Tin Thế Giới
Tin Thế Giới
- Viết bởi Minh Đức
WHĐ (20.05.2015) / Agenzia Fides– Philippines sẵn sàng nhận khoảng ba ngàn người Rohingya tị nạn từ Myanmar và Bangladesh;những người này đang lênh đênh trong vịnh Bengal, vì bị tất cả các nước Đông Nam Á khác từ chối tiếp nhận. Cả Chính quyền Philippines và Giáo hội Công giáo đều bày tỏ sự đồng ý.
Ông Herminio Coloma, thư ký báo chí của Phủ tổng thống Philippines, nhấn mạnh rằng Philippines đã ký Công ước năm 1951 về Quy chế dành cho người tị nạn, và hứa sẽ “cung cấp sự trợ giúp cho những người buộc phải rời quê hương mình vì xung đột”. Ông Coloma khẳng định, “Về phía mình, chúng tôi sẽ tiếp tục công việc cứu vớt người tị nạn”, và ông nhắc lại rằng trong những năm 70 của thế kỷ trước Philippines cũng đã đón nhận các “thuyền nhân” Việt Namtrốn thoát khỏi đất nước của họ sau khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc.
Cha Socrates Mesiona, Giám đốc các Hội giáo hoàng Truyền giáo quốc gia Philippines, cũng ca ngợi quan điểm của chính phủ và đồng ý rằng: “Chúng tôi có nghĩa vụ đón nhận những người này: nếu cần, chúng tôi sẽ nhận họ và sẽ cố gắng bảo đảm cho họ một cuộc sống tươm tất. Họ là những con người và là con cái của Thiên Chúa, được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa. Việc họ là người Hồi giáo không thành vấn đề và không làm cho tình hình thay đổi. Như Phúc Âm dạy chúng ta, chúng ta phải sẵn sàng đón tiếp họ”.
Các quốc gia Đông Nam Á đang phải chịu áp lực giải quyết cuộc khủng hoảng của hàng ngàn di dân thuộc dân tộc thiểu số Rohingya theo Hồi giáo;họ đang lênh đênh trên vùng biển của quần đảo Andaman, sau khi Indonesia, Malaysia và Thái Lan từ chối tiếp nhận họ. Nhiều người Rohingya đã trốn chạy khỏi Myanmar, vì ở đây họ không được cấp quốc tịch và không được công nhận có các quyền lợi cơ bản.
Do áp lực quốc tế phải giải quyết cuộc khủng hoảng nhân đạo này, một cuộc họp khẩn cấp giữa các bộ trưởng ngoại giao của Malaysia, Thái Lan và Indonesia sẽ được tổ chức vào ngày 20 tháng Năm 2015 tại Kuala Lumpur để thảo luận về tình hình cấp bách của các di dân. Tuần trước có hơn 2.500 người Rohingya ở Bangladesh và Myanmar đã đổ bộ lên bờ biển của ba nước này, và theo ước tính mới nhất, năm ngàn người được coi làđã mất tích ở vùng biển Andaman.
- Viết bởi Đặng Tự Do
Trong một tuyên bố được đưa ra tại Beirut hôm thứ Sáu 15 tháng 5 và được đăng tải trên báo chí địa phương và trên Twitter, bọn khủng bố Hồi Giáo IS tuyên bố nhận trách nhiệm về vụ thảm sát dã man tại Karachi, là thành phố lớn nhất của Pakistan hai ngày trước đó.
Abid Hussain, một nhân chứng tại chỗ cho AFP biết như sau:
"Có sáu người trên ba xe gắn máy, ba tên nhảy lên xe buýt và bắn loạn xạ trong khi ba tên kia vẫn cho xe nổ máy đợi chúng và tẩu thoát. Khi chúng tôi tới gần chiếc xe buýt, chúng tôi thấy nhiều người đã chết ".
Ghulam Haider Jamali, cảnh sát trưởng quận Quetta, nơi xảy ra vụ tấn công cho biết: “43 người bị giết trên xe buýt và 13 người khác bị thương. Chúng tôi kêu gọi bất cứ ai có tin tức gì về vụ thảm sát này hãy báo cáo ngay cho cảnh sát”.
Người Hồi Giáo Shiite chiếm 20% dân số trong cả nước Pakistan nhưng họ sống tập trung tại Quetta và vùng lân cận trong thành phố Karachi để tránh bị người Hồi Giáo Sunni bách hại.
Thông báo do quân khủng bố Hồi Giáo IS đưa ra có đoạn viết:
"Tạ ơn Allah, 43 tên bội giáo đã thiệt mạng và khoảng 30 tên khác bị thương trong một cuộc tấn công được thực hiện bởi những người lính của nhà nước Hồi giáo trên một chiếc xe buýt chở những kẻ vô đạo Hồi Giáo Shiite ở thành phố Karachi"
Đó là tuyên bố chính thức đầu tiên về trách nhiệm của bọn lãnh đạo IS về một cuộc tấn công trong khu vực Afghanistan-Pakistan.
IS, nay đã chiếm quyền kiểm soát phần lớn Syria và Iraq, công bố vào tháng Giêng năm nay việc thành lập một chi nhánh của chúng tại cái mà chúng gọi là "tỉnh Khorasan", bao gồm Afghanistan, Pakistan và nhiều vùng của các nước xung quanh.
- Viết bởi Nguyễn Việt Nam
Tối thiểu 69 người chết và hàng ngàn người bị thương trong vụ động đất lần thứ hai tại Nepal diễn ra vào lúc 12:35 giờ địa phương.Tâm chấn động nằm cách thủ đô Kathmandu 76km trong vùng hoang vu gần biên giới với Trung quốc.
Trận động đất thứ hai có cường độ nhẹ hơn là 7.3 độ Richter so với 7.8 độ Richter của trận động đất lần thứ nhất diễn ra hôm 26 tháng Tư.
Tuy nhiên, chấn động có thể cảm thấy rất mạnh ở Ấn Độ, Bangladesh và Tây Tạng. Bộ Nội Vụ Ấn cho biết 17 người Ấn tại bang Bihar bị thiệt mạng và một người nữa tại bang Uttar Pradesh. Trung quốc cho biết có một người bị thiệt mạng tại Tây Tạng.
Nhiều nhà cửa tại Kathmandu sụp đổ trong khi dân chúng tràn ra đường kêu la thất thanh.
Phát ngôn viên tòa Bạch Ốc là Trung Tá Steve Warren cho biết một chiếc trực thăng UH1 của Hoa Kỳ chở 6 quân nhân thủy quân lục chiến Mỹ và hai người Nepal được ghi nhận là mất tích.
Phát ngôn viên chính phủ Nepal là ông Minendra Rijal cho biết là 32 trong tổng số 75 quận của Nepal bị thiệt hại, 1261 người Nepal được ghi nhận là bị thương cùng với ít nhất là 50 người bị thiệt mạng trong trận động đất hôm thứ Ba.
Nguyễn Việt Nam
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa đã ban cho chúng con người mẹ. Qua mẹ chúng con đã học biết, cảm nhận được tình yêu đầu đời của đời sống.
Mẹ đã dẫn đưa chúng con vào đời sống, đã săn sóc đùm bọc chúng con từ tuổi thơ ấu rồi trong suốt dọc cuộc đời.
