Gương Thánh Nhân
Ngày 30/3 Thánh Phêrô Regaldo (1390-1456)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lược sử
Trong thời của Thánh Phêrô Regaldo, lúc ấy thế giới thật nhộn nhịp.
Thánh Phêrô sinh trong một gia đình giầu có và đạo đức ở Vallodolid, Tây Ban Nha. Vào năm 13 tuổi, ngài được phép gia nhập dòng Phanxicô. Sau khi chịu chức ít lâu, ngài được bầu làm bề trên tu viện ở Aguilar. Ngài là người lãnh đạo một tổ chức các tu sĩ dòng muốn sống cuộc đời thật khó nghèo và ăn năn đền tội cách liên lỉ. Vào năm 1442, ngài được chọn làm thủ lãnh của các tu sĩ Phanxicô người Tây Ban Nha trong nhóm.
Thánh Phêrô hướng dẫn các tu sĩ qua đời sống gương mẫu của ngài. Đặc điểm của ngài là yêu quý người nghèo cũng như người đau yếu. Nhiều câu chuyện phép lạ được người ta kể lại về lòng bác ái của ngài đối với người nghèo. Tỉ như, thực phẩm dường như không bao giờ vơi khi ngài phân phát cho người nghèo.
Ngay sau khi ngài từ trần vào ngày 31 tháng Ba, 1456, ngôi mộ ngài đã trở nên trung tâm hành hương. Ngài được phong thánh năm 1746.
Suy niệm 1: Thời
Trong thời của Thánh Phêrô Regaldo, lúc ấy thế giới thật nhộn nhịp.
Cuộc Đại Ly Giáo Tây Phương (1378-1417) được giải quyết trong Công Đồng Constance (1414-1418). Nước Pháp và nước Anh đang đánh nhau trong Cuộc Chiến 100 Năm, và năm 1453 Đế Quốc Byzantine hoàn toàn bị xóa sạch bởi sự bại trận của Constantinople trước sự tấn công của người Thổ Nhĩ Kỳ.
Khi Thánh Phêrô từ trần, lúc ấy ngành in mới bắt đầu ở Đức, và Columbus khám phá ra Tân Thế Giới chưa đầy 40 năm sau.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nắm bắt thời thế đang sống, như câu nói: thời thế tạo anh hùng.
Suy niệm 2: Đạo đức
Thánh Phêrô Regaldo sinh trong một gia đình giầu có và đạo đức ở Vallodolid, Tây Ban Nha. Vào năm 13 tuổi, ngàa'được phép gia nhập dòng Phanxicô.
Nhờ được sinh trưởng và lớn lên trong một gia đình đạo đức, Thánh Phêrô đã có được một đời sống đạo đức đến mức mới 13 tuổi, ngài đã có chí nguyện dâng mình cho Chúa trong bậc tu trì, và đã được phép gia nhập dòng Phanxicô. Trong suốt cuộc đời, Thánh Phêrô luôn luôn ăn chay, ngài chỉ dùng bánh mì và nước lã, để thể hiện lòng đạo đức của ngài.
Và chính nhờ đời sống đạo đức thánh thiện này, ngài được bầu làm bề trên tu viện ở Aguilar. Ngài là người lãnh đạo một tổ chức các tu sĩ dòng muốn sống cuộc đời thật khó nghèo và ăn năn đền tội cách liên lỉ. Vào năm 1442, ngài được chọn làm thủ lãnh của các tu sĩ Phanxicô người Tây Ban Nha trong nhóm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các gia đình đào sâu lòng đạo đức để tạo nên nhiều tâm hồn đạo đức mưu ích lợi cho xã hội và Giáo Hội.
Suy niệm 3: Lãnh đạo
Thánh Phêrô Regaldo là người lãnh đạo một tổ chức các tu sĩ dòng muốn sống cuộc đời thật khó nghèo và ăn năn đền tội cách liên lỉ.
Thánh Phêrô là nhà lãnh đạo giỏi vì ngài không bao giờ giận dữ khi thấy các tu sĩ phạm lỗi. Ngài giúp các tu sĩ sắp đặt lại những thứ tự của đời sống, và tận tụy sống phúc âm của Đức Giêsu mà họ đã thề hứa.
Đó là mẫu gương lãnh đạo mà Đức Giêsu đã để lại. Ngài không trách mắng mà nhỏ nhẹ nhắc nhở Giuđa: “Anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22,48). Ngài cũng chỉ dùng cái nhìn trìu mến mà kêu mời lòng thống hối của tông đồ Phêrô (Lc 22,61).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khiêm tốn nhận ra thân phận tội lỗi của chính mình để cảm thông và dịu hiền sửa lỗi anh em.
Suy niệm 4: Gương mẫu
Thánh Phêrô Regaldo hướng dẫn các tu sĩ qua đời sống gương mẫu của ngài.
Dĩ nhiên thánh Phêrô Regaldo phải hướng dẫn các tu sĩ dựa vào quy luật và nguyên tắc, nhưng chủ yếu ngài dùng phương thế hữu hiệu là mẫu gương sống của ngài. Ngài sống cuộc đời thật khó nghèo và ăn năn đền tội cách liên lỉ.
Đó cũng là đường lối hướng dẫn của Đức Giêsu đối với các tông đồ. Ngài nêu gương sống nghèo (Mt 8,20), vâng lời (Ga 4,34), hiền lành và khiêm tốn (Mt Mt 11,29), chịu đau khổ (Mt 16,21), phục vụ đến thí mạng (Mt 20,28).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết lãnh đạo bằng đường lối nêu gương hơn là dùng lời.
Suy niệm 5: Nghèo
Đặc điểm của thánh Phêrô Regaldo là yêu quý người nghèo cũng như người đau yếu.
Nhiều câu chuyện phép lạ được người ta kể lại về lòng bác ái của ngài đối với người nghèo. Tỉ như, thực phẩm dường như không bao giờ vơi khi ngài phân phát cho người nghèo.
Tại rừng vắng, Đức Giêsu cũng đã dùng năm chiếc bánh và hai con cá để làm phép lạ hóa chúng ra nhiều mà nuôi sống hơn năm ngàn người nghèo khổ đến mức dư thừa cả mười hai thúng (Ga 6,5-13).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quan tâm đến người nghèo cả về vật chất lẫn tinh thần.
Suy niệm 6: Bác ái
Nhiều câu chuyện phép lạ được người ta kể lại về lòng bác ái của thánh Phêrô Regaldo.
Việc kiên nhẫn sửa đổi là một hành vi bác ái mà mọi tu sĩ Phanxicô phải tuân theo, chứ không chỉ ràng buộc các bề trên.
Thánh Phêrô Regaldo từng dạy: "Đừng để các tu sĩ bị náo động hay bị tức giận trước sự lầm lỗi hay sự dữ của người khác, vì ma quỷ muốn hủy hoại nhiều người qua lỗi lầm của một người; nhưng họ phải tận tình giúp đỡ tinh thần những ai sa ngã, vì người lành mạnh thì không cần đến thầy thuốc mà là người đau yếu (Mt 9,12; Quy Luật 1221, Chương 5).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức đến tầm quan trọng của một khía cạnh sống đức ái đối với người có lầm lỗi.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 29/3 Thánh Jonas và Thánh Barachisius (c. 327)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lược sử
Vua Sapor của Ba Tư lên ngôi cai trị trong thế kỷ thứ tư. Ông rất ghét Kitô Hữu và bách hại họ một cách dã man. Ông thiêu hủy các nhà thờ và đan viện. Anh em tên Jonas và Barachisius nghe biết về sự bách hại này. Hai người cũng biết là nhiều Kitô Hữu đã bị chết.
Hai anh em tìm cách giúp đỡ các Kitô Hữu và khuyến khích họ trung thành với Đức Kitô. Jonas và Barachisius biết rằng, chính họ cũng có thể bị bắt. Nhưng sự lo sợ đó không làm họ chùn bước. Tâm hồn hai người tràn ngập tình yêu thương tha nhân nên không còn nghĩ đến chính mình.
Sau cùng, hai anh em bị cầm tù. Họ được bảo rằng, nếu họ không thờ lạy mặt trời, mặt trăng, nước và lửa, thì họ sẽ bị tra tấn và bị giết chết. Đương nhiên, họ từ chối thờ phượng bất cứ sự vật gì và bất cứ ai ngoại trừ một Thiên Chúa chân thật. Họ chịu đau khổ ghê gớm nhưng vẫn kiên gan cầu nguyện. Họ luôn nghĩ về sự thống khổ của Đức Kitô. Cả hai bị tra tấn cách khủng khiếp nhưng vẫn không chối bỏ đức tin. Sau cùng, họ bị tử hình và đã vui vẻ dâng hiến mạng sống cho Thiên Chúa.
Cả hai tử đạo vào năm 327.
