Gương Thánh Nhân
Ngày 19/3 Thánh Giuse
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Giuse
Thánh Giuse hoàn toàn mở lòng cho tất cả những gì Thiên Chúa muốn làm cho ngài. Ngài trở nên thánh thiện vì tự mở lòng cho Thiên Chúa.
Phúc Âm đã ca ngợi Thánh Giuse là người "công chính.” Ý nghĩa của chữ "công chính" rất sâu xa.
Khi Phúc Âm nói Thiên Chúa "công chính hóa" người nào, điều đó có nghĩa Thiên Chúa, là Ðấng cực thánh và "chính trực", biến đổi người đó bằng cách cho họ được chia sẻ sự thánh thiện của Thiên Chúa, và bởi đó họ đáng được Thiên Chúa yêu mến.
Khi nói Thánh Giuse "công chính", Phúc Âm muốn nói rằng ngài hoàn toàn mở lòng cho tất cả những gì Thiên Chúa muốn làm cho ngài. Ngài trở nên thánh thiện vì tự mở lòng cho Thiên Chúa.
Với những gì còn lại chúng ta dễ phỏng đoán. Hãy suy nghĩ về tình yêu mà ngài đã theo đuổi và dành được con tim của Ðức Maria, và sự sâu xa của tình yêu mà hai người đã chia sẻ cho nhau trong cuộc hôn nhân.
Khi Thánh Giuse quyết định từ bỏ Ðức Maria khi thấy người có thai, điều này không trái với sự thánh thiện của Thánh Giuse. Phúc Âm có ghi lại một chữ quan trọng là ngài dự định thi hành việc này "cách âm thầm" vì ngài là "một người chính trực, nhưng không muốn tố giác bà để bị xấu hổ" (Mátthêu 1:19).
Người công chính thì đơn sơ, vui vẻ, hết lòng vâng lời Thiên Chúa -- khi kết hôn với Ðức Maria, khi đặt tên cho Hài Nhi Giêsu, khi săn sóc gia thất ở Ai Cập, khi đem gia thất về lại Nagiarét, khi sống âm thầm trong bao năm trường với đức tin và dũng cảm.
Vì Thánh Giuse không xuất hiện trong cuộc đời rao giảng công khai của Ðức Giêsu, nhiều sử gia tin rằng có lẽ Thánh Giuse đã từ trần trước khi Ðức Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng.
Thánh Giuse là quan thầy của những người hấp hối, vì người ta cho rằng khi ngài từ trần có Ðức Giêsu và Ðức Maria ở bên cạnh, đó là điều mà tất cả chúng ta đều mong ước khi từ giã cõi đời.
Thánh Giuse còn là quan thầy của Giáo Hội hoàn vũ, của các người làm cha, các thợ mộc, và vấn đề công bằng xã hội.
Lời Bàn
Phúc Âm không nói gì nhiều về Thánh Giuse trong những năm sau khi trở về Nagiarét, ngoại trừ biến cố tìm thấy Ðức Giêsu trong Ðền Thờ (xem Luca 2:41-51). Ðiều này có thể hiểu Thiên Chúa muốn chúng ta biết rằng thánh gia cũng giống như mọi gia đình khác, những biến cố xảy ra cho thánh gia cũng xảy ra cho bất cứ gia đình nào, bởi đó khi bản tính bí ẩn của Ðức Giêsu bắt đầu lộ diện thì mọi người đều không tin là Ngài có thể xuất thân từ gia đình đó: "Ông ấy không phải là con bác thợ mộc hay sao? Mẹ của ông ấy không phải là bà Maria sao...? (Mt 13:55a). Và "Có gì hay ho xuất phát từ Nagiarét?" (Gioan 1:46b).
Lời Trích
"Thánh Giuse được Cha trên trời chọn để làm người bảo vệ đáng tin cậy, che chở những kho báu của Ngài, đó là Chúa Con và Ðức Maria, vị hôn thê của Thánh Giuse. Người đã thi hành nhiệm vụ này với sự trung tín cho đến khi Thiên Chúa gọi người, và nói: 'Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng niềm vui của Thiên Chúa ngươi'" (Thánh Bernadine ở Siena viết về Thánh Giuse).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 18/3 Thánh Cyril ở Giêrusalem (315?-386)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Cyril ở Giêrusalem (315?-386)
Lược sử
Những khó khăn trong Giáo Hội ngày nay chỉ là thiểu số so với các chấn động của lạc giáo Arian thời ấy khi họ từ chối thiên tính của Đức Kitô. Thánh Cyril bị vướng vào vòng tranh luận, bị Thánh Giêrôme kết án là người theo tà thuyết Arian và sau cùng ngài đã được thanh minh bởi những người của thời ấy và được tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1822.
Chúng ta không biết nhiều về cuộc đời thơ ấu của Thánh Cyril. Các sử gia ước đoán ngài sinh trong khoảng năm 315, và lớn lên ở Giêrusalem. Về gia đình ngài, có lẽ cha mẹ ngài là Kitô Hữu và dường như ngài rất thảo kính cha mẹ. Ngài thúc giục các dự tòng kính trọng các bậc sinh thành "vì dù chúng ta có đền đáp thế nào đi nữa, cũng không thể nào bù đắp được công ơn sinh thành của cha mẹ." Chúng ta còn được biết ngài có một em gái và một cháu trai, Gelasius, sau này là giám mục và là thánh.
Qua các văn bút ngài để lại, dường như ngài thuộc nhóm gọi là Solitary (Độc Thân). Họ là các người sống tại gia nhưng giữ đức khiết tịnh, khổ hạnh và phục vụ.
Sau khi được tấn phong là phó tế và sau đó là linh mục, đức giám mục Maximus đã giao cho ngài trách nhiệm dạy giáo lý cho dự tòng và tân tòng. Sách Giáo Lý ngài viết vẫn có giá trị như một thí dụ điển hình cho nền tảng thần học và phụng tự của Giáo Hội vào giữa thế kỷ thứ tư.
Khi nạn đói càn quét Giêrusalem, dân chúng chạy đến Đức Cyril xin giúp đỡ. Vì không có tiền, ngài phải bán một số đồ dùng của nhà thờ để giúp đỡ người đói. Nhưng có những lời dèm pha rằng một số áo lễ được dùng làm y phục cho kép hát.
Sự bất hòa giữa Acacius và Đức Giám Mục Cyril bắt đầu là về vấn đề quản hạt chứ không phải vấn đề tín lý. Là giám mục của Caesarea, Acacius nghĩ rằng mình có toàn quyền trên các giám mục Palestine. Nhưng Đức Giám Mục Cyril lý luận rằng thẩm quyền của Acacius không bao gồm Giêrusalem vì Giêrusalem là một "tông tòa" -- là ngai tòa do các tông đồ thiết lập.
Có thể nói một nửa nhiệm kỳ giám mục của Đức Cyril là bị đầy ải. Sau cùng, ngài trở về Giêrusalem, lúc ấy đã tan nát vì lạc giáo, ly giáo và tranh giành, tàn lụi vì tội lỗi. Năm 381, ngài đến tham dự Công Đồng Constantinople, là công đồng hoàn tất bản kinh Tin Kính Nicene và phe Arian bị kết án. Đức Cyril được thanh minh và được tẩy sạch mọi tiếng xấu trước đây, các giám mục tham dự Công Đồng đã ca ngợi ngài như vị quán quân chính thống chống với bè phái Arian.
Đức Cyril sống an bình tám năm ở Giêrusalem và từ trần năm 386, khi ngài khoảng bảy mươi tuổi.
Suy niệm 1: Thanh minh
Thánh Cyril bị vướng vào vòng tranh luận, bị Thánh Giêrôme kết án là người theo tà thuyết Arian và sau cùng ngài đã được thanh minh bởi những người của thời ấy và được tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh.
Khi Đức Maximus từ trần, Cha Cyril được tấn phong làm giám mục của Giêrusalem. Vì ngài được sự hỗ trợ của giám mục Caesarea là Acacius, người theo lạc thuyết Arian, nên phe chính giáo chỉ trích việc bổ nhiệm này, và phe Arian lại nghĩ rằng họ có thêm một đồng minh. Cả hai phe đều sai lầm, và Đức Cyril thì kẹt ở giữa.
Bị hiểu lầm, ai cũng muốn biện minh để phân rõ trắng đen. Nhưng nỗ lực bản thân thường không đem lại hiệu quả tốt, mà phải thanh giã tự thanh, nghĩa là bản thân cứ sống tốt và chờ đợi thời gian, để rồi nhờ vào tha nhân mà việc thanh minh mới có thành tựu.
* Lạy Chúa Giêsu, Đức Maria Mẹ Chúa xưa kia cũng bị chính Thánh Cả Giuse hiểu lầm về hiện trạng mang thai. Mẹ đã không làm gì để biện minh, nhưng chính Thiên Chúa đã ra tay can thiệp và giải thích để trả lại thanh danh cho Mẹ. Xin Chúa giúp chúng con cố sống tốt và phó thác cho bàn tay Chúa.
Suy niệm 2: Thảo hiếu
Cyril rất thảo kính cha mẹ. Ngài thúc giục các dự tòng kính trọng các bậc sinh thành "vì dù chúng ta có đền đáp thế nào đi nữa, cũng không thể nào bù đắp được công ơn sinh thành của cha mẹ".
Nếu gia đình là chiếc nôi của mọi công cuộc giáo dục, thì lòng thảo hiếu là một tình cảm thiêng liêng căn bản phải được trân trọng. Không lạ gì người đời đã nâng cao thành đạo hiếu; còn Chúa thì đặt thành luật trong mười điều răn; và thánh Phaolô thì khai triển như một tiêu chuẩn để đánh giá (1Tm 5,3-8).
