Tin Giáo Hội Việt Nam
Còn 45 ngày để gởi bài cho cuộc thi viết văn “Hy Vọng & Hoà Giải” do Vatican News Tiếng Việt tổ chức
Vatican News Tiếng Việt
Cuộc thi nhằm khuyến khích mọi thành phần dân Chúa, đặc biệt là các bạn trẻ yêu thích văn chương, tham gia vào hành trình suy tư và viết về những trải nghiệm trong đời mình qua lăng kính của hoà giải, chữa lành, và của niềm hy vọng Kitô giáo.
Tính đến thời điểm hiện tại, cuộc thi đã nhận được sự quan tâm sâu rộng. Hiện đã có 70 tác giả gởi bài dự thi, với tổng cộng gần 170 tác phẩm. Có nhiều bài dự thi là các truyện ngắn hợp lệ và rất chất lượng, nhưng cũng có những bài bị loại vì không hợp với thể lệ cuộc thi, chẳng hạn những bài viết quá ngắn, những bài theo thể loại suy niệm, lịch sử, và chưa có câu từ để trở thành một truyện ngắn, những tác giả nộp chưa đủ 3 tác phẩm... Việc vừa có những tác phẩm chỉnh chu chuyên nghiệp vừa có những bài chưa đạt yêu cầu cho thấy sự quan tâm của nhiều người dành cho cuộc thi, không chỉ từ những tác giả đã có kinh nghiệm viết lách mà còn từ những người mới bắt đầu tập viết hoặc chưa từng có dịp thử sức trong lĩnh vực văn chương. Thêm vào đó, các tác giả tham dự đến từ nhiều giáo phận khác nhau, cả trong nước Việt Nam lẫn cộng đồng người Việt hải ngoại. Sự đa dạng này làm phong phú thêm cho cuộc thi, góp phần tạo nên một sân chơi sáng tạo, thân thiện, và nối kết cho mọi người trong Năm Thánh.
Còn 45 ngày nữa cuộc thi sẽ khép lại. Đây thường là giai đoạn chạy nước rút của các tác giả có kinh nghiệm dự thi tranh giải. Ban tổ chức vẫn đang háo hức chờ đón thêm những tác phẩm chất lượng để chuyển đến ban giám khảo của cuộc thi. Mời quý vị độc giả và tác giả tiếp tục theo dõi và tích cực gởi bài để cùng chia sẻ và lan toả thông điệp sống động về nét đẹp của hoà giải và hy vọng trong hành trình đức tin của mỗi người chúng ta.
Quý vị có thể theo dõi thông báo về cuộc thi tại đây: https://www.vaticannews.va/vi/church/news/2024-12/giai-truyen-ngan-nam-thanh-2025-hy-vong-va-hoa-giai.html
Vatican News
Thông báo được ký bởi Đức cha Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn, Giám mục Giáo phận Bà Rịa, chủ tịch Ủy ban Phụng tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, nhắc lại: Ngày 8 tháng 6 năm 2025, Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích đã ban hành Sắc lệnh phổ biến bản văn phụng vụ để cử hành Thánh lễ cầu cho việc bảo vệ công trình tạo dựng (x. Prot. N. 283/24)”.
Đồng thời, “năm nay, Giáo hội Công giáo kỉ niệm 10 năm công bố Thông điệp Laudato Si’ của Đức cố Giáo hoàng Phanxicô và cũng sẽ cử hành Ngày thế giới cầu nguyện cho việc bảo vệ công trình tạo dựng lần thứ X vào ngày 1 tháng 9 năm 2025”.
Thánh lễ cầu cho việc bảo vệ công trình tạo dựng được đưa vào Sách lễ Rôma, ấn bản mẫu lần thứ ba (2008), nằm trong phần dành riêng cho các “Thánh lễ và lời cầu nguyện trong nhiều hoàn cảnh hoặc cầu cho những nhu cầu khác nhau”, Phần II: Cầu cho lợi ích chung. Việc sử dụng bản văn thánh lễ này được quy định theo Chương VII của Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma và các chỉ dẫn phụng vụ riêng của thánh lễ này.
Trong thông cáo, Đức cha Emmanuel cũng cho biết: “Uỷ ban Phụng tự Hội đồng Giám mục Việt Nam vui mừng phổ biến bản dịch văn bản phụng vụ của Thánh lễ cầu cho việc bảo vệ công trình tạo dựng.” Đồng thời, với tư cách là chủ tịch Uỷ ban Phụng tự, ngài đề nghị các giáo xứ, cộng đoàn dòng tu cùng cử hành Thánh lễ cầu cho việc bảo vệ công trình tạo dựng vào ngày 1 tháng 9 để cùng hiệp thông với Giáo hội hoàn vũ.
Bản dịch văn bản phụng vụ của Thánh lễ cầu cho việc bảo vệ công trình tạo dựng có thể được tìm thấy và tải xuống tại website của Hội đồng Giám mục Việt Nam.
WTGPHN (04/8/2025) – Đức cha Lô-ren-sô Chu Văn Minh, Nguyên Giám mục Phụ tá Tổng Giáo phận Hà Nội, đã an nghỉ trong Chúa lúc 23g00, thứ Hai, ngày 04 tháng 8 năm 2025 tại Toà Tổng Giám mục Hà Nội. Sau đây là nguyên văn cáo phó về sự ra đi của ngài.