Suy niệm 1: Bách hại
Vua Sapor của Ba Tư lên ngôi cai trị trong thế kỷ thứ tư. Ông rất ghét Kitô Hữu và bách hại họ một cách dã man.
Tính cách dã man trong việc bách hại của vua Sapor được thấy rõ trong việc ông thiêu hủy các nhà thờ và đan viện, tra tấn cách khủng khiếp cũng như cầm tù và giết chết nhiều Kitô Hữu.
Dầu vậy tính dã man cũng không thắng vượt được tinh thần bất khuất của những người tin Chúa. Cụ thể Jonas và Barachisius biết rằng, chính họ cũng có thể bị bắt. Nhưng sự lo sợ đó không làm họ chùn bước.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con gia tăng lòng mến Chúa trên hết mọi sự, để không dừng bước trước một cuộc bách hại nào dầu dã man đến đâu.
Suy niệm 2: Lo sợ
Jonas và Barachisius biết rằng, chính họ cũng có thể bị bắt. Nhưng sự lo sợ đó không làm họ chùn bước.
Nói chung người nào cũng sợ đau khổ và sợ chết, nhưng Jonas và Barachisius chấp nhận bị bắt, bị cầm tù, bị tra tấn và cuối cùng bị giết chết, bởi vì hai ngài không sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn, mà chỉ sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục (Mt 10,28).
Không như dụ ngôn về người phú hộ chỉ lo tích trữ của cải để rồi cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì khi bị đòi lại mạng, số phận thật thê thảm và đáng sợ, vì phải chịu cực hình dưới âm phủ (Lc 12,16-21;16,23).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con phải biết nhìn xa trông rộng, không lo an nguy mạng sống đời này mà phải chú tâm đến sự sống đời sau.
Suy niệm 3: Yêu thương
Tâm hồn Jonas và Barachisius tràn ngập tình yêu thương tha nhân nên không còn nghĩ đến chính mình.
Thông thường thương người thương mình hoặc đối xử tốt với mình thì không phải là khó, nhưng thương người ghét mình hoặc địch thù của mình thì thật không phải là dễ (Mt 5,46). Và càng khó hơn khi thương đến mức độ quên mình và sẵn sàng thí mạng vì họ (Ga 15,13), như lối sống của Jonas và Barachisius theo gương Đức Giêsu.
Thật vậy, Đức Giêsu đã nêu gương một tình thương như thế. Ngài chẳng những tha thứ cho những lý hình trong việc đổ máu và giết chết Ngài (Lc 23,34), mà Ngài còn hy sinh mạng sống (Ga 10,15), để ban ơn cứu độ cho mọi người (Ga 18,14;Rm 5,10).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con từ bỏ lối sống vị kỷ thường tình để vươn tới một tình người xã thân vì tha nhân.
Suy niệm 4: Thờ phượng
Jonas và Barachisius từ chối thờ phượng bất cứ sự vật gì và bất cứ ai ngoại trừ một Thiên Chúa chân thật. Một lý do dễ hiểu:
Điều răn thứ nhất dạy phải thờ phương Chúa và kính mến Người trên hết mọi sự. Điều răn này vẫn luôn là một thách đố cho thời Cựu Ước, để rồi các vị lãnh đạo tôn giáo thường nhắc nhở và đòi buộc dân chúng phải lặp lại lời tuyên thệ này (Gs 24,14-24).
Vào thời Tân Ước, Đức Giêsu diễn đạt một cách khác vắn gọn hơn bằng lời truyền dạy: "Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6,24).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đủ sức giữ trọn điều luật căn bản nhưng cũng rất khó khăn này.
Suy niệm 5: Thống khổ
Jonas và Barachisius luôn nghĩ về sự thống khổ của Đức Kitô. Cả hai bị tra tấn cách khủng khiếp nhưng vẫn không chối bỏ đức tin.
Nhờ dâu hai ngài kiên tâm chịu đựng mọi cuộc tra tấn khủng khiếp nhưng vẫn không chối bỏ đức tin? Chắc hẳn nhờ hai ngài trong khi chịu cực hình vẫn luôn nghĩ về sự thống khổ của Đức Kitô.
Quả vậy khi nghĩ về sự thống khổ của Đức Kitô, ai cũng thấy được rằng xét về mặt thân xác, sự đau khổ của mình chẳng sánh gì được với sự thống khổ của Đức Kitô. Nhất là xét về mặt tinh thần, Đức Kitô vốn vô tội, còn chúng ta là tội nhân, chịu như thế thật là đích đáng (Lc 23,41).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mỗi khi gặp đau khổ, hãy biết nhìn lên thánh giá Chúa để tìm nguồn trợ lực và ủi an.
Suy niệm 6: Vui vẻ
Jonas và Barachisius bị tử hình và đã vui vẻ dâng hiến mạng sống cho Thiên Chúa.
Không thiếu người bị tử hình, nhưng thử hỏi có mấy người có tâm tình vui vẻ đón nhận. Dĩ nhiên phải xét đến lý do. Một lý do căn bản, đó là dùng mạng sống mình làm món quà dâng hiến Thiên chúa. Đó cũng là tâm huyết của cụ già Eleda:
Khi sắp chết vì đòn vọt, Elada vừa rên vừa nói: "Đức Chúa là Đấng thông suốt mọi sự, hẳn Người biết là dù có thể thoát chết, nhưng tôi vẫn cam chịu những lằn roi gây đau đớn dữ dằn trong thân xác, còn trong tâm hồn, tôi vui vẻ chịu khổ vì lòng kính sợ Người" (2Mcb 6,30).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra giá trị của việc thí mạng vì Chúa, để có được tâm tình hân hoan đón nhận.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 27/3 Chân Phước Phanxicô "di Bruno"
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Phanxicô "di Bruno"
(1825 - 1888)
Lược sử
Phanxicô sinh ở miền bắc nước Ý, là người con út trong gia đình quý tộc có 12 người con. Ngài sống trong giai đoạn cực kỳ hỗn loạn của lịch sử, mà phong trào chống Công Giáo và chống đức giáo hoàng rất mạnh mẽ.
Sau khi hoàn tất khóa huấn luyện sĩ quan quân đội, Phanxicô được Vua Victor Emmanuel II để ý, vì ông cảm kích trước sự hiểu biết và tính tình của người thanh niên này. Được vua mời để làm thày giáo cho hai hoàng tử, Phanxicô đồng ý và chuẩn bị nhận nhiệm vụ. Nhưng vai trò của Giáo Hội trong lãnh vực giáo dục thời bấy giờ có nhiều điểm bất lợi, nên nhà vua buộc phải rút lại lời mời Phanxicô, thay vào đó, vua tìm một thày giáo thích hợp hơn với một quốc gia thế tục.
Sau đó không lâu, Phanxicô từ giã quân đội và theo đuổi việc học ở Balê về toán học và thiên văn học; ngài cũng đặc biệt chú ý đến tôn giáo và sự khổ hạnh. Mặc dù việc học là chính, Phanxicô dồn nhiều nỗ lực trong các sinh hoạt bác ái.
Vì muốn nới rộng tầm hoạt động và tận tụy hơn cho người nghèo, Phanxicô, lúc bấy giờ là một tráng niên, bắt đầu đi tu làm linh mục. Nhưng đầu tiên, ngài phải được sự đồng ý của Đức Giáo Hoàng Piô IX để chống lại quyết định của đức tổng giám mục địa phương đã không đồng ý cho ngài đi tu vì cao tuổi.
Khi 51 tuổi, Phanxicô được thụ phong linh mục.
Ngài từ trần ở Turin ngày 27 tháng Ba 1888, và 100 năm sau, ngài được phong chân phước.
Suy niệm 1: Út
Phanxicô sinh ở miền bắc nước Ý, là người con út trong gia đình quý tộc có 12 người con.
Thánh Grêgôriô ở Nyssa cũng là con út trong một gia đình, nhưng ngài được làm linh mục và giám mục. Nhất là ngài không chỉ được coi là một trụ cột của chính giáo, nhưng còn là người đóng góp quan trọng cho các truyền thống bí nhiệm trong linh đạo Kitô Giáo và cho hệ thống đan viện.
Có câu nói: con út trút gia tài. Đây là một áp lực tâm lý không nhỏ. Tuy nhiên với một người sống được quyết tâm không gì có thể tách biệt ra khỏi tình yêu của Đức Kitô và của Thiên Chúa (Rm 8,35.39) thì vẫn có thể vượt qua được khó khăn này, như trường hợp của người con út Phanxicô “đi bruno”.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp mọi người luôn biết đặt tình Chúa lên trên hết mọi sự.
Suy niệm 2: Bách hại
Ngài sống trong giai đoạn cực kỳ hỗn loạn của lịch sử, mà phong trào chống Công Giáo và chống đức giáo hoàng rất mạnh mẽ.