Lòng thảo hiếu thường được biểu lộ đậm nét trong trường hợp người thân qua đời với việc lo hậu sự cũng như tổ chức lễ giỗ sau đó. Quả là tốt nhưng cần thiết hơn là phải báo hiếu ngay khi các ngài còn sống, bằng cuộc sống không làm ô danh nhưng làm vinh danh các ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống đạo hiếu không chỉ để được sống lâu (Hc 3,6) nhưng để chu toàn bổn phận làm con.
Suy niệm 3: Dạy giáo lý
Sau khi được tấn phong là phó tế và sau đó là linh mục, đức giám mục Maximus đã giao cho ngài trách nhiệm dạy giáo lý cho dự tòng và tân tòng.
Dạy giáo lý là giúp người ta khám phá nơi con người của Đức Kitô tất cả ý định muôn đời của Thiên Chúa. Đó là tìm hiểu ý nghĩa các hành động và lời nói của Đức Kitô, cùng những dấu chỉ Người thực hiện (Sách Giáo Lý số 426).
Người nào được mời gọi giảng dạy về Đức Kitô trước hết phải tìm mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô; phải mất hết... để được Đức Kitô và được kết hợp với Người (Sách Giáo Lý số 428), để rồi giảng dạy như phát ngôn viên của Đức Kitô, để Đức Kitô dạy qua miệng lưỡi mình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp mọi giáo lý viên biết áp dụng cho mình lời nói nhiệm mầu của Chúa: Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi (Ga 7,16).
Suy niệm 4: Dèm pha
Vì không có tiền, ngài phải bán một số đồ dùng của nhà thờ để giúp đỡ người đói. Nhưng có những lời dèm pha rằng một số áo lễ được dùng làm y phục cho kép hát.
Những ai tưởng rằng đời sống các thánh thật đơn giản và êm đềm, không một chút tranh chấp trần tục, chắc phải kinh hoàng về cuộc đời Thánh Cyril. Tuy nhiên, mọi Kitô Hữu không thể thoát khỏi những khó khăn như chính Thầy mình đã trải qua.
Theo đuổi chân lý là một con đường phức tạp và không cùng, và mọi người thiện tâm đều đau khổ vì sự tranh giành và lầm lạc. Những chướng ngại về tri thức, tình cảm và chính trị có thể trì trệ đôi chút những người như Thánh Cyril. Nhưng đời sống của họ, nhìn toàn bộ, sẽ là những mẫu mực của sự thành tâm và dũng cảm.
* Lạy Chúa Giêsu, trên bước đường truyền giáo, Chúa cũng từng bị dèm pha đến mức bị xem là dùng tướng quỷ mà trừ quỷ. Xin Chúa giúp các nhà truyền giáo can đảm vượt qua thử thách này để luôn trung thành với sứ mạng rao giảng.
Suy niệm 5: Đầy ải
Có thể nói một nửa nhiệm kỳ giám mục của Đức Cyril là bị đầy ải.
Khi Đức Cyril không hiện diện trong các công đồng mà Acacius triệu tập, Acacius và phe cánh đã kết án ngài là đã bán vật dụng của nhà thờ để kiếm tiền và trục xuất ngài. Đức Cyril phải lưu đầy ở Tarsus trong khi chờ đợi việc kháng cáo. Sau đó, ngài xuất hiện trong Công Đồng Seleucia, trong đó phe bán-Arian (vừa theo chính giáo, vừa theo Arian) chiến thắng. Kết quả là Acacius bị truất phế và Đức Cyril được trở về ngai tòa cũ.
Tuy nhiên, hoàng đế không hài lòng về kết quả này, và một lần nữa, Đức Giám Mục Cyril lại bị trục xuất và chỉ trở về khi hoàng đế Julian lên ngôi. Được vài năm sau, một sắc lệnh của tân hoàng đế Valens trục xuất tất cả các giám mục được Julian hồi phục, và Đức Cyril lại phải lưu đầy cho tới khi Valens qua đời.
* Lạy Chúa Giêsu, chương trình của Chúa thật diệu kỳ vượt quá trí hiểu loài người, xin giúp chúng con đón nhận và mãi tín trung với Chúa.
Suy niệm 6: Phe Arian
Năm 381, ngài đến tham dự Công Đồng Constantinople, là công đồng hoàn tất bản kinh Tin Kính Nicene và phe Arian bị kết án.
Tà thuyết Arian được gọi như vậy là vì người khởi xướng mang tên Arian. Họ chủ trương rằng Con Thiên Chúa đã xuất thân tự hư không và có một bản thể khác với Chúa Cha.
Công Đồng chung thứ 1 họp tại Nicene đã kết án Arian và tuyên xưng trong kinh Tin Kính rằng: Con Thiên Chúa được sinh ra chớ không phải được tạo thành, đồng bản thể với Chúa Cha.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn kiên vững trong niềm tin, đừng bao giờ xiêu lòng đi theo các lạc thuyết.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 17/3 Thánh Patrick (389-461)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Patrick (389-461)
Lược sử
Truyền thuyết về Thánh Patrick thì quá nhiều; nhưng khi nhìn đến hai đức tính chắc chắn của ngài: khiêm tốn và dũng cảm thì điều đó có ích lợi cho chúng ta. Chính thái độ cương quyết khi chấp nhận đau khổ cũng như thành công đã hướng dẫn cuộc đời của Thánh Patrick, một khí cụ của Thiên Chúa, để chiến thắng cho Đức Kitô hầu như tất cả tâm hồn người Ái Nhĩ Lan.
Chi tiết về đời ngài thì không chắc chắn. Về nơi sinh trưởng của Thánh Patrick, có người cho là ở Kilpatrick, Tô Cách Lan, có người nói ở Cumberland, Anh Quốc. Cha mẹ ngài là người Rôma sống ở Anh Quốc với nhiệm vụ cai quản các bán đảo.
Khoảng 14 tuổi, chính ngài và phần lớn các nô lệ cũng như các quần thần của cha ngài bị hải tặc Ái Nhĩ Lan bắt và bán làm nô lệ để chăn cừu. Trong thời gian này, Ái Nhĩ Lan là đất của người Druid và ngoại giáo. Ở đây, ngài học ngôn ngữ và phong tục của dân tộc đang bắt giữ ngài.
Sáu năm sau, Patrick vượt thoát, có lẽ đến nước Pháp, và sau đó trở về Anh đoàn tụ với gia đình. Trong thời gian bị bắt tinh thần ngài thay đổi hoàn toàn. Ngài bắt đầu học làm linh mục, và được chịu chức bởi Thánh Germanus, Đức Giám Mục của Auxerre.
Sau đó, khi 43 tuổi ngài được tấn phong giám mục. Trong một thị kiến, dường như "mọi trẻ con ở Ái Nhĩ Lan từ trong lòng mẹ vươn cánh tay" đến ngài. Ngài hiểu thị kiến này là một lời mời gọi đi rao giảng Tin Mừng cho người ngoại giáo Ái Nhĩ Lan. Ngài đến phía tây và phía bắc, là nơi chưa bao giờ đức tin được rao giảng ở đây, và ngài đã được sự bảo vệ của các vua chúa trong vùng và đã hoán cải rất nhiều người.
Ngài tấn phong nhiều linh mục, chia quốc gia này thành các giáo phận, tổ chức các công đồng, thành lập vài đan viện và tiếp tục thúc giục dân chúng sống thánh thiện hơn.
Ngài chịu đau khổ vì bị các tăng sĩ ngoại giáo chống đối, và bị chỉ trích cả ở Anh và Ái Nhĩ Lan vì đường lối truyền giáo của ngài.
Trong 40 năm rao giảng và hoán cải, ngài đã làm nhiều phép lạ và đã viết Confessio nói về tình yêu của ngài dành cho Thiên Chúa. Ngài từ trần năm 461 ở Saul, là nơi ngài xây dựng nhà thờ đầu tiên.
Suy niệm 1: Khiêm tốn
Truyền thuyết về Thánh Patrick thì quá nhiều; nhưng khi nhìn đến hai đức tính chắc chắn của ngài: khiêm tốn và dũng cảm thì điều đó có ích lợi cho ta.
Xuất thân từ một gia đình có cha mẹ có chức quyền, Patrick bị hải tặc Ái Nhĩ Lan bắt và bán làm nô lệ để chăn cừu. Với thân phận làm nô lệ, ngài luôn phải tự hủy mình để làm theo chương trình và ý muốn của người chủ nô, nhờ đó ngài đã tập được cho mình đức tính khiêm tốn.
Trổi vượt hơn thế, Đức Giêsu vốn có địa vị ngang hàng với Chúa Cha nhưng luôn khiêm tốn thực thi Thiên Ý như lời nguyện tại vườn Cây Dầu: “Không theo ý Con, một vâng theo ý Cha mà thôi” (Mt 26,39). Nhất là Ngài vốn là Đấng tạo dựng nên Đức Maria và Thánh Cả Giuse, nhưng lại khiêm tốn hằng vâng phục các ngài (Lc 2,51) với tình con thảo.
* Lạy Chúa Giêsu, Chúa có địa vị ngang hàng cũng như cao vượt, thế mà Chúa còn khiêm tốn vâng lời được, phương chi là chúng con với thân phận bề dưới. Xin giúp chúng con luôn sống khiêm tốn vâng lời các đấng bề trên của chúng con.
Suy niệm 2: Khí cụ
Chính thái độ cương quyết khi chấp nhận đau khổ cũng như thành công đã hướng dẫn cuộc đời của Thánh Patrick, một khí cụ của Thiên Chúa.
Một điều kiện để trở thành khí cụ của Thiên Chúa, đó là phải cam chịu đau khổ. Chính vì thế Patrick đã chịu đau khổ vì bị các tăng sĩ ngoại giáo chống đối, và bị chỉ trích cả ở Anh và Ái Nhĩ Lan vì đường lối truyền giáo của ngài.
