chúa, để cũng được xứng danh là Vị Mục Tử tốt lành.
Suy niệm 5: Bạn hữu
Thánh Blaise buộc phải rời bỏ giáo phận và sống trong rừng núi. Ở đó ngài sống trong cô độc và cầu nguyện, làm bạn với thú rừng.
Vốn là Thiên Chúa, Đức Giêsu đã hạ mình xuống thế làm người và mặc lấy bản tính người để trở thành người trăm phần trăm (Pl 2,7) ngoại trừ tội lỗi (Dt 4,15), đến mức làm bạn hữu với người (Lc 12,4; Ga 15,15).
Theo gương đó, thánh Blaise lại hạ mình làm bạn với thú rừng. Nhờ chữa bệnh cho chúng, ngài đã gần gũi và thân thiết với chúng, đến mức ngài ra lệnh cho một con sói phải thả con heo nó đang cắn giữ, vì đó là của người đàn bà nghèo, và nó đã vâng lệnh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống tự hạ chớ kiêu căng, để có thể gần gũi được với mọi hạng người, vốn là bạn và là anh em với nhau.
Suy niệm 6: Tử đạo
Agricolaus, Thủ Hiến xứ Cappadocia, tìm mọi cách để dụ dỗ Thánh Blaise bỏ đạo mà thờ tà thần.
Ngoài phương cách thông thường là tra tấn, người ta còn sử dụng đến cách thế dụ dỗ, cụ thể là được trả tự do và tha chết, như trường hợp thánh Phó Tế Vinh Sơn tử đạo mừng ngày 22/1, dưới thời hoàng đế Đaxianô.
Dưới thời hoàng đế Antiôkhô, vua dụ dỗ người con trai út trong số 7 anh em của cùng một bà mẹ. Vua hứa làm cho anh được giàu sang hạnh phúc, nếu anh bỏ tục lệ của tổ tiên. Ngoài ra, vua còn coi anh là bạn hữu và trao cho anh những chức vụ quan trọng (2Mcb 7,24).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con can đảm thà chết chứ đừng sa vào chước dụ dỗ mà bỏ Chúa, theo gương các vị anh hùng tử đạo.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Dâng Chúa Trong Đền Thờ
- Dâng Chúa Trong Ðền Thánh
- Thánh An-ga (801-865)
- Thánh Gioan Bosco (1815 - 1888)
- Thánh Tôma Dương Thái Khuông, Linh mục (1780-1860)
- Thánh Tôma Aquinas (1225-1274)
- Thánh Angela Merici (1470 - 1540)
- Thánh Timôtê (c. 97?) & Thánh Titô
- Thánh Phaolô trở lại
- Thánh Phanxicô Sales (1567-1622)