Sự hiện diện của Đức Giêsu vốn là dấu hiệu cho người đời chống báng (Lc 2,34). Vừa chào đời, Ngài đã bị vua Hêrôđê sai binh lính tìm giết. Lớn lên, đi rao giảng thì bị các đầu mục Dothái làm khó dễ, để rồi cuối cùng Ngài cũng bị vu cáo và bị giết chết.
Là nhiệm thể của Đức Giêsu, Hội Thánh cũng không tránh được số phận bị ngược đãi đó (Ga 15,20). Chỉ khác một điều là Giáo Hội luôn đứng vững đến mức cho dầu quyền lực tử thần cũng không thắng được (Mt 16,16).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vững tin vào sự trường tồn của Hội Thánh Chúa để không đứng về phía phong trào chống đối, nhưng luôn bênh vực.
Suy niệm 3: Thày giáo
Được vua mời để làm thày giáo cho hai hoàng tử, Phanxicô đồng ý và chuẩn bị nhận nhiệm vụ.
Lý do để Phanxicô được vua Victor Emmanuel II để ý và chọn làm thày giáo cho hai hoàng tử, vì ông cảm kích trước sự hiểu biết và tính tình của người thanh niên này.
Điều này cho hay điều cần thiết để làm thày giáo dĩ nhiên là phải có trình độ kiến thức cao, nhưng nhất là cần có những đức tính trổi vượt, vì sứ mạng của một thầy giáo trên hết phải tạo nên những con người tốt chứ không phải những người giỏi mà xấu. Cái xấu của người giỏi chỉ gây nên những tác hại cho xã hội.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các thày giáo ý thức và hoàn thành sứ mạng đúng đắn của mình.
Suy niệm 4: Khổ hạnh
Phanxicô từ giã quân đội và theo đuổi việc học ở Balê về toán học và thiên văn học; ngài cũng đặc biệt chú ý đến tôn giáo và sự khổ hạnh.
Với tiềm năng làm linh mục, Phanxicô đã từ bỏ nghiệp binh đao để theo đuổi việc học, và nhất là chú ý đến tôn giáo và sự khổ hạnh, vốn là một yếu tố rất quan trọng để giúp nếp sống tu trì.
Đức Giêsu đã từng ăn chay bốn mươi đêm ngày trước khi lên đường loan báo Tin Mừng (Mt 4,2), cũng như chỉ dạy cho các tông đồ phương cách chiến thắng ma quỷ là ăn chay và cầu nguyện (Mt 17,21).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tận dụng lối sống khổ hạnh nhất là về mặt tinh thần, để dễ tiến bộ trên đường trọn lành.
Suy niệm 5: Bác ái
Mặc dù việc học là chính, Phanxicô dồn nhiều nỗ lực trong các sinh hoạt bác ái.
Ngài sáng lập tu hội Thánh Zita cho những người đầy tớ, sau này bành trướng thêm để nhận cả các người mẹ không chồng. Ngài giúp thiết lập các ký túc xá cho người già và người nghèo. Ngài trông coi cả việc xây cất một nhà thờ ở Turin được dành để tưởng nhớ các chiến sĩ đã tử trận trong cuộc chiến thống nhất nước Ý.
Khi 51 tuổi, Phanxicô được thụ phong linh mục. Ngài tiếp tục các công việc tốt lành, chia sẻ tài sản cũng như năng lực của ngài cho tha nhân. Ngài thiết lập một ký túc xá khác, lần này dành cho các cô gái điếm hoàn lương.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng vận dụng theo điều kiện, khả năng cũng như hoàn cảnh thực tế để thực thi đức ái trọn hảo.
Suy niệm 6: Khó khăn
Phanxicô, lúc bấy giờ là một tráng niên, bắt đầu đi tu làm linh mục.
Nhưng đầu tiên ngài gặp một khó khăn vì tuổi tác, ngài phải được sự đồng ý của Đức Giáo Hoàng Piô IX để chống lại quyết định của đức tổng giám mục địa phương đã không đồng ý cho ngài đi tu vì cao tuổi. Khi 51 tuổi, Phanxicô được thụ phong linh mục.
Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu cũng đã gặp một khó khăn tương tự. Thật vậy, lễ sinh nhật năm 1887, khi quyết định đi theo tiếng Chúa gọi vào Dòng Kín, ngài cũng phải được đức giáo hoàng ban đặc ân vào dòng khi mới 15 tuổi, tức lứa tuổi thông thường chưa được nhận.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bao giờ nãn lòng, nhưng luôn dũng cảm đương đầu với khó khăn cho đến khi được vượt qua.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 26/3 Chân Phước Didacus ở Cadiz (c. 1801)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Didacus ở Cadiz (c. 1801)
Cha Didacus rất gần gũi với Thiên Chúa, ngài dành thời giờ hàng đêm để cầu nguyện và chuẩn bị bài giảng qua sự hãm mình khắc khổ.
Sinh ở Cadiz, Tây Ban Nha, và tên rửa tội là Joseph Francis, người trẻ này thường hay lai vãng ở tu viện dòng Capuchin. Nhưng ao ước gia nhập Dòng Phanxicô của anh bị trì trệ vì anh gặp khó khăn trong việc học. Sau cùng, anh được nhận vào đệ tử viện dòng Capuchin ở Seville lấy tên là Thầy Didacus. Sau đó thầy được thụ phong linh mục và được sai đi rao giảng.
Không bao lâu người ta đã thấy Cha Didacus có tài giảng thuyết. Ngài di chuyển không biết mệt trên khắp lãnh thổ Andalusia của Tây Ban Nha và giảng thuyết ở các thành phố nhỏ cũng như lớn. Lời ngài giảng có sức đánh động đến tâm trí của mọi người, dù già hay trẻ, giầu hay nghèo, học sinh hay giáo sư. Và công việc giải tội của ngài là để hoàn tất sự hoán cải được khởi sự từ lời rao giảng.
Con người ít học này được gọi là "tông đồ của Ba Ngôi Cực Thánh" vì ngài rất sùng kính Thiên Chúa Ba Ngôi, và ngài giảng giải rất dễ dàng về mầu nhiệm siêu phàm này. Bí mật ấy một ngày kia được tiết lộ qua một em bé, khi em kêu lên: "Mẹ ơi mẹ. Mẹ coi có chim bồ câu đậu trên vai Cha Didacus kìa! Con cũng có thể giảng hay như thế nếu có chim bồ câu chỉ cho con những gì phải nói."
Cha Didacus rất gần gũi với Thiên Chúa, ngài dành thời giờ hàng đêm để cầu nguyện và chuẩn bị bài giảng qua sự hãm mình khắc khổ. Ngài trả lời cho những ai chỉ trích ngài: "Tội lỗi của tôi và của dân chúng đã thúc giục tôi làm điều đó. Những ai có trách nhiệm hoán cải kẻ tội lỗi phải nhớ rằng, Thiên Chúa đã đặt trên vai họ tội lỗi của những người xưng tội."
Người ta nói rằng thỉnh thoảng, khi ngài giảng về tình yêu của Thiên Chúa, thân thể ngài như bay trên không. Ðám đông dân chúng trong các làng mạc, thành phố như mê hoặc bởi lời của ngài, và họ thường tìm cách xé một mẩu áo của ngài mỗi khi ngài đi ngang qua.
Ngài từ trần năm 1801 khi mới 58 tuổi. Là một người thánh thiện và đáng kính, ngài được phong chân phước năm 1894.
Suy niệm hạnh chân phước Didacus ở Cadiz
(Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)
Thánh nữ Magarét (1555 - 1586)
"Quan tòa nói tôi sẽ chết vào thứ Sáu tới; và tôi cảm thấy thân thể rã rời khi nghe tin ấy, nhưng thần khí tôi vui mừng xiết kể. Vì tình yêu Thiên Chúa, xin bạn hãy cầu nguyện cho tôi và xin mọi người thiện tâm cũng cầu nguyện cho tôi."
Thánh nữ Magarét sinh ở MiÇleton, Anh Quốc, năm 1555, trong một gia đình theo Tin Lành. Ðược thừa hưởng vẻ đẹp, trí thông minh và tính tình vui vẻ, ngài là một người duyên dáng. Năm 1571, ngài kết hôn với ông Gioan Clitherow, hành nghề buôn bán trâu bò, và một vài năm sau ngài trở lại đạo Công Giáo
Là một tín đồ ngoan đạo, ngài thường lén lút giúp đỡ các linh mục Công Giáo mà thời bấy giờ đang bị nhà cầm quyền Anh Giáo bắt bờ Cũng vì vậy, chính ngài bị bắt và bị giam cầm.
Sau biết bao lần khuyến dụ từ bỏ Ðức Tin, nhưng người phụ nữ này vẫn cương quyết. Sau cùng, ngài bị kết án tử hình vào ngày 25 tháng Ba, 1586. Ngài bị trói giang chân tay nằm trên đất với một tảng đá sắc bén để ở sau lưng. Và khi một tấm ván chất đầy sức nặng đè xuống trên thân thể ngài thì chỉ trong vòng mười lăm phút, ngài đã tắt thở sau khi xương sống gẫy vụn.