Là một khí cụ của Thiên Chúa, tiên tri Êlia xưa cũng bị vua Akháp trách cứ là tên mang họa, bị tám trăm năm mươi ngôn sứ giả của thần Baan và thần Asêra chống đối cũng như bị hoàng hậu Ideven đuổi giết (1V 18,17.19;19,2). Ông đau khổ tột cùng đến mức chỉ xin cho được chết (1V 19,4).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con kiên tâm chịu đau khổ vì Chúa để được xứng là khí cụ hèn mọn Chúa dùng.
Suy niệm 3: Chăn cừu
Khoảng 14 tuổi, chính ngài và phần lớn các nô lệ cũng như các quần thần của cha ngài bị hải tặc Ái Nhĩ Lan bắt và bán làm nô lệ để chăn cừu.
Từ việc chăn cừu khi còn làm nô lệ, Thiên Chúa quan phòng đã an bài sắp đặt để biến ngài thành người chăn chiên thiêng liêng trong chức vụ Linh Mục và Giám Mục. Ngài đến phía tây và phía bắc Ái Nhĩ Lan, là nơi chưa bao giờ đức tin được rao giảng ở đây để giúp người ngoại giáo trở thành đàn chiên
Nhất là ngài cũng theo gương Đức Giêsu là Người Mục Tử nhân lành hiến mạng sống mình vì đàn chiên (Ga 10,11). Vào cuối đời ngài từ trần năm 461 ở Saul, là nơi ngài xây dựng nhà thờ đầu tiên.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các Vị Mục Tử luôn là những Mục Tử nhân lành như lòng Chúa mong muốn.
Suy niệm 4: Đoàn tụ
Sáu năm sau, Patrick vượt thoát, có lẽ đến nước Pháp, và sau đó trở về Anh đoàn tụ với gia đình.
Đoàn tụ luôn là một niềm vui lớn, nhất là đối với Patrick khi phải vượt thoát khỏi tình cảnh nô lệ xa quê nhà và xa cả người thân sau sáu năm trời.
Đoàn tụ với người còn sống ở trần gian quả là điều quý hóa. Nhưng thật quý hóa hơn nếu luôn nhớ đoàn tụ với những người đã qua đời, bằng lời hiệp thông cầu nguyện và những việc lành phúc đức dâng lên Thiên Chúa trợ giúp cho họ sớm được về thiên đàng. Và điều quý hóa nhất, đó là hằng sống thánh để được chết lành hầu được về đoàn tụ cùng Thiên Chúa trên quê trời vĩnh cửu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống trọn vẹn các hướng đoàn tụ nêu trên.
Suy niệm 5: Rao giảng
Ngài hiểu thị kiến này là một lời mời gọi đi rao giảng Tin Mừng cho người ngoại giáo Ái Nhĩ Lan.
Điểm đặc biệt của Thánh Patrick là sự bền bỉ trong các nỗ lực. Ngài không thể không nỗ lực, vì ở đây là nơi chưa bao giờ đức tin được rao giảng. Và nỗ lực này cũng không thể nào không bền bĩ, vì thời gian rao giảng không ngắn mà kéo dài suốt 40 năm trời.
Thật vậy, chỉ khi nghĩ đến tình trạng của Ái Nhĩ Lan lúc ngài mới bắt đầu truyền giáo, với phạm vi rộng lớn mà ngài phải lao nhọc, và hạt giống đức tin mà ngài đã vun trồng hiện vẫn tiếp tục nẩy nở và phát triển, thì người ta mới thán phục con người của Thánh Patrick. Sự thánh thiện của một con người chỉ có thể nhận biết qua kết quả của họ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bao giờ nãn lòng khi gặp khó khăn trên bước đường truyền giáo, nhưng hãy luôn bền bĩ nỗ lực đến cuối đời.
Suy niệm 6: Thánh thiện
Thánh Patrick tấn phong nhiều linh mục, chia quốc gia này thành các giáo phận, tổ chức các công đồng, thành lập vài đan viện và tiếp tục thúc giục dân chúng sống thánh thiện hơn.
Sứ mạng của một vị chủ chăn là luôn sống thánh và giúp đàn chiên cũng nên thánh. Ngài đã học theo đường hướng của thánh Phaolô tông đồ là luôn sống kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu (Gl 2,20), để rồi đề ra một phương cách được ghi lại trong ca vịnh của ngài:
"Đức Kitô che chở tôi hôm nay: Đức Kitô ở với tôi, Đức Kitô ở trước tôi, Đức Kitô ở sau tôi, Đức Kitô ở trong tôi, Đức Kitô ở dưới tôi, Đức Kitô ở trên tôi, Đức Kitô ở bên phải tôi, Đức Kitô ở bên trái tôi, Đức Kitô ở với tôi khi nằm nghỉ, Đức Kitô ở với tôi khi thức dậy, Đức Kitô ở trong tâm hồn bất cứ ai khi nghĩ đến tôi, Đức Kitô ở trong mắt những ai khi nhìn thấy tôi, Đức Kitô ở trong tai những ai khi nghe lời tôi".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa ở cùng, để không làm gì mất lòng Chúa hầu nhờ đó mỗi ngày mỗi nên thánh.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 16/3 Thánh Clement Mary Hofbauer (1751-1820)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Clement Mary Hofbauer (1751-1820)
Lược sử
Có thể gọi Thánh Clement là vị sáng lập thứ hai của dòng Chúa Cứu Thế, vì ngài là người đã đem tu hội của Thánh Alphôngsô Liguori đến với người dân ở phía bắc rặng Alp.
Sinh trong một gia đình nghèo ở Moravia, ngài là con thứ chín trong mười hai người con, và tên rửa tội là Gioan. Mặc dù ngài ao ước trở nên một linh mục, nhưng vì không có tiền đi học, ngài phải học nghề làm bánh mì. Nhưng Thiên Chúa đã can thiệp để giúp ngài thể hiện ước mơ ấy.
Ngài được nhận vào làm bánh trong một đan viện, là nơi ngài có thể tham dự các lớp Latinh. Sau khi vị tu viện trưởng từ trần, Gioan thử sống đời ẩn tu nhưng lúc ấy Hoàng Đế Joseph II ra lệnh hủy bỏ các đan viện, Gioan lại trở về Vienna hành nghề làm bánh. Một ngày kia, sau khi dự lễ tại vương cung thánh đường Thánh Stêphanô, trong cơn mưa tầm tã ngài đã giúp hai bà quý tộc gọi xe kéo. Qua cuộc đối thoại, hai bà được biết Gioan muốn đi tu nhưng không đủ tài chánh. Và họ đã rộng lượng giúp đỡ Gioan cũng như bạn của ngài là Tađêô, theo học trong chủng viện. Cả hai đến Rôma, là nơi họ được lôi cuốn bởi ý nghĩa đời sống tu trì của Thánh Alphôngsô. Và hai người đã thụ phong linh mục năm 1785 trong dòng Chúa Cứu Thế.
Sau khi mới chịu chức, lúc ấy đã 34 tuổi, Gioan được gọi là Clement Mary, cùng với Tađêô được sai trở về Vienna. Nhưng sự khó khăn tôn giáo ở đây đã khiến hai người phải bỏ lên miền bắc đến Warsaw, Ba Lan. Ở đây họ gặp rất nhiều người Công Giáo nói tiếng Đức bơ vơ không có linh mục chăm sóc vì chính quyền đàn áp các cha dòng Tên. Đầu tiên hai ngài phải sống rất khó nghèo và rao giảng ngoài trời. Sau đó các ngài được giao cho nhà thờ Thánh Benno để trông coi, và trong vòng chín năm kế tiếp, mỗi ngày hai ngài phải giảng năm lần, hai lần bằng tiếng Đức và ba lần bằng tiếng Ba Lan, các ngài đã hoán cải được nhiều linh hồn về với Giáo Hội. Cả hai đều tích cực trong công việc xã hội giúp đỡ người nghèo, sáng lập cô nhi viện và mở một trường nam sinh.
Nhờ lôi cuốn được nhiều người đến dâng mình cho Chúa, các ngài đã có thể gửi các vị truyền giáo đến Ba Lan, Đức và Thụy Điển. Tất cả các cơ sở truyền giáo này sau đó đều bị phá hủy vì những căng thẳng chính trị và tôn giáo thời đó. Sau 20 năm làm việc vất vả, chính Cha Clement bị bỏ tù và bị trục xuất khỏi nước. Và sau một lần bắt bớ khác ngài mới đến được Vienna, là nơi ngài sinh sống và hoạt động trong 12 năm cuối đời. Không bao lâu, ngài nổi tiếng là "vị tông đồ của Vienna", ngài nghe người giầu cũng như nghèo xưng tội, đi thăm kẻ liệt, cố vấn cho những người thế lực, chia sẻ sự thánh thiện của ngài với tất cả mọi người trong thành phố. Công trình đáng kể nhất của ngài là thành lập một trường đại học Công Giáo trong thành phố yêu dấu này.
Sự bách hại vẫn theo đuổi ngài, và nhà cầm quyền đã buộc ngài phải ngừng rao giảng. Có lần giới thẩm quyền cao cấp nhất cố gắng trục xuất ngài, nhưng sự thánh thiện và danh tiếng đã bảo vệ ngài cũng như sự phát triển của dòng Chúa Cứu Thế đã giữ chân ngài lại. Cho đến khi ngài qua đời vào năm 1820, các nỗ lực của ngài đã giúp cho dòng Chúa Cứu Thế được thiết lập vững bền ở mạn bắc rặng Alp.
Ngài được phong thánh năm 1909.
Suy niệm 1: Nghèo
Sinh trong một gia đình nghèo ở Moravia, ngài là con thứ 9 trong 12 người con, và tên rửa tội là Gioan.
