Không phải chờ đến năm 2013 nhà nước CHXHCN/VC mới ghi điều 4 trên giấy để chiếm độc quyền lãnh đạo đất nước và xã hội. Trái lại, trong những bản văn họ gọi là Hiến Pháp viết vào những năm 1946, 1959, tuy không có điều khoản nào tương tự với điều 4/2013, họ đã hành sử như là lẽ đương nhiên có mà không cần phải viết ra. Sau này, họ thấy không thể làm liều mãi như thế nên điều 4 mới được ghi trên giấy trắng mực đen vào năm 1980.
Sở dĩ có chuyện phải viết ra trên giấy là vì, sau ngày 30-4-1975, những đôi mắt chão chuộc từ bắc vào, từ bưng biền ra đã ngơ ngác trước cảnh sống thực của miền nam. Nơi mà nhà cầm quyền miền bắc ra rả tuyên truyền lừa bịp người dân và đoàn quân sinh bắc tử nam trong suốt hơn hai mươi năm qua là, “ ở miền nam đồng bào ta bị Mỹ- Ngụy kìm kẹp, khổ cực đến nỗi không có mảnh vải để che kín “ bác Hồ ”, khi ăn thì cái bát mẻ cũng không có, phải lấy miếng vỏ dừa mà đựng cơm”, nay đến nơi, hỡi ơi, như thiên đàng trong mộng. Kẻ bật khóc bảo rằng “ man rợ thắng văn minh” ( DTH). Nên sau ngày dẫn vài con heo về cột ở trước những tòa nhà cao, cơ quan, sân tòa Đô Chánh, Tòa án và thả cá vào bồn vệ sinh để nuôi, lớp người mới đến ngỡ ngàng nhìn lại thân thể mình, thấy miếng ăn, tiếng nói của cả đoàn như người tiền sử đến và làm dơ bẩn lây cho miền nam. Vì chưa được giáo hóa, họ không dừng lại trong chiêm ngưỡng, trân trọng. Trái lại, tất cả đều lăn tay áo lên, khởi đầu cho một chương mới của cách mạng Việt cộng. Chương tháo gỡ!
Khởi đầu, kẻ len lén đưa nhau ra chợ trời kiếm vài bộ quần áo cũ, hay cái đài mà người miền nam đã vất vào góc nhà từ lâu, nay lôi ra lau chùi, đem ra chợ giời ngả gía với các nhà cách mạng mới vào phố lần đầu. Kẻ dáo dác, sững sờ nhìn xem cái đồng hồ không người lái có một, hay hai cửa sổ. Cao cấp hơn kiếm cái xe đạp, cái máy chém… gió (quạt điện), cái máy rét (tủ lạnh)! Cứ thế, cũ người mới ta! Kẻ nào có trong tay 4 bảo vật điện, đài, đổng, đạp là tự nhiên thấy ngang bằng giời, thiên hạ đều là dưới mắt! Trong lúc đó, lãnh đạo lặng lẽ đi tháo gỡ, khuân vác đồ dùng ở các cơ quan, chất lên xe. Miếng tôn, con ốc, cái cánh cửa của trường học, của các gia đình đã di tản, không trừ một thứ gì đều có thể trở thành của riêng. Họ tháo gỡ nhanh nhẹn, tự nhiên lắm. Chuyện cũ ấy, không biết “ kẻ thắng cuộc” có còn nhớ hay đã quên?
Riêng người miền nam từ đây trắng mắt ra vì sự nghiệp cách mạng tháo gỡ của Việt cộng. Sau màn vơ vét đồ đạc của cải là sự xuất hiện điều 4 trong bản văn gọi là “hiến pháp thống nhất” 1980: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam được vũ trang bằng học thuyết Mác Lênin là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội”.
Đến năm 1992, bản văn này được đem ra cạo sửa. Điều số 4 được lập lại gần như nguyên bản. Cách đây 2 năm, nó lại ồn ào theo những cái loa ở đầu đường. Vui hơn, nhà nước mở tuồng diễn hài, hỏi ý kiến nhân dân xem cạo sửa thế nào cho tiện. Kết qủa, về phía dân chúng, một em học sinh 19 tuổi, sinh ra sau cái ngày VC cạo sửa HP lần thứ 4 (1992) đã công khai tuyên bố trước tòa án, là cơ sở bảo vệ cho cái bản văn ấy là “ đảng cộng sản đi chết đi”. Đanh thép qúa. Mọi người đã nghe rõ ràng nhá. Lời công bố trước tòa án của em cho thấy sự tồn tại của đảng CS trên đất Việt là không chính đáng, là hoàn toàn không thể chấp nhận được. Nó như loài ký sinh phải bị khai trừ, phải bị triệt tiêu để người dân được sống.
Nghe thế, phía đảng cộng cũng không kém, cử chủ tịch nước ra tuyên bố “ bỏ điều số 4 là tự sát”. Nghĩa là nếu không giữ được cái điều số 4 này là đảng ta kéo nhau Xuống Hố Cả Nút đấy. Cũng dứt khoát, quyết liệt lắm. Nhưng bám vúi vào đâu mà CS tự “ cho phép”, tự “thừa hưởng”, hay là tự cướp đoạt công quyền của người dân?
a. “Không thể bỏ Điều 4 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (VOV, 27/5/13) cơ quan tuyên truyền chính thức của nhà nước VC phát đi lời bảo vệ điều 4 như sau: “ Trải qua nhiều thăng trầm, khó khăn của đất nước, nhân dân ta vẫn kiên trì đi theo sự lãnh đạo của đảng …. việc giữ Điều 4 quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng là cần thiết. Quy định này khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu khách quan sự lãnh đạo của Đảng…”
b. Trang mạng của Nguyễn tấn Dũng ngày 07/03/2013 có bài viết: “Tìm hiểu về điều 4 trong hiến pháp Việt Nam” như sau: “Hiến pháp “thừa nhận” Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không phải “cho phép” Đảng được lãnh đạo Nhà nước và xã hội… lịch sử đã chúng minh Đảng Cộng Sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất đáp ứng các yêu cầu bức thiết của nhân dân ta trong các giai đoạn cách mạng. Nhiều Đảng vì không thể đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của nhân dân mà tự nguyện giải tán (Đảng dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam đã tự tuyên bố giải thể năm 1988)... Như vậy “Giấy phép” cho Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo chính là lòng “tin yêu” của dân. Bởi lẻ, từ khi Đảng ra đời đến nay do ý Đảng hợp lòng dân…” Viết rông rài mà không biết có hiểu chữ lịch sử là gì hay không?
c. Báo Công an TP/HCM, đại diện chính thức cho những kẻ chuyên nghề vác búa, có bài viết: “Suy nghĩ về điều 4 HP”ngày 14/10/12: “Về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, có ý kiến cho rằng, vai trò lãnh đạo của Đảng được thực hiện là từ Đảng có chủ trương đúng, ý Đảng hợp lòng dân. Hiểu điều 4 của Hiến pháp như là “giấy phép” cho Đảng là không đúng. “Giấy phép” cho Đảng có vai trò lãnh đạo chính là lòng tin yêu của dân. Từ khi Đảng ra đời đến nay do ý Đảng hợp lòng dân…” Bài báo nêu rõ gốc của lý luận này là:“ các đại biểu đều nhất trí, tán thành việc giữ Điều 4 quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng là cần thiết. Quy định này khẳng định tính lịch sử…”
Tưởng cũng nên nhắc lại là tất cả các đại biểu trong quốc hội Chuột mà bài báo nhắc đến đều là các đảng viên thuộc diện ủy viên trung ương đảng CS. Chẳng có Lê thị Công Nhân, Nguyễn văn Đài, Lê Công Định, em học sinh Phương Uyên…. hay người dân nào khác. Lý do, đại biểu là những học viên đã qua học tập, đã xác định lập trường trung thành với giai cấp vô sản, là những người đã kinh qua kiểm thảo và đã công khai tuyên bố: “ căm thù và đoạn tuyệt với bố mẹ” như Trần Đĩnh đã viết trong Đèn Cù. Họ như thế nên mới thành đại biểu, mới đủ khả năng để viết “ Ý đảng hợp lòng dân”, ngoài ra là không có ai.
Trở lại với những trích dẫn trên, chúng ta có thể nhìn ra sự “chính đáng” hay “quyền lãnh đạo” chính trị và xã hội của cộng sản do các đảng viên Việt Cộng tự sướng, tự diễn dựa trên những điểm sau:
1. Tính lịch sử: có công đánh đuổi thực dân Pháp, và công lao “Ta đánh Mỹ, chiếm miền Nam là đánh cho Trung Quốc” (Lê Duẩn), nên ta có quyền lãnh đạo.
2. Chỉ có đảng cộng sản mới đủ khả năng lãnh đạo, các đảng phái khác đã thất bại, phải tự giải tán rồi.
3. Nhân dân vẫn kiên trì đi theo sự lãnh đạo của đảng, vì ” Ý đảng hợp lòng dân”. Sự thật thế nào?
1. Về tính lịch sử:
Phải công bằng nhận định rằng, dù tội ác của CS gây ra cho dân tộc Việt Nam có chất cao hơn núi, thì họ cũng có đôi ba phần công cán trong việc kháng chiến chống thực dân Pháp cho đến 1945. Sau đó, phải khẳng định rằng, công cán của CS đã không có, nên không thể nói đến chuyện bù lấp cho những tội ác mà chúng đã gây ra cho đất nước từ 1945-1954. Từ sau ngày 20-7-1954 đến nay thì chẳng còn một tý gì để gọi là công cán ngoài những tội ác cao tày non của chúng. Bằng chứng:
a. Cuộc chiến chống thực dân Pháp.1946-1954
Đọc sử ai cũng thấy cuộc chiến do cộng sản chủ động tạo ra với chiêu bài giành độc lập từ 1946-1954 làm tiêu hao hàng triệu sinh mệnh Việt Nam với đoạn kết ở Điện biên phủ là câu chuyện phù phiếm, vô lý, không đáng có. Bởi lẽ,
• Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Tranh thủ việc Nhật ủng hộ, vào ngày 11/3/1945, vua Bảo Đại ký đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam Độc Lập", tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884 cùng các hiệp ước nhận bảo hộ và từ bỏ chủ quyền khác, khôi phục nền Độc Lập của đất nước, thống nhất Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Từ Tuyên Ngôn này, chính phủ của Việt Nam Thống Nhất do Thủ Tướng Trần Trọng Kim đã được thành lập vào ngày 17/4/1945
• Về phía Pháp, Tổng Thống Vincent Auriol, nhân danh Tổng Thống Cộng Hòa Pháp và nhân danh Chủ Tịch Liên Hiệp Pháp, đã ký với Quốc Trưởng Bảo Đại Hiệp Định Elysée công nhận Việt Nam Thống Nhất Và Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp. ngà y 8-3-2949. Quy chế Liên Bang Đông Dương đã bị bãi bỏ.
• Do Quyết Nghị ngày 23-4-1949 Quốc Hội Nam Kỳ đã giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam Độc Lập và Thống Nhất.
Như thế, theo lịch sử, Việt Nam đã Độc Lập và Thống Nhất từ ngày 11/3/1945. Chính phủ của Việt Nam Độc Lập Thống Nhất do thủ tướng Trần trọng Kim lãnh đạo đã ra mắt Quốc Dân vào ngày 17-4-1945 là hợp pháp. Tuy nhiên, Hồ chí Minh vì muốn tiếm quyền nên từ ngày 19/8/1945 đã tiến hành đánh phá, cướp chính quyền tại nhiều địa phương. Rồi nhân cuộc bãi thị tuần hành của công chức, học sinh do chính phủ tổ chức tại Hà Nội. Việt Minh đã cướp chính quyền và buộc Quốc Trưởng Bảo Đại thoái vị. Đến ngày 6-3-1946, HCM ký thỏa ước Sơ bộ với Pháp, gồm 2 điều chính: Thứ nhất, Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện và tài chính riêng trong Liên Bang Đông Dương và nằm trong Liên Hiệp Pháp. Kế đến, Việt Nam sẵn sàng tiếp đón quân đội Pháp đến thay thế quân đội Trung Hoa để giải giáp quân đội Nhật. Nhưng sau đó, chính y lại tạo ra cuộc chiến Việt Pháp từ 1946- 1954 với chiêu bài Độc Lập. Nhìn chung, cuộc chiến này là phản bội, hoàn toàn vô ý nghĩa, phi lý. Nó vớ vẩn và không đáng có.
Tệ hơn, nó “đã làm thương vong cho 172,708 người về phía Pháp trong số đó 31,716 là binh sĩ thuộc ba nước Đông Dương, số thương vong về phía quân đội cộng sản không được biết rõ, nhưng được phỏng định ít nhất là nửa triệu, số thường dân bị thiệt mạng trong cuộc chiến vào khoảng 250,000 người… sự thiệt hại về tài sản của nhân dân và về những nguồn lợi kinh tế của Việt Nam trong suốt thời kỳ chiến tranh và cả những năm sau chiến tranh, cộng với sự thiệt hại về nhân mạng, đã cho thấy cái giá của chiến thắng quả thật là quá đắt” ( Lê xuân Khoa). Qúa đắt, phản phúc, phi lý vì thực tế Việt Nam đã có Độc Lập và Thống nhất trước khi cuộc chiến nổ ra. Nó thêm bất hạnh vì sau cuộc chiến, Việt Nam bị chia làm ra làm hai theo hiệp định Geneve 20-7-1954
b. Cuộc chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, với hơn 3 triệu mạng người phải chết oan.
Đây là cuộc chiến còn tồi tệ, phi lý hơn cuộc chiến Việt Pháp 1946-1954 do CS chủ trương. Nó đã đẩy cả hai miền nam bắc vào cuộc chiến đẫm máu và nước mắt trong chia lìa. Máu chảy thành sông, xương chất cao như núi và gây ra cuộc thù hận vẫn còn kéo dài đến hôm nay, dù cuộc chiến đã chấm dứt từ 40 năm qua. Tại sao lại có thảm cảnh này?
Trước hết về ý nghĩa. Cuộc chiến do tập đoàn CS HCM chủ xướng với sự trợ giúp của Nga- Tàu để đưa Việt Nam vào vòng nô lệ cho chủ nghĩa cộng sản đã thành tựu đúng hướng đi do HCM chủ trương, và Lê Duẫn, kẻ cầm đầu chiến tranh đã công bố chính nghĩa của cuộc chiến là : “Ta đánh là đánh cho Trung Quốc Liên sô…. Tất cả việc chúng tôi làm là vì Mao chủ tịch”. Nó chẳng có một tý hơi hướng, ý nghĩa nào để gọi là chống Mỹ cứu nước. Đã thế, từ sau ngày hết chiến tranh đến nay, cán lớn như chủ tịch nước, thủ tướng, bí thư đảng, không kể đến hàng ghế dưới, đều thay nhau tìm cách đến Mỹ để ăn mày, cúi xin “ Nó” cấp cho cái giấy tỵ nạn (cho mình và cho con cho cháu). Xem ra, không có một cán cộng nào, từ nhớn đến nhỏ, mồm thì chống Mỹ, nhưng bụng dạ thì đều có chung một mơ ước đến được đế quốc Mỹ xin tỵ nạn!