Sự thánh thiện của người tôi tớ Thiên Chúa này được tỏ rõ khi nghe biết bị kết án tử hình, ngài nói với một người bạn: "Quan tòa nói tôi sẽ chết vào thứ Sáu tới; và tôi cảm thấy thân thể rã rời khi nghe tin ấy, nhưng thần khí tôi vui mừng xiết kể. Vì tình yêu Thiên Chúa, xin bạn hãy cầu nguyện cho tôi và xin mọi người thiện tâm cũng cầu nguyện cho tôi."
Suy niệm hạnh Thánh nữ Magarét
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 25/3 Lễ Truyền Tin
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lễ Truyền Tin
Lễ Truyền Tin có từ thế kỷ thứ tư hoặc thứ năm. Ý nghĩa chính của lễ là sự Nhập Thể: Thiên Chúa trở nên một người trong chúng ta.
-Tự đời đời Thiên Chúa đã quyết định để Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Giờ đây, như Thánh Luca (1:26-38) kể cho chúng ta biết, quyết định ấy được thể hiện. Thần-Nhân ấy đã ôm lấy toàn thể nhân loại, đúng hơn toàn thể tạo vật, để đưa đến Thiên Chúa trong một nghĩa cử bác ái cao cả. Vì loài người đã chối từ Thiên Chúa, Ðức Giêsu chấp nhận sự thống khổ và cái chết đau đớn: "Không ai có tình yêu cao quý hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu" (Gioan 15:13).
Ðức Maria có vai trò quan trọng trong hoạch định của Thiên Chúa. Từ thuở đời đời, Thiên Chúa đã tiền định ngài làm mẹ của Ðức Giêsu và có liên hệ mật thiết với Người trong sự tạo dựng và cứu chuộc nhân loại. Chúng ta có thể nói quyết định tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa được tiếp nối trong quyết định Nhập Thể. Vì Ðức Maria là một công cụ của Thiên Chúa trong sự Nhập Thể, nên cùng với Ðức Giêsu, ngài có một vai trò trong sự tạo dựng và cứu chuộc. Ðó là vai trò mà Thiên Chúa đã ban. Ðó là ơn sủng của Thiên Chúa từ khởi thủy cho đến tận cùng. Chính nhờ ơn Thiên Chúa mà Ðức Maria trở nên một nhân vật cao trọng.
Ngài là người mẹ-đồng-trinh đã hoàn tất lời tiên tri Isaiah (7:14) trong một phương cách mà tiên tri Isaiah không thể ngờ. Ngài được kết hợp với Con của ngài để thể hiện thánh ý Thiên Chúa (TV 40:8-9; Do Thái 10:7-9; Luca 1:38).
Cùng với Ðức Giêsu, Ðức Maria đầy ơn phúc là sợi dây liên kết giữa trời và đất. Sau Ðức Giêsu, ngài là một con người tuyệt hảo tiêu biểu cho mọi tiềm năng của loài người. Ngài đón nhận tình yêu vô cùng của Thiên Chúa vào sự hèn mọn của mình. Ngài chỉ cho chúng ta thấy phương cách mà một con người bình thường có thể phản ánh Thiên Chúa trong những hoàn cảnh bình thường của đời sống. Ngài là một gương mẫu mà Giáo Hội cũng như mọi phần tử của Giáo Hội phải noi theo. Ngài là sản phẩm đích thực của quyền năng tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa. Ngài biểu lộ những gì mà sự Nhập Thể phải hoàn tất cho tất cả mọi người chúng ta.
Lời Bàn
Ðôi khi các nhà văn của Giáo Hội bị kết án là đã nâng Ðức Maria lên bệ cao và như thế không khuyến khích loài người bắt chước ngài. Có lẽ nhận xét như vậy là lầm. Chính Thiên Chúa đã nâng Ðức Maria lên và Người đang đưa tất cả mọi người chúng ta lên. Ít khi chúng ta nhận ra sự cao trọng của ơn Chúa, sự kỳ diệu của tình yêu cho không của Người. Sự kỳ diệu của Ðức Maria - ngay cả giữa những bình thường của đời ngài - là lời Thiên Chúa thức tỉnh chúng ta về thân phận cao trọng của tạo vật mà tất cả chúng ta đều được hưởng trong hoạch định của Thiên Chúa.
Lời Trích
"Ðược phong phú hoá với sự thánh thiện cực kỳ độc đáo ngay từ giây phút thụ thai đầu tiên, người trinh nữ Nagiarét được thiên sứ, theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, ca tụng là 'đầy ơn phước' (x. Luca 1:28). Trinh nữ đã trả lời thiên sứ ấy: 'Này tôi là tôi tớ Chúa; xin hãy thể hiện nơi tôi những gì ngài nói' (Luca 1:38). Do đó, người con gái của Adong, Ðức Maria, chấp nhận lời của Thiên Chúa, trở nên Mẹ Ðức Giêsu. Hoàn toàn phó thác cho ý định cứu chuộc của Thiên Chúa mà không tội lỗi nào có thể ngăn cản được, và như một nữ tì của Thiên Chúa, ngài đã tự hiến hoàn toàn cho con người và công trình của Con ngài, mà nhờ ơn sủng của Thiên Chúa Toàn Năng, ngài phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc với Ðức Giêsu và dưới quyền Người" (Hiến Chương về Giáo Hội, 56).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 24/3 Thánh Catarina ở Genoa (1447-1510)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Catarina ở Genoa (1447-1510)
Lược sử
Khi Thánh Catarina chào đời thì nhiều nhà quý tộc ở Ý lúc bấy giờ hỗ trợ các văn nghệ sĩ thuộc phong trào Phục Hưng. Các nhu cầu của người nghèo và người bệnh tật thường bị lu mờ bởi cái đói khát giầu sang và lạc thú.
Cha mẹ của Catarina thuộc dòng họ quý tộc ở Genoa. Lúc 13 tuổi, ngài muốn đi tu nhưng không được nhận vì còn quá trẻ. Năm 16 tuổi, bởi sự thúc giục của cha mẹ, Catarina kết hôn với ông Guiliano Adorno, một người quý tộc nhưng đó là một hôn nhân bất hạnh. Ông Guiliano là một người không có đức tin, cọc cằn, hoang phí và không chung thủy. Trong một thời gian, Catarina muốn quên đi những chán chường của đời sống bằng cách hòa đồng với xã hội.
Một ngày kia, khi đi xưng tội, ngài được ơn Chúa cho thấy tội lỗi của mình và tình thương của Thiên Chúa. Ngài thay đổi lối sống và làm gương cho chồng, mà không lâu sau đó, chính ông Giuliano cũng đã từ bỏ đời sống ích kỷ, hoang đàng. Cả hai quyết định sống trong khu nhà thương ở Genoa để chăm sóc bệnh nhân, thi hành đức bác ái. Sau khi ông Giuliano qua đời năm 1497, bà Catarina đứng trông coi bệnh viện.
Những thị kiến bà được cảm nghiệm từ khi hai mươi sáu tuổi cho đến lúc chết, được cha giải tội ghi nhận lại trong hai cuốn "Những Đối Thoại của Linh Hồn và Thân Xác," và "Luận Về Luyện Ngục". Trong Luận Về Luyện Ngục, bà coi toàn thể cuộc đời Kitô Hữu là sự thanh luyện. Nếu sự thanh luyện ở đời này chưa hoàn tất thì sẽ phải tiếp tục sang đời sau. Những gì chúng ta phải đền bù vì tội lỗi của chúng ta ở đời này thì quá nhỏ so với những gì phải đền bù ở Luyện Tội. Đời sống với Thiên Chúa ở thiên đàng là một tiếp nối của đời sống đã được hoàn thiện được khởi sự từ trần gian.
Kiệt quệ vì sự hy sinh, bà từ trần ngày 15 tháng Chín, 1510, và được Đức Giáo Hoàng Clêmentê XII phong thánh năm 1737.
Suy niệm 1: Hôn nhân
Năm 16 tuổi, bởi sự thúc giục của cha mẹ, Catarina kết hôn với ông Guiliano Adorno, một người quý tộc nhưng đó là một hôn nhân bất hạnh.
Cuộc hôn nhân này được đánh giá là bất hạnh, vì ông Guiliano là một người không có đức tin, cọc cằn, hoang phí và không chung thủy.