Xuất thân từ một gia đình nghèo đến mức không có tiền đi học, thánh Clement chắc hẳn thấm thía cảnh nghèo. Nhưng ngài lại có cơ hội để tập luyện sống nghèo, để rồi sống đức khó nghèo trong bậc tu dòng một cách hoàn hảo.
Cái nghèo đã trở thành vị thầy giúp ngài dễ tiếp cận và chăm sóc người nghèo trong sứ vụ được trao ở Vienna và Ba Lan. Nhất là bài học nghèo giúp ngài không lệ thuộc vào tiện nghi vật chất, mà vẫn xoay xở thực thi được cái chính yếu là rao giảng ngay cả ngoài trời, miễn là hoán cải được nhiều linh hồn về với Giáo Hội cũng như lôi cuốn được nhiều người đến dâng mình cho Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức rằng tiện nghi vật chất chỉ là phương tiện chứ không phải cứu cánh.
Suy niệm 2: Can thiệp
Vì không có tiền đi học, Clement phải học nghề làm bánh mì. Nhưng Thiên Chúa đã can thiệp để giúp ngài thể hiện ước mơ ấy.
Giuse con ông Giacóp bị anh em ganh ghét đã bán cậu cho những người lái buôn đang sang Aicập, thậm chí còn bị tù đày. Số phận hẩm hiu của cậu đã được Thiên Chúa can thiệp để trở thành tể tướng nước Aicập và ân nhân cứu sống cho cả dân Aicập cũng như mọi xứ lân cận trong suốt 7 năm đói kém (St 41,40.57).
Cả hai phụ mẫu Dacaria và Êlisabét vốn hiếm muộn và nay đã già cả đang ở lứa tuổi không thể sinh con theo quy luật thường tình, thế nhưng Thiên Chúa đã can thiệp để cả hai đều có mụn con là Gioan Tiền Hô (Lc 1,66).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn xác tín về sự can thiệp đầy thượng trí của Chúa.
Suy niệm 3: Kiên trì
Gioan thử sống đời ẩn tu nhưng lúc ấy Hoàng Đế Joseph II ra lệnh hủy bỏ các đan viện, Gioan lại trở về Vienna hành nghề làm bánh.
Từ việc làm bánh với bao công đoạn như nhồi bột, nắn hình, đút lò, Clement đã tập cho mình nhân đức kiên trì tận tụy, để nhờ đó mà theo đuổi ơn gọi tu trì với bao gian khổ và nghịch cảnh, cũng như công cuộc rao giảng Tin Mừng ngay trong thời kỳ bách hại.
Đức Giêsu quả là vị tôn sư kiên trì bậc nhất đối với các sư đồ của Ngài. Ngài đã phải đón nhận sự chậm hiểu (Mc 7,18;8,17.21) và chậm tin của họ (Lc 24,25), cũng như khuyết điểm muốn tranh giành danh vọng địa vị (Lc 22,24).
* Lạy chúa Giêsu, xin giúp chúng con kiên trì chứ không nản chí vượt qua mọi thử thách để đạt được thành công.
Suy niệm 4: Đối thoại
Qua cuộc đối thoại, hai bà được biết Gioan muốn đi tu nhưng không đủ tài chánh. Và họ đã rộng lượng giúp đỡ Gioan cũng như bạn của ngài là Tađêô, theo học trong chủng viện.
Một cuộc đối thoại chân thành và nghiêm túc thường dẫn đến những kết quả tốt đẹp. Đức Giêsu đã gặp gỡ Nicôđêmô và đã giúp ông có được những hành động quả cảm dám bênh vực Chúa ngay giữa hội đồng (Ga 7,50-52) và sau này cũng tham gia vào việc mai táng Chúa (Ga 19,39).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con trân trọng những cơ hội được đối thoại chân chính, để mỗi ngày mỗi tiến trên đường trọn lành.
Suy niệm 5: Rao giảng
Đầu tiên Clement và Tađêô phải sống rất khó nghèo và rao giảng ngoài trời. Sau đó các ngài được giao cho nhà thờ Thánh Benno để trông coi, và trong vòng chín năm kế tiếp, mỗi ngày hai ngài phải giảng năm lần.
Cơ sở tiện nghi cũng cần thiết cho việc rao giảng thật, nhưng đó không phải là tất cả. Điều quan trọng hơn là phải rao giảng. Chính vì thế địa điểm ngoài trời cũng là nơi nên được chọn lựa.
Đức Giêsu cũng từng rao giảng ngoài trời trên núi trên Biển Hồ (Mt 5,1;13,1). Và sau này thánh Phêrô tông đồ cũng ra giữa công trường rao giảng và thu hút được cả ba ngàn người theo đạo (Cv 2,41).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng vì lệ thuộc vào cơ sở tiện nghi vật chất mà làm thiệt hại đến sứ vụ rao giảng.
Suy niệm 6: Công trình
Công trình đáng kể nhất của Cha Clement là thành lập một trường đại học Công Giáo trong thành phố yêu dấu này.
Đó là dưới cái nhìn của thế gian. Còn dưới con mắt của Chúa thì công trình kỳ diệu nhất của ngài chính là hoán cải được nhiều linh hồn về với Giáo Hội, cũng như lôi cuốn được nhiều người đến dâng mình cho Chúa, và giúp cho dòng Chúa Cứu Thế được thiết lập vững bền ở mạn bắc rặng Alp.
Cũng như xưa kia, khi tiên tri Samuen đến nhà ông Giese để xức dầu tấn phong vương cho người Chúa chọn, các con trai đều được xét và được giới thiệu, nhưng tất cả đều bị gạt bỏ, để rồi cuối cùng nhân vật không ai nghĩ tới là cậu út Đavít lại được tuyển chọn, vì Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm (1Sm 16,1-13).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con học theo gương Chúa đừng đánh giá người theo ngoại diện nhưng theo nội tâm.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 15/3 Thánh Louise de Marillac (c. 1660)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Louise de Marillac (c. 1660)
Lược sử
Thánh Louise sinh ở Ferrieres-en-Brie gần Meux, nước Pháp, mồ côi mẹ khi còn nhỏ, và khi được 15 tuổi thì mồ côi cha. Ao ước của thánh nữ là trở nên một nữ tu nhưng cha giải tội đã ngăn cản, và sau đó ngài kết hôn với ông Antony LeGras. Trong hôn nhân này họ có được một đứa con trai. Nhưng sau đó không lâu, ông Antony đã từ giã cõi đời sau một thời gian đau yếu lâu dài.
Bà Louise may mắn có được các cha linh hướng khôn ngoan và dễ mến, đó là Thánh Francis de Sales, và người bạn của ngài là Đức Giám Mục của Belley, nước Pháp. Bà Louise không gặp hai vị thường xuyên, nhưng tận trong thâm tâm, bà linh cảm thấy rằng mình sẽ đảm nhận một công việc nặng nề dưới sự hướng dẫn của một người chưa bao giờ quen biết. Đó là vị linh mục thánh thiện Vincent, mà sau này là Thánh Vincent de Paul.
Lúc đầu, Cha Vincent do dự nhận lời làm cha giải tội cho bà Louise, vì sự bận rộn của ngài với tổ chức "Các Chị Em Bác Ái." Hội viên của tổ chức này là các bà quý tộc có lòng nhân từ, giúp đỡ cha chăm sóc người nghèo và các em bị bỏ rơi, là công việc rất cần thiết trong thời gian ấy. Nhưng các bà cũng phải bận rộn với nhiệm vụ và công việc gia đình. Trong khi công việc của cha thì cần rất nhiều người giúp đỡ, nhất là những nông dân vì họ gần gũi với người nghèo và dễ có cảm tình với họ. Ngài cũng cần ai đó có thể dạy cho họ biết đọc biết viết và tổ chức sinh hoạt hội đoàn cho họ.
Chỉ sau một thời gian khá lâu, khi Cha Vincent ngày càng quen biết với bà Louise, thì ngài mới nhận ra rằng bà là người mà Chúa đã gửi đến để đáp lại lời cầu xin của cha. Bà Louise thông minh, khiêm tốn và có sức chịu đựng bền bỉ. Sau một thời gian thi hành các công việc mà cha giao phó, bà tìm thêm được bốn phụ nữ bình dị khác đến tiếp tay. Căn nhà thuê của bà ở Balê đã trở thành trung tâm săn sóc người nghèo và người đau yếu. Và đó là khởi đầu của tu hội Nữ Tu Bác Ái của Thánh Vincent de Paul, (mặc dù Cha Vincent muốn gọi tổ chức này là "Nữ Tử" Bác Ái). Bà tuyên khấn năm 1634 và tu hội đã thu hút được nhiều người tham gia.
Cha Vincent thường từ tốn và khôn ngoan trong cách cư xử với bà Louise và tổ chức mới này. Ngài nói không bao giờ ngài muốn thành lập một cộng đoàn mới, mà chính là Thiên Chúa thi hành mọi sự. Cha nói, "Tu viện của con sẽ là nhà của người bệnh; phòng của con là phòng cho thuê mướn; nhà nguyện của con là nhà thờ của giáo xứ; khuôn viên nhà dòng là đường phố hay các khu vực nhà thương." Y phục của họ là y phục của phụ nữ nông dân. Mãi cho đến vài năm sau, Cha Vincent de Paul mới cho phép bốn phụ nữ khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Và phải mất nhiều năm hoạt động thì Tòa Thánh mới chính thức công nhận tu hội này và đặt dưới sự hướng dẫn của Cha Vincent và Tu Hội Truyền Giáo.
Bà Louise đi khắp nước Pháp, thành lập chi nhánh trong các bệnh viện, cô nhi viện và các tổ chức khác. Cho đến khi từ trần, ngày 15 tháng Ba 1660, tu hội của bà đã có trên 40 nhà ở nước Pháp. Kể từ đó họ đã phát triển trên toàn thế giới.
