Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Thánh Giá Ngày Giới trẻ Thế giới 2023 đã đến Tây Ban Nha
Trước khi đến Tây Ban Nha, Thánh Giá Ngày Giới trẻ và bản sao bức ảnh Đức Mẹ là Phần rỗi của Dân thành Roma (Maria Salus Populi Romani), hai biểu tượng đồng hành với Ngày Giới trẻ Thế giới, đã thánh du tại Angolo 40 ngày và 40 đêm, từ ngày 8/7 đến 17/8/2021. Sau đó ở Ba Lan từ ngày 21/8 đến 01/9.
Thánh Giá đến biên giới Tây Ban Nha, cụ thể tại giáo xứ Đức Maria thuộc của giáo phận Ciudad Rodrigo. Tại đây đã diễn ra nghi thức chào đón Thánh Giá và bức ảnh Đức Mẹ. Phụ trách lễ đón tiếp hai biểu tượng là các bạn trẻ của Ban Mục vụ Giới trẻ và Ơn gọi của Giáo phận. Trong Thánh lễ được cử hành sau đó, Đức cha Jesús García Burillo, Giám quản Tông Tòa của Ciudad Rodrigo đã khuyến khích các bạn trẻ đừng sợ hãi, nhắc lại lời của tiên tri Isaia: “Hãy can đảm lên, đừng sợ, vì chính Người đến và sẽ cứu các ngươi”. Ngài nói: “Đây là chìa khóa an toàn cho cuộc sống chúng ta: Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng để Chúa đến gần, chúng ta phải mở lòng đón nhận lời Chúa, chúng ta phải lắng nghe Người, nếu không Người sẽ không thể làm được gì”.
Sau Thánh lễ, Thánh Giá được rước đến Plaza Mayor, nơi đã diễn ra buổi hòa nhạc. Hai biểu tượng sau đó đã được giữ trong tu viện của các nữ tu Dòng Cát Minh. Thứ Hai, hai biểu tượng được rước đến đền thánh Covadonga của giáo phận Oviedo. Tại đây mọi người có thể đến kính viếng.
Trong những ngày tiếp theo, Thánh Giá Hành hương và bản sao bức ảnh Đức Mẹ là Phần rỗi của Dân thành Roma sẽ đi qua các miền của Tây Ban Nha, dừng lại tại hầu hết các Giáo phận. Và vào ngày 29/10, kết thúc cuộc hành hương, Thánh Giá của Ngày Giới trẻ Thế giới sẽ đến Ayamonte thuộc giáo phận Huelva. Tại đây Thánh Giá sẽ hiện diện trong Thánh lễ vào lúc 6h30 chiều, tiếp đến là nghi thức chia tay, sau đó Thánh Giá sẽ qua biên giới tại sông Guadiana để đến Bồ Đào Nha.
Thánh Giá Ngày Giới trẻ được thực hiện vào Năm Thánh năm 1983 cao 3,80 mét, và được Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II ủy thác cho giới trẻ thế giới vào Chúa nhật Lễ Lá năm 1984. Thánh Giá đã thánh du trên khắp các châu lục, gần 90 quốc gia. Từ năm 2000, cùng hành hương với Thánh Giá có ảnh Đức Mẹ là Phần rỗi của Dân thành Roma. (CSR_5984_2021)
Ngọc Yến - Vatican News
Giáo hội Công giáo Slovakia trước chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha
Giáo hội Công giáo là Giáo hội Ki-tô lớn nhất tại Slovakia. Trong tổng số gần 5,5 triệu dân Slovakia, tín hữu Công giáo chiếm 65,8%, trong đó 62% thuộc Giáo hội Công giáo Latinh, tương đương với khoảng 3 triệu 345 ngàn người, và 3,8% thuộc Giáo hội Công giáo Hy Lạp, tương đương với khoảng 207 ngàn người.
Lịch sử Giáo hội Công giáo Slovakia
Công giáo đã hiện diện tại Slovakia hơn 1.100 năm. Năm 880, Đức Giáo hoàng Gioan VIII, theo lời thỉnh cầu của hoàng tử Svätopluk, đã thành lập một Giáo phận ở Nitra, Slovakia ngày nay. Giáo phận được đặt dưới sự lãnh đạo của thánh Metodio, tổng giám mục. Sau khi thánh Metodio qua đời, thánh Gorazd kế vị ngài. Trong hơn một ngàn năm phụ thuộc vào các giám mục cư trú trên lãnh thổ của Hungary ngày nay, Slovakia vẫn có nhiều giám mục là người gốc Slovakia.
Sau khi Chế độ quân chủ Áo-Hung tan rã và các quốc gia mới ra đời vào năm 1918, một số thay đổi đã xảy ra trong quyền tài phán về lãnh thổ của Giáo hội. Các ứng viên giám mục được chọn từ các linh mục Slovakia. Một số giáo phận Slovakia đã tách khỏi thẩm quyền của các giám mục của tổng giáo phận ở Esztergom và Eger: họ bắt đầu liên lạc trực tiếp với Roma. Vì thế, trên thực tế, giáo tỉnh Slovakia đã được thành lập: các giám mục tự hợp nhất thành Hội đồng Giám mục Slovakia.
Dưới chế độ cộng sản
Năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, mang lại sự giải phóng cho nhiều quốc gia. Tiếc rằng, Slovakia tiếp tục đau khổ. Chiến tranh kết thúc mang lại một số khó khăn mới. Năm 1948, người dân Slovakia trở thành nạn nhân của cuộc “cách mạng cung điện” của cộng sản. Các cuộc tấn công nhằm vào Giáo hội Công giáo, hàng giáo phẩm và các tín hữu Slovakia. Tình hình bất lợi này tiếp tục cho đến năm 1989. Giáo hội đã bị tước đoạt các tổ chức quan trọng nhất. Một số giám mục bị bỏ tù và những người còn lại bị cô lập tại nơi cư trú, bị hạn chế tiếp cận với thế giới. Hơn 300 linh mục giáo phận bị cấm thi hành công việc mục vụ của họ (nhiều người trong số họ đã bị cách ly hoặc bị đưa đến các trại tập trung và nhà tù). Vào năm 1950, Slovakia có 16 dòng nam với 1.019 tu sĩ sinh hoạt trong 96 tu viện và 24 dòng nữ với 4.253 thành viên tại 168 tu viện. Tuy nhiên, mọi hoạt động của họ đều bị chính quyền cấm: các tu sĩ bị đưa đến các đan viện tập trung và các dòng tu bị cấm nhận tập sinh. Trong thời kỳ bách hại của chủ nghĩa vô thần, một số giám mục, linh mục và giáo dân đã làm chứng cách anh hùng cho đức tin của họ.
Cộng sản sụp đổ
Chế độ cộng sản sụp đổ đã có những ảnh hưởng đến quan hệ giữa Giáo hội và nhà nước theo một số cách. Một trong những dấu hiệu tích cực đầu tiên là việc bổ nhiệm các giám mục mới cho tất cả các giáo phận còn trống không bị cản trở. Cho đến cuối thế kỷ 20, Giáo hội Slovakia có 2 Hồng y, 4 tổng giám mục và 16 giám mục, nhiều hơn bao giờ hết trong lịch sử trước đây của Giáo hội.
Thành lập Hội đồng giám mục Slovakia
Vào tháng 3 năm 1990, Hội đồng Giám mục của Cộng hòa Liên bang Séc và Slovakia (Tiệp Khắc) được thành lập. Ngày 1 tháng 1 năm 1993, nước Cộng hòa Slovakia độc lập được thành lập. Sau đó, các giám mục Slovakia, dẫn đầu là Đức Hồng y Korec, đã yêu cầu Tòa Thánh phê chuẩn một Hội đồng Giám mục Slovakia độc lập. Các giám mục đã nhìn thấy sự khác biệt trong các vấn đề mục vụ và cảm thấy rằng Slovakia có những ưu tiên khác với Cộng hòa Séc.
Tòa thánh đã chấp thuận đơn thỉnh cầu này: vào ngày 23 tháng 3 năm 1993, Tổng trưởng Bộ Giám mục, Đức Hồng y Bernardinus Gantin, đã thành lập Hội đồng Giám mục Slovakia. Sứ thần Tòa thánh, Đức tổng giám mục Giovanni Coppa, đã thông báo điều đó với Đức Hồng y Korec trong thư của ngài vào ngày 2 tháng 4 năm 1993. Trong lời giải thích về lý do của việc thành lập hội đồng giám mục mới, Đức Sứ thần nói: “Đó là vì lợi ích của Giáo hội tại Quốc gia Slovakia yêu quý của chúng ta... và vì sự phát triển hơn nữa của Giáo hội”. Đức cha František Tondra được bầu làm Chủ tịch đầu tiên của Hội đồng giám mục Slovakia.