TRONG NIỀM TIN VÀO CHÚA KI-TÔ PHỤC SINH
TỔNG GIÁO PHẬN HÀ NỘI VÀ GIA ĐÌNH
TRÂN TRỌNG KÍNH BÁO:
ĐỨC CHA LÔ-REN-SÔ CHU VĂN MINH
Nguyên Giám mục Phụ tá Tổng Giáo phận Hà Nội
Sinh ngày 27 tháng 12 năm 1943
tại Nam Ðịnh
Đã an nghỉ trong Chúa lúc 23g00, thứ Hai, ngày 04 tháng 8 năm 2025
tại Toà Tổng Giám mục Hà Nội
Hưởng thọ 83 tuổi
CHƯƠNG TRÌNH TANG LỄ
Nghi thức tẫn liệm và phát tang
vào lúc 7g00 ngày 05 tháng 8 năm 2025
tại Hội Trường Nhà Các Thánh Tử Đạo
Nghi thức di quan và Thánh Lễ đưa chân
vào lúc 7g30, ngày 05 tháng 8 năm 2025 tại Nhà thờ Chính Tòa Hà Nội
Thánh lễ An táng
vào lúc 8g30, thứ Năm, ngày 07 tháng 8 năm 2025
tại Nhà thờ Chính Toà Hà Nội
Sau Thánh lễ, thi hài Đức Cha sẽ được đưa về an táng tại Nhà thờ Nam Định.
Kính xin Quý Đấng Bậc và Cộng đoàn hiệp lời cầu nguyện cho linh hồn Đức cha Lô-ren-sô.
“XIN MIỄN NHẬN VÒNG HOA”
Tổng Giáo phận Hà Nội và Gia đình đồng kính báo!
—————————
TIỂU SỬ
ĐỨC GIÁM MỤC LÔ-REN-SÔ CHU VĂN MINH
Nguyên Giám mục Phụ tá Tổng Giáo phận Hà Nội
– Sinh ngày 27/12/1943 tại Nam Ðịnh
– Từ năm 1956 – 1960: Học tại Tiểu Chủng viện Thánh Gio-an Hà Nội
– Từ năm 1960 – 1992: Sống tại gia đình và phục vụ tại Giáo xứ Nam Định
– Từ năm 1992 – 1994: Học tại Đại Chủng viện Thánh Giu-se Hà Nội
– Ngày 10/6/1994: Thụ phong linh mục tại Nhà thờ Chính Tòa Hà Nội
– Từ 1994 – 1995: Phục vụ tại Giáo xứ Nam Định
– Từ 1995 – 2000: Du học tại Đại học Urbaniana – Rôma; văn bằng Tiến sĩ Thần học với luận án về Đối thoại liên tôn giữa Công giáo và Phật giáo
– Ngày 02/9/2001: Giáo sư Đại Chủng viện Thánh Giu-se Hà Nội
– Ngày 26/02/2002: Thành viên Hội đồng Tư vấn Tổng Giáo phận Hà Nội
– Ngày 15/10/2002: Giám học Đại Chủng viện Thánh Giu-se Hà Nội
– Ngày 04/8/2003: Phó Giám đốc Đại Chủng viện Thánh Giu-se Hà Nội
– Ngày 01/8/2005: Giám đốc Đại Chủng viện Thánh Giu-se Hà Nội
– Ngày 15/10/2008: Được Đức Giáo hoàng Bê-nê-đic-tô XVI bổ nhiệm làm Giám mục Phụ tá Tổng Giáo phận Hà Nội, hiệu toà Thinisa in Numidia
– Ngày 05/12/2008: Thụ phong Giám mục tại Nhà thờ Nam Định, với khẩu hiệu giám mục: “Servientes in caritate” – “Phục vụ trong Đức Ái” (Gl 5,13)
– Ngày 26/01/2019: Đức Thánh Cha Phan-xi-cô chấp thuận đơn xin từ nhiệm
– Từ năm 2019 – 2025: Hưu dưỡng
– Ngày 04/8/2025: An nghỉ trong Chúa tại Tòa Tổng Giám mục Hà Nội. Hưởng thọ 83 tuổi.
Nguồn: TGP Sài Gòn

TIỂU SỬ
Sinh ngày 01.09.1941, tại Nam Định thuộc Giáo xứ Bách Tính, Giáo phận Bùi Chu.
1958 - 1968: Tu học Đại Chủng viện thánh Giuse Sài Gòn.
14.05.1968: Chịu chức Linh Mục tại Vương cung Thánh đường Đức Bà Sài Gòn, bởi Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình.
1968 - 1972: Du học tại Giáo hoàng Học viện về Thánh nhạc tại Roma, chuyên ngành Bình ca. Tốt nghiệp Magistero ngành Bình ca và cử nhân Thánh nhạc.
1973 - 1994: Cha sở Giáo xứ Đức Hoà.
1994: Về sống tại nhà riêng ở Sài Gòn và giảng dạy Thánh nhạc cho các Đại Chủng Viện, Học viện dòng tại Sài Gòn, Hà Nội …
2018 - Nay: Nghỉ hưu tại nhà riêng thuộc Giáo xứ An Lạc - Sài Gòn.
Nguồn: giaophanmytho.net
Thánh Phaolô TRẦN VĂN HẠNHGiáo dân (1827 - 1859)
Ngày tử đạo: 28 tháng 5
“Tôi là Kitô hữu. Tôi không bao giờ chối đạo.”
Thánh Phaolô Trần Văn Hạnh sinh năm 1827 tại làng Tân Triều, Biên Hòa. Với sắc chỉ cấm đạo vua Minh Mạng ban hành ngày 06/01/1833, gia đình anh Hạnh chạy về giáo xứ Chợ Quán lánh nạn.