Bà Louise de Marillac được Đức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh năm 1934, và năm 1960 thánh nữ được Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đặt làm Quan Thầy các Cán Sự Xã Hội.
Suy niệm 1: Mồ côi
Thánh Louise sinh ở Ferrieres-en-Brie gần Meux, nước Pháp, mồ côi mẹ khi còn nhỏ, và khi được 15 tuổi thì mồ côi cha.
Mồ côi mẹ rồi tiếp đó lại mồ côi cha, nhưng Louise không cảm thấy cô đơn và phiền muộn, vì xác tín về sự hiện diện của Đức Giêsu: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi” (Ga 14,16) và “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Mất đi sự chăm sóc của thân phụ, nhưng bù lại Louise may mắn có được sự dẫn dắt của các cha linh hướng khôn ngoan và dễ mến, đó là Thánh Francis de Sales, và người bạn của ngài là Đức Giám Mục của Belley, nước Pháp, và nhất là vị linh mục thánh thiện Vincent, mà sau này là Thánh Vincent de Paul.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con phải biết lưu tâm đến sự trợ giúp của các người cha tinh thần.
Suy niệm 2: Linh hướng
Bà Louise may mắn có được các cha linh hướng khôn ngoan và dễ mến cũng như thánh thiện.
Các đặc điểm phải có của một vị linh hướng, đó là phải khôn ngoan, nhờ đó có thể thấu hiểu được tâm tư nguyện vọng cũng như những uẩn khuất và khó khăn trong tâm hồn của người con linh hướng.
Ngoài ra vị linh hướng cần có lối sống dễ mến để giúp người con linh hướng dễ tiếp cận và tự tin cũng như thoải mái trình bày nỗi lòng của mình. Nhất là vị linh hướng phải thánh thiện để có thể đọc được kế đồ Thiên Chúa muốn vạch cho người con linh hướng, hầu việc hướng dẫn thiêng liêng được hiệu quả.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị linh hướng có được những yếu tố cần thiết để giúp các con linh hướng nhận ra và sống đúng Thiên Ý.
Suy niệm 3: Giúp đỡ
Hội viên của tổ chức này là các bà quý tộc có lòng nhân từ, giúp đỡ cha chăm sóc người nghèo và các em bị bỏ rơi.
Con người vốn hữu hạn không phải một mình mà làm gì cũng được, vì thế cần khiêm tốn đón nhận sự giúp đỡ của tha nhân. Cổ nhân cũng rút được kinh nghiệm ấy để khuyên dạy: Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi cao.
Hiểu được thế nên trong bước đầu Thánh Vincent đã nhờ vào sự cọng tác và giúp đỡ của các bà quý tộc có lòng nhân từ. Nhưng các bà cũng phải bận rộn với nhiệm vụ và công việc gia đình, nên ngài đã nhờ đến bà Louise và qua bà đã tìm thêm được bốn phụ nữ bình dị khác đến tiếp tay.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn rộng mở đôi tay giúp đỡ mọi việc và mọi người trong vườn nho của Chúa.
Suy niệm 4: Nông dân
Trong khi công việc của cha Vincent thì cần rất nhiều người giúp đỡ, nhất là những nông dân vì họ gần gũi với người nghèo và dễ có cảm tình với họ. Ngài cũng cần ai đó có thể dạy cho họ biết đọc biết viết và tổ chức sinh hoạt hội đoàn cho họ.
Người nông dân vốn thật thà chất phác nên dễ gần gũi và tiếp xúc với mọi người, đặc biệt những người nghèo và ít học vốn có mặc cảm tự ti. Nhất là một khi họ có một nếp sống đạo đức lành thánh thì thật là những vị tông đồ nhiệt thành và hữu ích.
Sự tiếp tay của Louise và các đồng nghiệp của bà chẳng những giúp hữu hiệu công cuộc tông đồ của thánh Vincent mà còn là khởi đầu của tu hội Nữ Tu Bác Ai, một tu hội đã thu hut được nhiều người tham gia và đã phát triển trên toàn thế giới.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hướng việc chọn lựa các tông đồ không chỉ hạng quý tộc mà cả người nông dân, miễn họ có tinh thần.
Suy niệm 5: Cầu xin
Chỉ sau một thời gian khá lâu, khi Cha Vincent ngày càng quen biết với bà Louise, thì ngài mới nhận ra rằng bà là người mà Chúa đã gửi đến để đáp lại lời cầu xin của cha.
Chúa luôn biết mỗi người có nhu cầu gì ngay cả trước khi con người dâng lời cầu xin. Và Chúa cũng biết những gì mang lại lợi ích cho phần rỗi linh hồn con người, nên Chúa cũng không ban tùy tiện.
Chỉ vì không thấu hiểu điều này nên biết bao ơn lành Chúa ban mà con người không nhận ra. Ngay cả cha Vincent cũng phải mất một thời gian khá lâu mới nhận ra hồng ân Chúa ban theo lời cầu xin của cha.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có cầu xin thì luôn cầu theo Thiên Ý chứ không theo ý riêng mình, để dễ nhận ra hồng ân Chúa thương ban.
Suy niệm 6: Dự định
Cha Vincent nói không bao giờ ngài muốn thành lập một cộng đoàn mới, mà chính là Thiên Chúa thi hành mọi sự.
Dầu cha Vincent không có dự định lập cộng đoàn mới, nhưng chính Thiên Chúa lại hoàn thành một ý định vượt cả sự mơ ước của bao người. Trong kế đồ của Thiên Chúa mỗi người có phận vụ theo khả năng và giới hạn mình, như Phaolô trồng, Apôlô tưới nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên (1Cr 3,6).
Đức Maria cũng khiêm tốn không cả dám làm Mẹ Đấng Thiên Sai nên ước muốn sống độc thân chứ không lập gia đình như bao thiếu nữ đồng lứa với Mẹ. Nhưng chính Thiên Chúa lại chọn Mẹ chứ không chọn các đồng bạn của Mẹ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tin tưởng vào tình thương quan phòng của Chúa, để chăm chú chu toàn bổn phận hằng ngày của mình.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 14/3 Thánh Maximilian (c. 295)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Maximilian (c. 295)
Lược sử
Ngay từ thời Giáo Hội tiên khởi, chúng ta may mắn có được một tài liệu quý báu và hầu như không một chút thêm thắt trong bài tường thuật tử đạo của Thánh Maximilian ở Algeria ngày nay.
Bị điệu ra trước quan thống đốc Dion, Thánh Maximilian từ chối không chịu gia nhập đạo quân La Mã với lý luận như sau, "Tôi là Kitô Hữu, tôi không thể làm sự dữ, tôi không thể phục vụ trong quân đội".
Dion trả lời: "Ngươi phải phục vụ hoặc là chết".
Maximilian đáp lại: "Tôi không bao giờ phục vụ. Ông có thể chém đầu tôi, nhưng tôi sẽ không bao giờ là một người lính của thế giới này, vì tôi là một người lính của Đức Kitô. Tôi thuộc về đạo binh của Thiên Chúa, và tôi không thể chiến đấu cho thế giới này. Tôi đã nói với ông, tôi là một Kitô Hữu."
Dion hỏi: "Dưới quyền của Diocletian và Maximian, Constantius và Galerius, cũng có những người lính là Kitô Hữu phục vụ thì sao".
Maximilian trả lời: "Đó là vấn đề của họ. Tôi cũng là một Kitô Hữu, nhưng tôi không thể phục vụ".
Dion hỏi: "Nhưng làm lính thì có thiệt hại gì?"
Maximilian trả lời: "Ông biết rõ điều đó".
Dion nói: "Nếu ngươi không thi hành nghĩa vụ ta sẽ kết án tử hình vì sự khinh thường quân đội".
Thánh Maximilian trả lời: "Tôi sẽ không chết. Khi tôi từ giã cõi đời, linh hồn tôi sẽ sống với Đức Kitô là Thiên Chúa của tôi".
Lúc ấy Thánh Maximilian 21 tuổi và ngài đã vui mừng dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Sau khi chứng kiến sự hành quyết, cha thánh nhân vui mừng trở về nhà, ông cảm tạ Thiên Chúa vì có được một món quà thật tốt đẹp để dâng lên Thiên Chúa.
Suy niệm 1: Kitô Hữu
Tôi là Kitô Hữu, tôi không thể làm sự dữ.
Kitô Hữu là danh xưng lần dầu tiên các môn đệ được gọi tại Antiôkhia (Cv 11,26), và từ đó được áp dụng cho mọi người đã được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, vì qua đó họ được đồng hình đồng dạng với Đức Kitô một cách bí tích.
Kitô Hữu nghĩa là đã có Đức Kitô thì không thể làm sự dữ mà chỉ làm điều lành như Đức Kitô đã từng làm khi còn ở tại thế.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống đúng với danh xưng Kitô Hữu.
Suy niệm 2: Chết
Dion trả lời: "Ngươi phải phục vụ hoặc là chết".
Thông thường người đời ai cũng sợ chết và ước được sống lâu. Ngay cả Đức Kitô vốn là Thiên Chúa nhưng khi mang bản tính người thì Ngài cũng mang tâm trạng chung đó, vì thế Ngài đã kêu xin Chúa Cha tha cho Ngài khỏi phải uống chén đắng (Mt 26,39).
Thấu hiểu nội tình ấy nên thông thường người đời cũng hay đem cái chết ra để gây áp lực. Đó là điều Dion đã dùng để muốn khống chế thánh Maximian, nhưng không đạt được kết quả.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có sợ chết là sợ chết về phần hồn chứ không sợ chết về phần xác vì khi từ giã cõi đời, thì linh hồn sẽ sống với Đức Kitô.