Trong 20 năm tiếp theo, Hội đồng Giám mục Slovakia đã hoạt động hết sức tích cực. Các giám mục và những cộng tác viên phải giải quyết một số khó khăn, hậu quả kéo dài 40 năm của chế độ cộng sản khi chế độ muốn giải thể Giáo hội và đàn áp đời sống tôn giáo. Hội đồng Giám mục đã thành lập một số ủy ban và hội đồng; các ủy ban này phụ trách về việc tăng cường đời sống Giáo hội, thúc đẩy sự hiểu biết giữa Giáo hội và xã hội dân sự và về việc phổ biến các giá trị Kitô giáo trong mọi lĩnh vực của đời sống. Hiện nay Slovakia có 22 giám mục.
Mối quan hệ của nước cộng hòa Slovakia với Tòa thánh đã được phân định bằng Thỏa thuận cơ bản ký ngày 24 tháng 11 năm 2000 và bằng hai thỏa thuận từng phần liên tiếp.
Cơ cấu của Giáo hội Công giáo ở Slovakia
Giáo hội Công giáo Slovakia gồm hai nghi lễ Latinh và Byzantine. Giáo hội Công giáo Latinh có hai tỉnh - tỉnh phía Tây có trụ sở chính tại Bratislava, bao gồm Tổng giáo phận Bratislava, Tổng giáo phận Trnava, Giáo phận Banská Bystrica, Giáo phận Nitra và Giáo phận Žilina. Tỉnh phía Đông bao gồm Tổng giáo phận Košice, Giáo phận Rožňava và Giáo phận Spiš. Giáo hội Slovakia có một Giáo tỉnh Công giáo Hy Lạp tự quản, đặt trụ sở tại Prešov, bao gồm tổng giáo phận Prešov, giáo phận Bratislava và giáo phận Košice.
Ngoài ra Slovakia còn có một giáo phận tòng nhân, trải rộng toàn bộ lãnh thổ và bao gồm các tín hữu của cả hai nghi lễ: đó là Giáo hạt Quân đội.
Giáo hội Slovakia hiện có 1560 giáo xứ với 3064 linh mục (2425 linh mục triều và 639 linh mục dòng), 28 phó tế vĩnh viễn, 9 tiểu chủng sinh và 311 đại chủng sinh.
Đời sống thánh hiến
Tại Slovakia có rất nhiều dòng tu, đặc biệt là các dòng tiếp tục phát triển đặc sủng của các đấng sáng lập của họ. Đa số là các dòng tại Slovakia là dòng hoạt động, với 103 nam tu sĩ không phải là linh mục (bên cạnh 639 linh mục dòng), 1.905 nữ tu. Các dòng này hoạt động trong các lĩnh vực giáo lý, truyền giáo, giáo dục và đào tạo, y tế sức khỏe, chăm sóc xã hội, hoạt động giới trẻ, hoạt động gia đình, vv. Ngoài ra cũng có 6 hiệp hội đời sống tông đồ, gồm 3 hiệp hội nam và 3 hiệp hội nữ. Bên cạnh đó còn có 4 dòng nữ đan tu hiện diện tại 6 đan viện. Tại Slovakia cũng có 10 tu hội đời với khoảng 350 thành viên nam nữ.
Sứ vụ của Giáo hội Slovakia
Giáo hội Slovakia tham gia vào các sứ vụ dạy giáo lý, bác ái, chăm sóc mục vụ giới trẻ, mục vụ ơn gọi, mục vụ gia đình, chăm sóc người bệnh. Đây là những hoạt động mục vụ đang được chú ý cả trong phạm vi giáo phận / giáo xứ và cấp quốc gia, với sự tham gia của mọi thành phần Dân Chúa (giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân). Thông thường, đây là những lĩnh vực mục vụ có liên quan và cần sự phối hợp (ví dụ giữa mục vụ giới trẻ, mục vụ đại học và mục vụ ơn gọi).
Mục vụ giáo dục
Giáo hội Công giáo ở Slovakia tích cực tham gia vào tiến trình giáo dục ở tất cả các cấp và với các trọng tâm khác nhau. Các trường Công giáo mở cửa cho tất cả những ai muốn học tập. Với giá trị và cách tiếp cận chuyên nghiệp của mình, họ góp phần giáo dục thế hệ tương lai, mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Giáo hội là người thành lập 78 trường mẫu giáo và 100 trường tiểu học, hơn 50 trường trung học, 12 trường dạy nghề trung cấp, 6 trường trung cấp y tế, 11 trường sơ cấp nghệ thuật. Bên cạnh đó Giáo hội có 269 cơ sở trường học bao gồm câu lạc bộ trẻ em học đường, căng tin trường học, trung tâm giải trí, trường học tự nhiên và trường nội trú. Chất lượng giáo dục của Giáo hội được chứng minh bằng thực tế là mỗi năm số học sinh và sinh viên đăng ký vượt quá sức chứa của các trường.
Giáo hội Công giáo Slovakia có một đại học Công giáo với các khoa sư phạm, triết học, thần học và y khoa. Ngoài ra còn có các khoa thần học liên kết với các trường đại học khác ở Slovakia, tất cả đều nằm dưới sự giám sát của Giáo hội Công giáo.
Mục vụ gia đình
Gia đình và việc chăm sóc gia đình là ưu tiên mục vụ của Giáo hội Công giáo ở Slovakia. Ủy ban Gia đình của Hội đồng Giám mục Slovakia đưa ra những cách thức đổi mới việc chăm sóc mục vụ của các gia đình theo tinh thần tái truyền giảng Tin Mừng, thông qua các trung tâm gia đình, các phong trào ủng hộ gia đình, các hiệp hội và các sáng kiến. Đây là các chương trình dành cho các nhóm gia đình khác nhau theo nhu cầu của họ.
Đối với những gia đình yêu cầu cử hành các bí tích, Giáo hội chuẩn bị kỹ hơn trước khi ban các bí tích đó. Ví dụ các khóa học chuẩn bị hôn nhân và cả các cuộc gặp gỡ của cha mẹ trước khi cho con cái họ được rửa tội hoặc rước lễ lần đầu. Đối với sự phát triển thiêng liêng của vợ chồng, Giáo hội có những chương trình về linh đạo hôn nhân và gia đình nhằm khuyến khích việc tạo ra các cộng đoàn gia đình nhỏ trong giáo xứ. Phối hợp với mạng lưới các chuyên gia, các cộng đoàn này cũng đồng hành với vợ / chồng và gia đình gặp khó khăn trong các mối quan hệ, nuôi dạy và các tình huống khó khăn khác.
Mục vụ Giới trẻ
Ủy ban Chăm sóc mục vụ giới trẻ tìm cách sử dụng những cách thức thích hợp để tiếp cận người trẻ, giao tiếp với họ bằng ngôn ngữ họ hiểu, làm chứng tá hơn là lời nói, và cho họ không gian để tự lựa chọn. Các hình thức chăm sóc mục vụ cơ bản cho giới trẻ là các cộng đoàn nhỏ, với các môi trường gần gũi và đón nhận, tạo nên các mối quan hệ cá nhân, là những yếu tố quan trọng trong cuộc sống của một người trẻ.
Ngoài các cộng đoàn giới trẻ giáo xứ do các trung tâm giới trẻ giáo phận điều phối và hiện diện trong tất cả các giáo phận, còn có các cộng đoàn nhỏ giữa giới trẻ giáo xứ tại các trung tâm mục vụ đại học. Để hỗ trợ đời sống thiêng liêng của những người trẻ, Giáo hội tổ chức các sự kiện ở cấp giáo hạt, giáo phận, quốc gia và quốc tế, nơi họ có thể trải nghiệm chứng tá đức tin. Chúng bao gồm các lễ hội, buổi hòa nhạc, hội thảo, bài giảng, dạy giáo lý, hành hương, các buổi cầu nguyện nhóm được tổ chức bởi các phong trào tâm linh, các dòng tu, các cộng đoàn và hiệp hội mới của người trẻ. Bằng cách đó, họ có thể gặp gỡ Chúa Kitô hằng sống trong sự hiệp thông của Giáo hội và mở lòng ra để phục vụ trong các lãnh vực loan báo Tin Mừng khác nhau. Mục đích của một số dự án là khuyến khích những người trẻ phục vụ và tham gia vào cuộc sống của cộng đoàn cụ thể của họ như giáo xứ, thành phố, thị trấn và xã hội.
Hoạt động Bác ái
Liên đới và giúp đỡ những người gặp khó khăn là một phần thiết yếu của đời sống và sứ mạng của Giáo hội. Giáo hội Slovakia cung cấp sự hỗ trợ này thông qua các cơ sở của các tổ chức bác ái cấp giáo phận và giáo xứ. Tất cả các tổ chức bác ái cấp giáo phận ở Slovakia đều được hợp nhất trong Tổ chức Bác ái Công giáo Slovakia, trực thuộc Tổ chức Bác ái Quốc tế.
Tổ chức Bác ái Công giáo Slovakia do Hội đồng Giám mục Slovakia thành lập và nhằm mục đích hỗ trợ những người sống ở các quốc gia khác, đặc biệt trong các trường hợp khẩn cấp đe dọa tính mạng hoặc thiên tai. Sự hỗ trợ này về cơ bản được cung cấp thông qua các cuộc lạc quyên tài chính để thực hiện các dự án đặc biệt được dành cho người nghèo và cung cấp vật liệu cần thiết; ví dụ như Gói Mùa Chay cho Châu Phi vào cuối tháng 5 - 34.000 euro, dự án nhận con nuôi từ xa - thêm hơn 6.187 trẻ em, 21 dự án nhân đạo đã được thực hiện từ năm 2015 và 19 dự án đang tiếp tục.