Trong hoàn cảnh loạn lạc, với tính khí hiên ngang, quả cảm, anh Hạnh trở thành tay ngang tàng trong giang hồ. Dư luận đồn đại không tốt về anh. Anh giao du với những người chuyên lường gạt, bắt chẹt những người cô thế. Tuy nhiên, Tin Mừng anh tiếp nhận thời thơ ấu vẫn không ngừng nẩy nở trong anh.
Một hôm, anh Hạnh bắt gặp đám du đãng ức hiếp một thiếu nữ. Anh ra tay nghĩa hiệp giải thoát thiếu nữ và buộc bọn du côn hoàn trả tài sản. Từ đó, đám du đãng trở thành đối nghịch và tìm cơ hội phục thù. Bọn này biết Hạnh có đạo, liền tìm đến cửa quan tố cáo.
Anh Hạnh bị bắt, bị tra khảo và bị ghép tội theo giặc Tây. Anh cương quyết phủ nhận việc theo giặc, chỉ một mực nhận mình là người Công giáo. Quan ra lệnh tra tấn anh hết sức dã man để bắt anh nhận tội phản quốc và buộc anh bước qua Thập giá. Nhưng cực hình không làm thay đổi lòng anh. Anh chỉ tuyên xưng một điều: “Tôi là Kitô hữu. Tôi không bao giờ chối đạo.”
Quan thấy lòng dạ cương quyết của anh Hạnh nên ra lệnh xử trảm. Ngày 28/05/1859, chứng nhân đức tin Trần Văn Hạnh bị trảm quyết tại Chí Hòa vào thời vua Tự Đức, khi mới 32 tuổi.
Vị chứng nhân đức tin Phaolô Trần Văn Hạnh được nâng lên hàng đáng kính ngày 13/02/1879, được suy tôn chân phước ngày 27/05/1909 và được tôn phong hiển thánh ngày 19/06/1988.
Tiểu sử Đức Tổng Giám mục Giuse Đặng Đức Ngân
(Theo thông tin HĐGM Việt Nam)
- Sinh ngày 16/06/1957, tại Hà Nội
Cha: Phaolô Đặng Đức Vượng
Mẹ: Maria Trần Thị Xuân
- Từ tháng 03/1981 – 12/1987: tu học tại Đại Chủng viện Thánh Giuse Hà Nội
- Ngày 08/12/1987: được truyền chức linh mục tại Nhà thờ Chính tòa Hà Nội
- Từ 02/1988 – 12/1993: Cha xứ hai giáo xứ Thượng Thụy và Cổ Nhuế
- Từ 1989 – 05/1990: kiêm nhiệm Thư ký Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn
- Từ 01/1994 – 05/1999: du học Roma, văn bằng Tiến sĩ Giáo luật
- Từ 09/1999 – 03/2003: Cha giáo Đại Chủng viện Hà Nội, Giám luật và Phó Giám đốc Đại chủng viện Hà Nội
- Từ 1999 – 2003: Thư ký Đức Hồng Y Giuse Maria Phạm Đình Tụng
- Từ 2000 – 2007: Thư ký Giáo tỉnh Hà Nội
- Từ 2001 – 2003: Đại diện Giám mục về Ngoại vụ Tổng Giáo phận Hà Nội
- Từ 8/2003 – 10/2007: Cha xứ Giáo xứ Chính toà Hà Nội, kiêm Tổng Đại Diện Tổng Giáo phận Hà Nội
- Ngày 12/10/2007: được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI bổ nhiệm Giám mục Lạng Sơn - Cao Bằng
- Ngày 03/12/2007: được truyền chức giám mục tại Nhà thờ Chính tòa Lạng Sơn - Cao Bằng, khẩu hiệu “Ad Gentes - Đến với muôn Dân”.
- Ngày 12/03/2016: được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Đà Nẵng
- Ngày 12/04/2016: nhận sứ vụ Giám mục Chính tòa Giáo phận Đà Nẵng
- Ngày 21/09/2023: được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Huế, kiêm Giám quản Tông Tòa Giáo phận Đà Nẵng
- Ngày 10/11/2023: nhận sứ vụ Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Huế
- Ngày 24/05/2025: kế vị Tổng Giám mục chính tòa Tổng Giáo phận Huế
* Trong Hội đồng Giám mục Việt Nam, Đức Tổng Giám mục Giuse Đặng Đức Ngân giữ trách vụ Chủ tịch Ủy ban Văn hóa HĐGMVN từ tháng 04 năm 2017 tới nay.
VATICAN NEWS TIẾNG VIỆT
Vatican News
Hiện diện trong buổi đặt tượng và làm phép còn có Đức Hồng y Giovanni Lajolo, nguyên Chủ tịch Phủ Thống đốc Thành Vatican và nguyên Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Thành Vatican, người đã giúp để việc đặt tượng thành hiện thực; và một số Giám mục Việt Nam: Đức Tổng Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên, Tổng Giám mục Hà Nội, Đức Cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng của giáo phận Phan Thiết, Đức Cha Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn của giáo phận Bà Ria, Đức Cha Luy Nguyễn Anh Tuấn của giáo phận Hà Tĩnh và Đức Cha Phêrô Kiều Công Tùng của giáo phận Phát Diệm; cùng một số linh mục, tu sĩ và giáo dân.