Điều này cho hay tiền bạc cũng như danh vọng và ngay cả sắc đẹp không hẳn bao giờ cũng giúp có một cuộc hôn nhân hạnh phúc, mà chủ yếu là tâm hồn đạo đức, như một câu nói thường nghe: cái nết đánh chết cái đẹp, hoặc qua mẫu gương cầu nguyện của hai vợ chồng Tôbia và Xara (Tb 8,4-9).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các đôi bạn trẻ biết chọn tiêu chuẩn đạo đức trên hết mọi tiêu chuẩn khác để có được một cuộc hôn nhân hạnh phúc.
Suy niệm 2: Xưng tội
Một ngày kia, khi đi xưng tội, ngài được ơn Chúa cho thấy tội lỗi của mình và tình thương của Thiên Chúa. Ngài thay đổi lối sống và làm gương cho chồng.
Xưng tội và rước lễ thường xuyên có thể giúp chúng ta nhìn thấy con đường hướng về Thiên Chúa. Những người có cảm nhận thực tế về tội lỗi của mình và sự cao cả của Thiên Chúa thường là những người sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của tha nhân.
Thánh Catarina bắt đầu công việc ở bệnh viện với lòng nhiệt thành, và trung thành với công việc ấy qua những thời kỳ khó khăn bởi vì ngài được khích động bởi tình yêu Thiên Chúa, và tình yêu ấy được canh tân qua Kinh Thánh và các bí tích.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra giá trị của việc đi xưng tội để siêng năng đến tòa cáo giải hơn.
Suy niệm 3: Gương mẫu
Một ngày kia, khi đi xưng tội, ngài được ơn Chúa cho thấy tội lỗi của mình và tình thương của Thiên Chúa. Ngài thay đổi lối sống và làm gương cho chồng.
Với sứ mạng của một hiền mẫu, Thánh Catarina đón nhận các thánh giá luôn có trong bổn phận của một người vợ đối với chồng bằng lời cầu nguyện và mẫu gương sống thánh. Không lâu sau đó, chính ông Giuliano cũng đã từ bỏ đời sống ích kỷ, hoang đàng.
Hiền mẫu Mônica vâng lời cha mẹ kết hôn với Patricius, một người ngoại giáo thuộc dòng dõi quý phái, nhưng tính tình ngang tàng, độc ác và phóng túng. Nhưng sự cầu nguyện và gương mẫu đời sống của Thánh Monica sau cùng đã chinh phục được người chồng, ngài đã đưa chồng trở về với đức tin Kitô Giáo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các hiền mẫu nhiều ơn lành hồn xác để giúp họ chu toàn sứ mạng của một hiền mẫu.
Suy niệm 4: Bác ái
Cả hai quyết định sống trong khu nhà thương ở Genoa để chăm sóc bệnh nhân, thi hành đức bác ái.
Trước khi từ giã cõi đời, Thánh Catarina nói với con gái đỡ đầu: "Tomasina! Đức Giêsu trong tâm hồn con! Vĩnh cửu trong tâm trí con! Thánh ý Thiên Chúa trong hành động con! Nhưng trên hết mọi sự, hãy sống bác ái, Thiên Chúa là tình yêu, hoàn toàn tình yêu!"
Chính lòng bác ái này đã giúp thánh Catarina vâng lời cha mẹ để từ bỏ ý nguyện tu trì sống đời hôn nhân, để rồi cảm hóa được chồng, và cùng chồng thực thi lòng nhân ái đối với các bệnh nhân.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dào sâu và thực thi tình bác ái theo gương thánh nữ Catarina.
Suy niệm 5: Luyện Ngục
Trong Luận Về Luyện Ngục, bà coi toàn thể cuộc đời Kitô Hữu là sự thanh luyện.
Nếu sự thanh luyện ở đời này chưa hoàn tất thì sẽ phải tiếp tục sang đời sau. Những gì chúng ta phải đền bù vì tội lỗi của chúng ta ở đời này thì quá nhỏ so với những gì phải đền bù ở Luyện Tội.
Theo Thánh Grêgôriô Cả, đối với một số tội nhẹ, phải tin là trước phán xét chung có lửa thanh luyện. Đức Giêsu xác nhận: nếu ai nói phạm đến Chúa Thánh Thần, người ấy sẽ chẳng được tha cả đời này lẫn đời sau (Mt 12,31). Qua khẳng định này, chúng ta có thể hiểu là một số tội có thể được tha ở đời này, nhưng một số tội khác thì phải đợi tới đời sau.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đón nhận nhiều khổ đau, và gia tăng việc lành phúc đức đời này để gảim bớt phần đền tội đời sau.
Suy niệm 6: Thiên đàng
Đời sống với Thiên Chúa ở thiên đàng là một tiếp nối của đời sống đã được hoàn thiện được khởi sự từ trần gian.
Thiên đàng là cuộc sống viên mãn vì được hiệp thông trong sự sống và tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Đức Trinh Nữ Maria, với các thiên thần và các thánh.
Thiên đàng là mục đích tối hậu và là sự hiện thực các nguyện vọng sâu xa nhất của con người, là tình trạng hạnh phúc tuyệt hảo và chung cuộc (Sách Giáo Lý số 1024).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ở đời này luôn sống thánh để được chết lành hầu được vào thiên đàng như là một hệ lụy tất yếu.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 23/3 Thánh Turibius ở Mogrovejo (1538 - 1606)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Turibius ở Mogrovejo (1538 - 1606)
Cùng với Thánh Rosa ở Lima, Thánh Turibius là vị thánh đầu tiên nổi tiếng ở Tân Thế Giới, phục vụ Thiên Chúa ở Peru, Nam Mỹ trong 26 năm.
Lược sử
Cùng với Thánh Rosa ở Lima, Thánh Turibius là vị thánh đầu tiên nổi tiếng ở Tân Thế Giới, phục vụ Thiên Chúa ở Peru, Nam Mỹ trong 26 năm.
Sinh ở Tây Ban Nha và theo học về luật, ngài trở thành một học giả sáng giá đến nỗi được làm giáo sư luật cho Đại Học Salamanca, và sau đó trở thành chánh án Tòa Thẩm Tra ở Granada dưới thời Vua Philip II. Ngài rất thành công, nhưng vẫn chưa phải là một luật sư có thể ngăn cản được những biến cố đột ngột xảy ra trong đời.
Khi tòa giám mục Lima trong thuộc địa Peru của Tây Ban Nha trống ngôi, nhà vua quyết định Turibius phải là người giữ chức vụ đó: vì ngài cương quyết và có tinh thần đạo đức. Sau khi được thụ phong linh mục và tấn phong giám mục, ngài được gửi sang Peru năm 1581, là nơi ngài chứng kiến sự tồi tệ của chủ nghĩa thực dân. Ở đây, người Tây Ban Nha xâm lăng vi phạm đủ mọi loại tội lỗi đối với dân địa phương. Các lạm dụng của hàng giáo sĩ cũng thật lộ liễu, Đức Turibius đã dồn mọi nỗ lực để cải tổ lãnh vực này trước hết.
Ngài bắt đầu các cuộc thăm viếng lâu dài và gian khổ đến tất cả các giáo xứ trong tổng giáo phận mênh mông. Ngài học tiếng địa phương, và trong các chuyến công tác, có khi phải ở đó đến hai ba ngày mà thường không có thực phẩm cũng như giường chiếu. Mỗi sáng ngài đều xưng tội với cha tuyên úy, và cử hành Thánh Lễ với sự sốt sắng tột độ. Trong những người được Thêm Sức từ tay ngài là Thánh Rosa ở Lima, và có lẽ cả Thánh Martin de Porres nữa.
Ngài được phong thánh năm 1726.
Suy niệm 1: Phục vụ
Cùng với Thánh Rosa ở Lima, Thánh Turibius là vị thánh đầu tiên nổi tiếng ở Tân Thế Giới, phục vụ Thiên Chúa ở Peru, Nam Mỹ trong 26 năm.
Xuất thân là một giáo sư luật ở cường quốc Tây Ban Nha, Thánh Turibius đã lăn xã và hòa mình phục vụ người thổ dân thuộc địa Peru. Ngài học tiếng địa phương, giúp thiết lập các trường học, nhà thờ, và mở cửa chủng viện đầu tiên trong Tân Thế Giới.
Bí quyết thành công trong việc phục vụ tha nhân của thánh Turibius, đó là ngài phục vụ tha nhân như là phục vụ chính Thiên Chúa, hay nói cách khác ngài thể hiện việc phục vụ chính Thiên Chúa bằng việc phục vụ tha nhân (Mt 25,40).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nhận ra Chúa đang hiện diện nơi tha nhân để dễ thực hiện tinh thần phục vụ.
Suy niệm 2: Biến cố
Ngài rất thành công, nhưng vẫn chưa phải là một luật sư có thể ngăn cản được những biến cố đột ngột xảy ra trong đời.
Khi tòa giám mục Lima trong thuộc địa Peru của Tây Ban Nha trống ngôi, nhà vua quyết định Turibius phải là người giữ chức vụ đó: vì ngài cương quyết và có tinh thần đạo đức. Sau khi được thụ phong linh mục và tấn phong giám mục, ngài được gửi sang Peru.