Mẹ đã trao tặng chúng con thời giờ và sức lực của bà. Và như thế, tình yêu của mẹ luôn luôn rộng lớn thêm ra.
Mẹ đã sống cùng làm việc cho chúng con. Mẹ dậy chúng con sống và yêu thương.
Mẹ cầm tay dậy chúng con biết đi, biết cầm đũa bát ăn cơm, ăn bánh, biết dùng khăn rửa mặt, tắm rửa lau chùi thân thể cho khô sạch.
Mẹ đã dậy chúng con học ăn, học nói, biết lễ phép chào hỏi, biết làm dấu Thánh Gía, biết đọc kinh cầu nguyện.
Mẹ dậy chúng con biết viết cho đúng cho đẹp, biết đọc chữ, biết cách săn sóc y phục mặc quần áo.
Mẹ chỉ cho chúng con cách quyét lau, xếp đặt trưng dọn nhà cửa cho sạch sẽ, cách nấu ăn làm bếp.
Chúng con luôn luôn có thể đến với mẹ lúc còn thơ bé, cả khi đã lớn khôn trưởng thành. Nơi mẹ chúng con tìm nhận được sự an ủi, lời khuyên khích vực dậy vươn lên và sự giúp đỡ, những khi gặp khó khăn lo âu.
Với mẹ, chúng con có thể tâm sự, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn lo âu. Mẹ cùng chịu đựng và cùng xan xẻ gánh chịu với chúng con.
Mẹ là người yêu qúy nhất đời chúng con.
Khi còn mẹ, chúng con vui mừng hạnh phúc. Và hằng cầu xin sao cho mẹ mình sống mãi lâu năm bao nhiêu có thể, sống khoẻ mạnh với các con. Vì Mẹ là cây cột niềm vui, niềm trông cậy hạnh phúc của đời chúng con.
Nhưng theo luật tuần hoàn thiên nhiên, mẹ cũng như mọi người, loài thụ tạo trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa, quãng đường đời sống trên trần gian cũng tới ngày hết hạn chấm dứt.
Mẹ đã nghe theo tiếng Thiên Chúa gọi ra đi về bên kia thế giới. Hay đúng hơn về quê hương trên trời bên Thiên Chúa. Nhưng không vì thế tình yêu mẹ nơi chúng con biến mất. Trái lại, Mẹ hằng sống động luôn mãi trong trái tim lòng biết ơn của các con mẹ.
Các con mẹ yêu mến mẹ, nhớ mẹ luôn mãi. Và như thế, tình yêu mẹ nơi các con càng dần lớn thêm ra.
Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa đã ban tặng người mẹ cho đời chúng con.
Vì những gì tốt đẹp hữu ích, mà mẹ đã làm cho chúng con,
Vì những gì là êm đềm thánh đức, mà mẹ chúng con đã được sống trải qua.
Vì những giá trị cao đẹp, mà mẹ chúng con đã sống gặt hái được trong đời sống.
Vì tất cả những tình tự yêu thương, mà mẹ đã trao tặng tỏ lộ cho chúng con.
Vì tất cả sự lo âu khắc khoải, mà mẹ phải bồn chồn trong hy vọng, và cả trong dòng nước mắt thất vọng cùng đau khổ đã sống trải qua.
Vì những đau khổ cực nhọc, mà mẹ đã đau đớn gánh chịu đựng.
Vâng, mẹ chúng con đã có đời sống là như thế. Chúng con cám ơn Chúa đã ban cho đời chúng con người mẹ chan chứa tình yêu, lòng vui tươi cởi mở niềm hy vọng, và chịu đựng nhiều đau khổ.
Nhớ tới mẹ, chúng con nhớ tới câu ngạn ngữ của người Ả Rập truyền khẩu trong dân gian “ Chìa khóa mở ra sự khôn ngoan nằm ở nơi đầu gối dưới chân người mẹ“.
Ngày nhớ ơn mẹ, 10.05.2015
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Viết bởi Vũ Van An
Bà Dorothy Caruso ở New York cho ta một câu truyện cảm động nhân Ngày Hiền Mẫu. Đêm bà xẩy thai năm 1968, bà nhớ bà rất bình thản như thể bà đang chứng kiến một ai đó mất một bào thai hết sức mong đợi. Bào thai lúc đó vào khoảng 3 tháng tuổi; bà đã sắm sẵn chiếc áo ấm con nít mầu trắng, cả một bộ đồ chơi.
Một ngày trước đó, bác sĩ của bà vốn nghi nghi bà sẽ xẩy thai và đã dặn dò bà rất kỹ. Và do đó, như đã được chỉ dẫn, bà đặt những gì còn lại của người đáng lẽ đã là con trai của bà vào một chiếc bình thủy tinh.
Vì là người Công Giáo, bà đi tìm nước thánh mà bà luôn giữ trong nhà, và rửa tội cho con.
Phải 47 năm sau, bà Caruso mới đề cập tới những gì đã xẩy ra tại bệnh viện vào ngày hôm sau. Năm nay đã 69 tuổi, nhân tham dự buổi tưởng niệm các trẻ em chết vì xẩy thai tại Nghĩa Trang Chúa Cứu Chuộc Chí Thánh ở bên ngoài thành phố Albany, N.Y., bà nói rằng “tôi nhớ cô y tá bước vào. Cô cầm lấy chiếc bình và nói: ‘ồ đúng rồi, đây là chiếc bình chúng tôi đang đi kiếm’ rồi quăng nó vào thùng rác, ngay trước mặt tôi trong khi tôi còn nằm trên giường lăn.
“Đó là tất cả những gì tôi nhớ được. Cô ta cầm lấy nó và quăng nó vào thùng rác”.
Ngày nay, các bà mẹ xẩy thai được hưởng nhiều thái độ hiện đại hơn đối với việc mất bào thai của họ. Nhiều bệnh viện dành thì giờ cho các gia đình nói lời từ biệt với các trẻ bị xẩy thai. Họ thường hỏi xem gia đình có cần mời giáo sĩ tới hay không...
Vườn Tưởng Niệm của Nghĩa Trang Chúa Cứu Chuộc Chí Thánh tôn kính các trẻ bị xẩy thai, an ủi các cha mẹ trẻ mới mất đứa con của mình. Nhưng việc lập ra nó cách nay 2 năm đã được nhiều thế hệ cha mẹ xẩy thai trước đây gợi hứng. Giống như bà Caruso, các bà mẹ này chưa bao giờ được cơ hội khóc thương cho đứa con bị xẩy thai cũng như chưa bao giờ được cho biết việc gì đã xẩy ra cho di thể của chúng.
Có ai biết được rằng sự mất mát này tác động lên cuộc đời các bà mẹ lâu dài như thế nào. Bà Durden, ở Atlanta, nay đã 70 tuổi, xẩy thai đứa con trai đã 7 tháng mà bà đặt tên cho là Justin, nhận định rằng việc mất mát này hình như ai cũng muốn quên đi, nhưng “nó không bao giờ biến mất, nó tác động lên người đàn bà suốt cả cuộc đời họ".