Tại Vườn Vatican đã có nhiều ảnh Đức Mẹ của nhiều quốc gia khác nhau, được thực hiện bằng những phong cách nghệ thuật khác nhau; ví dụ như Đức Mẹ Guadalupe của Mexico, Đức Mẹ Lujan của Argentina, Đức Mẹ của Ba Lan, và mới nhất là Đức Mẹ của Hàn Quốc.
Tuy nhiên, Đức Mẹ La Vang là “tượng” Đức Mẹ thứ hai được đặt tại Vườn Vatican sau tượng Đức Mẹ của Hoa Kỳ. Tượng được đặt tại vị trí rất đẹp, gần với chuông Đại Năm Thánh 2000, và xa xa phía sau là mài vòm Đền thờ Thánh Phêrô.
Bởi thế, Đức Hồng y Lajolo đã nói rằng tượng Đức Mẹ La Vang này không chỉ là của người Việt Nam, nhưng còn là bổn mạng của mọi người sống trong khu vực này.
Trong nghi thức làm phép tượng, Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng nói rằng “Chúng ta hy vọng rằng với sự hiện diện của tượng Đức Mẹ La Vang ở đây, thì sau này, từ Đức Thánh Cha, hay bất cứ ai đi ngang qua đây, cũng cảm thấy Đức Mẹ như là bổn mạng của khu vực này”.
“Chúng ta tin rằng Đức Mẹ ở nơi đây cũng sẽ chuyển cầu cho tất cả cộng đồng Giáo hội Việt Nam ở khắp nơi. Chúng ta dâng lời tạ ơn Chúa và phó thác cho Đức Mẹ”.
Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng đã xông hương và làm phép tượng giữa lời ca nguyện kính Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa.
Công trình đặt tượng Đức Mẹ La Vang ở Vườn Vatican đã được Giáo hội Việt Nam thao thức từ lâu với mong muốn giới thiệu hình ảnh Đức Mẹ thân thương của dân tộc Việt Nam với Giáo hội hoàn vũ và cách đặc biệt, sự hiện diện của Đức Mẹ Việt Nam ở thủ đô Giáo hội diễn tả sự hiệp thông của Giáo hội tại Việt Nam với Giáo hội hoàn vũ, cũng như những lời kinh Kính Mừng dâng kính Đức Mẹ La Vang cũng là lời cầu nguyện cho Giáo hội hoàn vũ và cho Đức Thánh Cha.
Tượng Đức Mẹ La Vang bằng đá cẩm thạch trắng, xuất xứ từ Quỳ Hợp, Nghệ An, cao 1,6 mét, được đặt trên đế cao 0,6 mét, được điêu khắc tại Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng, bởi nghệ nhân Giuse Trần Văn Giang, và chuyển bằng máy bay sang Roma
Nghệ nhân Giuse Trần Văn Giang đang điêu khắc tượng
Theo lời kể, Đức Mẹ hiện ra tại La Vang lần đầu tiên vào năm 1798 khi những cuộc bắt đạo, bách hại người Công giáo Việt Nam bắt đầu. Nhiều người Công giáo gần thị trấn Quảng Trị đã chạy trốn và tìm nơi ẩn náu trong rừng sâu của La Vang và phải đương đầu với đói khát, đau yếu, bệnh tật vì sống trong cảnh giá lạnh, nơi rừng thiêng nước độc và thú dữ luôn rình rập. Các tín hữu chỉ biết một lòng tin cậy phó thác vào Thiên Chúa và Đức Mẹ. Họ thường tụ họp dưới gốc cây đa cổ thụ, cầu nguyện, lần hạt, an ủi và nâng đỡ nhau. Một hôm đang khi cùng nhau lần hạt kính Đức Mẹ, họ nhìn thấy một người phụ nữ xinh đẹp, mặc áo choàng dài, tay bồng một trẻ nhỏ, có hai thiên thần cầm đèn chầu hai bên. Họ nhận ra đó là Đức Trinh Nữ Maria.
Đức Mẹ âu yếm, bày tỏ lòng nhân từ, và an ủi giáo dân biết vui lòng chịu khó. Mẹ dạy họ hái một loại lá cây có sẵn chung quanh đó, đem nấu nước uống sẽ chữa lành các chứng bệnh. Đức Mẹ lại hứa: “Mẹ đã nhận lời các con kêu xin. Từ nay về sau, hễ ai chạy đến cầu khẩn Mẹ tại chốn này, Mẹ sẽ nhận lời ban ơn”. Sau đó, Mẹ còn hiện ra nhiều lần như vậy để nâng đỡ và an ủi con cái Mẹ trong cơn hoạn nạn trong suốt một trăm năm bị bách đạo.
Nhìn lại lịch sử Hội Thánh tại Việt Nam từ biến cố 30/04/1975, chúng ta không thể không nhận ra vai trò cột mốc của cuộc họp và Thư Mục Vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 1980.
Hội Thánh hai miền Nam Bắc cùng nhau đi theo ánh sáng Công Đồng Vatican II
Công Đồng Vatican II diễn ra trong thời gian đất nước bị chia đôi, Nam Bắc cách ngăn. Trong khi các Giám Mục ở miền Nam đi tham dự Công Đồng thì các Giám Mục ở miền Bắc có khi thậm chí còn không biết là có Công Đồng đang diễn ra. Phải chờ tới khoảng năm 1972 các văn kiện của Công Đồng mới đến tay các Giám Mục ở miền Bắc. Nhưng không dễ để phổ biến và áp dụng các văn kiện của Công Đồng.