Quả thật Thiên Chúa đã uốn thẳng các đường lối quanh co. Trái với ý định của Turibius, và lại phát xuất từ điểm không ai ngờ là Tòa Thẩm Tra, con người này đã trở nên vị chủ chăn giống như Đức Kitô của các người nghèo và bị áp bức. Thiên Chúa đã ban cho ngài ơn biết yêu thương tha nhân như điều họ mong đợi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đọc được các biến cố theo sự quan phòng của Thiên Chúa.
Suy niệm 3: Đạo đức
Khi tòa giám mục Lima trong thuộc địa Peru của Tây Ban Nha trống ngôi, nhà vua quyết định Turibius phải là người giữ chức vụ đó: vì ngài cương quyết và có tinh thần đạo đức.
Một vị lãnh đạo tinh thần phải là một người hoàn hảo đến mức không ai có thể chê trách được điều gì, nhất là xét về mặt đạo đức (1Tm 3,2;Tt 1,6-7). Chính vì thế thánh Turibius đã được tuyển chọn.
Trong lịch sử dân Chúa, dầu là nữ nhưng nhờ lòng đạo đức (Gđt 8,8), bà Giuđích cũng đã được chính Thiên Chúa chọn làm thủ lãnh để cứu dân thoát khỏi sự xâm lấn của đạo quân của tướng Hôlôphécnê. Cũng như hai vợ chồng Dacaria và Êlisabét được chọn làm phụ mẫu của Gioan Tiền Hô dọn dường cho Chúa đến, là nhờ vào lòng đạo đức (Lc 1,6).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chuyên tâm vun đắp tinh thần đạo đức, để xứng với ơn Chúa thương chọn chúng con làm người con Chúa.
Suy niệm 4: Cải tổ
Các lạm dụng của hàng giáo sĩ cũng thật lộ liễu, và Đức Turibius đã dồn mọi nỗ lực để cải tổ lãnh vực này trước hết.
Dầu khó khăn và thậm chí bị chống đối, nhưng Đức Turibius không thể không bắt tay vào việc cải tổ, để chận đứng những lạm dụng của hàng giáo sĩ, vốn gây tác hại trầm trọng cho sự sống còn của Giáo Hội.
Xưa kia Đức Giêsu cũng mạnh dạn quở trách các kinh sư và người Pharisêu bằng lối sống giả hình đã khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào: “Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào... Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục gấp đôi các người” (Mt 23,13-15).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cải tổ lối sống mình theo sát huấn giáo của Chúa, để không gây thiệt hại cho mình và cho người.
Suy niệm 5: Thăm viếng
Ngài bắt đầu các cuộc thăm viếng lâu dài và gian khổ đến tất cả các giáo xứ trong tổng giáo phận mênh mông.
Tâm lý thường tình cho hay ai cũng muốn ở nhà và ngại đến nơi xa lạ, vì dầu sao ở nhà mình thường có tâm lý thoải mái và yên ổn hơn, đến mức có người cảm thấy khó dỗ được giấc ngủ ở một chỗ khác dầu tiện nghi đến đâu.
Vì lợi ích lớn hơn, Đức Tubirius chấp nhận rời nhà để thể hiện nhiều cuộc thăm viếng. Nhất là trong các chuyến công tác, có khi phải ở đó đến hai ba ngày mà thường không có thực phẩm cũng như giường chiếu. Đức Giêsu cũng từng chấp nhận không có chỗ gối đầu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chú trọng đến công tác thăm viếng vốn không kém quan trọng hơn các công tác mục vụ khác.
Suy niệm 6: Học tiếng địa phương
Để sinh hoạt mục vụ với những người thổ dân, Ngài chẳng những học tiếng địa phương mà còn sành sõi một vài tiếng địa phương nữa.
Một trong các lãnh vực phải học, đó là phải học tiếng nước ngoài. Ngoại trừ những người có năng khiếu ngoại ngữ, còn nói chung học một tiếng nước ngoài với một người lớn tuổi, nhất là tiếng thổ dân, thì đấy không phải là một việc dễ dàng. Nhưng vì lợi ích mục vụ, Đức Turibius đã chấp nhận khó khăn này.
Một thánh nhân cũng thông thạo nhiều tiếng nước ngoài, không những tiếng Latinh, Hylạp mà còn cả tiếng Dothái và Chaldée nữa, đó là thánh Hiêrônimô. Vận dụng khả năng này, ngài đã dành thì giờ nghiên cứu và phiên dịch Thánh Kinh sang La ngữ. Đó là bản Vulgata vẫn còn dùng trong Giáo Hội.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các tác phẩm của các dịch giả được nhiều người đón nhận như cách động viên việc đóng góp của họ vào ngôi vườn văn hóa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 22/3 Thánh Benvenutus ở Osimo (c 1282)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh BENVENUTUS ở OSIMO (c 1282)
Ðịa vị lãnh đạo của ngài giúp họ ý thức rằng đời sống khiêm tốn và khó nghèo là dấu chỉ của Giáo Hội Ðức Kitô.
Thánh Benvenutus xuất phát từ dòng họ Scotivoli nổi tiếng ở Ancona, Ý Ðại Lợi. Sau khi học thần học và luật tại Ðại Học Bologna, ngài được thụ phong linh mục và được trở về Ancona để phụ giúp việc điều hành giáo phận.
Sau đó, ngài được bổ nhiệm làm giám quản Giáo Phận Osimo. Thành phố này từng trống ngôi giám mục trong 20 năm vì bị trừng phạt về tội ủng hộ Hoàng Ðế Frederick II trong cuộc chiến chống với đức giáo hoàng. Cha Benvenutus thành công trong việc thuyết phục dân chúng Osimo trở về tuân phục đức giáo hoàng. Năm 1264, đức giáo hoàng đặt Cha Benvenutus làm Giám Mục Osimo, nhưng cho phép ngài nhận áo dòng Phanxicô trước khi nhận nhiệm vụ mới.
Khi là giám mục, Ðức Benvenutus vẫn mặc y phục của Dòng và tuân giữ quy luật Thánh Phanxicô một cách nghiêm nhặt. Ngài thúc giục sự cải tổ trong giáo phận bằng cách triệu tập các công đồng và thiết lập các quy tắc thật khôn ngoan để chống với những lạm dụng thời bấy giờ. Nói tóm lại, Ðức Benvenutus đã đưa mọi người trong giáo phận về gần với Thiên Chúa hơn.
Năm 1282, ngài từ trần trong thánh đường của ngài giữa các linh mục giáo phận. Ba năm sau, ngài được Ðức Giáo Hoàng Martin IV tôn phong hiển thánh.
Lời Bàn
Dân chúng đủ mọi thành phần xã hội đã noi gương Thánh Phanxicô đi theo Ðức Kitô. Trong khi hầu hết các giám mục Phanxicô đều phục vụ trong công tác truyền giáo, nhưng cũng có nhiều vị như Thánh Benvenutus. Ðịa vị lãnh đạo của các ngài giúp họ ý thức rằng đời sống khiêm tốn và khó nghèo là dấu chỉ của Giáo Hội Ðức Kitô.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 21/3 Chân Phước Gioan ở Parma (1209 - 1289)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Gioan ở Parma (1209 - 1289)
Lược sử
Là bề trên cả thứ bảy của Dòng Phanxicô, Chân Phước Gioan nổi tiếng về những cố gắng nhằm khôi phục linh đạo nguyên thủy của Dòng sau khi Thánh Phanxicô Assisi từ trần.
Gioan Buralli sinh ở Parma, nước Ý năm 1209. Khi là giáo sư triết mới 25 tuổi, và nổi tiếng đạo đức thì Thiên Chúa đã gọi ngài từ giã thế tục để đi vào thế giới mới của Dòng Phanxicô. Ngài được gửi sang Balê để học thần học. Sau khi thụ phong linh mục, ngài được bổ nhiệm dạy thần học tại Bologna, Naples và Rôma.
Năm 1247, Cha Gioan ở Parma được bầu làm bề trên tổng quyền. Các môn đệ chân chính của Thánh Phanxicô vui mừng với sự chọn lựa này, và họ trông đợi sự hồi phục tinh thần khó nghèo và khiêm tốn như những ngày tiên khởi của Dòng. Và họ đã không thất vọng. Theo tài liệu ghi lại, ngài là người cương quyết và cường tráng, do đó ngài luôn nhân từ và vui vẻ dù có mệt mỏi cách mấy. Ngài là Bề Trên đầu tiên đi thăm tất cả các chi nhánh của Dòng, và đi chân đất. Ngài khiêm tốn đến độ mỗi khi đến thăm tu viện nào, ngài đều phụ giúp các thầy rửa rau và chuẩn bị cơm nước. Ngài yêu quý sự thinh lặng để có thể nghĩ đến Thiên Chúa và không bao giờ nói chuyện tầm phào.