Riêng việc thống nhất đất nước, nhắc đến càng tủi nhục. Một đất nước Độc Lập, Thống Nhất từ 14-3-1945, vì HCM tạo phản, cướp chính quyền, tạo ra chiến tranh và phải chia ra làm hai. Nay sau hai mươi năm gây chiến với núi tang thương, tuy nước hết chia hai, nhưng nhiều phần đất, biển của Việt Nam có từ trước khi CS gây chiến tranh như Hoàng sa, Trường Sa nay ở đâu? CS đã bán đi, hay cống nạp cho Tàu để làm lễ ra mắt trong ngày xin làm nô lệ cho Trung cộng? Không những Hoàng Sa Trường Sa đã mất, mà cả Nam Quan, Bản Giốc, Tục Lãm, Lão Sơn, đến nhiều vùng biển, đất rừng đầu nguồn cũng không còn. Như thế là thống nhất ư? Ấy là chưa kể đến nỗi hận thù chất chứa trong lòng dân Việt đối với tập đoàn cộng sản từ trong thời chiến đến nay, đã 40 năm rồi, hận thù không hề vơi cạn, lại còn chồng chất thêm.
Riêng phần chủ quyền của đất nước, nền Độc Lập của dân tộc thì đã nằm trong tay Trung cộng toàn quyền vo tròn hay bóp méo. Tập đoàn đảng cộng sản hôm nay không hơn một đám nô lệ thay nhau kéo cày để kiếm sống.! Cái công lao của việc gây ra chiến tranh theo chiêu bài đánh Mỹ cứu nước, thống nhất tổ quốc của CS được tóm gọn trong bốn dòng chữ ngắn theo chủ trương của HCM như sau:
Trung cộng lãnh đạo.
Quan chức lãnh tiền.
Cán cộng lãnh lương,
Nhân dân lãnh nợ.
Như thế, nếu Cộng sản tựa vào việc gọi là “lịch sử tính” trong công cuộc đánh Pháp, đánh Mỹ để tự cho mình quyền lãnh đạo viết trong điều 4/ 2013 thi chỉ có một chữ duy nhất trong tự điển Việt Nam có khả năng diễn đạt toàn bộ ý nghĩa của hành động này: Cướp!
2. Chỉ có đảng cộng sản mới đủ khả năng lãnh đạo?
Đây có thể là chuyện khôi hài thứ hai. Bởi vì, cho đến hôm nay tại Việt Nam Không có một đảng phải nào được phép hoạt động, dù là trong bóng tối, nói chi đến công khai để mà thách đố quyền lãnh đạo với cộng sản để họ tự nói:“ chỉ có đảng cộng sản mới dủ khả năng lãnh đạo”. Hỏi xem, tập đoàn CS này có dám nhận lời em Vũ Thạch Tường Minh, chưa đầy 14 tuổi thách đố tài năng để lãnh đạo ngành giáo dục thay tập đoàn của Phạm vũ Luận theo cung cách rất tự tin là: “Qúy vị không làm được thì xuống đi, để cho em làm” hay không? Tôi cho rằng lời thách đố này là bản lãnh của sự hiểu biết. Tôi ủng hộ cuộc thách đấu này.
Kế đến, chuyện Huỳnh ngọc Sơn mang quân hàm thượng tướng, đóng vai phó chủ tịch quốc hội Chuột tuyên bố. “Nhiều lần ta cũng nghĩ tới việc lấy lại nhưng trong lúc này chưa thể lấy lại được. Để đời con đời cháu chúng ta lấy lại. "Ta như thế này thì bà con thấy ta ăn thua với họ được không? Ai tài giỏi thì thử chỉ huy ra đó coi có thắng không? Nếu họ dám nói lời thách đố như thế thì hãy bảo nhau từ chức đi, trả quyền chính trị lại cho dân, giao nhiệm vụ cho những người khác không phải là CS, xem thế nào. Tôi dám cá bằng sinh mệnh của tôi là Trung cộng không dám nghênh ngang như thế. Tôi tin rằng, người Việt Nam còn chút liêm sỹ vì tổ quốc không hèn hạ vơ vét của công, của tư, sau đó đẩy việc cho người khác như kiểu Vũ đức Đam, Huỳnh ngọc Sơn…đã nói, đã làm. Trái lại, hãy nhìn một Ngụy văn Thà, một Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Lê đăng Vỹ, Trần văn Hai, Hồ ngọc Cẩn, Trung Tá Long … và những chiến thuyền ra Trường Sa thì biết. Hoặc gỉa, đến hỏi em Nguyễn Phương Uyên cũng có câu trả lời thích đáng.
Theo đó, chỉ có những kẻ “ khốn nạn hoặc tâm thần” ( NBC) mới đưa ra lời khẳng định “chỉ có đảng cộng sản mới đủ khả năng lãnh đạo đất nước và xã hội”. Bởi vì ủy viên bộ chính trị, kiêm Chủ tich nhà nước là Nguyễn minh Triết đã khẳng định “Bỏ điều 4 là tự sát” đã cho thấy khả năng lãnh đạo của đảng CS ra sao? Như thế, nó chỉ nhờ vào chữ cướp, cái búa trong điều số 4 mà sống còn. Hoặc gỉa, phải nhờ chủ tịch nước ra ngoài mời chào khách với ngôn từ như một tên ma cô đứng đường “ vào đi các ông ở Việt Nam có nhiều gái” để cho đảng tồn tại. Ngoài ra là không còn cách nào khác. Nếu CS phải nhờ những “ bảo vật” ấy để cho thấy tài lãnh đạo của mình thì tôi cũng nói thật, các đảng khác phải chịu thua, thua không một lời nói năng!
3. Ý đảng hợp lòng dân! Họ kiên trì đi theo đảng?
Dân là ai? Là trên 90 triệu người Việt Nam đang sống trong nước.
Đảng là ai? Là tập đoàn có khoảng 4-5 triệu cá thể (tính cả về hưu), có thẻ đoàn đảng viên cộng sản, là những học viên đã kinh qua học tập và kiểm thảo thề trung thành với giai cấp vô sản.( Đèn Cù)
Làm sao để chứng minh 90 triệu người dân Việt Nam ủng hộ Việt cộng và kiên trì đi theo đảng như những đoạn trích ở trên? Có phải:
- CS đã trưng cầu dân ý, đã tổ chức bầu cử, ứng cử trong tự do? Không, không bao giờ.
-CS đưa giấy đến tận nhà để thỉnh ý kiến của chủ nhân? Không, không bao giờ.
- CS đem búa đến tận nhà buộc dân phải ký giấy “ dâng” ruộng đất cho nhà nước trong mùa đấu tố và sau này là các quy hoạch? Đó là chuyện thường tình. Không có một ngày nào trong hơn sáu mươi năm qua mà không có trường hợp này xảy ra. Nó là cơm bữa. Không búa người này thì cũng bổ nhà khác.
- Cộng đảng viết, Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc, dân có hạnh phúc không? Có đấy. Từ ngày có chuyện thằng cuội và cây đa Tân Trào, mọi người, kể cá các đoàn đảng viên, chưa có một đêm nào tròn giấc ngủ, chưa có một bữa cơm nào không lo âu. Phía thì lo trộm cướp, bên thì lo mất nhà, mất mạng. Tóm lại, lòng dân Việt và ý đảng cộng được “ quy hoạch” như sau:
a. Lòng dân Việt:
Đảng cộng sản đi chết đi, Tàu khựa cút khỏi biển đông, No U. Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Tự Do, Nhân Quyền, Công Lý cho Việt Nam. Trả đất cho dân Oan. Trả các cơ sở của Tôn Gíao lại cho tôn giáo. Triệt căn nền văn hóa vô đạo của cộng sản. Chấm dứt việc xây các tượng đài, dùng ngân qũy này để miễn giảm học phí cho học sinh, sinh viên…
b. Ý đảng cộng.
“Ta dánh chiếm miền nam là đánh cho Trung Quốc( Lê Duẫn). Bỏ điều 4 là tự sát ( Triết). Ta đã viết công hàm giao Hoàng Sa Trường Sa cho “ nước lạ” từ 1958 rồi (Đồng), để đời con cháu chúng ta đòi lại cũng chưa muộn (Đam, Sơn…)”. Tổng luận: Đây là lúc đảng ta kiên quyết thực hiện chủ trương của đảng: Trung quốc lãnh đạo, quan chức lãnh lương, cán bộ lãnh tiền, nhân dân lãnh nợ. Nước có thể mất song chân lý ấy đời đời không thay đổi…
Để kết, tôi xin trích thuật lại một câu chuyện xảy ra ở Hà Nội vào ngày 20-9-2008. Câu chuyện khả dĩ là tiêu biểu cho cái tính chính danh, chính đáng của điều 4 trong HP/VC. Trong cuộc họp để tháo gỡ những bế tắc về tài sản, đất đai của Tòa Giám Mục Hà Nội với UNNDTP/HN do UBTP tổ chức tại Văn phòng của Ủy ban ngày 20-9- 2008. Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt (phía bị buộc dâng đất) đã công khai nói lên sự hiện hiện của nhà nước CS trên phần đất Việt Nam hôm nay là: “bây giờ kẻ cướp vào nhà chúng tôi rồi ngang nhiên ở đó, rồi không có giấy tờ gì hết, và họ mạnh chúng tôi không đuổi ra được thì đương nhiên họ chiếm ( làm chủ) hay sao?!
Kết qủa, nhà nước đã không tìm ra được câu trả lời thỏa đáng, Phần bản thân người nói lên tiếng nói của Sự Thật thì bị tập thể CS mở cuộc đấu tố, vùi dập! Như thế, từ cướp trong tự điển, cuộc đấu tố và cái búa luôn đồng nghĩa với tính “chính danh”, sự “chính đáng” của điều 4 trong HP của nhà nước CS vậy.
Bảo Giang
Tập Cận Bình : Tôi nói mấy anh Hà Nội có nghe rõ không ?
Viết bởi Phạm Trần
Ngày mồng Hai tháng Chín năm 1945, tại cuộc mít tinh Tuyên bố Độc lập ở Qủang trường Ba Đình, ông Hồ Chí Minh đã để lại câu nói lịch sử : “Tôi nói, đồng bào có nghe rõ không?”
Bây giờ, 70 năm sau, ngày 25/09/2015 người ta cũng mường tượng nghe thấy Lãnh tụ Trung Quốc Tập Cận Bình đã nói từ Dinh Tổng thống Mỹ:”Tôi nói, mấy anh Hà Nội có nghe rõ không ?”
Vậy họ Tập đã nói gì mà nghe quen quen ?
Câu chuyện bắt đầu từ cuộc họp báo chung giữa Tổng thống Barack Obama và ông Tập Cận Bình diễn ra tại vườn Hồng trong Tòa Bạch Ốc, tiếp theo sau cuộc họp riêng giữa hai người nhân chuyến thăm chính thức nước Mỹ của họ Tập.
Hai lãnh tụ đã thảo luận các vấn đề quan tâm đến hai nước, từ mậu dịch đến nghi ngờ Trung Quốc đứng sau hàng loạt tin tặc xâm nhập các công ty, xí nghiệp Mỹ họat động ở Trung Quốc và Hoa Kỷ để đánh cắp tin tức và kế họach giúp cho Trung Quốc cạnh tranh bất chính. Trên 22 triệu nhân viên Chính phủ Mỹ và một số cơ quan trọng yếu về an ninh như hai Bộ Quốc phòng và An ninh Quốc gia, bao gồm cả CIA (Tình báo Hoa Kỳ), FBI (cơ quan điều tra liên bang Hoa Kỳ) cũng bị xâm nhập.
Ngòai ra hai bên cũng thảo luận và đồng ý kế họach gỉam thiểu chất độc làm ô nhiễm khí hậu và hứa cùng nhau hợp tác giải quyết cuộc khủng hỏang về môi trường và khí hậu trên thế giới.
CHUYỆN BIỂN ĐÔNG
Đến chuyện khủng hoảng ở Biển Đông do hành động bồi đắp và bành trướng lãnh thổ của Bắc Kinh gây ra, Tổng thống Obama cho biết: “ Chúng tôi đã thẳng thắn thảo luận vấn đề biển Đông và Nam Trung Hoa, và tôi đã tái khẳng định quyền của mọi quốc gia được tự do giao thông thương mại trên biển và trên không không bị ngăn cản. Do đó, tôi đã lưu ý là Hoa Kỳ sẽ tiếp tục lướt sóng, bay và họat động bất cứ nơi nào mà luật pháp Quốc tế cho phép.”
(”We did have candid discussions on the East and South China Seas, and I reiterated the right of all countries to freedom of navigation and overflight and to unimpeded commerce. As such, I indicated that the United States will continue to sail, fly and operate anywhere that international law allows.” (Thông tin của Văn phòng Báo chí Phủ Tổng thống)
“Tôi cũng đã nói với Chủ tịch Tập về mối quan ngại đặc biệt của Hoa Kỳ về hành động dành chủ quyền đất đai, xây dựng và quân sự hóa những vùng tranh chấp, gây khó khăn cho các quốc gia trong vùng giải quyết hòa bình những bất đồng. Vì vậy tôi khuyến khích tìm ra một giải pháp giữa các quốc gia tranh chấp ở khu vực này. Hoa Kỳ không phải là nước có tranh chấp; Chúng tôi chỉ muốn bảo đảm luật pháp của lưu thông phải được bảo vệ.”
(I conveyed to President Xi our significant concerns over land reclamation, construction and the militarization of disputed areas, which makes it harder for countries in the region to resolve disagreements peacefully. And I encouraged a resolution between claimants in these areas. We are not a claimant; we just want to make sure that the rules of the road are upheld.)
LÃNH THỔ CỦA TRUNG HOA
Đến phiên Tập Cận Bình, ông ta nói: “ Chúng tôi đã có cuộc thảo luận sâu rộng về tình hình Châu Á-Thái Bình Dương. Và chúng tôi tin rằng Trung Quốc và Hoa Kỳ cùng có quyền lợi chung rộng rãi ở khu vực, và chúng ta nên tiếp tục tăng cường trao đổi và hợp tác trong các lĩnh vực ở đó, và cùng làm việc với nhau để cổ võ những họat động và hợp tác hỗ tương trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương, và cùng làm việc với các nước trong khu vực để mưu cầu hòa bình, ổn định và thịnh vượng chung.”
(--Lời Thông dịch viên: “We have in-depth discussion on the situation of the Asia Pacific. And we believe that China and the United States have extensive common interests in this region, and we should continue to deepen dialogue and cooperation on regional affairs and work together to promote active interactions and inclusive cooperation in the Asia Pacific, and work with countries in the Asia Pacific to promote peace, stability, and prosperity in this region.”