Suy niệm 3: Lính của Đức Kitô
Maximilian trả lời: Ông có thể chém đầu tôi, nhưng tôi sẽ không bao giờ là một người lính của thế giới này, vì tôi là một người lính của Đức Kitô.
Vì lính của Đức Kitô thì chiến đấu không phải với phàm nhân mà với ma quỷ, với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao, nên hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa:
Lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an; hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là lời Thiên Chúa (Ep 6,11-17).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cũng mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ (1Tx 5,8).
Suy niệm 4: Tu thân
Maximilian trả lời: "Đó là vấn đề của họ."
Sau khi được Đức Giêsu cắt đặt công việc chăn chiên con chiên mẹ, Phêrô đã hỏi về Gioan và được Đức Giêsu trả lời: "Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, hãy theo Thầy" (Ga 21,22).
Việc mình thì không lo mà cứ thích xen vào việc người. Đó cũng là tật xấu mà thánh Phaolô đã đánh giá là vô kỷ luật và khuyên bảo mọi tín hữu phải luôn canh phòng đừng vướng vào (2Tx 3,11).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con phải biết tu thân trước rồi mới tề gia rồi trị quốc và bình thiên hạ.
Suy niệm 5: Chết
Thánh Maximilian trả lời: "Tôi sẽ không chết. Khi tôi từ giã cõi đời, linh hồn tôi sẽ sống với Đức Kitô là Thiên Chúa của tôi".
Chết không phải là hết mà là ngưỡng cửa bước vào cõi hằng sống. Nói khác đi đó là một chuyển hóa như hạt lúa phải mục nát đi để trở thành cây lúa, hoặc con nhộng chuyển thành con bướm.
Thánh Phaolô tông đồ lại dùng hình ảnh cái nhà khi nói: “Nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá huỷ đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2Cr 5,1).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con phải biết chết cách nào để có thể được sống cùng Chúa trên trời.
Suy niệm 6: Bố
Sau khi chứng kiến sự hành quyết, cha của thánh Maximilian vui mừng trở về nhà, ông cảm tạ Thiên Chúa vì có được một món quà thật tốt đẹp để dâng lên Thiên Chúa.
Bổn phận của một người làm cha làm mẹ không chỉ dừng lại ở việc sinh dưỡng mà còn giáo dục con cái nên người và nhất là nên thánh. Đây là lý do giúp chúng ta hiểu được vì sao trước cái chết tử đạo của Maximilian, cha ngài không buồn phiền mà lại rất vui mừng, vì đã hoàn thành được bổn phận mình.
Đây cũng là tâm trạng của thân mẫu bảy người con thời Macabêô. Bà được xưng tụng là người phụ nữ dũng cảm vì chẳng những chứng kiến cảnh tượng bảy người con bị cực hình và chịu tử đạo mà còn đóng vai động viện các con cái lớn bé thà chết chứ không vi phạm luật Chúa (2Mcb 7,1-41).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bậc phụ huynh luôn quan tâm chu toàn bổn phận giáo dục đức tin cho con cái mình.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 13/3 Thánh Nicôla Owen (c. 1606)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Nicôla Owen (c. 1606)
Lược sử
Thánh Nicôla, thường gọi là "Tiểu Gioan", thân hình nhỏ nhắn nhưng lại vĩ đại về sự quý mến mà các linh mục dòng Tên dành cho ngài.
Sinh ở Oxford, ngài hành nghề thợ mộc và đã cứu được mạng sống của nhiều linh mục cũng như giáo dân ở Anh Quốc trong thời kỳ cấm cách (1559 - 1829), mà nhiều đạo luật đã được ban hành để trừng phạt người Công Giáo vì sống đức tin.
Trong khoảng thời gian 20 năm, Thánh Nicôla đã dùng tài năng của mình để thiết lập những nơi ẩn nấp kín đáo cho các linh mục trên toàn quốc. Công trình của ngài -- được thiết kế và dàn dựng bởi chính tay ngài -- quá kín đáo đến nỗi biết bao lần lục soát mà quan quân không thể nào tìm thấy các linh mục ẩn nấp trong đó. Ngài có tài tìm kiếm, và thiết lập những nơi an toàn như địa đạo ngầm dưới đất, khoảng cách giữa hai bức tường, và các ngõ ngách không cách chi vào được. Ngay cả có lần ngài sắp đặt kế hoạch để cứu thoát hai linh mục dòng Tên khỏi nhà tù ở Luân Đôn.
Bất cứ khi nào Thánh Nicôla bắt đầu hoạch định những nơi ẩn nấp, ngài thường khởi sự bằng việc rước Mình Thánh Chúa, và trong suốt tiến trình dàn dựng đầy nguy hiểm ấy, ngài thường đến với Thiên Chúa qua sự cầu nguyện.
Sau nhiều năm phục vụ với công việc khác thường ấy, ngài đã gia nhập dòng Tên với tư cách thầy trợ sĩ, tuy nhiên sự liên hệ này đã được giữ bí mật với những lý do chính đáng.
Sau nhiều lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, ngài bị bắt năm 1594. Mặc dù bị tra tấn dã man, ngài vẫn không tiết lộ danh tính của các người Công Giáo. Sau khi được thả tự do với một số tiền hối lộ, "Tiểu Gioan" lại trở về với công việc cũ. Ngài bị bắt lại vào năm 1606. Lần này ngài bị tra tấn quá dã man và đã chết vì đau đớn. Quân cai ngục cố tuyên truyền rằng ngài đã thú nhận tội lỗi và tự tử, nhưng hành động anh hùng và sự thống khổ của ngài sau đó đã được lan truyền khắp nước.
Ngài được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI phong thánh năm 1970 như một trong 40 vị Tử Đạo của Anh Quốc và Wales.
Suy niệm 1: Nhỏ bé
Thánh Nicôla, thường gọi là "Tiểu Gioan", thân hình nhỏ nhắn nhưng lại vĩ đại về sự quý mến.
Có lẽ Nicôla nhận được thêm biệt danh là Tiểu Gioan vì ngài có thân hình nhỏ nhắn. Nhưng một thân hình nhỏ bé vẫn có thể chứa đựng một tinh thần và một tâm hồn vĩ đại lớn lao khiến mọi người phải cảm phục.
Trẻ Đavít đã từng hạ gục tướng quân Philitinh khổng lồ để rồi được giới phụ nữ Ítraen ca ngợi hơn cả hoàng đế Saun: “Vua Saun hạ được hàng ngàn, còn Đavít hàng vạn” (1Sm 18,7). Kinh cầu Hài đồng cũng tôn vinh Hài Đồng bé mọn mà có phép tắc.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng mặc cảm về thân hình hay thân phận nhỏ bé, nhưng hãy ngoan ngoãn làm dụng cụ Chúa dùng mà thực hiện những điều kỳ diệu cao cả.
Suy niệm 2: Thợ mộc
Sinh ở Oxford, ngài hành nghề thợ mộc và đã cứu được mạng sống của nhiều linh mục cũng như giáo dân ở Anh Quốc trong thời kỳ cấm cách.
Với nghề thợ mộc, Nicôla không chú trọng đến vấn đề sinh kế, mà sử dụng tính chuyên môn của mình, để tạo nên những nơi ẩn núp cho nhiều linh mục cũng như giáo dân.
Gương thánh Nicôla cho hay: Miễn có tinh thần tông đồ thì sẽ tìm ra những cách thế và muôn vàn cơ hội để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân.
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một con tim tông đồ, để giúp chúng con chu toàn bổn phận truyền giáo của mình.
Suy niệm 3: Ẩn nấp
Trong khoảng thời gian 20 năm, Thánh Nicôla đã dùng tài năng của mình để thiết lập những nơi ẩn nấp kín đáo cho các linh mục trên toàn quốc.
Một nơi ẩn nấp thật kín đáo và an toàn đến mức suốt thời gian 20 năm vẫn không bị con mắt chính quyền phát hiện để bị bắt và bị quy án.
Nhưng làm sao che khuất được con mắt của Thiên Chúa vốn là Đấng thấu suốt mọi kín đáo ( Mt 6,4.18), ngay cả những ý nghĩ thầm kín trong lòng (Mt 9,4;12,25).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức rằng che mắt được người chứ không thể nào che mắt được Chúa, để luôn sống trong sạch và ngay lành.
Suy niệm 4: Mình Thánh Chúa
Bất cứ khi nào Thánh Nicôla bắt đầu hoạch định những nơi ẩn nấp, ngài thường khởi sự bằng việc rước Mình Thánh Chúa.
Ý thức về khả năng hạn hẹp của mình, Nicôla cậy dựa vào sức Chúa vốn làm được mọi sự, nên ngài thường khởi sự công việc thiết lập những công trình ẩn úp bằng việc rước Mình Thánh Chúa.
Việc rước Mình Thánh Chúa tăng triển sự hiệp thông của chúng ta với Chúa Kitô. Hiệu quả chính yếu của việc rước lễ là được kết hiệp thâm sâu với Chúa Kitô. Đời sống trong Chúa Kitô có nền tảng nơi bí tích Thánh Thể (Ga 6,56-57) (Sách Giáo Lý số 1391).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn giữ tâm hồn trong sạch, để xứng đáng rước lấy Mình Máu Thánh Chúa.
Suy niệm 5: Cầu nguyện
Trong suốt tiến trình dàn dựng đầy nguy hiểm ấy, ngài thường đến với Thiên Chúa qua sự cầu nguyện.
Con người vốn có tâm linh, nên cho dầu thông thường khi gặp an lành thì không nhớ đến thần linh, nhưng khi gặp nguy hiểm thì lại hướng về thần linh với những lời cầu khẩn và van xin chân thành.
Là người công giáo, thì không được như thế, mà hãy luôn chạy đến cùng Thiên Chúa mọi lúc và mọi nơi, cũng như trong mọi tình huống, dầu an lành may mắn hay rủi ro bất hạnh theo gương thánh Nicôla.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chuyên tâm cầu nguyện không vì tư lợi, nhưng chỉ để tỏ lòng thảo kính Thiên Chúa là Cha.