Đức giáo hoàng đã nhờ Cha Gioan làm đại diện đến Constantinople, là nơi ngài hầu như hoàn toàn thành công trong việc đưa người Hy Lạp ly khai trở về với Giáo Hội. Sau đó ngài tiếp tục công việc khôi phục linh đạo nguyên thủy của Dòng. Nhiều biện pháp đã được thi hành để giúp các tu sĩ tuân giữ kỷ luật, nhưng dù có nỗ lực đến đâu, ngài luôn luôn bị chống đối một cách cay đắng. Sau cùng, vì tin rằng mình không có khả năng để thực hiện sự cải tổ cần thiết, ngài đã từ chức và đề cử Cha Bonaventura (sau này là thánh) lên kế vị. Phần Cha Gioan, ngài lui về đời sống ẩn dật ở Greccio.
Nhiều năm sau đó, Cha Gioan nghe biết những người Hy Lạp, đã từng hòa giải với Giáo Hội lúc trước, bây giờ lại đi theo ly giáo. Mặc dù đã 80 tuổi, Cha Gioan được phép của Đức Giáo Hoàng Nicôla IV trở lại Đông Phương trong nỗ lực khôi phục sự hiệp nhất một lần nữa. Trên đường đi, ngài đã ngã bệnh và từ trần ngày 19 tháng Ba 1289. Nhiều phép lạ được ghi nhận do sự cầu bầu của ngài.
Cha Gioan được phong chân phước năm 1781.
Suy niệm 1: Khôi phục
Chân Phước Gioan nổi tiếng về những cố gắng nhằm khôi phục linh đạo nguyên thủy của Dòng sau khi Thánh Phanxicô Assisi từ trần.
Tinh thần khó nghèo và khiêm tốn là linh đạo nguyên thủy của Dòng. Để thể hiện, ngoài nhiều biện pháp đã được thi hành để giúp các tu sĩ tuân giữ kỷ luật, ngài hết mực sống khiêm tốn và nghèo khó đến độ mỗi khi đến thăm tu viện nào, ngài đều đi chân không, cũng như phụ giúp các thầy rửa rau và chuẩn bị cơm nước .
Ngài cũng nỗ lực khôi phục sự hiệp nhất trong việc đưa người Hy Lạp ly khai trở về với Giáo Hội. Khi Cha Gioan nghe biết những người Hy Lạp, đã từng hòa giải với Giáo Hội lúc trước, bây giờ lại đi theo ly giáo. Mặc dù đã 80 tuổi, Cha Gioan được phép của Đức Giáo Hoàng Nicôla IV trở lại Đông Phương trong nỗ lực khôi phục sự hiệp nhất một lần nữa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nỗ lực khôi phục tâm hồn trinh trong được biểu hiện qua chiếc áo trắng khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội.
Suy niệm 2: Đạo đức
Khi là giáo sư triết mới 25 tuổi, và nổi tiếng đạo đức thì Thiên Chúa đã gọi Gioan từ giã thế tục để đi vào thế giới mới của Dòng Phanxicô.
Lòng đạo đức của Gioan được thể hiện qua việc ngài vâng theo Thiên Ý để từ bỏ thế tục với tương lai sáng lạng mà gia nhập vào Dòng. Chưa hết, Thiên Ý sắp xếp vào năm 1245, Đức Giáo Hoàng Innocent IV triệu tập công đồng ở Lyons, nước Pháp. Vị bề trên Dòng Phanxicô lúc bấy giờ là Cha Crescentius đang đau nặng nên không thể tham dự.
Ngài gửi Cha Gioan đi thế, và cha đã tạo được một ấn tượng tốt đẹp nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội trong công đồng. Hai năm sau, chính vị giáo hoàng ấy đã chủ tọa buổi bầu cử vị bề trên của Dòng Phanxicô, ngài đã nhớ đến Cha Gioan và đã đề cử cha như người xứng đáng nhất nắm giữ chức vụ quan trọng này. Do đó, năm 1247, Cha Gioan ở Parma được bầu làm bề trên tổng quyền.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chuyên chăm thực thi Thiên Ý để mỗi ngày mỗi đạo đức thánh thiện hơn.
Suy niệm 3: Vui mừng
Năm 1247, Cha Gioan ở Parma được bầu làm bề trên tổng quyền. Các môn đệ chân chính của Thánh Phanxicô vui mừng với sự chọn lựa này, và họ trông đợi sự hồi phục tinh thần khó nghèo và khiêm tốn như những ngày tiên khởi của Dòng.
Có nhiều nỗi vui mừng tự nhiên và siêu nhiên. Các môn đệ xưa cũng tự nhiên hớn hở, khi thấy cả ma quỷ cũng khuất phục các ngài. Nhưng Đức Giêsu lại đã hướng họ đến một niềm vui siêu nhiên là tên họ được ghi trên trời (Lc 10,20).
Các môn đệ chân chính của Thánh Phanxicô đã biết chọn sống theo hướng của Đức Giêsu vạch ra. Các ngài đã vui mừng trông đợi sự hồi phục tinh thần khó nghèo và khiêm tốn như các ngày tiên khởi của Dòng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng chạy tìm niềm vui tự nhiên vốn chóng qua, nhưng hãy luôn sống niềm vui siêu nhiên chuẩn bị tận hưởng niềm vui vĩnh cửu sau này trên thiên đàng.
Suy niệm 4: Khiêm tốn
Năm 1247, Cha Gioan ở Parma được bầu làm bề trên tổng quyền. Các môn đệ chân chính của Thánh Phanxicô vui mừng với sự chọn lựa này, và họ trông đợi sự hồi phục tinh thần khó nghèo và khiêm tốn như những ngày tiên khởi của Dòng.
Tinh thần khiêm tốn của Dòng được thể hiện cụ thể ngay trong cách sống với việc ăn mặc y phục đơn giản không cầu kỳ của người nghèo, đi chân không, và nhất là chú trọng việc hạ mình đi xin ăn.
Thánh Gioan Tẩy Giả xưa kia cũng thể hiện tinh thần khiêm tốn trong sứ mạng tiền hô của mình với việc ăn mặc bằng cách ăn châu chấu và mật ong rừng cũng như mặc áo lông da thú.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sống tinh thần khiêm tốn trong việc không chạy tìm những phương tiện làm việc mang tính đua đòi hay lãng phí không cần thiết.
Suy niệm 5: Thăm viếng
Cha Gioan là Bề Trên đầu tiên đi thăm tất cả các chi nhánh của Dòng, và đi chân đất.
Khoảng cách tự nhiên vốn hiện hữu giữa người này và người kia, do chức vụ lớn nhỏ lại càng khó lấp đầy hơn nữa, do không gian cách biệt hẳn nhau. Cha Gioan là người đầu tiên muốn xóa bỏ ngăn cách này để thật sự sống tình anh em, nên đã thực hiện chương trình đi đến với mọi người bằng việc đi thăm các chi nhánh.
Sáng kiến rời khỏi thủ đô Rôma để đến thế giới bên ngoài của các Đức Giáo Hoàng thuộc thế kỷ XX đã gây một chấn động lớn và có thể nói đã mở ra một đường hướng phục vụ mới cho Giáo Hội Rôma.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị chủ chăn đánh giá cao công tác thăm viếng mục vụ nhiều hơn nữa.
Suy niệm 6: Chống đối
Nhiều biện pháp đã được thi hành để giúp các tu sĩ tuân giữ kỷ luật, nhưng dù có nỗ lực đến đâu, Cha Gioan luôn luôn bị chống đối một cách cay đắng.
Ngôn sứ Êlia thấy dân Ítraen nhảy khập khiễng hai chân vừa thờ Thiên Chúa vừa lạy Baan, ngài nỗ lực giúp dân hồi tâm quay về tuân giữ luật Giavê, nên đã gánh chịu sự chống đối mãnh liệt của các ngôn sứ giả được hoàng hậu Ideven hậu thuẫn (1V 16,21).
Sự hiện diện của Đức Giêsu cũng đã được cụ già Simêon tiên báo là dấu hiệu cho người đời chống báng (Lc 2,34). Lời tiên báo này đã thành hiện thực khi chẳng những các đầu mục Dothái toa rập lập mưu chống lại ngài đến mức muốn giết ngài (Mc 14,1), mà ngay cả người Dothái cũng chống đối (Ga 5,16).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con can đảm chấp nhận bị người đời chống đối còn hơn bị Chúa chống đối.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 20/3 Thánh Salvator ở Horta (1520 -1567)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Salvator ở Horta (1520 -1567)
Nhiều khi người ta chỉ được lành bệnh sau khi thực sự tha thứ cho người khác. Thánh Salvator cũng chữa lành theo phương cách này, và nhiều người đã được khỏi.