Với gương mặt lạnh như đồng nhưng cương quyết, họ Tập nhìn thẳng các Nhà báo nói tiếp : “ Trung Quốc cam kết theo đuổi chính sách phát triển hòa bình, láng giềng tốt và hợp tác với các quốc gia láng giềng của chúng tôi. Các hòn đảo ở biển Nam Trung Hoa, từ thời cổ đại, là lãnh thổ của Trung Quốc. Chúng tôi có tòan quyền bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hợp pháp của chúng tôi, cũng như các quyền lợi chính đáng về hàng hải. Chúng tôi cam kết duy trì hòa bình và ổn định ở vùng biển Nam Trung Hoa, dung hòa khác biệt và tranh chấp qua đối thọai, thương thuyết, tham khảo lẫn nhau trong hòa bình để mưu tìm giải pháp cùng có lợi thông qua hợp tác.”
(China is committed to the path of peaceful development and a neighboring foreign policy characterized by good neighborliness and partnership with our neighbors. Islands in the South China Sea since ancient times are China’s territory. We have the right to uphold our own territorial sovereignty and lawful and legitimate maritime rights and interests. We are committed to maintaining peace and stability in the South China Sea, managing differences and disputes through dialogue, and addressing disputes through negotiation, consultation, and peaceful manner, and exploring ways to achieve mutual benefit through cooperation.)
Ngỏanh mặt về phía Tổng thống Obama, nhà Lãnh đạo Trung Quốc nói như trả lời trực tiếp quan ngại của Mỹ : “Chúng tôi cam đoan bảo vệ lưu thông hàng hải và hàng không của các quốc gia theo luật pháp quốc tế. Liên quan đến các hoạt động xây cất của Trung Quốc thi hành ở quần đảo ở phía Nam, Trường Sa, không nhắm vào hay gây ảnh hưởng đến bất cứ nước nào, và Trung Quốc không có chủ tâm tiến tới quân sự hóa ở đó.”
(We're committed to respecting and upholding the freedom of navigation and overflight that countries enjoy according to international law. Relevant construction activities that China are undertaking in the island of South -- Nansha Islands do not target or impact any country, and China does not intend to pursue militarization.)
Giải thích rõ hơn với báo chí, họ Tập nhắc lại rằng: “ Trung Hoa và Hoa Kỳ đều có những quyền lợi chung ở vùng biển Nam Trung Hoa. Chúng ta cùng ủng hộ một Nam Hải hòa bình và ổn định. Những nước trực tiếp có tranh chấp hãy làm việc qua thương lượng, tham khảo lẫn nhau bằng những biện pháp hòa bình. Chúng tôi ủng hộ tự do lưu thông hàng hải và bay trên không của tất cả các quốc gia theo luật pháp quốc tế và giải quyết sự khác biệt qua thương thuyết, thi hành đầy đủ Tuyên bố về Ứng xử Các bên ở Biển Đông (DOC, Declaration on Conduct of the Parties in the South China Sea), và sớm hòan tất thương thảo về Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC, Code of Conduct) dựa trên sự đồng thuận. Chúng tôi đồng ý duy trì tích cực mối liên lạc về những vấn đề liên quan.”
(China and the United States have a lot of common interests on the issue of South China Sea. We both support peace and stability of the South China Sea. The countries directly involved should address their dispute through negotiation, consultation and in peaceful means. And we support freedom of navigation and overflight of countries according to international law and the management of differences through dialogue, and full and effective implementation of DOC and an early conclusion of the consultation of COC based on consensus-building. We have agreed to maintain constructive communication on relevant issues.)
PHẢN ỨNG TỪ VIỆT NAM
Không có gì ngạc nhiên khi thấy các Nhà báo Trung Quốc, Hoa Kỳ và nước ngòai có mặt tại cuộc họp báo đã không có câu hỏi nào về lời tuyên bố như tát nước lạnh vào mặt Hà Nội của Tập Cận Bình. Nhưng phải thắc mắc tại sao đảng, chính phủ, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ ngọai giao Việt Nam, nhất là các cơ quan ngôn luận vẫn thường xuyên to mồm như Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Thông tấn xã Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam đã không dám hé răng mở miệng chỉ trích lời nói công khai xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam của họ Tập.
Trước đây, mỗi khi có câu nói tương tự phát ra từ cửa miệng Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường hay Bộ trưởng Ngọai giao Vương Nghị thì Ban Tuyên giáo chỉ thị ngay cho Bộ Thông tin và Truyên thông để truyền xuống các báo và Phát ngôn nhân Bộ Ngọai Giao mau mắn đáp trả bằng lời viết sẵn của chính phủ chỉ để lập lại câu nói “biết rồi khổ lắm nói mãi” : Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử xác định Hòang Sa-Trường Sa là của Việt Nam !
Lần này, phải đợi đến ngày 28/9 (2015), người ta mới nghe được phản ứng của ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đưa ra tại một cuộc họp của Tổ chức Xã hội Châu Á (Asia Society) ở New York.
Ông Sang nói:” (với phóng viên Ban tiếng Việt cùa Đài Tiếng nói Hoa Kỳ):“Người Trung Quốc, trong những lần gặp gỡ Việt Nam, cũng thường nói rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc, không gì tranh cãi. Thì người Việt Nam chúng tôi cũng nói lại rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của tổ tiên Việt Nam, không gì tranh cãi. Chắc các câu này các bạn đã nghe suốt”.
“Vấn đề đặt ra là chúng tôi mong muốn rằng mọi tranh chấp phải được giải quyết bằng luật pháp quốc tế và con đường duy nhất dẫn đến chỗ đó thôi, chứ không thể nói mãi như thế này được. Một anh đứng ở bên đây sông thì nói là của tôi, và một anh đứng ở bên kia sông thì nói là của anh. Như tôi đã nói với các bạn vừa nãy, trong lúc quá độ, hai bên đều thống nhất 6 nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo các vấn đề trên biển”.
6 NGUYÊN TẮC NÓI GÌ ?
6 “Nguyên tắc” ông Sang ám chỉ là Thỏa hiệp được ký tại Bắc Kinh trong chuyến thăm Trung Quốc lần thứ nhất của Tông Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng, ngay sau khi đắc cử Lãnh đạo khoá đảng XI ngày 20/01/2011.
Nguyên văn 6 Điểm như sau:
1. Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục, dưới sự chỉ đạo của phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đóng góp vào việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, góp phần duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.
2. Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển.
3. Trong tiến trình đàm phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC).
Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam-Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác.
4. Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này.
5. Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn.
6. Hai bên tiến hành cuộc gặp định kỳ Trưởng đoàn đàm phán biên giới cấp Chính phủ một năm hai lần, luân phiên tổ chức, khi cần thiết có thể tiến hành các cuộc gặp bất thường. Hai bên nhất trí thiết lập cơ chế đường dây nóng trong khuôn khổ đoàn đại biểu cấp Chính phủ để kịp thời trao đổi và xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển.
Sau thỏa hiệp căn bản này, các cuộc thảo luận đôi bên tiếp tục bế tắc vì Trung Quốc luôn luôn đòi phần hơn ở vịnh Bắc Bộ và muốn Việt Nam hợp thức hoá việc “hợp tác cùng khai thác” ở Biển Đông, nhưng chủ quyền biển đảo vẫn phải là của Trung Quốc như câu nói của Tập Cận Bình.
Đây là quan điểm Trung Quốc gọi là “vấn đề cốt lõi chủ quyền biển” đã đưa ra từ năm 1979 của Lãnh tụ Đặng Tiểu Bình và được duy trì để chuyển cho Việt Nam vá các nước có tranh chấp với Trung Quốc qua các đời Chủ tịch-Tổng Bí thư Cộng sản Trung Hoa Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào và Tập Cận Bình hiện nay.
Tuy nhiên tranh chấp Việt-Trung đã đạt cao độ khi Trung Quốc đặt gìan khoan dầu Hải Dương 981 vào sâu trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam gần đảo Hòang Sa từ ngày 2/5 đến 27/05/2014. Bắc Kinh chỉ rút lui sau khi bị Quốc tế lên án làm căng thẳng tình hình và cho biết họ đã tìm thấy có dầu và khí đốt tại 2 giếng đào thử, nhưng không nói khi nào sẽ trở lại khai thác.
Sau đó, Trung Quốc một mặt tiếp tục “nói chuyện phải trái với Việt Nam”, mặt khác lại tăng cường tái tạo, xây dựng 7 đảo và đá san hô chiếm được của Việt Nam ở Trường Sa năm 1988 thành các đảo lớn kiên cố có sân bay, bến cảng và căn cứ quân sự.
Để bảo vệ, nhiều Tiểu đòan Thủy quân Lục chiến Trung Hoa và đơn vị phòng không, súng đại bác đã được điều động đến Gạc Ma, Vành Khăn, Chữ Thập v.v…
Trước các hành động ngang nhiên chiếm biển đảo này của Trung Quốc, Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng âm thầm “đắp đập be bờ” ở một số đảo và đá ngầm, nhưng so với kiến thiết của Trung Quốc thì như muối bỏ biển, như châu chấu đá voi.
Về mặt ngọai giao và tuyên truyền, Bộ Ngọai giao Việt Nam chỉ làm được mỗi việc nhắc lại điệp khúc “tái khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”.
Lãnh đạo đảng, từ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xuống đến anh Tuyên giáo Xã, Phường cũng chỉ biết bảo nhau hô to kiên quyềt :”Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”, như viết trong Dự thảo Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng XII.
Vì vậy, chẳng phải ngẫu hứng mà ông Tập Cận Bình đã chọn Tòa Bạch Ốc trong chuyến thăm Mỹ ngày 25/09/2015 để nói rõ cho Hà Nội và cả Thế giới biết lập trường chủ quyền biển đảo của Trung Quốc ở Trường Sa.
Trong suốt cuộc họp báo với Tổng thống Obama họ Tập không nói gì đến Hòang Sa mà Trung Hoa đã chiếm từ tay Quân đội Việt Nam Cộng Hòa tháng 1/1974.
Điều này không lạ vì đã từ lâu, trong tất cả các cuộc gặp và thảo luận tranh chấp với Việt Nam, phía Trung Quốc đã gạt phăng như chuyện thừa thãi mất thời giờ mỗi khi phía Việt Nam muốn nhắc đến Hoàng Sa. Cũng là chuyện bất bình thường khi ít lâu nay, không thấy phía Việt Nam nói nhiều đến Hoàng Sa, ngọai trừ khi có các vụ tầu đánh cá Việt Nam bị Trung Quốc tấn công, cướp của ở khu vực biển Hoàng Sa.
Có tin Trung Quốc đã nói thẳng với Việt Nam “Hoàng Sa không có trong bất cứ cuộc nói chuyện nào”. Riêng Bộ Quốc phòng Việt Nam thì họ đã quên nói đến Hoàng Sa từ 1974. -/-
Phạm Trần
Tin khẩn: công an Tp. Vĩnh Long bắt các chức sắc tôn giáo
Viết bởi Pv. GNsP
GNsP(29.09.2015) – Vĩnh Long – Theo tin từ Chánh trị sự Nguyễn Bạch Phụng, đạo Cao Đài cho biết: chiều hôm qua Hoà thượng Thích Không Tánh, CTS Hứa Phi và CTS Bạch Phụng xuống Tp. Vĩnh Long thăm CTS Nguyễn Kim Lân, thành viên HĐLT VN mới hồi phục sau cơ phẫu thuật tim. Các chức sắc đã thông báo lưu trú với địa phương.
Sáng nay khi mọi người đang dùng cơm tại tư gia CTS Kim Lân, gần trăm công an sắc phục, thường phục và dân địa phương do công an huy động kéo đến bao vây nhà và yêu cầu những người lạ mặt rời khỏi địa phương! Họ lao vào lôi kéo khiến CTS Hứa Phi bị tăng huyết áp ngất xỉu. Họ đưa y tá phường đến kiểm tra và đúng như vậy nên để yên CTS. Còn CTS Bạch Phụng khi được yêu cầu về đồn CA phường 4, Tp. Vĩnh Long làm việc thì đã kiên quyết không đi. Công an đã lôi HT Không Tánh đưa về đồn công an. Hiện nay CTS Hứa Phi bị ngất xỉu do bị lôi kéo, xô đẩy mạnh. Hoà Thượng Không Tánh đang bị câu lưu tại đồn công an phường 4, 197 Trần Phú. Xin cấp báo đến các tổ chức nhân quyền và tôn giáo.
Hoà Thượng Thích Không Tánh đã ra khỏi đồn công an lúc 16g00 và cho GNsP biết ông bị công an Tp. Vĩnh Long bắt cóc đưa về đồn giam giữ hơn 3 tiếng. Hoà Thượng phản đối hành vi bắt người trái pháp luật và không trả lời bất cứ vấn đề gì. Đang khi ở đồn công an thì nhân viên Toà Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn gọi điện thoại cho Hoà Thượng và HT cho biết đang bị công an Vĩnh Long giam giữ. Công an ép Hoà Thượng viết giấy cam kết không làm gì trái pháp luật và yêu cầu HT rời khỏi địa bàn tỉnh Vĩnh Long, nhưng HT phản đối không viết.
Không khai thác được gì công an đề nghị HT ra thẳng bến xe về Sài Gòn, HT không đồng ý vì còn phải ghé nhà CTS Kim Lân báo tin đã ra khỏi đồn công an, cám ơn CTS Kim Lân và lấy đồ đạc đang để ở nhà CTS Kim Lân. Công an cho người chở Hoà Thượng về nhà CTS Kim Lân.
Pv. GNsP
Quân đội ôm Mác-Lênin cho đảng ngủ mê
Viết bởi Phạm Trần
Khi Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh cùng ra lệnh Quân đội phải kiên định với hai ông lạ hoắc người nước ngoài Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh để “bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” thì nhân dân mạt vận là hệ qủa “tất yếu của lịch sử”.
Tuyên bố của hai người đứng đầu Quân ủy Trung ương được đưa ra tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X (từ 21 đến 24/9/2015) ở Hà Nội.
CSVN có trên 5 triệu quân chính quy và trừ bị, nhưng chỉ có 450 đại biểu dự Đại hội, đại diện cho 250,000 đảng viên trong tòan bộ Quân đội. Như vậy đại đa số quân nhân không phải là đảng viên cũng phải chấp hành quyết định của Đại hội, trong đó có việc đồng ý Danh sách 43 đại biểu đi dự Đại hội đảng tòan quốc XII dự trù diễn ra đầu năm 2016. Danh tính và cấp bậc của 43 Đại biểu không được tiết lộ sau cuộc bầu chọn ngày 23/09 (2015).