Không phải người đàn bà nào cũng tiếc thương đứa con bị xẩy thai như thế. Tuy nhiên, niềm tin tôn giáo có ảnh hưởng tới cách đáp ứng của họ đối với việc xẩy thai. Bà Steinbock, người có tham gia buổi tưởng niệm tại Nghĩ Trang Chúa Cứu Chuộc Chí Thánh, cho biết: “nếu bạn được dưỡng dục trong đạo Công Giáo và do đó cho rằng bào thai ở ngay giai đoạn đầu đã là một con người giống như mọi con người khác, chỉ là không ai thấy trong bụng mẹ mà thôi, thì hẳn bạn sẽ có một phản ứng khác hẳn người có một nền dưỡng dục khác”.
Các bà mẹ tham dự buổi lễ tưởng niệm nói trên còn nhắc tới một điều khác nữa từ nền giáo dục Công Giáo của họ, khiến họ hết sức đau khổ khi không biết số phận đứa con bị xẩy thai ra sao. Như bà Caruso chẳng hạn. Đối với bà một đứa trẻ chưa chịu phép rửa không thể lên thiên đàng được.
Dù ý niệm trên, phát xuất từ thời Trung Cổ, nay đã bị Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo bác bỏ, nhưng nó vẫn còn lẩn khuất trong tâm trí nhiều người Công Giáo ngoan đạo.
Về phương diện này, linh mục Peter Ryan, Giám Đốc Điều Hành của Văn Phòng Tín Lý và Giáo Luật Sự Vụ của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, cho hay: dù các trẻ em nên được rửa tội càng sớm càng hay sau khi sinh ra, nhưng các cha mẹ không nên ngã lòng về phần rỗi của đứa con nếu điều đó không xẩy ra, “ngược lại, Chúa Cha, Đấng từng sai Con Một của Người xuống cứu vớt ta, luôn muốn cho mọi người được cứu rỗi. Qúy vị biết: Chúa Giêsu rất thương đứa trẻ này”.
Còn về việc rửa tội cho các trẻ chưa sinh, theo cha, Giáo Hội dạy rằng “các bí tích là dành cho người sống” nhưng nếu nghi ngờ có sự sống, thì nên rửa tội ngay.
Đức Maria, người bà Việt Nam trong nền văn hóa bạo lực
Kathleen Hirsch, trên tạp chí Crux số ngày 8 tháng 5, 2015, nhận định rằng trong nền văn hóa Tây Phương, không điều gì biến đổi hơn hình ảnh về chức phận làm mẹ. Chúa Nhật này, bữa nửa sáng nửa trưa (brunch) sẽ được ăn mừng bởi một thế hệ những bà mẹ thành đạt, đa tài, những bà mẹ lên đường vào buổi sáng trông giống như trị gía cả hàng triệu bạc. Không hiểu nếu Đức Maria, người mẹ tiêu mẫu của Thế Giới Kitô Giáo, mà xuất hiện trong các phố xá của Khu Hạ Manhattan của New York, thì ta sẽ thấy gì ở nơi ngài, và ngài thấy gì ở nơi ta? Thậm chí liệu ta có nhận ra ngài hay không?
Nhớ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường, không năm nào qua đi mà Hirsch và các bạn không đua tranh nhau rước tượng Đức Mẹ vào nhà thờ chật ních người trong một buổi tối tháng Năm yên tĩnh, đội cho ngài vòng hoa đủ mầu sặc sỡ và đồng thanh hát mừng ngài những bài ca ngợi khen tất cả những gì ngài đại diện cho họ lúc ấy: sự ngọt ngào, sự dịu dàng và kiên nhẫn của một tình yêu luôn có đó.
Nhưng rồi cuộc sống biến đổi và cả họ nữa. Các nhà nhân loại học và các sử gia văn hóa sẽ cho thấy có phải nền văn hóa của ta hiện nay bạo động hơn các nền văn hóa trong quá khứ hay không, nhưng không một ai có thể bác bỏ rằng chúng ta hiện đang rơi vào những trận co giật chưa từng thấy của bạo lực, một thứ bạo lực bùng lên như trận cháy rừng tháng Tám, thiêu rụi hết những người yếu ớt và vô quyền giữa chúng ta: người da đen, phụ nữ và người đồng tính. Những giá trị vốn được coi là đặc trưng nam tính như sự hữu lý, sự khách quan, sự trật tự và biết kiểm soát từng tạo ra biết bao thành tựu, đã bị bóp méo trở thành trò khôi hài thô kệch của văn minh: tính đế quốc! Chỉ an ủi một điều là ta chưa sa vào thực hành đóng đinh mà thôi, nhưng có những ngày ta thấy mình thật gần với thực hành này.
Ngày Hiền Mẫu năm nay, ta nên đảo ngược câu hỏi để hỏi rằng “Đức Mẹ sẽ làm gì?” Ngài dạy ta phải đẩy lui ra sao cái nền văn hóa bạo lực do mình trồng ra này, đẩy lui sự kỳ thị và khinh bạc cũng như óc thống trị bừa bãi từng nạn nhân hóa bất cứ ai không chịu nhập cuộc với nó? Ngài có một hay hai lời nào về chủ đề tình yêu luôn có đó, về những đòi hỏi chủ yếu của dưỡng dục hay không?
Đức Maria không lạ lẫm gì đối với bạo lực. Ngài biết rõ sự bất lực của thân phận làm mẹ, cũng như các đau đớn do nó phát sinh ra. Đứa con sinh ra trong hy vọng và niềm vui, bị giản lược bởi thiên kiến, bởi các hệ thống loại trừ, bởi bỏ bê, trở thành đứa con xé lòng. Một xé lòng khôn nguôi vì không có khả năng thay đổi chòm xóm, thay đổi nhóm cùng trang cùng lứa, các giải pháp, bất kể đã tham gia bao nhiêu hội ý giữa cha mẹ và thầy cô, bất kể bao nhiêu cuộc họp với hiệu trưởng, van nài ai đó tỏ một chút từ tâm, một tia hy vọng. Thấy một đứa con bị xâm hại, bị cắt khỏi sức sống khôi nguyên, là điều gần như đe dọa tới chính ý muốn sống của người ta.
Không có gì ở trên đời lại đòi hỏi nhiều can đảm, nhiều gan góc, và sức mạnh tinh thần bằng điều trên. Sức mạnh phát sinh từ việc chịu đựng, từ việc tìm ra sự sống mới và niềm hy vọng quá bên kia những cái chết hàng ngày này, là một sức mạnh có khả năng đội đá vá trời.
Hirsch không nghĩ rằng Đức Maria lại xuất hiện giữa phố xá ta trong bất cứ vòng tròn đặc ân nào, không như cách người ta vốn nghĩ ngài hiện ra ở Medjugorje hay Gaudalupe. Không hề có không gian huyền bí cho ngài. Các phẩm tính của ngài không được trân qúy, không được coi là có liên hệ, ngay cả trên môi miệng, bởi ta quá bận bịu với việc phải đúng hạn chót, phải đọc các trang về kinh doanh, làm bẩn hành tinh qua việc thi đua chạy tới những nơi ẩn dật mỗi ngày mỗi hiếm hoi thêm.