Suốt thời kỳ 1954-1975, Hội Thánh ở miền Bắc hoàn toàn bị ngăn cách với bên ngoài nên chỉ biết giáo huấn đã tiếp nhận trước đó trong thái độ đối với chính quyền. Minh hoạ cụ thể nhất của thái độ này là thư của các giám mục họp tại Hà Nội năm 1951. Bức thư này theo giáo huấn của Đức Thánh Cha Piô XI, kết án chủ nghĩa Cộng Sản vô thần và cấm người Công Giáo hợp tác với người cộng sản (thông điệp Divini Redemptoris, 19-3-1937).
Cần nhớ rằng trước năm 1975, có hai Nhà Nước ở hai miền Nam Bắc: miền Nam vẫn còn dưới quyền Nhà Nước “Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” do Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam lãnh đạo, và miền Bắc dưới quyền Nhà Nước “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Sau năm 1975, khi không còn “Nước Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” nữa, thì chỉ còn một Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo, với thủ đô là Hà Nội. Tuy vậy quan hệ trao đổi thông tin và gặp gỡ giữa Hội Thánh ở hai miền Nam Bắc diễn ra rất chậm, vì việc giao thông liên lạc giữa hai miền Nam Bắc còn bị hạn chế cả về hành chánh lẫn phương tiện giao thông.
Hội Đồng Giám Mục Miền Nam Việt Nam họp một lần vào mùa hè 1976 và một lần nữa vào năm 1978 tại Sài Gòn. Cuối năm 1977, Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình, đại diện cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đi Roma họp Thượng Hội Đồng Giám Mục về việc giảng dạy giáo lý. Bài phát biểu của Đức Cha Bình mang tựa đề “giảng dạy giáo lý trong môi trường của một nước theo chủ nghĩa Mác-xít”, đã gây nhiều tiếng vang trong Hội Thánh.
Cuối tháng tư năm 1980, dịp kỷ niệm 5 năm biến cố 30 tháng tư, Hội Đồng Giám Mục toàn quốc họp lần đầu tiên tại Thủ Đô Hà Nội. Đây là một biến cố lịch sử. Cả phía Nhà Nước lẫn nội bộ Hội Thánh đều chờ đợi các Giám Mục đưa ra một giáo huấn cho cuộc sống của Hội Thánh trong chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa do Đảng Cộng Sản lãnh đạo.
Vấn đề được một số người đặt ra cách quyết liệt là yêu cầu các Giám Mục phải rút lại bức thư của các Giám Mục họp tại Hà nội năm 1951 và đưa ra đường lối mới cho Hội Thánh.
Các Giám Mục họp nhau đã cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chứ không theo cách suy nghĩ phàm tục. Chúa Thánh Thần đã mở ra hướng đi mới cho “Hội Thánh trong thế giới hiện nay” qua Công Đồng kết thúc 15 năm trước đó và Hội Thánh ở khắp thế giới đang nỗ lực đi theo. Hướng đi mới này không chọn đối đầu nhưng là đối thoại, không đối nghịch nhưng là đồng hành. Hội Đồng đã thấy ngay con đường phải đi là đối thoại và đồng hành.
Người Công Giáo không có một nước riêng, không có một vùng đất riêng. Người Công Giáo sống trên cùng miền đất với dân tộc mình, cùng chung tay xây dựng đất nước, phục vụ đồng bào của mình, theo ánh sáng Phúc Âm mình đã lãnh nhận khi gia nhập Hội Thánh. Các Giám Mục đã vạch hướng đi cho người Công Giáo Việt Nam là “sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” trong thư mục vụ ngày 1 tháng 5, 1980.
Bức thư này mang giá trị lịch sử không chỉ vì đánh dấu một biến cố, nhưng là một sự chọn lựa có giá trị làm ánh sáng soi đường, tiếp thu ánh sáng của Công Đồng Vatican II. Suốt 45 năm qua, bức thư này vẫn là điểm quy chiếu cho các cuộc trao đổi giữa Nhà Nước với người Công Giáo tại Việt Nam cũng như với Tòa Thánh ở Roma.
Những cột mốc trong quan hệ giữa Nhà Nước Việt Nam với đồng bào Công Giáo và với Tòa Thánh Roma.
Năm 1945, khi cuộc Thế Chiến II vừa kết thúc thì cuộc chiến tranh chống chế độ thuộc địa Pháp bùng nổ giữa một bên là quân đội Viễn Chinh của Pháp và phe quốc gia, một bên là Việt Minh do Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam mang tên là Việt Minh lãnh đạo. Cuộc chiến diễn ra chủ yếu tại miền Bắc Việt Nam.
Năm 1951, vào lúc cuộc chiến lên đỉnh cao, các Giám Mục họp tại Hà Nội đã công bố một bức thư vạch cho người Công Giáo thấy “Việt Minh” chính là Đảng Cộng Sản, và theo giáo huấn của Hội Thánh thì người Công Giáo không được cộng tác với người Cộng Sản.
Dĩ nhiên bức thư này làm cho người Cộng Sản nghi ngờ người Công Giáo Việt Nam là “theo Tây”, và chọn thái độ khắt khe đối với người Công Giáo sau Hiệp Định Genève 1954.
Hiệp định Genève chia đôi đất nước. Miền Bắc dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, miền Nam dưới chế độ Quốc Gia. Thời hạn một năm được ấn định để người Việt Nam được tự do chọn sống ở miền Nam hay miền Bắc: người miền Nam “tập kết “ ra miền Bắc, người miền Bắc “di cư” vào miền Nam. Sau hai năm sẽ tổng tuyển cử để thống nhất đất nước.