Hàng năm, các tổ chức bác ái đã giúp đỡ hơn 60 ngàn người - cả ở Slovakia và nước ngoài. Họ điều hành 318 cơ sở và nhà ở (nơi ở, ký túc xá, nhà chăm sóc xã hội, căng tin, trung tâm vệ sinh, tiệm giặt là, v.v.), cung cấp dịch vụ chăm sóc xã hội và điều dưỡng tại nhà của người dân, trợ giúp các viện dưỡng lão cũng như các nhà nuôi dưỡng và các trung tâm xã hội hóa. Các tổ chức bác ái của giáo xứ cũng đóng một vai trò quan trọng: họ giúp đỡ mọi người trong những khó khăn và đau khổ hàng ngày của họ thông qua tư vấn và hỗ trợ những người yếu đuối, bệnh tật và cao niên.
Thông qua các dòng tu hoặc nhiều tổ chức khác của mình, Giáo hội cũng cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế và giảm đau. Giáo hội điều hành 7 bệnh viện, 37 phòng khám, 69 nhà cho người già, người khuyết tật và trẻ vị thành niên, 10 nhà trẻ mồ côi.
Trong số các hoạt động bác ái khác, sáng kiến “Tin Mừng” của Phong trào Cộng đoàn Trẻ em Ki-tô giáo, mỗi dịp Giáng sinh, lạc quyên được một số tiền đáng kể cho các dự án phát triển ở Châu Phi. Trong lần thứ 26 phong trào đã thu được 569.445,50 euro.
Hoạt động Truyền thông
Giáo hội Công giáo ở Slovakia cũng thực hiện lệnh truyền rao giảng Tin Mừng đến mọi nơi thông qua các phương tiện truyền thông xã hội, báo chí, internet và các hình thức truyền thông mới. Hội đồng Giám mục Slovakia có văn phòng báo chí riêng, mục đích là cung cấp thông tin cập nhật về đời sống của Giáo hội Công giáo ở Slovakia và trên thế giới.
Giáo hội Slovakia cũng là đồng sở hữu của đài truyền hình LUX, đài truyền hình Công giáo đầu tiên ở Slovakia. Truyền thông Công giáo Slovakia còn có đài phát thanh Radio Lumen, Radio Maria, hai tuần báo, và cả chương trình truyền hình internet.
Hồng Thủy - Vatican News
Ngày thứ hai của Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 52
Đức tổng giám mục Hilarion, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của Tòa Thượng phụ Chính Thống Mátxcơva, nhận định: “Người Công giáo và Chính Thống giáo không hiệp nhất trong Thánh Thể, nhưng hiệp nhất với niềm xác tín rằng trong bánh và rượu sau khi truyền phép, chúng ta không chỉ có sự hiện diện tượng trưng của Chúa Kitô, mà là sự hiện diện đầy đủ và thực sự của Người”.
“Chúng ta tin rằng bánh và rượu trong Bí tích Thánh Thể là Mình và Máu thật của Chúa Giê-su Kitô, Chúa chúng ta. Việc cử hành Thánh Thể không chỉ là một kỷ niệm của Bữa Tiệc Ly, mà còn là sự hiện thực hóa của nó đối với mỗi tín hữu tham dự”.
Chứng từ của cha Konstantin Szabó
Tiếp đến là chứng từ của cha Konstantin Szabó, một linh mục Công giáo Hy Lạp đã theo học chủng viện và thụ phong linh mục cách bí mật dưới thời Liên Xô. Năm 1945, theo sắc lệnh của Stalin, các linh mục Công giáo Hy Lạp buộc phải gia nhập Chính Thống giáo. Tuy nhiên, nhiều người đã chống lại sắc lệnh - những linh mục này hoặc bị hành quyết hoặc bị đưa đến các trại lao động. Cha Konstantin đã bí mật theo học riêng các lớp thần học của giáo sư Elemér Ortutay. Khi các cuộc bách hại thường xuyên hơn, thay vì mang tập sách đi học, cha mang kẹo sô-cô-la và hoa, như đi thăm viếng.
Cha Konstantin kể: “Có một thời điểm bước ngoặt, khi tôi nói rằng tôi không thể tiếp tục thêm nữa, và rằng tôi sẽ dừng lại. Khi đó, chú Elemér đã gửi cho tôi một mảnh tin: ‘Kiddo - đây là mật danh của tôi -, hãy cẩn thận và đừng đóng cánh cửa này, vì đôi khi rất khó mở’. Ý nghĩ này của chú đã ở lại với tôi mãi mãi”.
Thánh Thể đang chờ được sống trên hành trình của đời thường
Trong Thánh lễ cuối ngày thứ hai của Đại hội tại trung tâm triển lãm Hungexpo, Đức tổng giám mục Marini nói: “Đại hội Thánh Thể là cơ hội được dành cho mọi tín hữu: Thánh Thể đang chờ được sống trên con đường của đời thường. Sống theo phụng vụ được cử hành có nghĩa là sống theo những gì phụng vụ đem lại cho cuộc sống: ơn tha thứ được cầu khẩn và được ban cho, lời Chúa được nghe, lời tạ ơn được cất lên, Thánh Thể được lãnh nhận”.
“Từ việc cử hành Thánh Thể, chúng ta phải học rằng tương lai của đời sống đức tin của chúng ta không chỉ phụ thuộc vào cách chúng ta cử hành phụng vụ mà còn phụ thuộc vào việc chúng ta biết sống như thế nào từ phụng vụ mà chúng ta cử hành.” Ngài kết luận: “Chớ gì Đại Hội Thánh Thể này dạy chúng ta rằng việc cử hành Thánh Thể luôn luôn là cơ hội để chúng ta thực hiện luật yêu thương mà chúng ta nhận được từ Chúa và Chúa muốn chúng ta truyền lại cho người khác”. (CNA 06/09/2021)
Hồng Thủy - Vatican News
Tài liệu chuẩn bị và hướng dẫn giai đoạn tham vấn của Thượng Hội đồng giám mục
Mục đích các tài liệu
Văn kiện chuẩn bị dài 23 trang và Tài liệu hướng dẫn dài 29 trang. “Văn kiện chuẩn bị” nhắm là “công cụ” hỗ trợ cho giai đoạn đầu tiên của việc lắng nghe và tham khảo ý kiến của Dân Chúa trong các Giáo hội địa phương, từ tháng 10 năm 2021 đến tháng 4 năm 2022.
Tài liệu hướng dẫn, dài 29 trang, là một cẩm nang cung cấp những hỗ trợ cụ thể cho các giáo phận để chuẩn bị cho dân Chúa. Tài liệu này có các lời cầu nguyện trực tuyến, các ví dụ về các Thượng Hội đồng gần đây, một bảng chú giải thuật ngữ cho tiến trình thượng hội đồng. Đây “Không phải là một cuốn sách nội quy”, mà là “một hướng dẫn để hỗ trợ những nỗ lực của mỗi Giáo hội địa phương”.
"Cùng đồng hành"
Hai tài liệu được soạn thảo để trả lời cho câu hỏi cơ bản: “Làm thế nào để thực hiện, ở mọi cấp độ (từ cấp độ địa phương đến cấp độ hoàn vũ) ‘việc cùng đồng hành’, điều giúp Giáo hội loan báo Tin Mừng, phù hợp với sứ mạng đã được trao phó cho Giáo hội; và đâu là các bước mà Chúa Thánh Linh mời gọi chúng ta thực hiện để phát triển như một Giáo hội hiệp hành?”.
Những bước tiến đến hiệp hành
Trả lời câu hỏi này, Ủy ban Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng nhấn mạnh sự cần thiết phải “sống một tiến trình giáo hội có sự tham gia và hòa nhập” mang lại cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người bên lề, cơ hội để diễn tả và được lắng nghe; sau đó để nhận biết và đón nhận sự đa dạng của các đặc sủng và xem xét “cách mà quyền và trách nhiệm được thực thi trong Giáo hội”. Tiếp đến, cần “công nhận cộng đoàn Kitô giáo như một chủ thể đáng tin cậy và đối tác đáng tin tưởng” trong các con đường đối thoại, hòa giải, hòa nhập, tham gia, và cũng để “tái tạo mối quan hệ” với các đại diện của các hệ phái đức tin khác, với các tổ chức xã hội dân sự và các phong trào quần chúng.
Những người rao giảng Tin Mừng tích cực
Tài liệu nhắc lại rằng tất cả những người được rửa tội “đều là những người tham gia tích cực vào việc truyền bá Tin Mừng”; và vì vậy điều cốt yếu là trên hành trình công nghị, các mục tử “đừng ngại lắng nghe Đàn chiên được giao phó cho họ”.