Lược sử
Thánh Salvator sinh trong thời kỳ vàng son của Tây Ban Nha với sự hưng thịnh của nghệ thuật, chính trị, giầu sang cũng như tôn giáo. Chính trong thời kỳ này, Thánh Y Nhã đã sáng lập Dòng Tên năm 1540.
Cha mẹ của Salvator thì nghèo. Khi 21 tuổi, ngài gia nhập dòng Phanxicô với tính cách thầy trợ sĩ, và sau đó không lâu ngài nổi tiếng về sự khắc khổ, khiêm tốn và nếp sống đơn sơ.
Làm người nấu bếp, người giữ cửa và sau này là người đi ăn xin chính thức cho các anh em hèn mọn ở Tortosa, ngài nổi tiếng về lòng bác ái. Ngài chữa lành người bệnh với Dấu Thánh Giá. Khi đám đông dân chúng đổ về nhà dòng để gặp Thầy Salvator, cha bề trên phải di chuyển thầy sang Horta. Nhưng ở đây, nhà dòng cũng không tránh khỏi đám người đông đảo đến xin thầy bầu chữa; họ ước lượng rằng hàng tuần có đến hai ngàn người đến gặp Thầy Salvator. Ngài bảo họ hãy kiểm điểm lại lương tâm, đi xưng tội và rước Mình Thánh Chúa cho xứng đáng. Thầy từ chối không cầu nguyện cho những ai không chịu lãnh nhận các bí tích.
Đám đông không ngừng bị thu hút đến với Thầy Salvator. Đôi khi họ còn xé y phục của thầy để lưu trữ như một báu vật. Hai năm trước khi từ trần, thầy lại bị di chuyển một lần nữa, lần này đến thành phố Cagliari trên đảo Sardinia. Thầy từ trần ở đây sau khi thốt lên, "Lạy Chúa, con phó linh hồn con trong tay Chúa."
Thầy được phong thánh năm 1938.
Suy niệm 1: Nổi tiếng
Salvator nổi tiếng về sự khắc khổ, khiêm tốn và nếp sống đơn sơ.
Sự nổi tiếng về thánh thiện cũng có một vài bất lợi. Được công chúng nhận biết đôi khi cũng phiền toán -- như các đồng nghiệp của Thánh Salvator nhận thấy.
Đám đông không ngừng bị thu hút đến với Thầy Salvator. Khi đám đông dân chúng đổ về nhà dòng để gặp Thầy Salvator, cha bề trên phải di chuyển thầy sang Horta. Nhưng ở đây, nhà dòng cũng không tránh khỏi đám người đông đảo đến xin thầy bầu chữa; họ ước lượng rằng hàng tuần có đến hai ngàn người đến gặp Thầy Salvator.
Sự nổi tiếng của Đức Giêsu cũng làm nảy sinh lòng ganh ghét nơi các đầu mục Dothái, khi thấy dân chúng rời xa họ mà chỉ chạy tìm đến Đức Giêsu. Lòng ganh ghét ấy đã che mờ tâm trí họ khiến họ ra tay giết hại Ngài mà tưởng lầm là mình phụng thờ Thiên Chúa (Ga 16,2).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nỗ lực tìm vinh danh Chúa chứ không vinh danh mình, để tránh mọi phiền toái cho mình và tha nhân.
Suy niệm 2: Khiêm tốn
Salvator nổi tiếng về sự khắc khổ, khiêm tốn và nếp sống đơn sơ.
Lòng khiêm tốn của ngài được biểu lộ qua việc ngài sẵn sàng đảm nhận hết mọi nhiệm vụ thấp hèn trong cộng đoàn chẳng hạn như làm người nấu bếp, người giữ cửa và sau này là người đi ăn xin chính thức cho các anh em hèn mọn ở Tortosa.
Chắc hẳn nhờ lòng khiêm tốn thẳm sâu ấy mà ngài đã được Chúa ban đặc ân chữa bệnh, khiến ngài được nổi danh và thu hút cả hàng ngàn người tìm đến, đúng như lời Chúa dạy: đức khiêm tốn đem lại vinh quang (Cn 18,12) và Chúa ha bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường (Lc 1,52).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn học với Chúa hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.
Suy niệm 3: Chữa lành
Salvator chữa lành người bệnh với Dấu Thánh Giá... Ngài bảo họ hãy kiểm điểm lại lương tâm, đi xưng tội và rước Mình Thánh Chúa cho xứng đáng. Thầy từ chối không cầu nguyện cho những ai không chịu lãnh nhận các bí tích.
Hiện nay y khoa đã nhìn thấy sự tương quan rõ ràng giữa một vài chứng bệnh và đời sống tình cảm cũng như tinh thần của bệnh nhân. Trong cuốn Healing Life's Hurts (Chữa Lành Những Đau Khổ của Đời Sống), ông Matthew và Dennis Linn cho biết, nhiều khi người ta chỉ được lành bệnh sau khi thực sự tha thứ cho người khác.
Thánh Salvator cũng chữa lành theo phương cách này, và nhiều người đã được khỏi. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi chứng bệnh đều có thể chữa trị theo cách ấy; sự trợ giúp của y học là điều không thể bỏ qua. Nhưng chúng ta nên để ý rằng Thánh Salvator thường khuyên người bệnh hãy tái lập những ưu tiên của đời sống trước khi cầu xin được chữa lành.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đánh giá tầm quan trọng của y khoa cũng như linh dược.
Suy niệm 4: Lương tâm
Salvator bảo họ hãy kiểm điểm lại lương tâm, đi xưng tội và rước Mình Thánh Chúa cho xứng đáng. Thầy từ chối không cầu nguyện cho những ai không chịu lãnh nhận các bí tích.
Đức Giêsu cũng từng nói lời tha tội cho người bại liệt trước khi lệnh cho anh ta đứng dậy vác giường đi về nhà khiến cho mấy kinh sư vấp phạm (Mt 9,2-8). Qua đó Ngài nhằm lưu ý đến một thứ bệnh quan trọng hơn cần phải được chữa tận căn, đó là tâm hồn tội lỗi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra thứ bệnh đáng sợ nhất, không phải bệnh tật phần xác vốn làm mất sự sống tự nhiên, mà là bệnh tật thiêng liêng tức là tội lỗi vốn đánh mất sự sống đời đời.
Suy niệm 5: Đám đông
Đám đông không ngừng bị thu hút đến với Thầy Salvator. Đôi khi họ còn xé y phục của thầy để lưu trữ như một báu vật.
Một nguyên do trước mắt khiến đám đông tìm đến với Thầy Salvator chắc hẳn là để được chữa lành bệnh tật, nhưng Thầy lại dùng dịp này để giúp họ kiểm điểm lương tâm và sống tốt.
Xưa kia đám đông cũng lũ lượt đi theo Đức Giêsu (Mt 8,1) và thậm chí còn xuống thuyền đi Caphácnaum tìm Ngài (Ga 6,24). Mọi người háo hức chạy tìm Ngài (Mc 1,37) cũng với lý do được chữa bệnh (Mc 1,32-34), để rồi sau này lại giơ tay lên án đóng đinh Ngài (Mt 27,23). Dầu vậy, Ngài vẫn thương (Mt 9,36) và thí mạng để ban ơn cứu độ (Gl 1,4).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có tâm hồn bao dung độ lượng dầu phải làm ơn mà bị mắc oán.
Suy niệm 6: Từ trần
Thầy Salvator từ trần ở đảo Sardinia sau khi thốt lên: "Lạy Chúa, con phó linh hồn con trong tay Chúa".
Tâm tình phó thác trước lúc lìa đời này cũng đã được thánh Têphanô bày tỏ sau những giây phút bị đám người Dothái quá khích ném đá (Cv 7,59), vì cả đời ngài luôn sống chết cho Thiên Chúa.
Đức Giêsu cũng đã nêu lên tấm gương sống tâm tình phó thác này cho Thiên Chúa suốt đời qua việc thực thi Thánh Ý Chúa Cha, nên lời cuối cùng có thể hiểu là chỉ một điệp khúc được vang lên thôi (Lc 23,46)
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống cho Chúa, để khi chết cũng được chết cho Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 19/3 Thánh Giuse
- Ngày 18/3 Thánh Cyril ở Giêrusalem (315?-386)
- Ngày 17/3 Thánh Patrick (389-461)
- Ngày 16/3 Thánh Clement Mary Hofbauer (1751-1820)
- Ngày 15/3 Thánh Louise de Marillac (c. 1660)
- Ngày 14/3 Thánh Maximilian (c. 295)
- Ngày 13/3 Thánh Nicôla Owen (c. 1606)
- Ngày 12/3 Chân phước Angela Salawa (1881 - 1922)
- Ngày 11/3 Thánh Gioan Ogilvie (1579 - 1615)
- Ngày10/3 Thánh Đaminh Saviô (c. 1857)