Chánh phủ Mỹ giúp phương tiện cho người miền Bắc di cư chuyển vào và định cư tại miền Nam.
Gần một triệu người, đa số là người Công Giáo, rời miền Bắc để vào Nam. Các trại di cư được thiết lập dọc theo các trục lộ chính: quốc lộ số 1; số 4 (từ Sài Gòn đi Miền Tây); số 14 (từ Sài Gòn đi Ban Mê Thuột); quốc lộ 19 (từ Sài Gòn đi Đà lạt). Nhiều trại di cư được thành lập tại Vùng cao nguyên Ban Mê Thuột, vùng Cái Sắn.
Đa số dân di cư là người Công Giáo. Họ qui tụ nhau theo gốc các giáo xứ miền Bắc, và các linh mục từ miền Bắc đi theo giáo dân vào miền Nam. Các sinh hoạt tôn giáo râm ran khắp các trại tạm cư. Các nhà thờ tạm mọc lên, nhiều quả bom không nổ thời chiến đã cung cấp vỏ để dùng làm chuông. Các giáo phận miền Bắc cũng cử các linh mục đại diện để coi sóc giáo dân của mình tại miền Nam. Nhiều giáo phận chuyển các chủng viện vào miền Nam, tiếp tục nhận chủng sinh theo gốc miền Bắc.
Điều khoản tổng tuyển cử và hồi hương trong hiệp định Genève sớm tan như giấc mộng.
Sáu năm sau, 1960, Tòa Thánh đã theo tình trạng thực tế, thành lập hàng Giám Mục Việt nam. Các Vị Giám Mục vốn là đại diện tông tòa trở thành Giám Mục chánh tòa, sáp nhập các trại tạm cư thành định cư dưới quyền các Giám Mục miền Nam, các linh mục cũng sáp nhập theo giáo dân, vài vị Giám Mục di cư được bổ nhiệm làm giám mục chánh tòa tại mấy giáo phận miền Nam (Đức Cha Hoàng Văn Đoàn, ở Qui Nhơn; Đức Cha Phạm Ngọc Chi, ở Đà Nẵng). Các chủng sinh gốc miền Bắc được tự do chọn gia nhập một giáo phận tại miền Nam. Các chủng viện miền Bắc di cư ngưng nhận người mới và tiếp trục sinh hoạt cho tới khi các lớp chủng sinh hiện thời hoàn tất chương trình huấn luyện.
Thế là bộ mặt Hội Thánh tại Việt Nam thay đổi.
Hội Thánh tại miền Bắc mất đi khoảng phân nửa giáo dân. Một số Giám Mục cũng đã “di cư” vào Nam: các Đức Cha Lê Hữu Từ (Phát Diệm), Hoàng Văn Đoàn (Bắc Ninh), Trương Cao Đại (Hải Phòng), Santos Ubierna Ninh (Thái Bình), Phạm Ngọc Chi (Bùi Chu), Đức Cha Jacques (Lạng Sơn); hơn phân nửa số linh mục di cư theo giáo dân. Riêng bốn giáo phận Lạng Sơn, Thái Bình, Hải Phòng và Bắc Ninh vốn được trao cho dòng Đa Minh quản trị, thì bốn vị giám mục và tất cả các linh mục, tu sĩ dòng Đa Minh đều di cư vào miền Nam, một số linh mục thuộc các giáo phận này cũng di cư theo giáo dân, khiến các giáo phận này rơi vào hoàn cảnh cực kỳ khó khăn về mọi mặt.
Trong khi đó thì tại miền Nam, số giáo dân cũng như số linh mục tăng vọt gấp đôi. Trên con đường 300 cây số nối Sài Gòn với Đà Lạt, trước kia chỉ có ba giáo xứ và nhà thờ Biên Hòa, Bảo Lộc, Di Linh thì nay mọc thêm hàng trăm nhà thờ và giáo xứ rải khắp hai bên đường ở Hố Nai, Gia Kiệm, Dốc Mơ, Bảo Lộc.
Quan hệ giữa chính quyền với người Công Giáo trong nước và với Tòa Thánh Rôma Tại miền Bắc
Ở miền Bắc, các nhà thờ vẫn được mở cửa, các linh mục vẫn được cử hành Thánh Lễ và các Bí Tích. Nhưng không nơi nào được mở chủng viện để đào tạo linh mục.
Năm 1956 Đức Khâm Sứ Tom Dooley bị trục xuất. Mọi quan hệ với Tòa Thánh Rôma và Hội Thánh tại các nước bị cắt đứt. Hội Thánh tại miền Bắc hoàn toàn bị cô lập.
Tại Miền Nam
Người Công Giáo miền Bắc di cư vào miền Nam quy tụ theo các giáo xứ gốc ở miền Bắc nên không gây xáo trộn cho các giáo xứ địa phương, họ vẫn giữ nề nếp tập tục riêng.
Năm 1955 một cuộc trưng cầu dân ý đã truất phế quốc trưởng Bảo Đại, thiết lập chế độ cộng hòa với tổng thống Ngô Đình Diệm.
Ngày 15 tháng 02 năm 1956, Toà Thánh đặt Đức Cha Giuseppe Caprio làm Khâm Sai Toà Thánh tại Việt Nam Cộng Hoà. Quan hệ giữa chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa với người Công Giáo và với Tòa Thánh Roma bình thường cho tới 30/04/1975.