Nhưng gần đây, Hirsch nghe kể về một trường hợp: một thiếu phụ Việt Nam, mẹ của 3 đứa con 9, 6 và 3 tuổi, một năm trước đây bị chồng bỏ rơi một mình. Nàng sống chật vật với đồng lương thợ móng tay (lương tối thiểu cộng thêm tiền khách cho) làm 12 giờ mỗi ngày, 7 ngày mỗi tuần, để nuôi ăn nuôi mặc cho chúng. Về chỗ ở, nàng phải dọn về nhà mẹ trong một cộng đồng ở nội thành nơi nàng từng lớn lên.
Nàng nói với Hirsch: “Mỗi đêm, về tới nhà là tôi mệt nhoài. Tôi nằm xoài lên giường ngủ của mẹ. Mẹ tới nằm bên cạnh tôi, hỏi tôi nhiều điều về ngày sống của tôi. Mẹ lắng nghe, mẹ an ủi tôi. Có được một ai đó để chuyện trò quả là tuyệt diệu. Đôi lúc tôi mệt quá đành thiếp ngủ đi. Mẹ để tôi ngủ một tiếng đồng hồ. Rồi lại đi vào, đánh thức tôi dậy và nói: ‘mấy đứa con của con đang đợi con kìa!’”.
Hirsch bảo đó là một bà mẹ có khả năng đội đá vá trời cho những người lệ thuộc bà khi thế giới của chúng tan tành. Quá tuổi mang nặng đẻ đau, bà chăm sóc các đứa cháu của bà, coi chúng làm bài ở nhà và sự an toàn của chúng, lắng nghe các tỉ tê của người con gái kiệt lực. Bà là sức mạnh và cột nâng đỡ cho tới lúc cuộc đời trẻ trung này nhận phiên của mình. Đó là một sức mạnh vượt quá cái nhợt nhạt của những niềm hy vọng và giấc mơ tan tành; đó chính là một trong những nơi Đức Maria ẩn mình, trên ngoại biên thế giới hiện đại.
Lưu lạc là điều chẳng mới lạ gì đối với Đức Maria cũng như việc phải trốn chạy bạo lực. Nhưng Hirsch nghĩ rằng ngài chỉ thực sự dấu mặt đối với những người có xu hướng phá hoại hay giết hại những ai dám đe dọa địa vị ưu đãi của họ. Ở những nơi đem đến cho ta hy vọng, nơi ta có thể nằm xuống và nói ra các sự thật của ta và được lắng nghe mà không bị luận bác hay phán xét, ngài hiện diện một cách hết sức sinh động, trở thành nguồn sức mạnh cho ta.
Không phải vô cớ, ngài được xưng tụng là Nữ Vương Thiên Đàng. Ngài có thể đạp dập đầu rắn độc, nhưng vẫn là Mẹ Thiên Chúa, hạ sinh hy vọng quá bên kia máng cỏ Bêlem. Trong khi ta đang tạo ra những cuộc sống đen tối và đầy hãi hùng cho những người không thể đánh trả, thì ngài đang thực hiện những điều ngài vốn luôn thực hiện. Ngài đội đá vá trời.
- Viết bởi Nguyễn Việt Nam
Expo 2015 diễn ra tại Milan đã được khai mạc hôm thứ Sáu 1 tháng 5 trong bối cảnh các cuộc đụng độ bạo lực giữa cảnh sát và những người phản đối biến cố này. Cuộc triển lãm quốc tế Milan được tổ chức dưới dạng một hội chợ tương tự như hội chợ quốc tế đã diễn ra tại Thượng Hải năm năm trước đây.
Cảnh sát đã phải bắn hơi cay và xịt nước vào những người biểu tình. Đáp lại, những người biểu tình đeo mặt nạ đã ném đá, đập vỡ cửa sổ và đốt nhiều xe và những thùng rác trong cuộc biểu tình gọi là “No Expo”. Cuộc biểu tình này đã quy tụ khoảng 30,000 người tham dự.
Lính cứu hoả đã phải dùng vòi rồng để dập tắt nhiều đám cháy, trong đó có cả một vụ hoả hoạn dữ dội tại một chi nhánh ngân hàng. Những người biểu tình đã viết trên bức tường ngân hàng dòng chữ nguệch ngoạc: "Các ngươi đã lột da chúng tôi, hôm nay các ngươi phải trả"
Những cảnh bạo lực này là khởi đầu cay đắng cho cố gắng của Ý muốn dùng hội chợ này như một đòn bẩy kinh tế. Hầu hết các hạn mục của hội chợ đã được hoàn thành vào giờ chót sau những quan ngại là tình trạng tham ô trầm trọng có thể khiến cho hội chợ không thể khai mạc đúng ngày 1 tháng 5.
Trong diễn văn khai mạc, thủ tướng Matteo Renzi khẳng định rằng Milan và Italia đã bất chấp những lời chỉ trích rằng họ sẽ không thể khai mạc đúng thời hạn.
Ông Renzi nói:
"Họ nói chúng tôi sẽ không bao giờ thực hiện nổi điều này nhưng ngày nay hội chợ triển lãm này là một thực tại. Trong những tháng tới, thế giới sẽ được nếm những hương vị và đặc sản của Ý nhưng đặc biệt là khát vọng thâm sâu của đất nước này muốn viết nên một chương mới của hy vọng".
Trong 6 tháng tới, các nhà tổ chức hy vọng sẽ có 20 triệu khách viếng thăm Expo 2015 với một doanh thu khoảng 10 tỷ Euros.
- Viết bởi Lm. Trần Đức Anh OP
MILANO. Nhà của Tòa Thánh tại cuộc triển lãm quốc tế 2015 ở Milano, Bắc Italia, bắt đầu thu hút khách viếng thăm.
Cuộc triển lãm này đã được thủ tướng Matteo Renzi của Italia khai mạc hôm 1-5-2015 với sự tham dự của 200 ngàn người, và có chủ đề là ”Nuôi dưỡng trái đất, năng lực cho cuộc sống”. Tòa Thánh là 1 trong 140 quốc gia tham dự cuộc triển lãm hoàn cầu này, từ 1-5 đến 31-10 năm nay. Khu vực triển lãm rộng 110 hécta cách trung tâm thành phố Milano 16 cây số về hướng tây bắc. Ban tổ chức hy vọng sẽ có hơn 20 triệu khách đến viếng thăm.
Nhà triển lãm của Tòa Thánh rộng 70 mét vuông, có chủ đề là ”Không phải chỉ sống bằng bánh”, trong đó có những tiểu đề như ”mảnh vườn cần giữ gìn, lương thực cần chia sẻ, bữa ăn giáo dục, bánh làm cho Thiên Chúa hiện diện trong thế giới”.
Nhà triển lãm của Tòa Thánh do Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa tổ chức với kinh phí 3 triệu Euro, với sự cộng tác và đóng góp của HĐGM Italia và Tổng giáo phận Milano sở tại. Đại Học Công Giáo Thánh Tâm và Bệnh viện Nhi đồng Chúa Hài đồng Giêsu của Tòa Thánh ở Roma cũng cộng tác về phương diện khoa học.
ĐHY Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa cho biết chủ đề lương thực cũng là cơ hội để suy tư và giáo dục về đức tin, công lý, hòa bình, tương quan giữa các dân tộc, kinh tế, môi sinh. ĐHY nhắc lại rằng thế giới ngày nay đang bị chia làm hai loại người: những người đói và những người phải ăn kiêng, vì quá nhiều lương thực và không được sử dụng tốt.