Văn kiện chuẩn bị đưa ra các câu hỏi hướng dẫn việc tham vấn Dân Chúa: “Ngày nay việc ‘việc cùng đồng hành’ được thực hiện như thế nào trong giáo phận của anh chị em?” Do đó tài liệu mời gọi xem lại các kinh nghiệm của từng giáo phận, để ý đến các tương quan giữa giáo dân, linh mục, giáo xứ, và cả giữa các giám mục với các dòng tu, hiệp hội, phong trào, tổ chức…
Các khía cạnh của sự hiệp hành được thực hiện
Cuối cùng, tài liệu trình bày mười chuyên đề chính “nêu rõ các khía cạnh khác nhau của "tính hiệp hành được thực hiện" Những lĩnh vực cốt lõi này cần được khám phá sâu hơn để đóng góp một cách phong phú hơn cho giai đoạn đầu của quá trình tham vấn:
* Những người bạn đồng hành: suy tư xem ai là một phần của điều mà chúng ta gọi là “Giáo hội của chúng ta”;
* Lắng nghe những người trẻ tuổi, phụ nữ, người được thánh hiến, người bị loại bỏ, bị loại trừ;
* Nói ra: suy nghĩ xem trong cộng đồng có cổ võ phong cách giao tiếp đích thực, không hai mặt và cơ hội không;
* Cử hành: suy nghĩ xem việc cầu nguyện và phụng vụ truyền cảm hứng và hướng dẫn một cách hiệu quả việc “cùng đồng hành” của chúng ta như thế nào, và về cách thức cổ võ sự tham gia tích cực của các tín hữu;
* Đồng trách nhiệm trong Sứ mệnh: phản ánh cách cộng đồng hỗ trợ các thành viên dấn thân phục vụ, chẳng hạn như thúc đẩy công bằng xã hội, nhân quyền, hay giữ gìn ngôi nhà chung của chúng ta;
* Đối thoại trong Giáo hội và Xã hội: suy nghĩ lại các địa điểm và phương tiện đối thoại trong các Giáo hội địa phương, với các Giáo phận lân cận, với các cộng đồng và phong trào tôn giáo, với các cơ sở khác nhau, với những người ngoại đạo, với người nghèo;
* Với các hệ phái Ki-tô khác: mối quan hệ của chúng ta với các anh chị em của các hệ phái Ki-tô khác là gì? Những lĩnh vực nào có liên quan, và thành quả cũng như thách thức trong các mối quan hệ của chúng ta là gì?
* Quyền hạn và sự tham gia: quyền hạn được thực thi như thế nào trong Giáo hội địa phương của chúng ta, kinh nghiệm làm việc nhóm là gì; các thừa tác vụ giáo dân được thăng tiến như thế nào?
* Phân định và Quyết định: hỏi xem những thủ tục và phương pháp nào được sử dụng để đưa ra quyết định; quá trình đưa ra quyết định được liên kết với việc thực hiện quyết định như thế nào; những công cụ nào được cổ võ cho việc minh bạch và trách nhiệm giải trình;
* Đào tạo Bản thân trong sự Hiệp hành: về bản chất, nhìn vào việc đào tạo dành cho những người có trách nhiệm trong cộng đồng Ki-tô, để giúp họ có khả năng lắng nghe và đối thoại hơn.(CSR_5967_2021)
Hồng Thủy - Vatican News
Rối Amal, biểu tượng của trẻ em tị nạn sẽ đến Vatican
Rối Amal cao 3,5 mét do Công ty Múa rối Handspring chế tạo, sẽ dừng lại gần tượng đài Angels Unawares - Các Thiên thần không được biết đến - tác phẩm điêu khắc bằng đồng của Timothy Schmalz, mô tả một nhóm người di cư và tị nạn đứng cạnh nhau, vai kề vai, chen chúc trên một chiếc bè.
Rối Amal là hình ảnh một bé gái tị nạn, khởi hành từ Gaziantep, biên giới Thổ Nhĩ Kỳ và Syria vào ngày 27/7, đi vòng quanh châu Âu để tìm mẹ, và cuối cùng đến Manchester, Vương quốc Anh. Như thế, “Little Amal” đại diện cho tất cả trẻ em phải di tản, nhiều em trong số đó bị tách khỏi cha mẹ. Rối Amal sẽ đi hơn 8.000 km để tìm kiếm gia đình của em và để nói lên tiếng nói của các trẻ em phải di tản: “Xin đừng quên chúng con”.
Chào đón “Little Amal” tại Vatican có Đức Hồng y Michael Czerny, Phó Tổng Thư ký phân bộ Di dân và Tị nạn của Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện; và Đức cha Benoni Ambarus, phụ trách về các hoạt động bác ái và di dân của giáo phận Roma.
Nhân dịp này, giáo phận Roma sẽ tổ chức một sự kiện với sự tham gia của hàng chục trẻ em đến từ các giáo xứ của Giáo phận. Sau phần chào đón của Đức cha Ambarus và Đức Hồng y Czerny, sẽ có lời chứng của một trẻ vị thành niên tị nạn đang ở trong một cơ sở Caritas của Giáo phận Roma. Sau đó, các em cùng tham gia làm một cánh diều và dựng lều, hai hoạt động nói lên thảm cảnh và ước mơ của người tị nạn, đặc biệt của các trẻ em. Sự kiện sẽ kết thúc với một bữa ăn nhẹ dành cho tất cả các em và lời chào tạm biệt rối Amal, để rối tiếp tục hành trình xuyên châu Âu.
Chuẩn bị cho sự kiện này, Đức Hồng y Czerny bày tỏ: “Amal to lớn và xinh đẹp, được gặp bạn ấy là một niềm vui”. Ngài cũng nhắc nhở rằng việc gặp gỡ những người di cư dễ bị tổn thương, những người lao động bấp bênh và những người xin tị nạn đòi hỏi nhiều hơn là một cái nhìn”.
Đức Tổng Giám mục Gianpiero Palmieri, Phó Giám quản giáo phận Roma, nhấn mạnh: “Một lần nữa, Giáo hội Roma thúc giục mạnh mẽ sự chú ý của mọi người đối với thảm kịch gia đình ly tán. Chúng ta phải coi đây là ưu tiên khi đề cập đến vấn đề di cư và tiếp đón. Trong vài ngày gần đây, chúng ta chứng kiến thảm trạng của những người Afghanistan rời bỏ đất nước của họ, và của nhiều trẻ vị thành niên được cha mẹ giao cho những người lính nước ngoài để có thể cứu các em”.
Ngọc Yến - Vatican News
ĐTC gặp gỡ một số người tị nạn và vô gia cư
Trong số những người tị nạn và vô gia cư được mời xem phim có hai gia đình tị nạn người Afghanistan mới được di tản khỏi Kabul.
Buổi chiếu phim được tổ chức bởi Tổ chức Laudato si' và ôngEvgeny Afineevsky, đạo diễn bộ phim. Đạo diễn Evgeny đã chào các khán giả xem phim và nhắc lại lịch sử di cư của gia đình ông, từ Nga, sau đó chạy sang Israel và cuối cùng cập bến tại Hoa Kỳ.
Buổi chiếu phim diễn ra trong bầu khí xúc động mạnh mẽ đối với những người có mặt, những người đã hòa nhập vào bi kịch của hơn 30 dân tộc là nạn nhân của các cuộc chiến, các trường hợp khẩn cấp về môi trường và các cuộc bách hại.
Những lời yêu thương và an ủi dành cho người tị nạn
Vào cuối buổi chiếu phim, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đích thân chào hỏi, ôm lấy những người tị nạn. Trong bầu khí thân thương, mỗi người, mỗi nhóm gia đình, đã có thể nhận được những lời an ủi trực tiếp từ Đức Thánh Cha.
Cuộc gặp gỡ với 20 người tị nạn Afghanistan mới chạy thoát khỏi sự hỗn loạn của sân bay Kabul đã diễn ra cách cảm động. Ông Matteo Bruni, giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, đã nói với các nhà báo: “Đức Giáo hoàng đã nói những lời yêu thương và an ủi”.
Có 4 anh chị em tuổi từ 14 đến 20 được đến Ý nhờ sự hỗ trợ của Cộng đoàn thánh Egidio. Những người trẻ này phải rời cha mẹ của họ hiện đang bị mắc kẹt trong các trại tị nạn ở Iran; họ được ủy thác cho một người bà con đã đến Ý một vài năm trước.
Bismillah, người lớn nhất trong số bốn người, đã bày tỏ với Vatican News tầm quan trọng của cảm giác được Đức Thánh Cha chào đón, lắng nghe và thấu hiểu và sự hiện diện của ngài tối nay quan trọng như thế nào trong việc truyền cho họ một hy vọng mới khi đối mặt với tương lai.