Ngày 6 tháng 8 1975, một nhóm người “nhiệt thành” đã xông vào Tòa Khâm Sứ đòi trục xuất Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre. Họ bạo hành túm áo Đức Khâm Sứ lôi ra cổng, đuổi xô Đức Khâm Sứ ra đường Hai Bà Trưng và dọn đường cho chính quyền trục xuất Đức Khâm Sứ còn nhanh chóng hơn thời kỳ 1956 tại miền Bắc nữa!
Tuy nhiên quan hệ giữa chính quyền với người Công Giáo và với Tòa Thánh Roma không vì thế mà bế tắc.
Trước ngày 30/04/1975, tiên liệu tình trạng sẽ bế tắc như với Trung Quốc sau năm 1950 và với miền Bắc Việt Nam sau năm 1954, Đức Thánh Cha đã ủy quyền cho các Giám Mục tại miền Nam được chọn và phong chức giám mục, khi thuận tiện sẽ thông báo cho Tòa Thánh sau. Nhưng sự ủy quyền này sớm trở nên không cần thiết, vì năm 1977 đại biểu của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã có thể đi dự cuộc họp Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Roma, và năm 1980 các Giám Mục Việt Nam có thể đi viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô tại Roma và gặp Đức Thánh Cha (gọi là cuộc viếng thăm định kỳ “ad limina”, mỗi 5 năm một lần).
Dẫu vậy, quan hệ giữa Nhà Nước Việt Nam với Tòa Thánh còn phải chờ đến năm 1989 mới có chuyển biến: Đức Hồng Y Etchegaray được qua thăm Việt Nam với tư cách Đặc Sứ của Tòa Thánh. Cuộc viếng thăm này đã thật sự mở đường cho một hành trình kéo dài tới nay trong việc thiết lập bang giao giữa Nhà Nước Việt Nam với Tòa Thánh.
Từ năm 1993 bắt đầu có cuộc gặp gỡ định kỳ hàng năm giữa phái đoàn của Tòa Thánh với phái đoàn của Nhà Nước để bàn về các vấn đề liên quan giữa hai bên. Cuộc họp này diễn ra luân phiên tại Hà Nội và tại Roma.
Từ năm 2009 thì hai phái đoàn được gọi là hai “ban chuyên môn” để bàn về quan hệ giữa Tòa Thánh với Nhà Nước Việt Nam.
Năm 2011 có chuyển biến quan trọng là Tòa Thánh được cử một vị “Đại Diện thường trực không thường trú”, có thể ở tại Việt nam mỗi lần 30 ngày, không giới hạn số lần, hết 30 ngày thì ra khỏi Việt Nam, để hôm sau lại có thể trở lại.
Năm 2024 có bước chuyển biến mới là Vị Đại Diện thường trực thường trú tại Việt Nam. Với chức danh này thì Vị Đại Diện thường trực có thể làm tất cả công việc của một Sứ thần Tòa Thánh rồi.
Những cột mốc đáng kể nữa là các cuộc viếng thăm Vatican của thủ tướng chính phủ Việt Nam, Chủ Tịch Nước, Bí Thư Đảng, và cả các phái đoàn khác của chính phủ.
Điều gì còn chặn bước việc tiến tới trao đổi Đại Sứ và Sứ Thần Tòa Thánh?
Bao giờ Đức Thánh Cha có thể viếng thăm Việt Nam như các nước khác ở Châu Á Thái Bình Dương?
Những câu hỏi hãy còn mở ngỏ…
Jos. Nguyễn Công Đoan, SJ
Với chủ đề “Những Người Lữ Hành Hy Vọng”, Năm Thánh gióng lên một hồi chuông tha thiết, kêu gọi mỗi người bước vào hành trình hoà giải với Thiên Chúa, với chính mình, và với nhau.
Hành trình của những người lữ hành hy vọng luôn phải băng ngang qua chặng đường của tha thứ và hoà giải. Người lữ hành hy vọng là người có khả năng hướng đến tương lai, chứ không để cho đời mình bị cột chặt vào những đổ vỡ đã xảy ra trong quá khứ.
Mang theo Thập Giá của đời mình, với vô vàn câu chuyện có thể đẫm đầy máu và nước mắt những người lữ hành bước vào cửa Thánh, để mở ra với chân trời thênh thang của hy vọng. Họ mở rộng những cánh cửa đã đóng kín trong chính tâm hồn mình, để tha thứ và đón nhận ơn tha thứ; để đón nhận người khác như chính mình đã được đón nhận, để được chữa lành và có thể ra đi làm những người chữa lành.
“Năm thứ năm mươi là Năm Thánh. Các ngươi hãy công bố lệnh ân xá cho toàn xứ và cho tất cả mọi người” (Lv 25,10).
Với người Việt ở khắp nơi trên thế giới, năm 2025 đánh dấu cột mốc năm mươi năm sau biến cố 1975. Sau 50 năm sống với gánh nặng của bất hoà và đổ vỡ, mất mát và đau thương… việc cử hành Năm Thánh trong Giáo Hội là dịp vô cùng thuận lợi để đồng bào người Việt hướng đến một tương lai bình an và mang nhiều màu sắc hy vọng hơn, cho chính mình và cho cả thế hệ con cháu của mình.
Ngang qua mọi thăng trầm đau khổ, những người có đức tin sẽ nhận ra rằng chính Chúa mới là chủ của mọi dòng lịch sử. Chính sự quan phòng của Thiên Chúa là cội nguồn của mọi niềm hy vọng. Với người Việt, dù sống trên đất nước Việt Nam hay ở khắp nơi trên thế giới, 50 năm là dịp đáng để nhìn lại, để suy gẫm, để tạ ơn, và để cho những vết thương của mình được chữa lành. Năm Thánh là cơ hội để những con người cùng dòng máu và nguồn cội có thể trao cho nhau sự tin tưởng và cùng hướng đến một tương lai hy vọng, cho chính mình và cho cả thế hệ con cháu.