Trong thời gian triển lãm, tại Nhà của Tòa Thánh cũng có những cuộc thảo luận, diễn đàn và chiếu phim về nạn đói trên thế giới, lương thực dài hạn, săn sóc môi sinh, ăn kiêng và dinh dưỡng. Ngoài ra có một cuộc nói chuyện về tương quan giữa lương thực và nhân loại.
Cuộc triển lãm quốc tế được tổ chức 5 năm một lần. Cho đến nay, từ thời Đức Chân phước Giáo hoàng Piô 9, Tòa Thánh vẫn luôn tham gia các cuộc triển làm này để chứng tỏ ước muốn của Giáo Hội mong cho tiếng nói của mình được lắng nghe, và nêu chứng từ đề những đề tại tế nhị, quan trọng, liên quan đến tương lai.
Một số nhà triển lãm của Tòa Thánh trong quá khứ gần đây thương nhấn mạnh đến nghệ thuật thánh và hầu như là một bảo tàng viện Vatican lưu động, với một nhà nguyện nhỏ.
ĐHY Ravasi cho biết so với khu nhà triển lãm của Tòa Thánh hồi năm 1964 tại New York, lần này khu nhà của Tòa Thánh đơn sơ hơn, hợp với đường hướng của ĐTC Phanxicô.
Nhà triển lãm của Tòa Thánh ở Milano không được trang trí bằng những biểu tượng Kitô công khai, nhưng cũng có hàng chữ ”Xin ban cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”, bằng 13 thứ tiếng.
Sứ điệp của ĐTC
Trong sứ điệp Video truyền đi trưa ngày 1-5 vừa qua trong buổi khai mạc cuộc triển lãm ở Milano, ĐTC nói với các quan chức của các nước trên thế giới rằng: dân chúng đang cần chấm dứt sự phá hoại trái đất, cần tìm ra những phương thế để bảo tồn và chia sẻ các tài nguyên của trái đất, nhất là để cung cấp lương thực cho người đói.
ĐTC cũng mời gọi các khách viếng thăm và ban tổ chức cuộc triển lãm chứng tỏ mối quan tâm thực sự đối với người nghèo và thực hiện những cố gắng cụ thể để thăng tiếng tình liên đới. Chẳng vậy - ĐTC nói - cuộc triển lãm quốc tế có thể là thành phần của một sự ”nghịch lý về sự sung túc” mà thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng đã tố giác khi Ngừơi nhận xét rằng một thiểu số người trên thế giới thừa thãi những gì họ cần để sống, trong khi nhiều người dân khác đang chết đói”.
ĐTC cũng kêu gọi làm sao để chủ đề của cuộc triển lãm quốc tế này không phải chỉ là một đề tài mà thôi, cần làm sao để những người viếng thăm cuộc triển lãm 2015 này thực sự cố gắng giữ trong tâm trí ”khuôn mặt những người nam nữ đang bị đói và những người đau yếu hoặc thiệt mạng vì quá nghèo hoặc vì thiếu dinh dưỡng” (CNS 1-5-2015)
- Viết bởi Vũ Văn An
Hoa Kỳ- Nhân kỷ niệm 40 năm ngày Sài Gòn thất thủ, Báo Chí Hoa Kỳ “trăm hoa đua nở” đủ thứ chuyện về biến cố này. Tờ The Seatle Times, chẳng hạn, ca tụng cựu thống đốc Dan Evans về chính sách chào đón người tị nạn Việt Nam tới tiểu bang Washington. Lúc đó là hàng ngàn, nay là gần 70,000 người Việt tại đây. Điều đáng lưu ý là: Evans nổi giận khi nghe thống đốc Jerry Brown của California không muốn nhận người tỵ nạn Việt Nam, ông gửi Ralph Munro, phụ tá đặc biệt của ông, tới Camp Pendleton gần San Diego, nơi những người Việt Nam đầu tiên được chào đón trong các “đô thị” bằng lều. Ông khuyến khích các cơ quan chính phủ tiểu bang đáp ứng lời kêu gọi của Tổng Thống Ford đón tiếp người tỵ nạn Việt Nam. Chính ông đón tiếp 500 người tỵ nạn đầu tiên tới tiểu bang Washington…
Tờ USA Today thì cho hay: 40 năm sau ngày thất thủ, “lá cờ của Sài Gòn” vẫn là một vấn đề. Tờ này cho rằng lễ tưởng niệm biến cố này dự tính được tổ chức tại Căn Cứ Thủy Quân Lục Chiến Pendleton đã bị hủy bỏ, vì lý do chính phủ Hoa Kỳ không cho phép trương lá cờ vàng đỏ của Nam Việt Nam trước đây tại căn cứ này.
Việc hủy bỏ trên gây phẫn nộ nơi cộng đồng người Việt. Và có người phát động một chiến dịch trên change.org yêu cầu tiếp tục tổ chức lễ mà không có lá cờ. Dĩ nhiên, điều này không được cộng đồng Việt hưởng ứng, vì nếu thế thì việc tưởng niệm mất hết ý nghĩa.
Các nhà tổ chức người Việt đã tổ chức biến cố tại nhiều nơi khác, như tại sân túc cầu của Trung Học Garden Grove, nơi Cờ Vàng sẽ tung bay và bài quốc ca cũ sẽ vang lên. Nhưng việc này bị các thế hệ người Việt cao tuổi hơn chỉ trích, cho là một nhượng bộ các tình cảm phản chống cộng và lỡ một dịp để cám ơn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.
Tờ này cho rằng lá cờ Vàng, tuy bị hầu hết các quốc gia trên thế giới quên bỏ, nhưng vẫn là một di sản hết sức sống động và là một biểu hiệu chống cộng mạnh mẽ của người Việt tỵ nạn. California và ít nhất hơn 10 tiểu bang khác đã nhìn nhận lá cờ này như là biểu tượng của Cộng Đồng Người Mỹ Gốc Việt.
Nhiều học giả về Việt Nam cũng cho hay người ta không ngạc nhiên khi lá cờ vẫn còn gây xúc động mạnh mẽ nơi cộng đồng tỵ nạn từng mất quê hương trong chiến tranh. Nguyễn Tú Uyên, phụ tá giáo sư trong Chương Trình Nghiên Cứu Mỹ Á tại Đại Học Tiểu Bang California ở Fullerton cho hay: “Nhiều người thuộc thế hệ cao niên, nhất là những người kinh qua cuộc chiến, đã phải chịu nhiều tàn bạo và nhiều biến cố thương đau trong tay chính phủ Cộng Sản. Thành thử nối kết với biểu tượng của điều đã mất là một cách đối phó đối với họ”.
Bùi Chúc Quyên Di, 68 tuổi, một giảng viên tiếng Việt tại Đại Học UCLA nói rằng lá cờ hợp nhất cộng đồng Việt Nam hải ngoại khắp thế giới như là biểu tượng văn hóa, lịch sử, mất mát và biết ơn chung. “Khi cho giương cao lá cờ, chúng tôi cũng muốn giương cao linh hồn các chiến sĩ của chúng tôi” .