Vào cuối cuộc gặp gỡ, những người tị nạn đã tháp tùng Đức Thánh Cha Phanxicô đến chiếc xe nhỏ đang đợi ngài bên ngoài Đại sảnh đường Phaolô VI để đưa ngài trở lại Nhà trọ thánh Marta. (CSR_5997_2021)
Hồng Thủy - Vatican News
Ngày sinh của Mẹ Maria là sứ điệp vui mừng và hy vọng cho thế giới
Các tác giả Tin Mừng không cho chúng ta biết nơi Mẹ Maria sinh ra. Chúng ta chỉ biết rằng Mẹ có họ hàng với bà Elizabeth sống ở miền Giuđêa. Do đó, không phải là không thể nghĩ rằng bản thân Mẹ là người gốc Giêrusalem, theo một truyền thống cổ xưa, có thể được tìm thấy trong Tiền Phúc Âm theo Thánh Giacôbê, cho chúng ta biết về cha mẹ của Đức Trinh nữ, là thánh Gioakim và thánh Anna.
Và ở Giêrusalem, có một ngôi nhà rất cổ xưa được gọi là “Nhà của Thánh Anna.” Gần ngôi nhà này người ta đã dựng lên một nhà thờ mà lễ cung hiến diễn ra vào ngày 8 tháng 9. Lễ kỷ niệm việc cung hiến này được cử hành hằng năm. Ngày lễ này lan rộng đến Constantinôpôli vào thế kỷ thứ năm và sau đó đến phương Tây. Sau đó, ngày lễ Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội đã được thêm vào 9 tháng trước đó, đó là ngày 8 tháng 12. Lễ Sinh Nhật Đức Maria là một trong những lễ lớn của năm phụng vụ Byzantine vì lễ đó khai mạc kế hoạch cứu độ và thực hiện Lời Chúa trong lịch sử con người.
“Kể từ thế kỷ thứ 6, chúng tôi kính nhớ nơi Đức Trinh Nữ Maria được sinh ra, ở Giêrusalem, gần giếng Thánh Tẩy Bézatha, nơi đã chứng kiến sự ra đời của Mẹ Chúa Kitô, là “khởi đầu ơn cứu độ”. Chính tại Vương cung thánh đường Sinh Nhật của Mẹ Maria, Thánh Gioan Damascenô đã tuyên bố kỷ niệm ngày này một cách hân hoan.” [1]
Lễ Sinh Nhật của Đức Trinh Nữ Maria ngày 8 tháng 9 diễn ra đúng chín tháng sau lễ trọng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày 8 tháng 12. Chính vì sự thánh thiện của Đức Trinh Nữ Maria khi còn trong lòng mẹ mà Giáo Hội tổ chức Lễ Sinh Nhật của Mẹ theo phụng vụ của Giáo Hội. Chỉ một Lễ Sinh Nhật khác của một vị thánh được cử hành theo nghi lễ Giáo Hội là Lễ Sinh Nhật của Thánh Gioan Tẩy Giả, là người đã được thánh hiến ngay khi còn trong bụng mẹ khi ngài nhảy mừng trước sự hiện diện của hài nhi Giêsu trong cung lòng Mẹ Maria.
Đức Trinh Nữ Maria đã được gìn giữ khỏi Tội Nguyên Tổ ngay từ khi được tượng thai và vững bền trong suốt cuộc đời mà không phạm tội riêng nào. Dù mãi đến năm 1854 thì Đức Giáo hoàng Pius IX mới chính thức tuyên bố đây là một tín điều của Giáo hội, nhưng tín điều đó đã được cử hành từ thời Giáo Hội sơ khai.
Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê
Nếu Đức Maria đã thực sự thoát khỏi tội lỗi từ lúc tượng thai trong cung lòng mẹ của Ngài là thánh Anna và trong suốt cuộc đời của Mẹ, như những người Công giáo tin tưởng, thì chắc chắn Mẹ đã có một thời thơ ấu thánh thiện và trong trắng đặc biệt. Tài liệu đầu tiên cố gắng thuật lại thời thơ ấu của Mẹ Maria được viết vào nửa sau thế kỷ thứ hai. Mặc dù bị loại khỏi Kinh thánh quy điển, Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê vẫn khá phổ biến trong Giáo hội sơ khai, vì hơn 130 bản sao chép cổ xưa đã được phát hiện. Một số câu chuyện trong đó vẫn tồn tại trong truyền thống Công giáo.
Ngoài việc thuật lại những câu chuyện từ các Tin Mừng quy điển và các đoạn văn trong Cựu ước, tài liệu này có thể còn lưu giữ một số câu chuyện được truyền khẩu trong Giáo hội sơ khai. Các Giáo phụ của Giáo hội dù không tán thành chính bản văn này, nhưng lại minh chứng rằng một số khái niệm cốt lõi về Đức Maria là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội và trọn đời đồng trinh được quyển Phúc Âm này củng cố thêm.
Bản thân tài liệu, còn được gọi là Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê hoặc Phúc âm về Thời Thơ Ấu theo Giacôbê, không phải là quy điển đối với người Công giáo. Một số câu chuyện của Tiền Phúc Âm này có vẻ kỳ quặc và Đức Thánh Giáo Hoàng Gelasius I vào cuối thế kỷ thứ năm đã liệt kê Tiền Phúc Âm này vào số những văn bản bị người Công giáo khước từ. Các học giả hiện đại nói chung không đặt nhiều tin cậy vào tính lịch sử của nó, lại càng ít tin tưởng hơn rằng tác giả của nó là Thánh Giacôbê.
Những thị kiến của Chân Phước Catherine Emmerich
Nhưng những thị kiến chi tiết hơn của Chân phước Catherine Emmerich - sinh ngày 8 tháng 9 năm 1774 và mất năm 1824 - kể về một chuỗi sự kiện thời gian đầu đời của Mẹ Maria rất giống với những sự kiện trong Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê. Những mặc khải tư này sau đó được viết ra bởi Clemens Brentano, là người ngồi bên giường của Vị Nữ Chân Phước, và dù Giáo hội không thấy nơi những mặc khải tư này điều gì trái với Đức tin, nhưng Giáo hội cũng không chính thức xác nhận chúng. Người ta cũng không biết Brentano, vốn cũng biết Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê, đáng tin cậy như thế nào khi viết những lời đúng thực của Chân phước Catherine Emmerich.
Điểm chính của những câu chuyện lần đầu tiên được nêu ra trong Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê nhằm cho thấy rằng Mẹ Maria không chỉ là một trinh nữ khi thụ thai Chúa Giêsu mà vẫn mãi là một trinh nữ, và hơn nữa, hoàn toàn trinh trong trước mặt Thiên Chúa. Người ta nhấn mạnh rằng không điều gì không tinh khiết mà lại được phép thấm nhập vào Mẹ và Mẹ đã được ban cho những tác động trinh trong nhất ngay khi còn là một em bé. Trinh khiết được cho là một phần căn tính của Mẹ Maria, và thánh Giuse, người sau này được chọn làm bạn trăm năm của Mẹ, cũng tôn trọng sự khiết trinh của Mẹ như vậy.
Một số điểm nổi bật của các câu chuyện như sau. Cha mẹ của Mẹ Maria, lần đầu tiên có tên trong văn bản này là Gioakim và Anna, là những người công chính nhưng không có con khi về già. Ông Gioakim giàu có và khi ông lên Đền thờ dâng cúng hào phóng cho Thiên Chúa, ông đã bị từ chối chỉ với lý do ông không có người nối dòng dù là người công chính trong Israel. Vì vậy, trong than khóc, ông đi ra sa mạc ăn chay cầu nguyện xin cho mình và vợ mình được sinh con. Tương tự như vậy, bà Anna, vợ của ông cảm thấy ô nhục về sự son sẻ của mình và bà than thở về tình trạng đau buồn của bà với Thiên Chúa — giống như Hannah, người mẹ hiếm muộn của tiên tri Samuel trong Cựu Ước (1 Samuel 1). Thiên Chúa đã nghe lời cầu nguyện của ông Gioakim và bà Anna và đã gửi các thiên sứ đến cả ông và bà để thông báo về sự ra đời của một đứa trẻ “sẽ được tất cả trần thế nói đến” và người “sẽ phụng sự Thiên Chúa trong những việc thánh suốt mọi ngày của đời nó. ” [2]
So sánh hai văn bản
Thánh Anna khấn hứa sẽ dâng đứa trẻ phục vụ Thiên Chúa. Bà sinh ra một cô con gái, tên là Maria. Trong khi Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê trình thuật việc sinh ra đời thực sự của Mẹ Maria khá ngắn gọn, thì Chân phước Catherine Emmerich lại thoáng nhìn thấy ý nghĩa thánh thiêng của việc sinh hạ đó:
“Trong khoảnh khắc đứa trẻ sơ sinh nằm trong vòng tay của người mẹ thánh Anna, đồng thời tôi thấy đứa trẻ được hiện diện trên thiên đàng trước Ba Ngôi Chí Thánh, và được tất cả thần thánh trên trời chào đón với niềm vui khôn tả. Sau đó tôi hiểu ra rằng em bé được biết đến, bằng một cách siêu nhiên nào đó, cùng với toàn bộ tương lai của em với tất cả những niềm vui và nỗi buồn của em. Maria đã được chỉ dạy về những mầu nhiệm vô hạn, dù vẫn là một đứa trẻ. Chúng ta không thể hiểu được sự hiểu biết này của em, bởi vì sự hiểu biết của chúng ta mọc trên cây thiện và ác. Còn em biết mọi thứ giống như một đứa trẻ biết vú của mẹ mình và biết rằng phải bú từ bầu sữa của mẹ mình.”