Trong Diễn văn tại Đại hội, ông Trọng nói một trong những nhiệm vụ quan trọng của Quân đội là : “ Tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, kiên định Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào Quân đội cũng phải tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa….Giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quân đội; củng cố và phát triển mối quan hệ máu thịt giữa Quân đội với Nhân dân.” (Báo Quân đội Nhân dân, 22/09/2015)
Chủ trương này xưa như trái đất, càng nghe càng nhàm tai. Có điều là đến bây giờ, sau 26 năm Thế giới Cộng sản tan rã ở Đông Âu và Nga , sào huyệt của Thế giới Cộng sản, mà ông Nguyễn Phú Trọng vẫn bắt Quân đội phải đội lên đầu 3 cái xác Cộng sản vô hồn để tung hô thì nước tụt hậu và dân tiếp tục chậm tiến là chuyện phải có như gieo gió thì gặt bão.
Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quan Thanh cũng nói như vòi nước máy của người mới ra từ hang động: “ Kiên định quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.” (báo Quân đội Nhân dân, 21/09/2015)
THÙ ĐỊCH HAY BỊ MA ÁM ?
Bên cạnh những thành qủa 5 năm của khoá đảng XI mà đảng bộ Quân đội đã đóng góp, ông Trọng cảnh giác đất nước vẫn đang phải đối phó với tình trạng mà ông gọi là: “Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, thúc đẩy phi chính trị hóa lực lượng vũ trang, phi chính trị hóa quân đội để chống phá sự nghiệp cách mạng, phá hoại sự ổn định của đất nước.”
Nhưng thù địch là ai, ít hay nhiều, đàn ông hay đàn bà, hình thù như thế nào mà ghế gớm thế ? Không một đầu óc thông thái nào (nếu có) của Hội đồng Lý luận Trung ương hay Ban Tuyên giáo , kể cả Tổng Bí thư Trọng, cũng không biết chúng là ai, mặt mũi là dân nước nào trên thế giới. Đảng chỉ biết phát điên lên khi thấy sau 30 năm gọi là “đổi mới nhưng không đầu màu, hội nhập mà không hòa tan” đã có một số không nhỏ đảng viên và nhân dân không muốn dính dáng gì với đảng nữa mà còn bài bác cái chủ nghĩa thoái trào Cộng sản khiến Lãnh đạo run chân, đảng viên dao động gây rạn nứt trong nội bộ nên gọi đại là “các thế lực thù địch” chứ biết nói sao bây chừ ?
Tuy nhiên ông Trọng lại biết rõ mục tiêu chống đảng của kẻ thù khi nói rằng: “ Đối với nước ta, mục tiêu xuyên suốt, nhất quán của các thế lực thù địch là tìm mọi cách xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta, đưa Việt Nam đi theo ý đồ, quỹ đạo của họ. Thủ đoạn của họ là tiếp tục đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hòa bình", tăng cường sử dụng các biện pháp "tấn công mềm", tập trung làm chuyển biến về chính trị tư tưởng, thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa " từ trong nội bộ ta ; kích động, chia rẽ, thực hiện âm mưu phi chính trị hóa quân đội; hạ thấp, phủ nhận vai trò, uy tín lãnh đạo của Đảng; xóa bỏ mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội… “
Nhưng “họ” là ai mà cứ cáo buộc vu vơ như thế cả chục năm rồi ? Chẳng nhẽ kẻ thù lại đang nằm ngay trong tay áo đảng mà lãnh đạo không dám nói ra ?
Điển hình như chuyện đảng càng nói dai nói dài chống tham nhũng-lãng phí “đã tiến một bước” thì tình hình lại tiếp tục “vẫn còn nghiêm trọng, tinh vi và phức tạp” năm này qua nằm khác ? Nếu lãnh đạo thật tâm muốn diệt thì cũng chẳng khó, nhưng đàng này lại nể nang nhau, sợ vứt dây sẽ động đến rừng nên tham nhũng mới có đất thăng hoa.
Hay như “truyện dài” cải tổ hành chính thì càng cải lại càng hành dân hơn. Một số không nhỏ cán bộ, đảng viên cấp lãnh đạo cũng chi biết “phép vua thua lệ làng” hay chi biết “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi” nên chuyện đâu vẫn còn nguyên đó.
Còn hàng ngàn chuyện tréo cẳng ngỗng khác cũng đang diễn ra trong lĩnh vực kinh tế như chủ trương giở người gọi là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, hay tiếp tục khăng khăng “kinh tế nhà nước” (hay khối doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước) phải “ giữ vai chủ đạo” nền kinh tế, dù khối quốc doanh này đã ăn hại đái nát hết năm này qua năm khác khiến nhân dân phải gánh nợ khốn đốn.
Trước những bất mãn thiếu công bằng, trì trệ trong phát triển và vướng mắc trong hành động, bộ máy điều hành việc nước đã rơi vào tay các phe nhóm có quyền trong đảng khiến quân đội, thành phần có kỷ luật nhất cũng bị hoang mang, mất định hướng.
Vì vậy ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mới yêu cầu Quân đội phải : “Chủ động, nhạy bén đấu tranh với các quan điểm, nhận thức sai trái, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội, góp phần làm thất bại âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; chủ động phòng, chống có hiệu quả "tự diễn biến", "tự chuyển hóa ", "phi chính trị hóa quân đội" . Tuyệt đối không được mơ hồ, chủ quan, mất cảnh giác.”
Cũng đã lâu lắm không thấy lãnh đảo đảng gọi những cán bộ sao lãng việc học tập chính trị đã “chệch hướng tư tưởng” . Bây giờ những người này chẳng nhữ chỉ “suy thoái tư tưởng” mà còn mất cả “ đạo đức, phẩm chất đảng viên” và làm nhiều gương mù trong đời sống khiến đảng mất dần cán bộ trong Quân đội, lực lượng rường cột tựa lưng của đảng.
Tưởng bấy nhiêu thôi cũng đã đủ cho tòan quân học tập mệt nghỉ. Nào ngờ Phùng Quang Thanh lại rút kíp cho nổ tiếp qủa lựu đạn khói để phụ họa lấy điểm: “Đối với nước ta, các thế lực thù địch tăng cường các hoạt động chống phá thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội. Cùng với đó, tình trạng tội phạm, tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp; nền kinh tế còn khó khăn, thiên tai xảy ra ở nhiều nơi… đã tác động trực tiếp đến nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc.”
Khi cả Tổng Bí thư và Bộ trường Quốc phòng cùng nói một ngôn ngữ “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” và “phi chính trị hóa” trong quân đội thì vấn đề không còn là chuyện nhỏ mà đã nan giải đe dọa đến sự sống còn của đảng và chế độ.
Do đó không lạ khi thấy Thượng tướng Ngô Xuân Lịch, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đã kêu gọi trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội: “Trước những diễn biến phức tạp của tình hình và yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Đảng bộ Quân đội và toàn quân luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, luôn gương mẫu đi đầu trong mọi khó khăn; là chỗ dựa tin cậy, vững chắc của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; chấp hành tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, nội bộ đoàn kết thống nhất, có chuyển biến quan trọng về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu; cán bộ, chiến sĩ luôn nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.”
VIỂN VÔNG ĐỂ NGỦ MÊ
Nhìn chung, các điểm nhấn từ 3 diễn văn của các ông Trọng, Thanh và Lịch tại Đại hội X của đảng bộ Quân đội chỉ tập trung vào cảnh giác đề phòng “diễn biến hòa bình”, “các thế lực thù địch” và phải ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và “phi chính trị hóa lực lượng võ trang” để quân đội tập trung sức mạnh vào nhiệm vụ bảo vệ Chế độ và tuyệt đối trung thành với Đảng.
Tuyệt nhiên không thấy lãnh đạo nói gì đến việc bảo vệ chủ quyền biển đảo đang bị đàn anh Trung Quốc lăm le chiếm thêm ở Biển Đông, hay giành lại Hòang Sa bị quân Tầu chiếm từ tay Việt Nam Cộng hòa tháng 1/1974, hoặc lấy lại 6 bãi đá và đảo Gạc Ma bị quân Trung Quốc chiếm ở vùng Trường Sa từ năm 1988.
Trung Quốc đã biến Hòang Sa thành một thành phố hành chính và các vùng chiếm được ở Trường Sa thành các đảo tân tạo kiên cố để xây dựng căn cứ quân sự, xây sân bay và bến cảng.
Ông Nguyễn Phú Trọng bảo Quân đội phải :”Kiên quyết, không để tình hình diễn biến phức tạp và không để các thế lực thù địch lợi dụng tạo cớ can thiệp.”
“Kẻ thù địch nào” mà có thể “tạo cớ can thiệp” ngoài láng giềng Trung Quốc vì ông Nguyễn Phú Trọng đã rất hài lòng với kết qủa trong chuyến thăm Mỹ đầu tháng 7/2015 để đưa quan hệ hai nước Việt-Mỹ lên tầm cao mới.
Đối với nước Nga thì chả có vấn đề gì phải lo vì Tổng thống Viladimir Putin đã quyết định coi Việt Nam là đồng minh “quan trọng nhất” của Nga ở vùng Á Châu.
Quan hệ Quốc phòng Việt-Nga là một bằng chứng. Việt Nam đã trao việc trang bị khí tài, tân trang,mua vũ khí và để Nga huấn luyện quân đội Việt Nam. Hai nước cũng đã đồng ý thiết lập nhà máy sản xuất vũ khí chung tại Việt Nam, tiếp theo sau các chuyến thăm Nga và thăm Việt Nam của Lãnh đạo cấp cao nhất và Bộ trưởng Quốc phòng hai nước.
Nhưng Việt Nam lại đang chuẩn bị đón Chủ tịch, Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Hoa Tập Cận Bình dự kiến sang thăm Việt Nam cuối năm 2015, ngay trước thềm Đại hội đảng kỳ XII.
Tổng thống Mỹ Barack Obama cũng rất có thể sẽ thăm Việt Nam vào tháng 11/2015, sau Hội nghị APEC (Asia-Pacific Economic Cooperation) tại Thủ đô Manila, Phi Luật Tân từ 18 đến 19/11/2015.
Như vậy, thật khó mà hiểu được hậu ý của ông Tổng Bí Thư đảng CSVN khi nói đến ”các thế lực thù địch lợi dụng tạo cớ can thiệp” , tất nhiên phải từ ngoài vào Việt Nam. Và khi đã nói đến hai chữ “can thiệp” thì cũng nên hiểu đó phải là nước “mạnh hơn Việt Nam”.
Vậy quốc gia nào mạnh hơn và đang trực tiếp đe dọa Việt Nam, nếu không phải là Trung Hoa phiá bắc ?
Vì vậy, trong diễn văn, ông Trọng đã chỉ thị Bộ Quốc phòng phải : “Tập trung chăm lo xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, kiên định, vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... đi đầu trong đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa.… bảo đảm cho Đảng thường xuyên nắm chắc và lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội.”
Ông nói: “ Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, Đảng ta chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc và bảo vệ nền văn hóa dân tộc; củng cố quốc phòng, giữ vững môi trường hòa bình, an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.”
Trong nhận thức của ông Trọng thì không ai nhìn thấy ông có tư tưởng dùng Quân đội để bảo vệ chủ quyền và sự tòan vẹn lãnh thổ tổ quốc lại có cùng kế họach chống lại âm mưu mở rộng chủ nghĩa bá quyền và bành trướng lãnh thổ bất hợp pháp vào Việt Nam của “anh bạn “16 vàng” và “4 tốt” Trung Quốc. (“láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt.” )
Nhưng khi ông Trọng muốn có sức mạnh để bảo vệ độc lập, chủ quyền và tòan vẹn lãnh thổ thì liệu ông có biết rằng ông sẽ trắng tay nếu ông và tướng Phùng Quang Thanh chỉ biết buộc Quân đội phải kiện định Chủ nghĩa đã bị ruồng bỏ Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh và phải tuyệt đối trung thành, bảo vệ đảng lãnh đạo tuyệt đối quân đội và nhân dân, dù mọi người có muốn hay không.
Nếu ông Trọng cứ tiếp tục viển vông và tiếp tục vùi đầu ngủ mê với chủ nghĩa Cộng sản đã bị nhân loại lên án, ruồng bỏ và chôn vùi để áp đặt lên quân đội và nhân dân thì đất nước và nhân dân sẽ mãi mãi đói nghèo, lạc hậu. -/-
Phạm Trần
Đèn trung thu – Đèn ước mơ và hy vọng
Viết bởi Sứ Trắng
Đèn Trung thu xin chào các bạn nhỏ,
Nếu các bạn thường được sắm sửa áo mới vào dịp Tết, thì mình cũng được thay áo mới vào mỗi dịp Trung thu. Chiếc áo cũ của mình đã bị lem luốt khi các bạn nhỏ chơi rước đèn vào năm ngoái rồi. Hơi buồn, nhưng chỉ 5 giây thôi. Vì nhờ đó mà mình lại mặc áo mới để cùng các bạn nhỏ rước đèn trong những đêm rằm sắp tới.
Nói nhỏ với các bạn, mấy năm trước mình hay mặc cảm lắm. Thấy ông Lân ông Địa đi đến đâu là huyên náo và rộn ràng tới đó: có trống có xèng phụ họa nên ai thấy cũng thích. Trong khi chiếc đèn bé xíu như mình đây thì cứ lủi thủi, loe ngoe vài ngọn nến. Nhưng năm nay nhờ được gặp chị Hằng Nga, được nghe chị cắt nghĩa nên mình thấy cuộc đời lồng đèn của mình có ý nghĩa hơn nhiều. Giờ mình mới biết, mỗi chiếc đèn Trung thu đều chứa đựng những ước mơ và hy vọng của biết bao nhiêu người.
Đèn Trung thu như tụi mình có nhiều hình dạng khác nhau, nhưng không biết tự bao giờ mà người ta đã gởi gắm vào đó rất nhiều ước mơ. Nếu đèn ông sao thể hiện ước mơ về một tâm hồn đôn hậu trong sáng, thì đèn cá chép lại diễn tả khao khát được "vượt vũ môn hóa rồng", nghĩa là sớm được thành tài để giúp nước, giúp đời và làm rạng danh gia đình. Còn đèn ếch xanh dễ thương thì nhắc nhớ đến sự tích "con cóc là cậu ông trời", với niềm ước mong cho mưa thuận gió hòa, nhà nhà yên vui. Đèn thỏ ngọc lại là biểu trưng cho ánh trăng tròn vành vạnh trong ngày rằm Trung thu, qua đó gởi gắm niềm vui đoàn viên cho mọi gia đình. Thế đó, mỗi chiếc đèn lại mang trong mình một thông điệp, một điều ước tươi đẹp cho mọi người. Điều ước đó khi được những bàn tay của các thiên thần bé nhỏ nâng niu và tung tăng qua khắp phố phường, thì điều ước ấy sẽ đẹp, sẽ sớm thành sự biết bao!