Ký giả Chris Leadbeater, nhân chuyến thăm Việt Nam 40 năm sau khi Sài Gòn thất thủ, nhận định rằng cuộc sống vẫn diễn tiến, nhưng chia rẽ vẫn còn thấy rõ. Nhìn cảnh thành phố sinh hoạt nhộn nhịp, ông tự hỏi phải chăng nơi đây từng diễn ra cảnh tranh chấp đầy chấn động của ý thức hệ lệch lạc, của bất nhân và gần 4 triệu người chết? Vào một ngày nắng đẹp như thế này trên đường Đồng Khởi (Tự Do cũ), tại một thành phố đã bước vào thế kỷ 21, hình như cuộc tranh chấp trên chỉ còn là cơn ác mộng phai mờ.
Tuy thế, theo ông, vẫn dễ tìm thấy những vang dội của nó, trong Dinh Độc Lập, tại Viện Bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh, một thứ góp nhặt “một mắt” về 20 năm tranh chấp.
Ra Hà Nội, dù có “đổi mới”, ông vẫn thấy Hồ Chí Minh, con ngựa chiến già, vẫn chiếm vị trí trọng yếu tại Quảng Trường Ba Đình. Huế cũng thế, du khách vẫn còn được dẫn tới thăm “đường vào hỏa ngục” nơi vẫn còn hàng ngàn mìn bẫy chưa nổ. Nội Thành vẫn còn loang lở những vết đạn của Tết Mậu Thân.
Ký giả Chriss W. Street cho chạy hàng tít: “Thất thủ Sàigòn 40 năm sau: cựu chiến binh và người Mỹ gốc Việt tưởng niệm”. Ông cho hay: Cờ Sao Sọc của Hoa Kỳ và Cờ Vàng Đỏ của Cộng Hòa Nam Việt Nam sẽ tung bay khắp California vào tuần này khi 2.7 triệu cựu chiến binh Hoa Kỳ cùng với 1.7 triệu người Mỹ gốc Việt tưởng niệm 40 năm ngày Sài Gòn thất thủ.
Tại San Diego, 2 bó hoa sẽ được liệng xuống Thái Bình Dương từ hàng không mẫu hạm Midway đã thải hồi. Một bó tôn vinh các chiến binh Hoa Kỳ hy sinh trong chiến tranh Việt Nam, một bó tôn vinh người Nam Việt Nam đã bỏ mình trong suốt 25 năm chiến tranh. Khi Sài Gòn rơi vào tay quân đội Bắc Việt, hàng không mẫu hạm Midway đã mở chiến dịch Frequent Wind di tản các người Mỹ cuối cùng và 125,000 người Việt.
Có ký giả nhắc lại bầu khí mờ mờ nhân ảnh của mấy tuần sau ngày sau Sài Gòn thất thủ. Người ta kháo nhau: “Pháp sẽ trở lại với hai sư đoàn”, “Mỹ sẽ bỏ bom”, “sẽ có chính phủ liên hiệp”, “dù sao mình vẫn là người Việt”, một phát biểu nói lên cả hy vọng lẫn nhẫn nhục… Còn bộ đội miền Bắc? Phần lớn họ nghĩ người ngoại quốc ở Sài Gòn đều là người Nga. Một số trố mắt nhìn sự thịnh vượng của Sài Gòn, nhất là say mê ngắm nghía mấy chiếc đồng hồ, mà ở Miền Bắc chỉ những sĩ quan cấp tá mới có, đặc biệt là các đồng hồ có chỉ ngày, được họ gọi là “đồng hồ có cửa sổ”. Nếu đi đôi, họ thường nắm tay nhau, một cảnh tượng kỳ quặc. Nhưng họ tỏ ra được huấn luyện thuần thục. Khi một ít người kháng cự đến cùng nổ súng vào bộ đội Miền Bắc ở công viên giữa Nhà Thờ Đức Bà và dinh tổng thống, các nhà báo thấy họ lập tức tái bố trí rất nhanh gần như được biên đạo múa balê. Điều ấy nhắc cho người ta nhớ: thời của những du kích quân trang bị thấp kém chống lại các lực lượng quy ước, cỡ lớn, đã qua đi từ lâu lắm rồi. Khi vào Sài Gòn, quân Miền Bắc có đủ những gì một quân đội hiện đại muốn có. Họ có dư thừa xe bọc thép và pháo binh, mọi sự, ngoại trừ không lực. Nhưng đến lúc đó, Nam Việt Nam đâu còn không lực nào!
Có ký giả nhấn mạnh tới sự kiện: Nam Việt Nam là một xứ sở dài mà lại mỏng, thường xuyên bị hở cạnh sườn. Họ phải tự bảo vệ ở mọi nơi, nên không thể làm thế nếu không có tính lưu động và hỏa lực do Hoa Kỳ cung cấp. “Nhưng vòi cung cấp sự trợ giúp ấy đã bị khóa lại… Nền kinh tế miền Nam tan rã, (Tổng Thống Thiệu) mất luôn sự ủng hộ của Công Giáo mà thông thường vẫn có, và người Phật Giáo càng ngày càng ra xa lạ, cũng như các người ôn hòa và trung lập trong cái gọi là ‘Lực Lượng Thứ Ba’”…
Ký giả này cho rằng Miền Bắc cũng có những lo lắng và khó khăn của họ sau Hiệp Định Paris, đến nỗi George J Veith trong “Black April” cho rằng: Hà Nội cảm thấy họ chỉ có ít hy vọng thành công, may lắm họ cũng vẫn cần cả hai năm mới thành công. Không ngờ động thái mở màn ở trung nguyên thành công đến nỗi họ quyết định rút ngắn thời gian và chỉ trong hai tháng, Sài Gòn thất thủ. Lỗi lầm dĩ nhiên do tài lãnh đạo của Ông Thiệu và các tướng lãnh Miền Nam, nhưng chủ yếu vẫn là thiếu trừ bị và hoả lực.
Tâm tư các nhà báo ngoại quốc còn ở lại là: tuy không phải tù nhân, nhưng họ cũng không là những đại diện tự do. Đến việc ở lại hay rời Việt Nam họ cũng không được quyền chọn, “họ” quyết định việc này. “Chúng tôi ngưỡng mộ họ và kỷ luật của họ, nhưng có một điều gì đó về thái độ không mềm dẻo của họ khiến người ta nản lòng. Xem ra không thể có chuyện hòa giải quốc gia dựa trên việc có rất ít thỏa hiệp. Nhà báo Ý Tiziano Terzani nói rất đúng: anh cảm thấy “cả một lòng ngưỡng mộ sâu xa lẫn một nỗi sợ sệt tinh tế” rằng cuộc cách mạng này rất gần với ‘biên giới bất nhân’”.
Peter Arnett, giải thưởng Pulitzer, phóng viên chiến tranh của AP và sau này cộng tác với CNN, vừa viết cuốn sách mới “Saigon Has Fallen” thuật lại hơn 10 năm tường thuật về Việt Nam. Theo ông, Đại Sứ Graham Martin không tin phi trường Tân Sơn Nhất hết sử dụng, ông muốn đích thân đi thị sát, vì mục tiêu của ông là phải cứu càng nhiều người Việt Nam càng hay. Thấy quả đúng như thế, ông điện thọai cho Kissinger xin triển khai Phương Án Bốn ngay lập tức và dùng trực thăng di tản những người Mỹ còn lại và càng nhiều người Việt Nam càng hay.