Cuộc đời của Đức Trinh Nữ Maria
Theo Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê, khi bé Maria được sáu tháng tuổi, thánh Anna đã đặt bé xuống để xem bé có thể đứng được hay không. Khi bé Maria bước được bảy bước, thánh Anna bế bé lên và kêu lên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa hằng sống của tôi, tôi sẽ không bước đi trên trái đất này cho đến khi tôi dâng con tôi vào đền thờ Chúa.” [3]
Bé Maria được coi là thánh thiện, và thánh Anna đã làm một nơi tôn nghiêm trong buồng ngủ của bé khi cô bé mới được sáu tháng tuổi và không để bất cứ thứ gì uế tạp thấm nhập vào bé. Bé được các tư tế và người dân công nhận là dành riêng cho Thiên Chúa và được định sẵn để được đưa vào Đền thờ. Lần đầu tiên khi cha mẹ bé cân nhắc việc cho bé vào phục vụ Đền thờ năm lên hai tuổi, giống như tiên tri Samuel trong Cựu ước, họ quyết định đợi cho đến khi bé lên ba.
Vào thời điểm đó, cha mẹ đã giao bé Maria cho Đền thờ nuôi dưỡng như họ đã thề hứa:
“Hãy mời những cô con gái Hipri trinh trắng, mỗi em hãy cầm lấy một ngọn đèn, và để các em đứng đó cầm ngọn đèn đang cháy, hầu cho em nhỏ không quay lại, và để tâm hồn em nhỏ được đền thờ của Thiên Chúa chiếm giữ. Và các thiếu nữ đã làm như vậy cho đến khi họ đi vào đền thờ của Thiên Chúa. Thầy tư tế đón bé gái Maria, hôn em và chúc phúc cho em, rằng: Thiên Chúa đã làm rạng danh em muôn thế hệ. Nơi em, vào những ngày cuối cùng, Thiên Chúa sẽ bày tỏ ơn cứu độ của Ngài cho dân Israel. Ông đặt em xuống bậc ba của bàn thờ, và Chúa là Thiên Chúa ban ân sủng cho em; và em nhẩy múa trên đội chân mình, và cả nhà Israel đều yêu mến em.” [4]
Một Trinh nữ của Đền thờ
Bé Maria, được đặt trên bậc thềm của Đền thờ, đã không quay chạy lại với cha mẹ như một đứa trẻ bình thường, vì vậy cha mẹ cô đã lấy làm lạ về điều này như một dấu hiệu cho thấy sự thánh thiện đặc biệt của cô. Chúng ta được kể rằng bé Maria đã cư ngụ trong Đền thờ cho đến khi được mười hai tuổi, và đã được nuôi dưỡng bởi bàn tay của một thiên thần.
Theo Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê, khi Mẹ Maria được mười hai tuổi, các tư tế của Đền thờ quyết định rằng Mẹ nên được kết giao trong hôn nhân. Họ tập hợp những người đàn ông góa vợ thuộc dòng dõi Đavít và đưa cho mỗi người một cây gậy rút thăm. Một con chim bồ câu bay ra khỏi cây gậy của Giuse và đậu trên người ông, cho thấy Thiên Chúa lựa chọn Giuse làm chồng cho Đức Maria trọn đời đồng trinh. Giuse lớn hơn Mẹ Maria nhiều tuổi và có lòng kính sợ Thiên Chúa khi nhận bảo vệ “trinh nữ của Thiên Chúa”, nhưng các tư tế xác nhận rằng ông thực sự đã được chọn, và phải thực hiện trách nhiệm của mình cách nghiêm cẩn.
Trong khi đó, bảy trinh nữ của nhà Đavít, bao gồm cả Mẹ Maria, được chọn để bốc thăm để xem người nào sẽ đan các phần nào của bức màn trướng trong Đền thờ. Rất nhiều sợi chỉ màu tím và đỏ tươi rơi xuống chỗ Mẹ Maria đan, và trong khi Mẹ đang thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng này, Mẹ đã được thiên thần Gabriel đến thông báo với Mẹ rằng Mẹ sẽ là Mẹ của Chúa Giêsu.
Những minh chứng hỗ trợ của lịch sử
Hầu hết các học giả ngày nay đều chỉ ra rằng thiếu bằng chứng lịch sử về việc các trinh nữ phục vụ nghi lễ trong Đền thờ Giêrusalem. Nhưng có một vài dấu hiệu trong ghi chép lịch sử có thể chỉ ra những gì được mô tả về Mẹ Maria và những người bạn đồng hành của Mẹ trong Tiền Phúc Âm theo Thánh Giacôbê. Sách Xuất Hành cho chúng ta biết những người phụ nữ lành nghề của Israel đan màn trướng cho Đền thờ: “Mọi phụ nữ khéo tay đã tự mình dệt, rồi đem những gì đã dệt đến: vải đỏ tía và vải điều, vải đỏ thẫm và vải gai mịn. Mọi phụ nữ có nhiệt tâm và khéo tay thì lấy lông dê mà kéo sợi” (Xuất Hành 35: 25-26). Mishnah, bộ sưu tập lớn đầu tiên các văn bản về các truyền thống truyền khẩu của người Do Thái, lúc đó chỉ ra rằng vai trò này được trao cho các trinh nữ và cũng ngụ ý rằng các trinh nữ này có một vai trò trong Đền thờ.
Ngoài ra, sách Dân số chương 6 đã thiết lập lời thề Nadia: “Thiên Chúa phán với ông Môsê rằng: “Ngươi hãy nói với con cái Israel và bảo chúng: Bất cứ ai, đàn ông hay đàn bà, đã khấn nadia, tức là khấn đặc biệt kiêng cữ để kính Thiên Chúa, thì nó phải kiêng rượu và men nồng: không được uống giấm chua từ chất rượu cũng như giấm chua từ chất men, không được uống mọi thứ nước nho, không được ăn nho tươi cũng như nho khô. Suốt thời gian nó bị ràng buộc bởi lời khấn đó, thì bất cứ thứ gì chiết xuất tự cây nho, từ hột nho cho đến vỏ nho, nó cũng không được ăn. Suốt thời gian nó bị ràng buộc bởi lời khấn, dao cạo không được đụng đến đầu nó; bao lâu chưa mãn thời kỳ khấn đặc biệt để kính Thiên Chúa, thì nó sẽ là người được thánh hiến: nó phải để cho tóc trên đầu mọc tự nhiên. Suốt thời kỳ khấn đặc biệt để kính Thiên Chúa, nó không được tới gần xác chết. Dù là cha mẹ hay anh chị em nó chết, nó cũng không được để cho mình nhiễm uế, bởi vì nó mang trên đầu lời khấn nadia kính Thiên Chúa. Suốt thời kỳ khấn đặc biệt, nó sẽ là người được thánh hiến cho Thiên Chúa”. Lời khấn hứa này đòi hỏi một lối sống thánh thiện dành cho trẻ nhỏ Maria như đã được mô tả trong Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê. Điều này cũng có thể được thực hiện bởi phụ nữ, và phổ biến trong thời kỳ Đền thờ thứ hai. [5]
Thêm chi tiết về thời thơ ấu của Mẹ Maria
Những thị kiến của Chân phước Catherine Emmerich được ghi lại trong Cuộc đời của Đức Trinh Nữ Maria cho chúng ta một bức chân dung sâu sắc về cuộc sống của một thiếu nữ không hề phạm tội thì như thế nào trong Đền thờ:
“Tôi đã nhìn thấy Đức Trinh Nữ Maria trong Đền thờ, luôn luôn thăng tiến trong học tập, cầu nguyện và làm việc. Đôi khi tôi thấy Mẹ ở trong phòng phụ nữ ở với những thiếu nữ khác, đôi khi một mình trong căn phòng nhỏ của Mẹ. Mẹ làm việc, dệt và đan những dải vải hẹp trên những thanh dài để phục vụ Đền thờ. Mẹ giặt giũ và lau xoong nồi. Tôi thường thấy Mẹ trong cầu nguyện và suy niệm. Tôi chưa bao giờ thấy Mẹ trừng phạt hay hành hạ cơ thể của mình – Mẹ không cần điều đó. Giống như tất cả những người rất thánh thiện, Mẹ chỉ ăn để sống, và không dùng thức ăn nào khác ngoại trừ những thứ mà Mẹ đã thề hứa. Bên cạnh những lời cầu nguyện được quy định trong Đền thờ, lòng sùng mộ của Đức Maria còn là một khao khát không ngừng được cứu độ, một tinh thần cầu nguyện luôn mãi trong nội tâm, được thực hiện cách lặng lẽ và dấu ẩn. Trong sự tĩnh lặng của đêm khuya, Mẹ trỗi dậy ra khỏi giường và cầu nguyện với Thiên Chúa. Tôi thường thấy Mẹ khóc trước những lời cầu nguyện của mình và được ánh hào quang bao phủ. Khi Mẹ lớn lên, tôi luôn thấy Mẹ mặc một chiếc váy màu xanh lam lấp lánh. Mẹ che kín mặt khi cầu nguyện, và cũng lấy mạng che mặt khi nói chuyện với các tư tế hoặc đi xuống một căn phòng bên Đền thờ để nhận việc hoặc giao lại những gì Mẹ đã làm. Có những căn phòng như thế này ở ba mặt của Đền thờ; đối với tôi, các phòng này luôn như những phòng thánh. Tất cả mọi thứ đều được cất giữ ở đó mà nhiệm vụ của các thiếu nữ trong Đền thờ là phải trông nom, sửa chữa và thay thế.”