Chưa hết, trong mỗi chiếc đền lồng lại được thắp lên một ngọn nến. Đèn mà không có nến chắc là buồn thiu à! Mỗi ngọn nến lại được gởi gắm biết bao hy vọng, và cũng gợi lên biết bao điều. Nó gợi lên trong ánh mắt của những người lớn khung cảnh của những ngày Trung thu năm xưa. Đó là những chiều chúng bạn cùng nhau vót tre để làm khung đèn, rồi lại tỉ mỉ từng chút để dáng cho thật đẹp thật căng những tấm giấy kiếng nhiều màu. Đó còn là những trò chơi, những nụ cười giòn giã cùng các bạn dưới ánh sáng dịu dàng của trăng và nến. Những kỷ niệm đó giờ đây được gói lại trong từng cây nến nhỏ treo lại cho con em mình. Nến đó nhỏ, nên chắc cũng chỉ mang được những niềm hy vọng nhỏ thôi. Nhưng khi nhiều cây nến hợp lại, nhiều chiếc lồng đèn được nâng niu và rong ruổi khắp phố phường, thì những ước mơ và hy vọng sẽ được lớn lên và lan tỏa không ngừng. Niềm hy vọng về sự thanh bình và an vui không chỉ dành cho những trẻ em Việt Nam, nhưng còn cho những em nhỏ đang ở trong các trại tị nạn, các vùng chiến sự, và đang ngước nhìn lên vầng trăng tròn với đôi mắt bé thơ đẫm lệ. Niềm hy vọng đó còn được thắp lên cho những em nhỏ đang phải lây lất trên các vỉa hè để kiếm sống, hay đang phải sống lẻ loi giữa những vô tâm của cha mẹ mình. Các em cũng thấy lồng đèn, cũng thấy không khí Trung thu đó, nhưng chẳng còn có thời giờ và sự hồn nhiên trẻ thơ để ngước lên và được nhìn thấy vầng trăng đang mỉm cười với mình.
Thế nên, năm nay mình và các bạn lồng đèn khác quyết tâm sẽ không buồn cũng chẳng tủi thân nữa, dẫu mình có bé nhỏ, lặng thầm và có thể bị méo mó. Vì chúng mình biết rằng, đèn Trung thu tuy bé tuy nhỏ đó nhưng lại chất chứa trong đó biết bao ước mơ và niềm hy vọng của rất nhiều người. Ước mơ được an bình, được hạnh phúc, được vui vầy bên gia đình dưới ánh trăng rằm dìu dàng đêm Trung thu.
(Sứ Trắng, dongten.net 22.09.2015)
Tụt hậu, ù lì, chậm tiến để sống cho ai ?
Viết bởi Phạm Trần
Đảng Cộng sản Việt Nam đã hiện nguyên hình là một tổ chức chỉ biết sống chung với tụt hậu, ù lì và không dám phá xiềng tự cột vào chân sau 70 năm độc đảng, độc quyền cai trị và ngụy ngôn.
Cái đầu không bình thường này xuất hiện khắp mặt và trên mọi lĩnh vực trong hai “Dự thảo Báo cáo Chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng” và “Dự thảo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 .”
Hai văn kiện quan trọng được phổ biến ngày 15/09/2015 để lấy ý kiến nhân dân và các Tổ chức đảng từ Trung ương xuống cơ sở cho đến ngày 31/10/2015.
Sau đó sẽ được tập trung, chỉnh sửa để trình ra Đại hội tòan quốc, dự trù tháng 01/2016 hay trễ hơn còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là sự thỏa thuận ngầm với nhau về người sẽ giữ chức Tổng Bí thư và thành phần lãnh đạo trong Bộ Chính trị và Ban Bí thư.
Bộ Chính trị khoá XI có 16 người và Ban Bí thư 10 người, nhưng có một số người có chân trong cả hai Tổ chức.
Cho đến nay, báo đảng CSVN cho biết Ban Tổ chức Trung ương đã quy họach được 22 trong số 290 cán bộ Trung ương vào Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương khóa XII. Danh sách này sẽ được đề nghị với Đại hội XII để bỏ phiếu, nhưng danh tính vẫn còn được ông Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương giữ kín.
Liệu thành phần lãnh đạo chủ chốt mới có được lòng láng giềng đàn anh Trung Quốc hay không còn là chuyện nan giải khác. Vì vậy sự kiện Tập Cận Bình, Chủ tịch Nhà nước, Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Hoa dự trù thăm Việt Nam trước ngày Đại hội đảng CSVN không phải là chuyện bình thường.
Đáng chú ý kỳ này, Bộ Chính trị do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu đã trực tiếp tham dự và thảo luận các tiêu chuẩn đề bạt các Đại biểu tham dự Đại hội đảng với các Hội nghị đảng quan trọng của Quân đội, Công an, các Cơ quan Trung ương và các thành phố lớn ở 3 miền Bắc, Trung, Nam.
Những tiêu chuẩn này đã được công bố tại Hội nghị Trung ương 11 khóa đảng hiện nay (XI) họp từ ngày 04 đến ngày 07-5-2015). Điều kiện hàng đầu để được chọn là phải “tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước và lợi ích của dân tộc.”
Mấy chữ “lợi ích của dân tộc” ở đây chỉ đóng vai trang trí cho ý đồ lạc hậu của đảng vì cả thế giới bây giờ chỉ còn lại 4 nước theo Chủ nghĩa Cộng sản gồm Trung Hoa, Việt Nam, Bắc Hàn và Cuba.
TRƯỚC MẮT VÀ SAU LƯNG
Nói thì hăng đấy, nhưng thực tế đảng CSVN đang phải đối diện với nhiều vấn đề nan giải trong công tác gọi là “xây dựng và chỉnh đốn đảng” để kiện tòan hàng ngũ, đặc biệt trong các cấp lãnh đạo. Sở dĩ đảng có 3.5 triệu đảng viên vì họ được bảo đảm công ăn việc làm và đặc quyền, đặc lợi. Hàng năm vẫn có những người trẻ mà đảng gọi là “đấu tranh” để được thu nạp vào đảng vì cơm áo hơn lý tưởng Cộng sản viển vông.
Vì vậy dự thảo Báo cáo Chính trị (BCCT) đã nhìn nhận: “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu; công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm thường xuyên, sinh hoạt đảng chất lượng chưa cao, tự phê bình và phê bình yếu….. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp,... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi….. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa đều, chưa đi vào chiều sâu ở nhiều ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; một số nơi thực hiện còn mang tính hình thức.”
Chuyện học tập Hồ Chí Minh lâu nay đã thành nhàm chán vì không thực dụng. Tỷ dụ như bài học “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” ông Hồ dậy cán bộ từ thập niên 40 có ai làm theo đâu. Tình trạng tham nhũng ngày nay đã thành “quốc nạn” từ khoá đảng VII thời ông Đỗ Mười làm Tổng Bí thư. Nay lại có thêm “lợi ích nhóm” lan rộng như thập nhị sứ quân trong tòan hệ thống cầm quyền để bóc lột dân, để quan liêu và lãng phí vượt qua đầu thì đảng có còn là “của dân, do dân và vì dân” nữa không ?
Dó đó, không lạ khi thấy BCCT ta thán rằng:” Công tác bảo vệ chính trị nội bộ có mặt còn hạn chế. Chưa nắm và giải quyết tốt vấn đề chính trị hiện nay, trong khi những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong xã hội. Không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đã xuất hiện những việc làm và phát ngôn vô nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng ở một số cán bộ, đảng viên.”
Những khuyết tật này không mới. Chúng xuất hiện từ giữa nhiệm kỳ đảng khoá VII thời Đỗ Mười. Sau 4 khoá đảng VIII,IX,X và XI thì ai ở Việt Nam cũng thấy càng ngày đảng càng đi sâu vào lầm đường lạc lối để đưa đất nước và dân tộc đến chỗ suy yếu trên mọi lĩnh vực.
Vì thế mà BCCT mới báo động: “Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại (tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch hướng xã hội chủ nghĩa ; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch), có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông mạng Internet để chống phá ta và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.”
Đây là lần đầu tiên, trong một Văn kiện quan trọng như BCCT, đảng CSVN đã thừa nhận nguy cơ của mạng lưới truyền thông tự do tòan cầu (mạng Internet) đã ảnh hưởng đến cán bộ, đảng viên như thế nào.
Bởi vì, dù có dựng lên bao nhiêu “bức tường lửa” hay luật lệ nghiêm cấm, đảng CSVN cũng không thể nào chận đứng được hết thông tin đi vào Việt Nam hay đi ra khỏi Việt Nam qua mạng Internet.
Từ tháng 6/2015, Quốc hội CSVN đã bắt đầu thảo luận Dự luật “An tòan Thông tin mạng” (ATTT)có sự đóng góp từ năm 2011 của Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng cục Chính trị Quân đội và hai bộ Công an và Thông tin-Truyền thông, nhưng nhiều Đại biểu Quốc hội vẫn chưa thống nhất phải kiểm soát thông tin trên mạng và các phương tiện đi động như thế nào mà không gây phương hại đến quyền lợi chính đáng của công dân.
Phát biểu tại phiên họp ngày 14/06/2015, Bộ trưởng Thông tin & Truyền thông Nguyễn Bắc Son cho biết: “Đến tháng 6 này cả nước có 44 triệu người sử dụng Internet, có khoảng hơn 140 triệu thuê bao điện thoại di động. Việc đảm bảo an toàn thông tin trên mạng là cần thiết.”
Ông nói: “Trong thời đại này, việc bảo vệ thông tin này vô cùng quan trọng. Làm sao đảm bảo các thông tin không bị đánh cắp, không bị biến dạng đi. Giới hạn an toàn thông tin đảm bảo an ninh thông tin”.
Tuy nhiên, thông tin trên mạng là một dịch vụ tòan cầu tự do không có cách nào kiểm soát được, ngọai trừ việc đề phòng bị kẻ phá họai tấn công, tìm cách đánh cắp trong các lĩnh vực hay cơ quan an ninh, quốc phòng và thương mại bởi các cơ quan nhà nước liên hệ.
Đối với Việt Nam thì khác. Từ năm 2012, nhà nước đã tăng cường kiểm soát thông tin để ngăn chặn chống phá đảng nhiều hơn bảo vệ an tòan, kể cả việc bắt giữ, tấn công những người tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền.
Trong số mạng xã hội bị tấn công, đánh sập nhiều lần đã chứa đựng nhiều bài viết lên án chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản đi ngược với quyền lợi Tổ quốc của ông Hồ Chí Minh. Các bài viết chỉ trích chủ trương và đường lối cai trị độc tài, phản dân chủ của đảng CSVN cũng đã bị tấn công liên miên.
Do đó sẽ không qúa lời nói rằng Dự luật ATTT của Việt Nam sẽ là con dao hai lưỡi sẽ có lợi cho Nhà nước nhiều hơn để bảo vệ đảng cầm quyền và chống lại hàng ngũ nhân dân bất đồng với đảng CSVN.
KINH TẾ SUY THOÁI
Sang lĩnh vực Kinh tế, “Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015” (BCKT) nhìn nhận: “ Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm….đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được. Kinh tế vĩ mô ổn định nhưng chưa vững chắc; nợ công tăng nhanh, nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao; sản xuất kinh doanh còn gặp rất nhiều khó khăn. Tăng trưởng kinh tế thấp hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, chưa có cơ chế đột phá để thúc đẩy phát triển; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp.”
Vế chủ trương nửa nạc nửa mỡ gọi là “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” thì BCKT sổ toẹt rằng: “Thực thi thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn hạn chế, chưa tạo được đột phá lớn trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ; môi trường đầu tư, kinh doanh không thật sự bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Giá cả một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự tuân theo nguyên tắc thị trường.”
Nên nhớ, chính ông Nguyễn Phú Trọng và khoá đảng XI khi hớn hở nhận chức tháng 1/2011 đã hưá với nhân dân sẽ:”Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.”
Bây giờ 5 năm sau, những tiêu chuẩn mạ vàng này đã tan ra mây khói. Kinh tế chỉ đi làm thuê; đất nước chưa làm nổi con nốc vít phù hợp với tiêu chuẩn công nghệ thế giới; xã hội chưa bao giờ xáo trộn với nhiều cuộc nhân dân xuống đường bất chấp đàn áp dã man để đấu tranh đòi quyền sống, quyền làm người và đòi công bằng, chống bất công như hiện nay.
Dân chủ mà đảng rêu rao chỉ là thứ xin-cho nhưng lại là “món đặc sản” của riêng cán bộ, đảng viên, nhất là những kẻ có chức có quyền, ăn trên ngồi trốc trong xã hội, nói chi đến vật chất và tinh thần cho dân ?
Cả đến tòan vẹn lãnh thổ cũng đang bị lung lay với anh hàng xóm Trung Quốc gian manh mà đảng CSVN vẫn hăm hở đội lên đầu để hô “vừa là đống chí, vừa là anh em” !
6 NHIỆM VỤ THEN CHỐT
Tuy đã thất bại tòan diện như thế, nhưng đảng CSVN vẩn ù lì chũi đầu xuống cát để tiếp tục : “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” để “vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam.”
Còn sáng tạo cái gì nữa đảng ơi ? Thiên hạ đã vứt nó vào sọt rác và đổ đi không ai muốn ngó đến cái mặt mũi xấu xa, ghê tởm của nó nữa mà lại rước về mà thờ thì chỉ có những con người mất trí mới làm như thế.
Thử hỏi: Nước Việt Nam anh hùng với hơn 4 ngàn năm văn hiến làm gì có cái “thực tiễn” giở người như quan niệm của đảng CSVN mà lại vác hai ông ngọai quốc Mác-Lênin “không giống ai” đặt lên bàn thờ Tổ cho “phù hợp” ?
Lãnh đạo hãy đến đền Vua Lý Thái Tổ cạnh hồ Hòan Kiếm (Hà Nội) mà thưa với Ngài xem như thế có hợp lòng Trời, đẹp lòng Dân hay không ?
Trong khi chờ ông Nguyễn Phú Trọng dẫn đầu đòan Đảng và Nhà nước ra đền, ta hãy liếc mắt vào 6 nhiệm vụ được gọi là “trọng tâm” của nhiệm kỳ đảng XII thì thấy ngay đảng đang lo xoắn vó lên vì, trước tiên phải : “ Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.”
Sau đó lại phải : “Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.”
Nhưng tham nhũng và lãng phí đồng tiền lao động mồ hôi nước mắt của dân đã ăn sâu vào máu đảng, có lọc bao nhiêu cũng bằng thừa vì báo cáo hay tuyên bố nào của lãnh đạo cũng luôn luôn nói “vẫn còn nghiêm trọng”.
Rồi đến việc: “ Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động. Thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.”
Khi nói đến nợ công thì World Bank báo cáo khỏan nợ của Việt Nam hiện nay vào khỏang 110 tỷ US Dollars, mỗi đầu người dân Việt Nam phải gánh nợ 1,200 US Dollars, hay hơn nửa năm lương. (VNEXPRESS), 21/07/2015) !
Khỏan nợ này sẽ to lên sau mỗi năm, nhưng bao nhiêu thế hệ dân Việt phải lao động để trả nợ thay cho nhà nước và những kẻ tham nhũng trong guồng máy cai trị ?
Nhiệm vụ thứ 4 là: “- Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.”