Phương Án Bốn là mã số của Cuộc Hành Quân Gió Thường Xuyên (Frequent Wind), đại qui mô di tản người tới các tầu của Hải Quân Mỹ đậu ngoài khơi. Phần lớn các hành khách của cuộc di tản bằng trực thăng cuối cùng đã được chọn trước, được căn dặn phải lắng nghe dấu hiệu cuối cùng trên Đài Phát Thanh Quân Lực. Mười ba bãi đáp trực thăng đã được chọn khắp Sài Gòn, sử dụng trực thăng nhỏ UH-1 Huey trên nóc các cao ốc và các trực thăng lớn hơn gọi là CH-53 Sea Knights cho các cao ốc Quốc Phòng Mỹ tại phi trường và sân tòa đại sứ.
Nhưng khi các trực thăng bắt đầu xuất hiện trên bầu trời xám xịt để đón những người đã chọn thì hỗn loạn cũng bắt đầu. Ước lượng có đến 10,000 người Việt đổ xô tới tòa đại sứ… Một số bãi đáp đã chọn không hề có một trực thăng nào xuất hiện…
Đại Sứ Martin từ khước không chịu rời tòa đại sứ cho tới người cuối cùng ông thấy có trách nhiệm phải cứu được di tản, chỉ tới khi nhận được chỉ thị của ổng thống Ford, ông mới lên trực thăng ra đi.
Arnett thuật lại việc đồng nghiệp của anh là Esper chứng kiến cảnh trung tá cảnh sát Nguyễn Văn Long, sau khi Dương Văn Minh đọc lời đầu hàng, đã rút súng lục ra, nghiêm chỉnh chào bức tượng người lính Việt Nam Cộng Hòa tại Công Trường Lam Sơn, rồi nổ súng tự sát.
Chiều lại, Arnett đã đánh cho AP bản tường trình sau: “Trong 13 năm tường thuật Chiến Tranh Việt Nam, tôi chưa bao giờ mơ nó sẽ chấm dứt như vào lúc trưa nay. Tôi nghĩ nó sẽ chấm dứt bằng một thương lượng chính trị như ở Lào. Thậm chí một trận đánh kiểu Armageddon biến thành phố thành đống tro tàn. Trái lại là một cuộc đầu hàng hoàn toàn và trong hai giờ sau đó là cuộc gặp gỡ thân tình tại văn phòng AP ở Sài Gòn với một sĩ quan Bắc Việt mang súng và áo trận cùng người phụ tá của ông ta, trong đó chỉ có chai coca ấm áp và chiếc bánh ngọt tầm thường? Chiến Tranh Việt Nam đã kết thúc đối với tôi như thế vào ngày hôm nay”. Sau đó, đường dây liên lạc bị cắt.
Tờ The Guardian có bài khá dài về 40 năm sau ngày thất thủ Siagòn của ký giả Nick Davies. Ký giả này đào sâu một khía cạnh hết sức thời sự ở Việt Nam hiện nay: cuộc chiến thắng của cộng sản chủ nghĩa đã nhường bước cho nạn tham nhũng của tư bản chủ nghĩa.
Ngay khi thua cuộc chiến ở Việt Nam, Mỹ áp đặt một cuộc cấm vận, cắt đứt quốc gia tan hoang vì chiến tranh này không những khỏi xuất nhập cảng của Mỹ mà còn khỏi nhiều quốc gia khác vốn chịu ảnh hưởng của Mỹ. Ngoài ra, Mỹ còn vận động các bộ phận đa quốc như IMF, Ngân Hàng Thế Giói và cả UNESCO từ khước không trợ giúp Việt Nam…
Kết quả, dự án xã hội chủ nghĩa của Việt Nam phải sụp đổ. Từ đầu thập niên 1980, các nhà lãnh đạo buộc phải cho phép nông dân được bán nông phẩm thặng dư và thế là chủ nghĩa tư bản bắt đầu trở lại. Cuối thập niên 1980, đảng chính thức chấp nhận ý niệm “kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Thay đổi rõ rệt diễn ra trong thập niên 1990: các nhà đầu tư ngoại quốc được phép vào nước và các cơ sở buôn bán tư nhân được khuyến khích: tự do buôn bán, thị trường tự do, lời cho người này, lương cho người nọ. Sau lưng, chính phủ gửi tín hiệu muốn thỏa hiệp với Washington. Họ không còn đòi 3.5 tỷ mỹ kim viện trợ tái thiết hay bồi thường Độc Tố Da Cam và tội ác chiến tranh nữa. Thậm chí còn đồng ý trả ngân khoản 146 triệu mỹ kim do chính phủ cũ nợ của Hoa Kỳ. Qua năm 1994, Hoa Kỳ an lòng đã bỏ cấm vận từng xiết cổ Việt Nam gần 20 năm. Ngân Hàng Thế Giới, Qũy Tiền Tệ Quốc Tế và các cơ sở khác bắt đầu đến trợ giúp. Nền kinh tế bắt đầu tăng 8.4% một năm, và Việt Nam mau chóng trở thành quốc gia xuất cảng gạo hạng nhất thế giới.
Khi chiến tranh chấm dứt, 70% người dân Việt Nam sống dưới mức nghèo đói. Qua năm 1992, giảm xuống cò 58% và tới năm 2000 chỉ còn 32%... Ba thập niên sau “ngày cộng sản chiến thắng”, Việt Nam trở thành thành phần của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hoàn cầu. Tây Phương xét cho cùng đã thắng.
Từ năm 2000, nhịp thay đổi còn gia tốc hơn nhiều và thế cân bằng chính trị cũng thay đổi. Việt Nam chịu bán các công ty do nhà nước sở hữu. Nó cũng ký thoả ước buôn bán với Mỹ, và cuối cùng được gia nhập Tổ Chức Giao Thương Thế Giới (WTO), nhận được nhiều đầu tư và giúp đỡ của ngoại quốc hơn. Ba thập niên sau khi người cộng sản trồi lên như kẻ thắng trận, họ đã trở thành thành viên hoàn toàn hội nhập vào nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hoàn cầu. Xét cho cùng, Tây Phương mới là người thắng cuộc.
Ấy thế nhưng, người nghèo vẫn nghèo, người giầu cứ giầu thêm. Nguyễn Công Khê, cựu chủ bút tờ Thanh Niên, bị thất sủng, vì dám “mò giái ngựa”, nên mất chức. Bây giờ, ngồi “gãi háng” với một trang mạng tin tức tư, vừa nhờ New York Times kêu gọi chính phủ cho phép tự do báo chí, vừa lớn tiếng tố cáo Đảng Cộng Sản Việt Nam phản bội chính nghĩa của họ.
Khê, từng tham gia “cách mạng”, tin rằng thoạt đầu những người làm cách mạng vô sản đã thiết lập một chính phủ với dụng ý tốt là phát triển đất nước và trở nên giầu có một cách công bình, nhưng sự việc trục trặc đâu đó. Nên những kẻ tham gia cách mạng thề sẽ trong sáng, nhưng cuối cùng đã phản bội cam kết và ý thức hệ của mình”. Khê bảo rằng những người này sử dụng các khí cụ tư bản chủ nghĩa để khởi động nền kinh tế, nhưng ông thấy mặt tối của đồng tiền tân tự do: tham nhũng và bất bình đẳng.