Những câu chuyện này cho thấy cuộc đời của Mẹ Maria là rất thánh thiện và phẩm giá của Mẹ là rất đặc biệt, chúng cũng cho chúng ta thấy được nhân tính của Mẹ. Mặc dù vô nhiễm nguyên tội, Mẹ Maria đã và vẫn đang hoàn toàn là con người và chỉ là con người. Mẹ tỏ ra cho chúng ta thấy rằng vì kinh nghiệm chung của chúng ta về bản tính sa ngã của con người nên chúng ta mới nói rằng: “phạm tội chỉ là chuyện thường tình của con người.” Trong kế hoạch của Thiên Chúa, Mẹ Maria là mẫu mực cho những gì Thánh Irênê thành Lyon đã dạy:
“Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống tràn đầy.” [6]
Vài suy niệm
Mẹ Maria trả lại cho chúng ta hình ảnh của một con người hoàn hảo trong việc Mẹ được tượng thai vô nhiễm nguyên tội.
Ngày lễ này khiến chúng ta nghĩ về sự ra đời của Mẹ Maria trong trần thế như bình minh đi trước ánh sáng cứu độ, là Chúa Giêsu Kitô; giống như hoa nở trên trái đất, vốn tất cả đều bị bao phủ bởi vũng lầy tội lỗi, là bông hoa đẹp nhất từng được nhìn thấy trong vườn hoa bị tàn phá của nhân loại.
Ngày lễ này khiến chúng ta nghĩ đến sự ra đời của thụ tạo thanh khiết nhất, vô tội nhất, hoàn hảo nhất của nhân loại, xứng đáng nhất với ý định mà Thiên Chúa đã ban cho con người khi tạo ra con người theo hình ảnh của Thiên Chúa, giống với Thiên Chúa, là vẻ đẹp tối thượng, sâu thẳm, là vẻ đẹp tuyệt mỹ, vẻ đẹp lý tưởng trong bản tính và nơi hình hài của mình, chân thực trong biểu hiện sống động của thụ tạo đó, đến nỗi người ta có thể thoáng thấy rằng thụ tạo chưa từng có này, một mặt, được tiền định làm nữ hoàng trần thế, và mặt khác, là đối tượng của cuộc đối thoại và của tình yêu của Đấng Sáng Tạo ra mình bằng một sự đáp trả hoàn toàn buông bỏ chính mình, một sự đáp trả thi vị và tràn đầy niềm vui, như trong Kinh Magnificat của Mẹ Maria.
Bằng một kế hoạch thương xót vô hạn, Thiên Chúa đã làm sống lại nơi Mẹ Maria những gì đã bị mất nơi bà Evà: “Chúa Cha rất nhân từ đã muốn sự ưng thuận của
Đấng đã được tiền định làm Mẹ phải có trước khi Chúa Con nhập thể, để như một người nữ đã hợp tác cho sự chết, thì cũng một người nữ hợp tác cho sự sống (Lumen Gentium 56. x. 61)” [7].
Chúa Thánh Thần đã chuẩn bị Mẹ để Mẹ xứng đáng là cung lòng xứng đáng cho Con Mẹ. Và hôm nay, trong ngày dành riêng để tôn kính ân huệ này, tôn kính kiệt tác này của Thiên Chúa, chúng ta vui mừng nói: Mẹ Maria đã sinh ra, Mẹ là Mẹ của chúng ta, Mẹ khôi phục lại nơi chúng ta hình ảnh của nhân loại hoàn hảo trong việc tượng thai vô nhiễm nguyên tội của Mẹ, đáp ứng một cách đáng ngưỡng mộ ý định của Thiên Chúa muốn có cuộc tượng thai nhiệm mầu của một thụ tạo sẽ là Nữ Hoàng của trần thế: “Suốt dọc chiều dài lịch sử, Hội Thánh đã nhận thức rằng Mẹ Maria, vì được Thiên Chúa ban cho "đầy ơn phúc" (Lc 1,28), nên được cứu chuộc ngay từ lúc tượng thai. Đó là nội dung tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội do Đức Piô IX công bố năm l854. Đức Trinh Nữ Diễm Phúc Maria, đã được gìn giữ khỏi mọi tỳ ố nguyên tội ngay từ lúc tượng thai, do ân sủng và tình thương đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng, nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ loài người (DS 2803)” [8].
Thánh Augustinô đã mô tả sự ra đời của Đức Trinh Nữ Maria là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử và vũ trụ, và là khúc dạo đầu thích hợp cho sự ra đời của Chúa Giêsu Kitô. Ngài nói: “Mẹ là bông hoa trong cánh đồng, từ đó đã nở ra một hoa huệ thung lũng quý giá”.
Vị giám mục của thế kỷ thứ tư đó, mà thần học của ngài đã định hình một cách sâu sắc sự hiểu biết của Giáo hội phương Tây về tội lỗi và bản tính con người, khẳng định rằng “nhờ sự ra đời của Mẹ, bản tính nhân loại mà chúng ta thừa hưởng từ cặp cha mẹ đầu tiên đã được thay đổi”.
Thánh Gioan Đamátsô đã dâng lời ca tụng: “Hết thảy mọi người hãy đến, chúng ta hân hoan mừng ngày sinh ra niềm vui sướng của cả thế giới! Hôm nay đây, từ một bản tính thế trần, một thiên đàng đã thành hình dưới thế. Hôm nay đây, việc cứu rỗi đã bắt đầu cho thế giới!”
Trong ngày Đức Maria chào đời, Giáo Hội reo lên: “Ôi lạy Mẹ! Ngày sinh của Mẹ đã đem lại cho thế giới sứ điệp vui mừng và hy vọng. Vì Chúa Kitô Chúa chúng con là Mặt trời soi đường ngay nẻo chính đã từ cung lòng Mẹ sinh ra, Ngài là Đấng huỷ bỏ lời chúc dữ, đem lại muôn phúc lành, Đấng tiêu diệt thần chết và ban phúc trường sinh”.
Vào chính Lễ Kính Sinh Nhật Đức Mẹ 8/9/2004, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã suy niệm về Mẹ như sau: “Phụng vụ hôm nay nhắc lại Sinh Nhật của Đức Trinh Nữ Maria. Lễ này, một lễ rất được dân chúng sùng mộ, khiến chúng ta phải ca ngợi ánh bình minh sáng ngời nhất của Ơn Cứu Độ nơi con trẻ Maria này. Chúng ta chiêm ngưỡng một con trẻ giống như tất cả mọi con trẻ khác, nhưng đồng thời lại độc nhất vô nhị, đó là “một người nữ có phúc hơn mọi người nữ” (Luca 1:42). Mẹ Maria là “nữ tử Sion” vô nhiễm được tiền định làm Mẹ Đấng Thiên Sai.”
Và Mẹ Maria, vì niềm hân hoan và niềm vui của tâm hồn chúng ta, Mẹ không bao giờ ngăn cản ánh mắt của chúng ta hướng nhìn về Mẹ trừ khi để khích lệ chúng ta nhìn cao hơn, hướng tới nhiệm mầu của ánh sáng, của sự thánh thiện và sự sống mà Mẹ đã loan báo khi mới chào đời và Mẹ sẽ ban cho chúng ta: đó là Chúa Kitô, Chúa chúng ta, là Con của Mẹ, và là Con Thiên Chúa, mà chính Mẹ đã nhận được mọi sự từ Ngài. “Đó là mầu nhiệm ân sủng mà chúng ta gọi là Mầu Nhiệm Nhập thể và ngày nay, làm cho chúng ta thấy trước nơi Đức Maria ngọn đèn mang ánh sáng Thiên Chúa, thấy trước cánh cửa qua đó trời cao sẽ hướng về đất thấp, thấy trước Người Mẹ, Đấng sẽ ban sự sống con người cho Ngôi Lời của Thiên Chúa, thấy trước việc chúng ta đạt tới ơn cứu độ.” [9]
Lạy Đức Nữ Vương, xin thương xót chúng con là kẻ có tội và xin đến cứu giúp chúng con. Việc ra đời hiển vinh của Mẹ trong dòng dõi Ábraham, chi tộc Giuđa, hoàng tộc Đavít, không đem lại niềm vui cho cả thế trần đó sao? Xin Mẹ làm cho niềm vui của chúng con được tràn đầy và cũng xin làm cho chúng con sạch mọi tội lỗi. Amen. [10]
Phêrô Phạm Văn Trung chuyển ngữ và biên tập.