Suy niệm 6: Tuyên truyền
Quân cai ngục cố tuyên truyền ngài đã thú nhận tội lỗi và tự tử, nhưng hành động anh hùng và sự thống khổ của ngài sau đó đã được lan truyền khắp nước.
Lính canh mồ Đức Giêsu sau khi nhận tiền đút lót của các thượng tế cũng phao tin các môn đệ lấy trộm xác để ém nhẹm sự kiện Chúa Phục Sinh. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Dothái cho đến ngày nay (Mt 28,11-15).
Một bài học khôn ngoan là hãy cẩn thận tra cứu kỹ lưỡng về các điều truyền truyền, phải xét xem đâu là hư thực, đâu là chân lý và đâu là giả trá, để không bị mắc lừa mà hành động hồ đồ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống thật, làm thật và nói thật để xứng làm con Thiên Chúa chân thật.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 12/3 Chân phước Angela Salawa (1881 - 1922)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân phước ANGELA SALAWA (1881 - 1922)
"Lạy Chúa, con sống bởi thánh ý Chúa. Chết hay sống là tùy thuộc ý Chúa muốn; xin gìn giữ con vì Chúa có thể làm điều ấy." (Angela Salawa)
Angela phục vụ Ðức Kitô và những người bé mọn của Ðức Kitô với tất cả sức mạnh của ngài.
Sinh ở Siepraw, gần Kraków, Ba Lan, ngài là người con thứ 11 của ông bà Bartlomiej và Ewa Salawa. Vào năm 1897, ngài đến Kraków để sống với người chị Têrêsa. Trong Thế Chiến I, ngài giúp đỡ các tù nhân chiến tranh bất kể quốc tịch hay tôn giáo. Ngài thích nghiền ngẫm các văn bản của Thánh Têrêsa Avila và Thánh Gioan Thánh Giá.
Cũng trong thời chiến, ngài đã hết mình chăm sóc các thương binh của Thế Chiến I. Sau năm 1918, vì lý do sức khoẻ ngài phải chấm dứt công việc tông đồ này. Trong nhật ký, ngài tâm sự với Ðức Kitô, "Con muốn Chúa được kính mến nhiều cũng như khi Chúa bị khinh miệt." Ở chỗ khác, ngài viết, "Lạy Chúa, con sống bởi thánh ý Chúa. Chết hay sống là tùy thuộc ý Chúa muốn; xin gìn giữ con vì Chúa có thể làm điều ấy."
Trong lễ phong chân phước năm 1991 ở Kraków, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: "Chính trong thành phố này mà ngài đã hoạt động, đã chịu đau khổ và đã nên thánh. Trong khi sống theo tinh thần của Thánh Phanxicô, ngài vẫn đáp ứng một cách phi thường với tác động của Chúa Thánh Thần" (Báo L'Observatore Romano, tập 34, số 4, 1991)
Lời Bàn
Ðừng bao giờ lầm tưởng sự khiêm hạ với thiếu tự tin, thiếu ý chí và không có hướng đi. Chân Phước Angela đã đem Tin Mừng và sự giúp đỡ vật chất cho một số người "bé mọn" của Ðức Kitô. Sự hy sinh này phải khích động chúng ta hành động tương tự.
Lời Trích
Cha Henri de Lubac, dòng Tên, đã viết: "Các Kitô Hữu tốt lành nhất và đầy sức sống nhất thì không thể tìm thấy trong những người khôn ngoan hay tài giỏi, người trí thức hay có đầu óc chính trị, hoặc những người có địa vị xã hội. Bởi đó, những gì họ nói thì không được báo chí để ý đến; những gì họ làm thì công chúng không ai biết. Ðời sống của họ ẩn khuất dưới con mắt thế gian, và nếu họ có được chút gì nổi tiếng, điều đó thường xảy đến cách muộn màng, và rất ngoại lệ, và luôn luôn kèm theo nguy cơ bị bóp méo" (The Splendor of the Church [Sự Huy Hoàng của Giáo Hội], trang 187).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 11/3 Thánh Gioan Ogilvie (1579 - 1615)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Gioan Ogilvie (1579 - 1615)
Thánh Gioan Ogilvie sinh trong một gia đình Tô Cách Lan mà nửa Công Giáo, nửa Tin Lành Presbyterian. Cha ngài theo phái Calvin (*) và cũng muốn Gioan trở thành người của giáo phái ấy nên đã gửi ngài vào đất liền để đi học. Ở đây Gioan thích thú theo dõi những cuộc tranh luận giữa các học giả Công Giáo và Calvin. Bị hoang mang về những tranh luận của các học giả Công Giáo, ngài tìm đến Kinh Thánh. Hai câu sau đây đã thức tỉnh ngài: "Thiên Chúa muốn mọi người được cứu chuộc, và nhận biết chân lý," và "Hãy đến cùng Ta những ai mệt mỏi và ê chề, Ta sẽ thêm sức cho ngươi."
Dần dà, Gioan hiểu rằng Giáo Hội Công Giáo yêu quý tất cả mọi người. Trong những người ấy, ngài nhận thấy có nhiều vị tử đạo. Ngài quyết định trở thành người Công Giáo và được đón nhận vào Giáo Hội tại Louvain, nước Bỉ, năm 1596 khi 17 tuổi.
Gioan tiếp tục việc học, đầu tiên với các cha dòng Biển Ðức, sau đó là một sinh viên của học viện Dòng Tên ở Olmutz. Ngài gia nhập dòng Tên và trong 10 năm kế tiếp, ngài chăm chỉ rèn luyện tâm linh cũng như kiến thức. Ðược thụ phong linh mục ở Pháp năm 1610, ngài gặp hai linh mục dòng Tên vừa mới từ Tô Cách Lan trở về, sau khi bị bắt và bị cầm tù. Các ngài thấy ít có hy vọng thành công trong việc rao giảng Tin Mừng dưới sự khắt khe của chính quyền nước ấy. Nhưng một ngọn lửa đã nhen nhúm trong lòng Cha Gioan. Trong hơn hai năm kế đó, ngài đã khẩn khoản xin đi truyền giáo ở Tô Cách Lan.
Ðược bề trên cho phép, ngài bí mật vào Tô Cách Lan giả dạng người buôn ngựa hoặc một quân nhân trở về từ cuộc chiến Âu Châu. Thấy không thể thi hành được việc gì đáng kể cho thiểu số Công Giáo ở Tô Cách Lan, Cha Gioan trở về Balê để hội ý bề trên. Bị khiển trách vì đã tự ý bỏ nhiệm vụ ở Tô Cách Lan, ngài được sai trở lại đó. Lần này, ngài hăng say hơn và có một vài thành công trong việc hoán cải cũng như kín đáo phục vụ người Công Giáo Tô Cách Lan. Nhưng không bao lâu, ngài bị phản bội, bị bắt và bị đưa ra toà.
Phiên xử ngài kéo dài đến 26 giờ đồng hồ mà ngài không được ăn uống gì. Ngài bị cầm tù và không cho ngủ. Trong tám ngày và đêm, ngài bị lôi đi như một con vật, bị đâm bằng cây vót nhọn, và tóc bị giật ra từng mảng. Tuy nhiên, ngài vẫn không chịu tiết lộ tên các người Công Giáo hoặc chấp nhận luật lệ của vua về vấn đề tôn giáo. Ngài trải qua phiên tòa lần thứ hai và thứ ba nhưng vẫn cương quyết giữ vững lập trường. Trong phiên tòa cuối cùng, ngài quả quyết với các quan tòa: "Trong tất cả những gì liên hệ đến vua, tôi sẽ vâng lời một cách mù quáng; nếu quyền lực trần thế của vua bị tấn công, tôi sẽ đổ giọt máu cuối cùng vì vua. Nhưng trong những luật lệ tôn giáo mà vua đã áp đặt cách bất công, tôi không thể và cũng không phải vâng theo."
Bị kết án tử hình về tội phản quốc, ngài đã trung tín cho đến cùng, ngay cả khi đứng trên đoạn đầu đài và được hứa sẽ trao trả tự do nếu từ chối đức tin. Ngài bị treo cổ ở Glasgow năm 1615 lúc ba mươi sáu tuổi.
Cha Gioan Ogilvie được phong thánh năm 1976, là vị thánh Tô Cách Lan đầu tiên kể từ năm 1250.
* Phái Calvin là một phương thức giải thích Phúc Âm theo John Calvin. Calvin sống ở Pháp trong thập niên 1500 đồng thời với Martin Luther, người phát động phong trào Cải Cách Tin Lành.
Phương thức Calvin bám vào các điểm cực đoan của phúc âm và tìm cách đưa ra các công thức thần học chỉ dựa trên lời Chúa. Họ nhắm đến sự tối thượng của Thiên Chúa, khẳng định rằng Thiên Chúa thì có thể và sẵn sàng thể hiện bất cứ điều gì Ngài muốn đối với tạo vật, vì Ngài thông suốt mọi sự, ở khắp mọi nơi và toàn năng. Họ cũng cho rằng trong Phúc Âm có các dạy dỗ sau: Thiên Chúa, qua ơn sủng tối cao, Ngài tiền định cho con người được ơn cứu độ; Ðức Giêsu chỉ chết cho những ai đã được tiền định; Thiên Chúa tái sinh những ai mà Ngài thấy họ có thể và muốn chọn theo Thiên Chúa; và những người đã được cứu độ không thể nào mất ơn ấy.
Ngày10/3 Thánh Đaminh Saviô (c. 1857)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Đaminh Saviô (c. 1857)
Lược sử
Nhiều người thánh thiện dường như lại chết yểu. Trong số đó có Thánh Đaminh Saviô, quan thầy của các chú hội hát.