Người ta thấy rõ điều đó ngay trên đường phố. Bất kể quá khứ đen tối của nó, Sài Gòn đã phát triển thành một đô thị kinh thương, nhưng dấu hiệu nghèo đói vẫn còn nhan nhản. Ở Đường Đồng Khởi, giai cấp ưu tú mới dám mua một áo thung hiệu Hermes giá 500 mỹ kim, một đồng hồ Versace giá 15,000 mỹ kim, hay một bàn ăn trị giá lên đến 65,000 mỹ kim. Góc đàng kia, trong Khách Sạn Continental, một bữa cơm bằng lương tuần của công nhân, trong một tiệm ăn với cái tên đúng là vả vào mặt Hồ Chí Minh: Le Bourgeois (trưởng giả).
Khê cho rằng cứ 10 mỹ kim gán cho bất cứ dự án công nào thì hết 7 mỹ kim rơi vào túi một ai đó. Thật không? Như thế chả hóa 70% ngân sách Việt Nam bị ăn cắp sao? Quả là thứ ăn cắp đại quy mô đến chóng mặt. Ông ta gật đầu “đâu đó từ 50 tới 70%
Vũ Văn An
- Viết bởi Nguyễn Việt Nam
Istambul - Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ, ông Recep Tayyip Erdogan, đã làm kinh ngạc thế giới với những lời rất mạnh mẽ chống lại quân khủng bố Hồi Giáo IS.
Trong cuộc họp báo chung với tổng thống Iraq Fouad Massoum hôm thứ Tư tại Ankara, ông nói rằng bọn khủng bố IS “là một thứ vi khuẩn đang hoạt động nhằm tiêu diệt thế giới Hồi Giáo của chúng ta. Một chiến lược quốc tế là điều cần thiết để làm ráo nước cái vũng lầy này. Thậm chí nếu bọn Daesh – là từ ngữ chỉ bọn khủng bố IS - có bị tiêu diệt đi chẳng nữa thì một cái gì đó sẽ xuất hiện dưới một chiêu bài khác”
“Vũ khí và tài chính của chúng đến từ đâu? Chúng ta cần phải tập trung vào câu hỏi này”.
Tổng thống Massoum, người đang chỉ huy lực lượng Iraq chiến đấu vất vả để giành lại các vùng đất rộng lớn đã bị mất vào tay IS bao gồm cả thành phố lớn thứ hai là Mosul, lặp lại mô tả của ông Erdogan về nhóm khủng bố này như một thứ vi khuẩn.
"Vi khuẩn này có thể lan từ khu vực này sang khu vực khác. Các nước trong khu vực có trách nhiệm nghiêm trọng".
Ông Erdogan có lẽ biết rõ hơn ai hết nguồn vũ khí của IS là từ đâu ra. Thổ Nhĩ Kỳ đã bị cáo buộc giúp đỡ IS trong giai đoạn đầu của nó, như một đồng minh hữu ích trong cuộc chiến chống lại Tổng thống Syria Bashar al-Assad, người mà Erdogan muốn thấy bị lật đổ. Vũ khí và các chiến binh Hồi Giáo đã từ Thổ Nhĩ Kỳ xâm nhập vào Syria.
Thổ Nhĩ Kỳ cũng bị cáo buộc đã mượn tay quân khủng bố Hồi Giáo IS nhằm triệt tiêu người Kurd trong vùng biên giới phía Nam.
Nguyễn Việt Nam
- Viết bởi Nguyễn Việt Nam
Nam Dương - Bất chấp những phản đối của Tòa Thánh, Liên Hiệp Quốc và nhiều nước trên thế giới, lúc 1 giờ sáng ngày thứ Tư 29 tháng Tư, Indonesia hay còn gọi là Nam Dương đã xử bắn tám người bị kết án vận chuyển ma túy bao gồm hai người Úc, một người Brazil, bốn người châu Phi và một người Indonesia. Cả tám người đã bị bắn chết tại nhà tù Nusakambangan.
Biểu tình đã nổ ra dữ dội tại Úc để phản đối án tử hình và chính quyền Úc đã thực hiện một chiến dịch mạnh mẽ để cứu các công dân của mình. Tuy nhiên, tổng thống Indonesia Joko Widodo, một người ủng hộ hình phạt tử hình cho những kẻ buôn ma túy, đã nhất quyết bác bỏ yêu cầu của Úc. Sáng ngày 29 tháng Tư, Úc đã rút đại sứ về nước để phản đối Indonesia.
Mary Jane Veloso, người Phi Luật Tân được chừa lại không bị bắn trong một trường hợp rất hi hữu. Bà Maria Kristina Sergio, người phụ nữ Phi Luật Tân, là người bị cáo buộc đã nhờ Veloso vận chuyển ma túy đã tự nguyện ra đầu thú hôm thứ Hai 27 tháng Tư. Sáng thứ Ba, chính phủ Phi Luật Tân đã gởi một công hàm ngoại giao “tối khẩn” cho Indonesia đừng bắn Veloso để cô ta có thể ra hầu tòa tại Phi Luật Tân trong phiên xử Sergio. Indonesia đã chấp nhận đề nghị này.
Mary Jane Veloso,, 30 tuổi, là một trường hợp rất thương tâm. Là con út trong một gia đình 5 con, cô lấy chồng từ năm 17 tuổi và đã có hai con trai trước khi bị người chồng bỏ rơi. Cô sang Dubai làm người ở nhưng bị chủ nhà toan tính hiếp dâm. Cô bị bắt hồi tháng Tư năm 2010 vì tội mang 2.6kg bạch phiến vào Indonesia. Tuy nhiên, cô đã luôn khẳng định mình vô tội và cho biết đã bị bà Sergio lừa mang giúp một vali sau khi cô mất công việc tại Malaysia.
Chỉ trong 4 ngày đã có 50,000 chữ ký tại Indonesia và từ 125 quốc gia trên thế giới xin miễn án tử hình cho cô.
Nguyễn Việt Nam
- Trận động đất kinh hoàng tại Nepal – Cùng góp phần cứu trợ
- Khủng bố Hồi Giáo IS chặt đầu và bắn chết thêm 28 tín hữu Kitô Trung Đông
- Theo gương Đức Thánh Cha, Nghị viện châu Âu lên án tội ác diệt chủng của Thổ Nhĩ Kỳ
- Trung Quốc đang mở rộng hai đảo ở Hoàng Sa
- Hàng trăm sinh viên Kitô Giáo bị xử bắn trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh tại Kenya
- Nạn bắt trẻ em cầm súng chiến đấu lên đến mức cao nhất trong năm 2014
- Phi công phụ Airbus A320 đã cố ý lao xuống dãy Alpes gây ra tai nạn thảm khốc
- Tai nạn Airbus A320 của hãng hàng không Germanwings với 150 người tử nạn
- Nơi ở rất quan trọng tại Vanuatu sau trận bão
- Thế giới tưởng nhớ ông Lý Quang Diệu