Nhưng làm sao để bảo vệ được lãnh thổ khi suy yếu về kinh tế và nhân dân mỗi ngày một rời xa đảng, muốn tránh gặp mặt cán bộ thì tìm đâu ra thế đảng lòng dân ?
Hơn nữa, từ năm 2012 đến nay, Trung Quốc đã biến 7 vị trí (hay còn gọi là đá và đảo) chiếm của Việt Nam năm 1988 ở Trường Sa thành đảo nhân tạo rộng lớn và xây căn cứ quân sự, bến cảng, đồn trú lính, đặt đài kiểm soát lưu thông biển mà Quân đội và đảng CSVN có làm gì được đâu ?
Còn chuyện quần đảo Hòang Sa bị quân Trung Quốc đánh chiếm từ tay Quân đội Việt Nam Cộng hòa tháng 1/1974 chỉ còn được Việt Nam tái khẳng định chủ quyền bằng nước bọt trong suốt 40 năm qua.
Đến nhiệm vụ thứ 5 là : “Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân; chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” là một lời hứa nước đường của đảng đã có trong 40 năm qua khi cai trị cả nước.
Làm gì ở Việt Nam có “quyền làm chủ của nhân dân” ? Đảng nắm mọi thứ, trừ chiếc quần lót dính trên cơ thể dân thì làm chủ cái gì ?
Còn đại đòan kết ư ? Thành công của Nghị quyết 36 năm 2004 về “người Việt Nam ở nước ngoài” đã làm được tới đâu rồi mà còn bốc phét mãi ?
Thực tế ở Việt Nam chứng minh chưa bao giờ mà tình trạng chia rẽ giữa “kẻ thắng miền Bắc Cộng sản ” và “kẻ thua Việt Nam Cộng hòa” (VNCH) xa cách nhau, hận thù nhaư như sau 40 năm gọi là “giải phóng” gỉa tạo ?
Điển hình là Nhà nước CSVN đã khước từ tôn vinh và truy niệm 75 người lính VNCH hy sinh tại chiến trường Hòang Sa khi chống quân xâm lược Trung Quốc, nhưng lại kỷ niệm hàng năm và xây tượng đài nhớ ơn 64 chiến sỹ Quân đội Nhân dân đã bỏ mình tại Trường Sa.
Thái độ kỳ thị và miệt thị vô tư cách và thiếu nhân bản này nên được lịch sử gọi bằng gì ?
Như vậy thì khi đảng hưá trong điểm 6: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh. Giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội; bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội ” là những điều hoang tưởng, phỉnh gạt cả con nít làng quê và trên vùng cao nghèo đói !
Do đó, BCCT của đảng XI tại Đại hội XII cũng chỉ tự biên tự diễn khi kết luận văng mạng rằng: “Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.”
Đó là hình ảnh tòan diện và đầy đủ nhất của một đảng cầm quyền chỉ biết tiếp tục vui sống trong tụt hậu và chậm tiến để một mình hưởng thụ, bất chấp nỗi thống khổ và lạc hậu của 90 triệu người dân. -/-
Phạm Trần
TPB Nguyễn Văn Trung được sáng mắt như một phép lạ
Viết bởi Phòng CLHB DCCT Sài Gòn
GNsP(15.09.2015) – Chiều hôm qua, Phòng CLHB chứng kiến một sự kỳ diệu khó giải thích về trường hợp ông TPB Nguyễn Văn Trung, sinh năm 1954, tham gia Quân lực VNCH vào tháng 5/1972, số quân 74/512.668, KBC 4036, Sư đoàn 2 Bộ binh, hiện sống tại Bạc Liêu.
Bị thương ở đùi phải và hư mắt phải trong trận đánh tại Quảng Ngãi vào năm 1973, năm 1974 ông được giải ngũ. Cách nay 3 tháng, ông cùng vợ từ Bạc Liêu lên Sài Gòn nộp giấy tờ vào Phòng CLHB. Khi ấy mắt ông còn nhìn thấy bằng con bên trái.
Cách đây vài ngày, vợ chồng ông đến Phòng CLHB báo tin con mắt còn lại của ông cũng bị mờ, gần như không còn thấy gì. Ông bà đã khám ở quê và xin giấy giới thiệu đến Bệnh viện Mắt Sài Gòn. Chúng tôi nhờ một Nữ tu dòng Saint Paul làm ở Bệnh viện Mắt giúp đỡ và nhờ bác sĩ tư vấn cho 2 vợ chồng ông.
Mắt ông bị bong võng mạc, có phẫu thuật thì cũng không sáng được mà còn tốn tiền, nó như một cái áo bị rách vá víu lại không có hy vọng. Nếu mổ mà may mắn thì cũng chỉ được nhìn thấy mờ mờ thôi. Vợ ông nghe xong thì khóc, khuyên ông rằng bác sĩ đã nói vậythì thôi ông nha. Nhưng ông vẫn hy vọng và nói: vợ tôi đã chịu bán nhà để chữa mắt cho tôi. Nhưng lên đây đã được cha nhà thờ (Phòng CLHB) cho tiền để mổ mắt. Tôi xin được mổ với một tia hy vọng nhỏ là mắt tôi được sáng một chút cũng là đỡ một gánh nặng cho vợ không phải dắt tôi nữa, vì vợ phải lo cho đứa con út phải chạy thận mỗi tháng.
Chi phí ca mổ là 10 triệu đồng, Bệnh viện giảm cho ông một triệu nên Phòng CLHB đóng cho ông 9 triệu còn lại. Trong thời gian phẫu thuật, hai vợ chồng ông phải ở lại trong bệnh viện. May mà có các suất cơm từ thiện cũng đỡ chi phí ăn uống cho ông bà. Sau khi được Chương trình Tri ân TPB VNCH tầm soát bệnh cách đây ít lâu, một bác sĩ chuyên khoa mắt đã nói mắt ông Trung bị nặng lắm, nên nói cho ông biết để chuẩn bị tâm lý.
Thế mà thật không thể tin nổi, chiều hôm qua chúng tôi thấy ông đi một mình vào Văn phòng chúng tôi, không cần vợ dắt và cho biết mắt ông sáng hơn nhiều rồi. Điều đặc biệt làm cho chúng tôi bất ngờ là ông bà cho biết Bệnh viện hoàn lại 7.420.000, chỉ tốn khoảng 1.500.000 mà thôi!
Vợ chồng TPB Nguyễn Văn Trung sau khi ông được mổ mắt
Chúng tôi Tạ ơn Chúa và Đức Mẹ vô cùng cho trường hợp của ông Nguyễn Văn Trung. Chia tay chúng tôi để kịp xe về Bạc Liêu, vợ ông Trung vừa nói lời cám ơn vừa khóc vì vui mừng. Bà nói nếu không có Phòng CLHB giúp đỡ chúng tôi không thể có khả năng mổ mắt cho ông.
Chúng tôi chia vui với ông bà và xin ông bà cầu nguyện cho các vị hảo tâm, chứ chúng tôi chỉ là những người trung gian.
Phòng CLHB DCCT Sài Gòn
Nhà cầm quyền Hà Nội: Cưỡng chiếm đất làm sân golf
Viết bởi Huyền Trang, GNsP
GNsP (12.09.2015)- Lực lượng công quyền quận Long Biên, Hà Nội hành hung dân oan Phúc Đồng và đạp vào bụng một người phụ nữ đang mang thai tháng thứ sáu, trong vụ cưỡng chế đất tại Phường Phúc Đồng, Quận Long Biên, Hà Nội, vào sáng ngày 09.09.2015.
Gia đình bị cưỡng chế đất là anh Hoàng Công Thiện, con trai ông Hoàng Công Kiểm, kể lại sự việc: “Lực lượng công an xông vào nhà, ông Chủ tịch quận sai lính của ông ấy rằng ‘tụi mày đâu vô bắt hết con cháu nhà ông Kiểm”, cứ thế công an mặc đồng phục xông vào nhà, lôi kéo mọi người, đánh đập mẹ tôi gẫy cái xương sườn số 7, em gái tôi đang có bầu được 6 tháng thì đạp luôn vô bụng nó, rồi nói là ‘bọn mày có đi không, bọn mày có thích chết không?’. Họ lôi mọi người đi xồng xộc, hốt mọi người lên hết ủy ban, họ thu hết cả điện thoại kể cả cái điện thoại đang sạc ở trong nhà. Trong bếp họ lấy bình gas, nồi… luôn. Lúc ấy, gia đình tôi có 9 người, 7 người là phụ nữ và trẻ em chỉ có bố tôi và tôi là nam thôi. Họ vào nhà đông lắm, họ đứng bu đầy bên ngoài nữa, khoảng 600 người.”
Anh Thiện cũng cho biết thêm, cách đây ba ngày, lực lượng công an đã cấm người dân đi qua lại khu vực đất nhà anh. “Gia đình tôi cũng không được đi đâu chỉ ở trong nhà thôi”, anh nói.
Đây là lần thứ hai lực lượng công quyền cưỡng chế đất của gia đình ông Kiểm, nhưng gia đình ông cương quyết không dời đi đâu hết. Anh Thiện cho biết lý do: “Gia đình có 4.000 m2 cánh đồng vàng thuộc phường Phúc Đồng, quận Long Biên, giáp với sân bay Gia Lâm. Đất của gia đình có từ năm 1988 cho đến nay do ông bà để lại. Đất do gia đình khai hoang, được công an xác nhận từ năm 1988, gia đình đóng thuế đất hằng năm…”
“Nhưng cách đây 4 năm, từ khi có dự án sân golf và khu biệt thực Long Biên thì gia đình chưa có một giấy tờ gì để gọi là phương án đền bù, thu hồi đất như thế nào, không có lệnh cưỡng chế nhưng công an cứ kéo đến đất của gia đình để bảo vệ cho lực lượng thi công. Cách đây 1 năm, họ nói là có đền bù nhưng không có một văn bản nào, họ toàn nói bằng miệng thôi,” anh Thiện nói tiếp.
Lần cưỡng chế đầu tiên xảy ra cách đây hơn hai tháng, vào ngày 08.07.2015, nhưng sự việc khá ôn hòa. Anh Thiện nhớ lại: “Hôm đó, họ đến cưỡng chế đất của gia đình, tôi yêu cầu họ trưng dẫn các văn bản phương án đền bù, quyết định thu hồi đất…nhưng họ chỉ nói là làm theo lệnh của cấp trên thôi. Họ đưa rất đông công an, quân đội đến cưỡng chế gần 300 người. Hôm đó, họ không làm gì cả không làm mạnh như lần này đâu. Gia đình kiên quyết không cho họ lấy đất.”
‘Dự án sân golf và dịch vụ Long Biên’do Bộ Quốc phòng đề xuất và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Dự án do Công ty cổ phần đầu tư Long Biên – Công ty cổ phần Him Lam là cổ đông với diện tích là 119,19 ha và vốn đầu tư là 1810 tỷ VND. Theo dự kiến, dự án hoàn thành vào cuối tháng 6.2015.
Giáo dục VN cho hay, có nhiều sai phạm tại dự án này như xây dựng sai quy hoạch, nhiều hạng mục bị cắt giảm hoặc tăng lên theo mục đích của chủ đầu tư,…được chỉ rõ tại dự án sân golf Long Biên.
“Như vậy, Chủ đầu tư đã “nhắm mắt” làm liều, thách thức pháp luật hay Chủ đầu tư được bật “đèn xanh” của chính quyền sở tại?”, báo Giáo dục VN đặt vấn đề.
Hiện nay ở VN, tình trạng xây dựng sân golf được mô tả là ‘bội thực’ và chiếm nhiều ha đất vàng nội thành, trong khi người dân không có nhu cầu mà họ chỉ mong có miếng cơm manh áo qua ngày mà thôi. Được biết, Him Lam cũng là đơn vị đầu tư dự án Sân Golf Tân Sơn Nhất, chiếm diện tích đến 175 ha dất vàng nội thành Sài Gòn, thuộc diện tích sân bay Tân Sơn Nhất. Dự án gây ra nhiều tranh cãi, phản ứng của dư luận, đến tận phiên họp Quốc hội. Thế nhưng, đến nay, dự án đã ‘âm thầm’ hoạt động. Trong khi đó, dự án sân bay Long Thành cũng được ‘bấm nút’ triển khai, lý do sân bay Tân Sơn Nhất ‘chật chội’, thiếu đất!
Huyền Trang, GNsP
Gà đã gáy mà sao Đảng ngủ mãi
Viết bởi Phạm Trần
GNsP(11.09.2015) Đảng và Quân đội Cộng sản Việt Nam đang đổ hết gas vào những cái mồm tuyên truyền để chống những ai nói đảng đã lầm đường lạc lối 70 năm trước để đến bây giờ phải kêu gọi hàng ngũ cứu nguy “suy thoái đạo đức”, “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”.
Lệnh này nhan nhản trong các bài viết trên báo Quân đội Nhân dân và của Ban Tuyên giáo trong thời gian phô trương những thành qủa tưởng tượng khoác áo “vĩ đại” đã đem lại cho dân từ ngày gọi là Cách mạng tháng 8/1945 và Độc lập 2/9.
Bài viết của PGS, TS. Nguyễn Văn Mạnh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh trên Quân đội Nhân dân ngày 01/09/2015 là một tỷ dụ. Ông mở đầu như thế này: “Tháng 9 năm nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kỷ niệm trọng thể 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Ngày Quốc khánh 2-9. Đây cũng là dịp để chúng ta nhìn lại thành quả của 70 năm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đồng thời, qua đó đập tan luận điệu xuyên tạc, vu khống về bản chất Nhà nước ta của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị.”
Không cần phải mất thời giờ đọc hết bài cũng đã thấy ông Mạnh bốc quậy để khoe qùang rằng đảng của ông đã “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội”.
Cũng chả cần phải có học hàm Phó Giáo sư, Tiến sỹ mà ngay chị bán hàng rong, anh lái xe ôm hay cháu học lớp bốn trường làng cũng biết ở Việt Nam không có cái gọi là “nhà nước pháp quyền”, nói chi đến “của dân, do dân, vì dân” ? Và nếu bảo “quyền làm chủ của nhân dân” đã phủ “trên mọi lĩnh vực” thì tại sao dân không có quyền tự do ứng cử và bầu cử mà cứ phải là đảng viên hay cảm tình viên với đảng thì mới được Mặt trận Tổ Quốc tuyển chọn qua cuộc gọi mỹ miều là “hiệp thương” (hay chuẩn y trước) rồi dân mới được” bầu” sau đó thì dân làm chủ chỗ nào ?
Chuyện vớ vẩn “dân làm chủ” còn được đảng bôi bác ở Điều 53 Hiến pháp 2013 khi viết rằng :“Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.”
Có ai ở Việt Nam đã thuê Nhà nước đại diện để làm “chủ sở hữu đất đai” của mình không ? Đảng tự viết ra Hiến pháp để cho Quốc hội của đảng đóng dấu chấp thuận những gì đảng muốn thì có mạ vàng Hiến pháp cũng chỉ là mớ giấy có chữ để bảo vệ độc quyền, độc tôn cực kỳ phản cách mạng.