Sinh trong một gia đình nông dân ở Riva, Ý Đại Lợi, ngay từ khi lên bốn, mẹ ngài đã thấy cậu con trai bé nhỏ quỳ cầu nguyện trong một góc nhà. Lúc năm tuổi, ngài là chú giúp lễ. Khi lên bẩy, ngài được Rước Lễ Lần Đầu. Vào ngày trọng đại ấy, ngài đã chọn phương châm: "Thà chết chứ không phạm tội!" và ngài luôn luôn giữ điều ấy.
Quả thật, Đaminh là một cậu bé bình thường nhưng lòng yêu mến Thiên Chúa của cậu thật phi thường.
Vào lúc 12 tuổi, Đaminh theo học trường của Thánh Don Bosco. Qua cách cầu nguyện của Đaminh, mọi người trong trường đều nhận thấy cậu thật khác biệt. Đaminh yêu quý tất cả mọi người, và dù trẻ hơn họ, cậu cũng lo lắng để ý đến họ. Cậu sợ rằng họ sẽ mất ơn sủng của Thiên Chúa vì tội lỗi.
Có lần, chúng bạn đưa cho cậu xem hình ảnh đồi trụy. Vừa thoáng nhìn thấy, cậu đã cầm lấy tờ báo xé tan ra từng mảnh và hỏi, "Thiên Chúa ban cho chúng ta cặp mắt để nhìn những điều xấu xa như vậy hả? Các anh không thấy xấu hổ sao?"
Một lần khác, hai đứa con trai giận dữ lấy đá ném nhau. Thấy thế, Đaminh đứng vào giữa, cầm tượng thánh giá nhỏ đưa lên cao, và nói, "Trước khi đánh nhau, mấy anh hãy nhìn vào thánh giá và nói, 'Đức Giêsu Kitô vô tội khi Ngài chịu chết đã tha thứ cho kẻ giết mình. Tôi là kẻ tội lỗi, và tôi sẽ làm đau khổ Ngài khi không tha thứ cho kẻ thù.' Rồi sau đó mấy anh hãy bắt đầu -- và hãy ném đá tôi trước!"
Hai anh kia cảm thấy xấu hổ, xin lỗi nhau và hứa sẽ đi xưng tội.
Sức khoẻ của Đaminh rất mỏng manh, thường hay đau yếu luôn và đưa đến biến chứng về phổi khiến cậu phải về nhà để tĩnh dưỡng. Tuy nhiên, khi ở nhà, bệnh tình lại càng gia tăng nên đã được chịu các Bí Tích sau cùng. Lúc ấy Đaminh mới 15 tuổi, nhưng cậu không sợ chết. Thật vậy, cậu vô cùng sung sướng khi nghĩ đến lúc được lên thiên đàng. Ngay trước khi chết, cậu cố gượng ngồi dậy. Cậu nói thầm vào tai cha mình, "Giã biệt bố." Rồi bỗng dưng mặt cậu tươi sáng với nụ cười rạng rỡ. Cậu kêu lên, "Con đang nhìn thấy những điều kỳ diệu!" và trút hơi thở cuối cùng.
Chính Thánh Don Bosco là người viết lại tiểu sử của Đaminh Saviô.
Đaminh Saviô được phong thánh năm 1954. Trong buổi lễ phong thánh, Thánh Giáo Hoàng Piô X đã nói, "Một thiếu niên như Đaminh, là người cố gắng giữ mình sạch tội từ khi rửa tội cho đến khi chết, quả thật là một vị thánh."
Suy niệm 1: Chết yểu
Nhiều người thánh thiện dường như lại chết yểu. Trong số đó có Thánh Đaminh Saviô, quan thầy của các chú hội hát.
Chết là định luật của mọi người. Chỉ có điều khác biệt là sớm hoặc muộn, trẻ hoặc già, và nhất là có ghi lại sử xanh hay không, nghĩa là cái chết làm tăng hay đánh mất giá trị cuộc đời của một con người.
Chết yểu mà được trở thành thánh nhân còn hơn là sống thọ mà mang thân phận tội nhân. Cách chết thì có nhiều nhưng bí quyết chết lành thánh thì chỉ có một: tâm hồn sạch tội. Chính vì thế ngay từ lúc được bảy tuổi khi được Rước Lễ lần đầu, Saviô đã quyết tâm thà chết chứ không phạm tội.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn giữ tâm hồn trong sạch để có được cái chết lành thánh.
Suy niệm 2: Cầu nguyện
Ngay từ khi lên bốn, mẹ Saviô đã thấy cậu con trai bé nhỏ quỳ cầu nguyện trong một góc nhà.
Qua gương thánh trẻ Saviô, chúng ta ghi nhận một bài học kép: đó là việc cầu nguyện không hạn định lứa tuổi cũng như không lệ thuộc vào nơi chốn.
Dầu bốn tuổi và ở một góc nhà vẫn có thể cầu nguyện được, vì cầu nguyện vốn là một cuộc gặp gỡ không phân biệt tuổi tác với Thiên Chúa, Đấng hiện diện ở khắp mọi nơi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chuyên tâm cầu nguyện mọi lúc và mọi nơi.
Suy niệm 3: Phương châm
Saviô đã chọn phương châm: "Thà chết chứ không phạm tội!" và ngài luôn luôn giữ điều ấy.
Phương châm là một định hướng sống cho một đời người. Nhiều người đã có phương châm cho đời mình, nhưng điều quan trọng là có giữ được không. Với Saviô, ngài đã thực thi không chỉ cho mình mà còn cho người nữa.
Có một lần, thấy hai đứa con trai giận dữ lấy đá ném nhau. Ngài can thiệp bằng việc cầm thánh giá mời gọi sự tha thứ theo gương Đức Giêsu. Hai anh kia cảm thấy xấu hổ, xin lỗi nhau và hứa sẽ đi xưng tội.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ sống thánh mà còn giúp người nên thánh.
Suy niệm 4: Bình thường
Đaminh là một cậu bé bình thường nhưng lòng yêu mến Thiên Chúa của cậu thật phi thường.
Thánh Đaminh Saviô thường nói: "Tôi không làm được những điều trọng đại. Nhưng tôi muốn tất cả những gì tôi làm, ngay cả những gì nhỏ nhặt nhất, là để vinh danh Thiên Chúa."
Tôi thích sự buồn tẻ của việc hy sinh âm thầm hơn là những trạng thái xuất thần. Nhặt một cây kim vì tình yêu cũng có thể hoán cải một linh hồn." Đó là những lời của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Và quả thật, những hy sinh âm thầm của ngài đã hoán cải các linh hồn. Không mấy vị thánh của Thiên Chúa nổi tiếng như vị thánh trẻ trung này.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không đặt vấn đề việc trọng hèn mà chú tâm làm vì vinh danh Thiên Chúa.
Suy niệm 5: Sợ
Đaminh yêu quý tất cả mọi người, và dù trẻ hơn họ, cậu cũng lo lắng để ý đến họ. Cậu sợ rằng họ sẽ mất ơn sủng của Thiên Chúa vì tội lỗi.
Trên đời không thiếu những nỗi sợ hãi. Hêrôđê sợ mất ngai vàng khi hài nhi Giêsu hạ sinh (Mt 2,3). Các tông đồ sợ cuồng phong bảo tố hòng làm chìm thuyền (Mc 4,38). Vị chỉ huy sợ người ta xé xác Phaolô (Cv 23,10).
Saviô không sợ gì ngay cả cái chết mà ngược lại vô cùng sung sướng khi nghĩ đến lúc được lên thiên đàng. Nhưng ngài lại sợ lắm người sẽ mất ơn sủng của Thiên Chúa vì tội lỗi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có sợ thì sợ phạm tội, sợ mất phần phúc thiên đàng.
Suy niệm 6: Mắt
Có lần, chúng bạn đưa cho Saviô xem hình ảnh đồi trụy. Vừa thoáng nhìn thấy, cậu đã cầm lấy tờ báo xé tan ra từng mảnh và hô to:, "Thiên Chúa ban cho chúng ta cặp mắt để nhìn những điều xấu xa như vậy hả? Các anh không thấy xấu hổ sao?"
Đôi mắt sáng là một hồng ân Chúa ban, vì thế khi còn ở tại thế Đức Giêsu đã từng xót thương để chữa lành mắt cho nhiều người bị đui mù, thậm chí vừa mù vừa câm hoặc mù từ lúc bình sinh.
Cảm tạ Chúa đã thương ban cho mỗi người chúng ta có đôi mắt sáng. Để đáp trả hồng ân cao quý ấy, thiết tưởng chúng ta hãy sử dụng đúng ý Chúa, có nghĩa là hãy đọc và suy gẫm Lời Chúa, hãy nhìn thấy Chúa hiện diện nơi tha nhân để phục vụ hết mình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng vì đôi mắt sáng mà phạm tội và gây gương xấu làm mất lòng Chúa cũng như làm thiệt hại cho mình cho người.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 09/3 Thánh Phanxica Romana Nữ tu (1384 - 1440)
- Ngày 08/3 Thánh Gioan của Thiên Chúa (1495-1550)
- Ngày 07/3 Thánh Perpetua và Thánh Felicity (c. 203)
- Ngày 06/3 Tôi tớ Thiên Chúa Sylvester ở Assisi
- Ngày 05/3 Thánh Gioan Giuse của Thánh Giá (1654-1734)
- Ngày 04/3 Thánh Casimir (1458-1483)
- Ngày 03/3 Thánh Katharine Drexel (1858-1955)
- Ngày 02/3: Thánh Agnes ở Bohemia (1205-1282)
- Ngày 01/3 Thánh Ðavít (c. 589)
- Ngày 28/2 Thánh Grêgôriô II (c. 731)