Có lẽ phim tài liệu này phỏng vấn và có nguồn tư liệu về người Việt từ nhiều nước thuộc nhiều châu lục nhất từ trước đến giờ trong số các loại phim của Việt Nam.
Vatican News Tiếng Việt xin trân trọng giới thiệu với quý vị và các bạn phim tài liệu Lữ Hành và Hy Vọng.
Nguồn: VATICAN NEWS TIẾNG VIỆT
Hội đồng Giám mục Việt Nam đã tiến hành Hội nghị thường niên kỳ I năm 2025, tại Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Huế, từ chiều 21 đến ngày 25/4/2025. Sau đây là nguyên văn Biên bản Hội nghị.

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
HỘI NGHỊ THƯỜNG NIÊN KỲ I NĂM 2025
(21/4 - 25/4/2025)
BIÊN BẢN
Hội đồng Giám mục Việt Nam đã tiến hành Hội nghị thường niên kỳ I năm 2025, tại Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Huế, từ chiều 21 đến ngày 25/4/2025. Tham dự Hội nghị có đầy đủ 32 Giám mục đang phục vụ 27 giáo phận tại Việt Nam, cùng với sự hiện diện của Đức Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn và Đức Tổng giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng.
Hội nghị lần này đã diễn ra trong tâm tình hiệp thông và cầu nguyện cách riêng cho Đức Thánh Cha Phanxicô mới về Nhà Cha. Hội đồng Giám mục đã dành phút tưởng niệm, cầu nguyện, dâng thánh lễ và gửi các thông báo để hướng dẫn cộng đoàn dân Chúa tại Việt Nam hiệp thông cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô.
Hội đồng Giám mục hân hoan chào đón Đức cha Giuse Vũ Công Viện, Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Hà Nội; Đức cha tân cử Phaolô Nguyễn Quang Đĩnh, Giám mục phụ tá Giáo phận Hưng Hoá tham dự Hội nghị lần đầu.
Hội đồng Giám mục chào đón Đức Tổng Giám mục Marek Zalewski, Đại diện Toà Thánh thường trú tại Việt Nam và lắng nghe ngài chia sẻ một số công việc liên hệ với Toà Thánh và những thông tin về lễ An Táng Đức Thánh Cha Phanxicô.
Hội nghị cũng chào đón cha Vincent Sénéchal, Bề trên Tổng quyền Hội Thừa sai Paris (MEP). Cha Vincent bày tỏ lòng biết ơn Hội đồng Giám mục Việt Nam đã đặt Bia Tri ân tại Trụ sở chính của Hội Thừa sai ngày 15/12/2024, và trình bày những hoạt động Loan báo Tin Mừng mà Hội đang thực hiện.
Trong Hội nghị lần này, Hội đồng Giám mục đã:
1. Lắng nghe chia sẻ về Văn kiện Chung kết Đại hội thường lệ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục và cùng thảo luận việc xây dựng Hội Thánh hiệp hành tại Việt Nam;
2. Biểu quyết và trao cho Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, Giám mục giáo phận Phan Thiết, Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam, làm Trưởng Tiểu ban Hiệp hành trực thuộc Hội đồng Giám mục;
3. Lắng nghe Uỷ ban Loan báo Tin Mừng trình bày chương trình đào tạo Tác viên Tin Mừng phục vụ cho công cuộc Loan báo Tin Mừng từ nay đến năm 2033, kỷ niệm 500 năm Tin Mừng đến Việt Nam;
4. Lắng nghe Uỷ ban Phụng tự phổ biến sắc lệnh về Kỷ luật liên quan đến các ý chỉ Thánh lễ do Bộ Giáo sĩ ban hành ngày 13/4/2025;
5. Thảo luận, hoàn chỉnh và biểu quyết về một số điều trong bản Qui chế Hội đồng Giám mục Việt Nam;
6. Lắng nghe và thảo luận về Văn bản hướng dẫn việc Tôn kính tổ tiên của Uỷ ban Văn hoá và Uỷ ban Giáo lý Đức tin;
7. Lắng nghe và trao đổi về các nội dung:
- Định hướng mục vụ cho ba năm kế tiếp để xây dựng Hội Thánh hiệp hành và Loan báo Tin Mừng;
- Soạn thảo Niên giám của Giáo Hội Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 65 năm thành lập Hàng giáo phẩm Việt Nam (24/11/1960 - 24/11/2025);
- Khởi công xây dựng cơ sở của Học viện Công Giáo Việt Nam vào ngày 31/5/2025.
Hội đồng Giám mục ấn định Đại hội lần thứ XVI sẽ được tổ chức từ ngày 06 đến ngày 10/10/2025 tại Toà Giám mục Đà Lạt.
Hội nghị kết thúc bằng cuộc hành hương kính viếng Đức Mẹ La Vang, sau đó hiệp thông cùng Tống Giáo phận Huế trong ngày khánh thành, làm phép Toà Tổng Giám mục và Trung tâm Mục vụ.
Trung tâm Mục vụ Tổng Giáo phận Huế, ngày 25/4/2025
TM. Hội đồng Giám mục Việt Nam
Tổng Thư ký
(đã ấn ký)
+ Giuse Đỗ Mạnh Hùng
Giám mục Giáo phận Phan Thiết