Tác gỉa Nguyễn Văn Mạnh cũng mắt nhắm mắt mở khoe rằng : “ Đồng thời, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến ở nước ta, nguyên tắc “kiểm soát quyền lực” được ghi nhận: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khỏan 3, Điều 2 Hiến pháp 2013)
Đây không phải là thứ nhà nước có tam quyền phân lập và hòan toàn độc lập không được quyền can thiệp hay gây ảnh hưởng lên nhau mà chỉ là sự “phân công” bởi nhà nước, hay đảng cũng vậy, cho dễ bề qủan lý.
Vì thế dưới chế độ độc tài một đảng cầm quyền, đảng kiểm soát mọi ngành, mọi thứ nên dù ngôn ngôn ngữ có tô son điểm phấn thì Tòa án được gọi là nhân dân cũng chỉ là nơi để xử án theo lệnh cấp trên. Quyền tranh tụng và bào chữa của bị cáo không được tôn trọng trong mọi trường hợp, nhất là đối với các vụ án chính trị và vi phạm quyền con người của nhà nước.
Vì vậy khi ông Mạnh khoe quyền con người được ghi trong Hiến pháp 2013 “đã thể hiện rõ tính ưu việt, bản chất dân chủ, nhân đạo và tiến bộ của Nhà nước ta, của chế độ xã hội chủ nghĩa”, nhưng lại che đi mặt trái của Chương này khi quy định những hạn chế vì các lý do mơ hồ và tùy tiện như :”Quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”, hay bừa bãi như “do pháp luật quy định” hoặc “do luật định” nhằm giật lại những gì Hiến pháp đã cho phép.
Như thế có phải là gỉa dối không hay vì người Cộng sản đã quen với nói trước quên sau nên cũng là chuyện bình thường, miễn sao bài viết đem lại một chút lợi nhuận vật chất và tinh thần ?
HÃY NHÌN LẠI GÁY MÌNH
Bây giờ nhìn lại sau 70 năm ngày 2/9 và 30 năm Đổi mới, Việt Nam vẫn tiếp tục tụt hậu về kinh tế, thu thập đầu người chỉ hơn có 4 nước Lào, Kampuchia, Brunei và Miến Điện (Burma hayMyanmar), nhưng đứng sau rất xa so với Thái Lan, Mã Lai, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân, Nam Dương.
Tại Hội thảo về "Cải cách thể chế kinh tế Việt Nam để hội nhập và phát triển giai đoạn 2015-3035" do Bộ Kế hoạch và đầu tư tổ chức ngày 28/8, một báo cáo được ViệtnamNet trích dẫn cho thấy : “ GDP (Gross Domestic Product, Tổng sản lượng Quốc gia) bình quân đầu người của Việt Nam năm 2014 đạt 2.052 USD. Con số này gấp 21 lần năm 1990, nhưng chỉ bằng với nước Malaysia năm 1998, Thái Lan năm 1993, Indonesia năm 2008, Philippines năm 2010.
Việt Nam đi sau Hàn Quốc khoảng 30-35 năm, sau Malaysia khoảng 25 năm, Thái Lan 20 năm, sau Indonesia và Philippines khoảng 5-7 năm.
GDP bình quân đầu người năm 2014 của Việt Nam chỉ bằng 3/5 của Indonesia, bằng 2/5 của Thái Lan, 1/5 của Malaysia, 1/4 của Hàn Quốc và bằng 1/27 mức GDP bình quân của Singapore.”
Nhưng theo báo The Economist mỗi đầu người Việt Nam lại phải gánh 979 Dollars nợ công tính đến tháng 03/2015. Số tiền nợ công của Việt Nam đang ở mức 89,07 tỷ USD, chiếm 46,6% GDP.
Với tình hình kinh tế như thế thì con người Việt Nam đã được hưởng gì sau 70 năm Cách mạng tháng Tám và 30 sau sau Đổi Mới ? Có lẽ ông Tiến sỹ khoa bảng Nguyễn Văn Mạnh đã được đảng nuôi ăn suốt đời trong nhà cao cửa rộng nên không cảm được nỗi đau của dân nên ông mới ca bài lạc điệu rằng: “Ai đó cho rằng Nhà nước Việt Nam phản bội lợi ích dân tộc, vi phạm quyền con người, quyền công dân,… là hoàn toàn không có cơ sở, phi thực tế, phiến diện.”
Có phiến diện và thiếu cơ sở hay không thì chỉ cần nhắc lại lời kêu gọi toàn đảng phải “khắc phục hiện tượng quan liêu, cửa quyền, hách dịch, vô cảm trước nhân dân…phải quyết liệt đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và những tiêu cực khác” trong cán bộ đảng viên như ông Nguyễn Văn Mạnh đã nêu lên để khỏi mất công xuyên tạc làm gì cho cái gọi là “bản chất tốt đẹp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” ở Việt Nam.
TIẾNG NÓI LẠC LÕNG
Quan điểm sai trái, đi ngược đường khác nhằm che giấu những khuyết tật kinh niên của đảng đến từ 3 bài viết trên báo Nhân Dân của Nhà báo Hồ Quang Lợi, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội.
Nội dung được Ban Biên tập Nhân Dân tập trung để phản biện lại những “phủ nhận, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam” của 4 tập thể mà báo này chỉ ra gồm có: “các thế lực thù địch, một số kẻ cơ hội chính trị, phần tử bất mãn, suy thoái về tư tưởng” đã “phối hợp chống phá sự nghiệp cách mạng, chế độ xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên của đất nước ta.”
Trong bài đầu tiên gọi là “Sứ mệnh - chân lý lịch sử”, với bản lĩnh năng nổ hăng tiết vịt quen thuộc, ông Lợi đã hô to: “Chưa bao giờ đất nước có một cơ đồ tươi sáng như hiện nay. Chúng ta tự tin đến với thế giới với mức độ hội nhập ngày càng sâu rộng, và thế giới hào hứng đến với chúng ta - một đất nước dồi dào tiềm năng, giàu sinh khí và khát vọng vươn tới. Dù còn phải đối mặt với nhiều gian khó, thử thách, nhưng cả dân tộc vẫn đang tràn đầy niềm lạc quan hướng tới tương lai. Trong khi đó, các thế lực thù địch, một số kẻ cơ hội chính trị, phần tử bất mãn, suy thoái về tư tưởng lại liên tục đưa ra những luận điệu với tần suất cao, rằng: “Thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay là độc đảng, toàn trị”. Điều đó cho thấy họ đang cố tình bơi ngược trên dòng sông đất nước. Bất chấp thực tế đất nước đã vượt qua muôn trùng thử thách và đang phát triển mạnh mẽ, được thế giới nể trọng, họ vẫn đeo cặp kính đen đầy thiên kiến, lệch lạc để phán xét tình hình Việt Nam, về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCS Việt Nam).
“Thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay là độc đảng, toàn trị”, vậy có gì mới từ thứ luận điệu này?”
Sự lạc quan qúa trớn hay bà con hè phố gọi là “với tay qua trán” để nói như cái vòi nước máy đầu đường của ông Lợi đã tự phản bội sự thật có “tươi sáng như hiện nay” hay không ?
Hãy bình tĩnh mà nghe PGS.TSKH Nguyễn Trọng Phúc,nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) nói Báo Bưu điện Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng Tám.
Ông Phúc nói:“Thành quả 70 năm sau Cách mạng tháng Tám rất to lớn, nhưng bên cạnh đó, Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều thách thức đổi mới”.
Theo quan sát của ông Phúc thì : “ Hiện nay, đất nước ta đứng trước một số thách thức. Thứ nhất là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong nhận thức và trong hành động như thiếu niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa, xây dựng kinh tế, văn hóa không đúng những chuẩn mực đưa ra.
Thứ hai là nền kinh tế tuy phát triển nhanh, thu nhập quốc dân tăng gấp 20 lần so với năm 1986, thu nhập bình quân đầu người cũng tăng hơn 10 lần, nhưng quy mô, năng suất lao động thấp, chất lượng hiệu quả nền kinh tế càng thấp, giá trị gia tăng nền kinh tế không nhiều, vẫn còn tập trung khai thác tài nguyên, phát triển kinh tế theo hướng gia công, nhận nguyên liệu nước ngoài về xuất khẩu, giá trị gia tăng không nhiều, năng lực cạnh tranh thấp, tình trạng nợ công cao và nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước.
Thứ ba là vấn đề xã hội, tuy đời sống xã hội đã được cải thiện nhưng phân hóa giàu nghèo còn khá nặng, chênh nhau mấy chục lần, dẫn đến bất bình đẳng trong xã hội, phân hóa đạo đức, văn hóa trong xã hội.
Thứ tư là tha hóa về đạo đức lối sống trong xã hội. Thứ năm là tha hóa về chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ trong hệ thống chính trị. Đây là khuyết điểm trong xây dựng Đảng. Sự tha hóa thoái hóa, biến chất đe dọa vai trò lãnh đạo của Đảng, sự tồn vong của chế độ.
Thứ sáu là sự chống phá của các lực lượng như diễn biến hòa bình, cũng như sự đe dọa về độc lập chủ quyền thống nhất, chủ quyền biển đảo. Trước tình hình quốc tế phức tạp, khó lường, khi phát triển kinh tế thì Việt Nam cần phải quan tâm chăm lo chiến lược bảo vệ Tổ quốc.”
Như vậy thì đất nước và con người Việt Nam đang sống dưới chế độ độc tài đảng trị Cộng sản tươi sáng hay đen tối như chưa bao giờ thấy ?
Trong 6 thách thức thì ông Phúc có nói đến “sự chống phá của các lực lượng như diễn biến hòa bình, cũng như sự đe dọa về độc lập chủ quyền thống nhất, chủ quyền biển đảo.”
Ỏ vế thứ nhất, chả ai, kể cả những người như ông Phúc và ngay cả Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng cũng chưa có ai vạch được mặt kẻ thù “diễn biến hòa bình”. Nhưng trong thực tiễn, tất cả những gì, từ lời nói đến hành động, làm cho cán bộ đảng viên và nhân dân mất niềm tin vào đảng, chả còn muốn liên hệ máu thịt gì với đảng thì đều bị đổ lên đầu “diễn biến hòa bình”, hay “cách mạng xanh” hoặc “lật đổ không đổ máu” bởi quần chúng nổi lên. Nhưng trong đáy sâu lòng dạ của lãnh đạo là cách nói giấu mặt muốn ám chỉ Tây phương do Hoa Kỳ cầm đầu như đã xẩy ra tại một số nước như Ai Cập (Egypt), Lybia, Syria hay ở nước Nga và khối cac nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu từ 1989 đến 1991.
Trong ngôn ngữ của vế thứ hai, ông Phúc đã đề cập đến mối “đe dọa về độc lập chủ quyền thống nhất, chủ quyền biển đảo” thì ai cũng biết ông muốn nói đến láng giềng gian xảo Trung Quốc, nhưng ông nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng Nguyễn Trọng Phúc lại không dám nói thẳng ra là bằng chứng cho thấy ông, cũng như đảng của ông cứ vưỡn ỡm ờ, chưa dám đánh mà đã ôm nhau run như cầy sấy chỉ sợ ảnh hưởng xấu đến quan hệ hai nước “vừa là đồng chí, vừa là anh em” !
TƯỚNG THƯỚC - ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP
Người thứ hai trả lời cho cán bộ Tuyên giáo Hồ Quang Lợi là Trung tướng Nguyễn Quốc Thước – nguyên Tư lệnh quân khu IV, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng khóa VI, nguyên Đại biểu Quốc hội khóa VIII, IX, X.
Trong cuộc phỏng vấn phổ biến ngày 09/09 (2015), báo Giáo Dục Việt Nam đạt câu hỏi : “Nhìn vào tình hình đất nước trong những năm vừa qua, ông có lo lắng về công tác tổ chức cán bộ không?”.
Tướng Thước đáp: “Tôi rất lo lắng! Công tác cán bộ cho dù được thực hiện qua nhiều quy trình chặt chẽ, nhưng vẫn có những chỗ bị sai lệch dẫn tới những hệ lụy đáng tiếc.
Đó là chuyện quan chức sai phạm trong điều hành vì tư lợi, đó là chuyện tham nhũng, lãng phí ở nhiều địa phương, nhiều ngành… trong khi công tác giám sát, thanh tra quá yếu kém.
Tôi lấy thí dụ như báo cáo của Viện Khoa học thanh tra - Thanh tra Chính phủ thì tính đến hết tháng 5/2015 trong số 1.225 người thuộc diện phải xác minh tài sản chỉ phát hiện, kết luận 4 người kê khai không trung thực.
Đây là một con số quá ấn tượng, nhưng liệu có đúng như vậy không? Nhìn vào kết quả này, tôi rất buồn, bởi vì kết quả không phản ánh đúng thực chất tình hình diễn biến trong thực tế.
Nếu kết quả này là đúng thì Việt Nam phải được xếp ở nhóm đầu về sự minh bạch chứ không phải là nằm ở tốp cuối.”
Tướng Thước hoài nghi: “Trong các báo cáo của Đảng vừa qua đều chỉ ra rằng, tình hình tham nhũng diễn biến khó lường, còn nhiều phức tạp, kết quả đấu tranh chống tham nhũng chưa đạt được yêu cầu đề ra. Ấy thế mà kết quả thanh tra thì phản ánh hoàn toàn ngược lại.
Cứ như thế này thì làm sao kiểm soát được sự trung thực của cán bộ. Cứ như thế này thì kê khai tài sản sẽ mãi chỉ là chuyện hình thức, mà cái gì chỉ là hình thức, không còn thực chất nữa thì phải bỏ hoặc phải làm cho đúng với mong muốn của Đảng, cũng là mong muốn của nhân dân.”
Với cách làm việc chống tham nhũng bằng nước bọt như thế mà Hồ Quang Lợi dám “lăng ba vi bộ” : “Chưa bao giờ đất nước có đồ tươi sáng như hiện nay ” thì chỉ có mơ sảng mới phát ra như thế vào lúc kinh tế đang ngấp ngoái ở mức phát triển hơn 5%, thay vì 7 hay 8% như trước, và hiện đại hoá cái gì mà “chưa làm nổi con ốc vít” đễn nỗi bây giờ các Lãnh đạo đảng không dám nhắc lại dự báo khống từng hô hóan đến năm 2020 nước ta sẽ là một nước “công nghiệp hóa”.
Tại sao như thế sau 30 năm gọi là Đổi mới mà Việt Nam lại đi giật lùi không dám phát triển như các nước trong khu vực ?
Tại vì Việt Nam chỉ có một đảng cầm quyền nhưng lãnh đạo lại thiếu thông minh, cực đoan, bảo thủ và muốn “ăn hết” của dân, không dám cởi trói chính trị cho dân để họ được mở mắt nhìn ra ngoài xem tại sao hai dân tộc Cao Miên và Ai Lao đã có nhiều lĩnh vực vượt ra “đàn anh” Việt Nam ?
Tại vì hai nhà nước Lào và Cao Miên biết sử dụng tự do kinh doanh, tôn trọng quyền làm chủ của người dân trong khi đảng CSVN chỉ biết say mê “tòan trị và độc đảng”, “độc quyền thông tin báo chí” để kìm kẹp tư tưởng nhân dân.
Nếu những con số gụt hậu hơn các dân tộc láng giềng được báo cáo tại Hội nghị "Cải cách thể chế kinh tế Việt Nam để hội nhập và phát triển giai đoạn 2015-3035" hồi tháng 8/2015 chưa làm cho ông Tuyên giáo dẻo mép Hồ Quang Lợi “sáng mắt sáng lòng” thì ông Vũ Ngọc Hoàng, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung đã giúp ông Lợi mở mắt to hơn.
Ông nói: “Tôi nghĩ rằng một mặt chúng ta phải hết sức trân trọng tất cả những thành quả, thành tích đã đạt được vì đó là công sức chung của nhân dân, của Đảng, Nhà nước, nhưng mặt khác phải có cách tiếp cận mới. Liệu có bi quan hay không nói rằng chúng ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu?
Tôi nghĩ rằng nói vậy không có gì là bi quan. Không phải là nguy cơ tụt hậu mà chúng ta đã tụt hậu, chúng ta đang tụt hậu và chúng ta có nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa nếu như không đổi mới.”
Trong Cuộc phỏng vấn của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV, Voice of Vietnam) phát sóng trên Hệ Thời sự - Chính trị - Tổng hợp (VOV1) ngày 10/09/2015, ông Vũ Ngọc Hoàng nói tiếp: “Chúng ta đang rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp và việc này thể hiện trên nhiều mặt: năng xuất lao động thấp, thu nhập bình quân đầu người thấp. Sau 30 năm, hàng công nghiệp để xuất khẩu, có uy tín trên thị trường quốc tế không đáng kể.
Chúng ta có thế mạnh về nông nghiệp, nhưng sản phẩm thô về nông nghiệp của ta thấp hơn so với nhiều nước. Chúng ta chỉ có 70 triệu/ha giá trị sản phẩm, trong khi các nước đã có hàng mấy tỷ, có chỗ mấy chục tỷ rồi. Hay như chúng ta có thế mạnh về phát triển du lịch, nhưng cho tới giờ này vẫn rất ít, trong khi ở khu vực người ta hơn chúng ta hàng chục lần. Nợ nhiều, hiệu quả đầu tư thấp, chưa biết lấy nguồn tài chính ở đâu để trả nợ…Tất cả những vấn đề như vậy báo hiệu đã tụt hậu, đang tụt hậu và nguy cơ sẽ tụt hậu xa hơn.”
Chuyện mỗi ngày Việt Nam càng đi lùi sau các nước trong khu vực đã có từ trước 2003, khi Việt Nam bắt đầu chủ trương “Tái cơ cấu” kinh tế. Từ đó đến năm 2015, quốc nạn Tham nhũng và chủ trương cải cách hành chính đã thành “hành dân” hơn khiến cho tình trạng phát triển lâm vào ngõ bí trì trệ để sinh ra “lợi ích nhóm” để phá hoại đất nước nhiều hơn.
Nhưng các quan Tuyên giáo như ông Hồ Quang Lợi không nhìn ra đó là lỗi “Hệ thống” như nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã cảnh báo, mà cứ nói miết kiểu “đảng ta vĩ đại không bao giờ sai”.
Do đó, không ai lạ khi thấy Hồ Quang Lợi viết trên Nhân Dân: “Điều 4 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã chế định rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Hiến pháp Việt Nam thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, đã được toàn dân thảo luận rộng rãi và được Quốc hội thông qua. Sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam được ghi ở Điều 4 của Hiến pháp chính là sự lựa chọn dứt khoát của toàn dân tộc Việt Nam.”
Đố ai ở Việt Nam, kể cả những đảng viên chỉ còn “nửa cái óc” dám xung phong đi đầu trong hàng ngũ để thề nói gian sẽ chết đứng giữa chợ Đồng Xuân rằng mình đã “dứt khóat” chọn đảng để “lãnh đạo đât nước” suốt đời muôn năm ?
Nhưng mà trước khi có hành động “ái quốc, yêu đảng” hết cỡ thợ mộc như thế thì hãy bình tĩnh nín thở để thề thêm một câu nữa là sẽ “chịu chém đầu” giữa Quảng trường Ba Đình nếu đảng và Quốc hội không phải là đồng tác gỉa của Điều 4 Hiến pháp ?
Bấy nhiêu chuyện tưởng cũng qúa đủ để nói với đảng rằng : Gà đã gáy rồi, sao đảng cứ ngủ mãi ?
Hãy thức dậy thôi chứ. Nếu cứ ngủ li bì mãi thì đến Thế kỷ nào dân ta mới sáng mắt ra được ? -/-
Phạm Trần
Nguồn: GNsP
Dự thảo 5 Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo có ‘tiến bộ’ hơn so với dự thảo 4?
Viết bởi PV.GNsP
GNsP (11.09.2015) – Đầu tháng 9.2015, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQVN 'tổ chức Hội nghị tiếp xúc với đại diện lãnh đạo các tổ chức tôn giáo tại Hà Nội và một số tỉnh lân cận' về dự thảo Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo lần thứ 5. Dự thảo lần này được Hội nghị xem là có 'tiến bộ' hơn so với dự thảo 4 vì người bị giam giữ có quyền đọc sách tôn giáo (điều 4, khoản 3) hay các tôn giáo có quyền tham gia vào các lĩnh vực giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo (điều 47, 48)...
GNsP sẽ có nhiều bài phân tích những 'tiến bộ' của Dự thảo 5 Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo so với Dự thảo 4. Và, những thòng lọng nào của Dự thảo 5 khiến nó trở nên 'tiến bộ' hơn.
Người bị tạm giữ, Phạm nhân bị tước bỏ quyền Tự do Tôn giáo
Tự do Tôn Giáo là một trong những quyền căn bản của con người. Ðiều 18 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền đặt ra "khuôn mẫu chung" cho quyền Tự do Tôn giáo: "Mọi người đều có quyền về tự do tư tưởng, nhận thức và tôn giáo. Quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng, cũng như quyền tự do biểu lộ tôn giáo hay tín ngưỡng của mình, với tư cách cá nhân hay tập thể, ở nơi công cộng hay nơi chốn riêng, bằng sự truyền dạy, thực hành, thờ phượng và áp dụng các nghi thức đạo giáo". Chương II Hiến pháp Việt Nam qui định những "quyền cơ bản của công dân", Điều 24 khẳng định: "1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật".
Thế nhưng, Người bị tạm giữ, Phạm nhân trong các Nhà tạm giữ, Trại tạm giam Việt Nam đều bị tước bỏ quyền "cơ bản của Công dân" là Quyền Tự do Tôn giáo. Mặc dù, theo qui định Điều 31 Hiến pháp, Điều 9 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Người bị tạm giữ không bị xem là "người có tội" cho đến khi có phán quyết buộc tội- có hiệu lực- của Tòa án có thẩm quyền. Và ngay cả Phạm nhân, cũng chỉ là Người đang thi hành án "chịu sự quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội" (khoản 2, 3 Điều 3 Luật Thi hành án Hình sự). Họ không thể bị tước bỏ các "quyền cơ bản của con người", trong đó có quyền tự do biểu lộ Tôn giáo; Truyền dạy, thực hành, thờ phượng và áp dụng các nghi thức đạo giáo.
Người bị tạm giữ, Phạm nhân có quyền Tự do Tôn giáo theo "nội qui nơi giam, giữ" trong dự thảo 4.
Vào đầu tháng 5.2015, Dự thảo Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo (lần 4) đã đề cập đến "quyền Tự do Tôn giáo" của Người bị tạm giữ, Phạm nhân tại khoản 3 Điều 4: "Người đang bị giam, giữ được đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân theo quy định pháp luật và nội quy nơi giam, giữ". Nội dung này có thể xem là bước "tiến bộ", nhưng thực ra đã để "ngỏ" các khả năng biến qui định xem ra "tiến bộ" này sẽ chỉ "nằm trên giấy". Người đang bị giam, giữ sẽ không có quyền Tự do Tôn giáo, mà chỉ được "đáp ứng nhu cầu Tôn giáo của cá nhân", và việc "đáp ứng" này không phải "theo qui định pháp luật" mà còn phải theo "nội qui nơi giam, giữ", nội dung này qui định vậy. Thế nào là "đáp ứng" và "không đáp ứng"? "Nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo" là những "nhu cầu" gì? Hơn thế nữa, phải là "nhu cầu của cá nhân". Và cuối cùng nội qui nơi giam, giữ có quyền "không đáp ứng" dù "pháp luật có qui định". Một nội dung mơ hồ và tùy tiện.
Chính lẽ vậy, trên thực tế, người ta có thể thấy thông tin: "Những ngày lễ 30/4 và 1/5 năm nay, có một ý nghĩa đặc biệt đối với các phạm nhân ở trại giam Phú Sơn 4 (Thái Nguyên) thuộc V 26, Tổng cục 8, Bộ Công an. Đó không chỉ là việc công bố quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù đợt I năm 2010, mà nơi này còn vinh dự được đón tiếp Đại đức – Tiến sỹ triết học Thích Nhật Từ – Phó Hiệu trưởng Học viện Phật Giáo Việt Nam tại TPHCM và Đại đức Thích Nguyên Thành – Trưởng ban trị sự Phật giáo tỉnh Thái Nguyên tới đây để giảng về Phật pháp và hướng dẫn phạm nhân tập thiền".
Những 'tiến bộ' của dự thảo 4 'nằm trên giấy'
Nhưng cũng lại có những thông tin như: "Những tháng cuối năm 2011, 17 các Thanh Niên Công giáo và Tin Lành (TNCG và TL) thuộc giáo Phận Vinh bị nhà cầm quyền bắt giam trái phép. Sau đó, các anh bị quy kết vào Điều 88 BLHS "tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN VN" và Điều 79 BLHS "hoạt động nhằm lật đổ chính quyền". Suốt thời gian ở trong các trại giam, các anh không được nhà cầm quyền đáp ứng các quyền tối thiểu và căn bản của một thường phạm, đặc biệt quyền thực hiện tự do tín ngưỡng tôn giáo bị tước bỏ như không cho phép các anh được gặp linh mục để được ban Bí tích, không cho thân nhân gửi Kinh Thánh và các sách tôn giáo". Và "Cha JB Nguyễn Đình Thục kể lại: "Ở đây, công an tỏ ra rất tử tế và mời cha vào nói chuyện. Họ nói rằng, họ hiểu nhu cầu của các em nhưng mong cha thông cảm, bởi vì họ thuộc cấp dưới không đủ quyền làm việc này. Hy vọng lần sau cha đến và sẽ được gặp các anh em. Cha nói với họ rằng, "luật không cấm linh mục vào thăm các [tù nhân] và mục đích của nhà tù là giúp cho các tù nhân được sống tốt hơn. Cho nên các linh mục có thể đáp ứng cho các em có đời sống tâm linh trở nên tốt hơn, thế thì tại sao các linh mục không được phép. Các [nhà tù ở các] nước phương tây mời các linh mục đến để giúp đỡ họ [cán bộ trại giam] giáo dục các tù nhân, vậy tại sao nước ta lại không được?". Họ nói với cha rằng, trước đây có một vài linh mục đã đến thăm và họ phải trình bày với công an tỉnh thì mới được gặp, nếu không họ không còn cách nào khác"
Ngay như sách Kinh Thánh, cựu tù nhân lương tâm Luật sư Lê Thị Công Nhân kể: "Vào những giờ nghỉ, họ cho mình xem TV. Họ cũng cho mình đọc sách báo. Cũng nhiều loại sách báo, nhưng trại cấm đọc những sách báo về tôn giáo, đặc biệt là đạo Thiên Chúa. Họ tịch thu hết tất cả kinh thánh. Tôi là tù nhân duy nhất được có quyển kinh thánh để đọc. ... Đây là cuốn kinh thánh mà Ủy ban Tôn giáo Hoa Kỳ họ vào gặp tôi khi tôi ở Hoả Lò, được dẫn đầu bởi ông Nguyễn Văn Hưởng, thứ trưởng Bộ Công an. Vì ông Hưởng dẫn họ vào nên tôi mới được giữ quyển kinh thánh. Và việc giữ lại quyển kinh thánh đó cũng là một cuộc tranh đấu. Họ cho phép tôi nhận trước mặt những người kia như là một trò hề. Khi tôi đem vào buồng giam thì họ lại không cho. Và đây cũng là một cuộc tranh luận rất căng thẳng. Từ Hoả Lò họ cho phép tôi dùng, nhưng khi tôi chuyển về trại giam ở Thanh Hoá thì họ thu luôn của tôi, dẫn đến việc tôi tiếp tục nhịn ăn vì họ thu kinh thánh của tôi".
Một Cựu TNLT khác- anh Trần Hữu Đức– cũng rơi vào trường hợp tương tự: "Tình hình của em Đức rất tội. [Mấy lần trước gia đình đi thăm] có gửi Kinh Thánh và sách báo vào cho em, nhưng cán bộ trại giam không cho nhận, nên em Đức đã tuyệt thực trong suốt 18 ngày để phản đối hành động của cán bộ trại giam. Sau 18 ngày tuyệt thực, cán bộ trại giam đã chấp nhận cho em được đọc Kinh Thánh. Em đã ăn lại được 3 ngày nên sức khỏe hơi yếu và phải có người cõng em ra ngoài để thăm gặp gia đình". Một Luật sư cũng là Cựu TNLT đã kể mình được "đặc ân" có cuốn Kinh Thánh trong nhà tù, nhưng sau đó, bị "tước bỏ" vì không làm theo "ý đồ" của cán bộ. Một Luật sư thuộc Đoàn LS Sài Gòn kể lại, ông đã từng phải "xin" quản giáo- cho một Người mới chỉ bị tạm giam- được nhận cuốn "lịch Công Giáo" do một nhà xuất bản của Hà Nội ấn hành, theo mong muốn của Người bị tạm giam "muốn biết những ngày Lễ trọng để hiệp thông với Giáo Hội"!
Nội dung dự thảo 4 Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo được Bộ Nội Vụ và Ban Tôn giáo Chính phủ đưa ra "góp ý" vào đầu tháng 5.2015, được các Tôn giáo đánh giá rằng dự thảo Luật vi hiến, không hợp pháp, cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền tự do Tôn giáo... Về phía Giáo hội Công giáo, quý Đức Giám mục thuộc nhiều các Giáo phận nhận định dự thảo 4 là một văn bản Luật thụt lùi, hà khắc, phân biệt đối xử đối với các Tổ chức Tôn giáo.
Và, lần này, sau khi "chỉnh sửa", lần 5 Dự thảo Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo có "tiến bộ" hơn?