[1] nominis.cef.fr. Tài liệu của giáo phận Tarbes và Lộ Đức, Pháp.
[2] Tiền Phúc Âm theo Thánh Giacôbê, chương 4.
[3] Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê, chương 6.
[4] Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê, chương 7.
[5] Megan Nutzman, “Mẹ Maria trong Tiền Phúc Âm theo Thánh Giacôbê.”
[6] media.ascensionpress.com.
[7] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 488.
[8] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 491.
[9] ĐGH Phaolô VI, Bài giảng ngày 8 tháng 9 năm 1964.
[10] Lời cầu nguyện khuyết danh thời Trung cổ
Sinh ra Đức Maria để sinh ra Đức Giêsu
(Suy niệm lễ Sinh Nhật Đức Maria)
Câu chuyện: KIÊN TÂM CẦU NGUYỆN
Tại Pháp, có gia đình sĩ quan M.X. đạo đức, sùng kính Đức Mẹ thật tình, gia đình có bốn người con và thuê hai người giúp việc. Một chị trong hai người giúp lại mắc chứng động kinh, nhà lại nghèo. Bà vợ sĩ quan chỉ muốn sa thải chị ta về quê không mướn nữa, vì sợ con mình có ngày chết oan vì chị ta. Nhưng ông chồng đạo đức, đầy lòng bác ái không chịu, chỉ muốn lưu lại nhà để nâng đỡ một gia đình nghèo túng. Nhân địp tháng Mẹ về, ông sĩ quan đặt hết niềm tin ở Mẹ, rồi báo với vợ cùng làm tuần chín ngày khấn xin với Đức Mẹ cho chị khỏi bệnh. Bà vợ động lòng ưng thuận. Qua tuần chín, chị ở chưa khởi bệnh, bà vợ lại nghi nan và xin thải chị ta về. Ông chồng nhất định lưu lại và cùng với vợ làm thêm tuần chín thứ hai, rồi tiếp tuần chín thứ ba. Ông thường lấy câu Phúc Âm Chúa phán mà giục vợ tin cậy cho vững: “Ai tin sẽ được, ai gõ sẽ mở cho . . .” Sắp mãn tuần chín lần thứ ba. Sau khi dự thánh lễ và hiệp lễ, ông về nhà ở trong phòng riêng, sấp mình trước ảnh Mẹ, thiết tha van nài: “Lạy Mẹ con đã đặt hết niềm tin ở Mẹ, đã đặt hết niềm tin tưởng dâng cả gia đình con cho Mẹ, chẳng lẽ Mẹ bỏ lời con xin? Chẳng lẽ lời thánh Bênađô quả quyết: ‘Xưa nay chưa từng nghe nói ai chạy đến cùng Mẹ mà Mẹ từ chối’. Xin Mẹ thương chị ở gia đình con”. Đức Mẹ đã nhận lời, hôm sau chị ở đã khỏi bệnh, cả nhà vui vẻ mua hoa nến đến nhà thờ xin lễ tạ ơn Mẹ.
Trong tâm tình của những ngày buồn vì đại dịch Covid-19 đang hoành hành, toàn thể Giáo hội long trọng mừng ngày lễ Sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria. Trong phụng vụ Giáo hội chỉ có ba vị được mừng ngày sinh ra đời, tức ngày chào thế gian, đó là Đức Giê-su mừng vào ngày 25/12; Thánh Gioan Tẩy Giả mừng vào ngày 24/6 và hôm nay 8/9, chúng ta mừng sinh nhật Đức Maria. Còn tất cả các thánh mà chúng ta mừng kính trong lịch phụng vụ quanh năm là mừng ngày sinh nhật vào thiên đàng, mừng ngày hiển thánh. Chúng ta rút ra được một vài điểm để suy gẫm trong ngày lễ Sinh nhật Đức Maria hôm nay.
- Thiên Chúa, Đấng tiên liệu mọi sự
Thiên Chúa là Cha đầy lòng nhân hậu và tràn ngập lòng xót thương nên đã luôn luôn tìm mọi cách để cho con người được sống và hạnh phúc. Mặc dầu sau khi sáng tạo con người giống hình ảnh của Thiên Chúa, con người đã phạm tội bất tuân với Ngài, nhưng thay vì giết chết và loại trừ, Thiên Chúa đã có sáng kiến để cứu vớt và giải thoát con người. Chính vì thế, hình ảnh được tiên báo trong Sách Sáng Thế khi con người phạm tội, đó là một người đàn bà sẽ đạp đầu con rắn xưa và sẽ trở thành người mẹ của Đấng Cứu Thế. Do đó, để hình ảnh tiên báo đó được nên trọn vẹn, Thiên Chúa cũng đã có một chương trình, hoạch định cụ thể ngang qua một dòng dõi mà chúng ta được lắng nghe trong bài khởi đầu Tin mừng của Thánh Mathêu nói về Gia phả của Đức Giê-su Ki-tô hôm nay. Trong trình thuật Gia phả này, chúng ta bắt gặp 4 người phụ nữ không mấy tốt đẹp, đó là bà Ta-ma, một người giả làm gái điếm; bà Ra-kháp là gái điểm thứ thiệt; người thứ 3 là bà Rút, một người phụ nữ dân ngoại nhưng sẵn sàng trung thành với mẹ chồng và Thiên Chúa của mẹ chồng; người phụ nữ thứ tư đó là bà Bat-sê-va vợ ông U-ri-gia, ngoại tình và trở thành vợ Vua Đa-vit. Sự xuất hiện của các bà phụ nữ đặc biệt này trong Gia phả Đức Giê-su như muốn nói rằng Đức Giê-su được sinh ra từ dòng máu dân ngoại. Như vậy, đọc Gia Phả Đức Giê-su, chúng ta biết ngay rằng Đức Maria cũng xuất phát từ dòng dõi Vua Đavid. Qua Mẹ, Đức Giê-su được sinh ra. Vì thế,
- Để có sinh nhật Đức Giê-su ắt phải có sinh nhật của Đức Maria
Vì yêu thương con người tội lỗi, nên Thiên Chúa đã muốn cứu con người ngang qua việc trở nên làm người. Nhưng để làm người như con người, Thiên Chúa phải chọn cho mình một người nữ để được sinh ra. Người nữ đó cũng phải có một tổ tiên, một dòng dõi. Người nữ đó cũng phải được chuẩn bị từ trong thai mẫu. Quả thật, để Đức Giê-su trở nên Ngôi Lời Nhập thể trong cung lòng Đức Maria, Thiên Chúa đã có chương trình cụ thể nơi gia đình Gioakim và Anna. Vì thế, giữa gia đình Gioakim và Anna hiếm muộn đã được Thiên Chúa quan phòng và cho xuất hiện một niềm vui. Niềm vui lớn nhất của gia đình Gioakim và Anna, là bà Anna có thai sau những ngày cầu nguyện kiên trì. Sự thánh thiện và kiên nhẫn của gia đình Gioakim và Anna đã trở nên ‘giáo thai’ cho đứa con trong bụng bà Anna. Niềm vui lớn hơn nữa đối với ông bà là ngày đứa con được chào đời. Ngày sinh nhật hay ngày chào đời của Đức Maria báo hiệu sự tốt lành của nhân loại là Mẹ sẽ trở nên cung lòng diệu vời của Con Thiên Chúa, là Đức Giê-su.
Mừng ngày sinh nhật của Đức Maria, chúng ta nhận chân được sự quan phòng và tình thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Từ đây, nơi Mẹ, nơi cung lòng Mẹ, Đức Giê-su, Con Thiên Chúa sẽ được sinh ra và sẽ mang bản tính nhân loại. Nhờ Đức Maria, Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa sẽ làm người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi để cứu chuộc chúng ta. Nhờ sự sinh ra của Đức Maria, nhân loại tội lỗi sẽ được giải thoát trong tương lai ngang qua Con Chí Thánh của Mẹ là Đức Giê-su Ki-tô. Nhờ sự sinh ra của Đức Maria, con rắn ngày xưa, là ma quỷ, là tội lỗi sẽ bị đè bẹp và diệt trừ ngang qua Đức Giê-su, Ngôi Lời Nhập Thể. Nhờ sự sinh ra của Đức Maria, Mẹ đã trở nên người mẹ tuyệt vời, người Mẹ của Thiên Chúa, người Mẹ của Hội Thánh và người Mẹ của mỗi ki-tô hữu. Nhờ sự sinh ra của Đức Maria, chúng ta được đón nhận những hoa quả thơm tho, là các nhân đức, là sự chuyên chăm lắng nghe Lời Chúa và thi hành Lời trong mọi biến cố. Nhờ sự sinh ra của Đức Maria, chúng ta bắt gặp một người mẹ hết tình với con của mình là Đức Giê-su, một người vợ đảm đang và khiêm tốn đối với người chồng là Giu-se. Nhờ sự sinh ra của Đức Maria, chúng ta sẽ bắt gặp một hình ảnh người phụ nữ đã luôn đồng hành với Con Chí Ái của Mẹ trong mọi biến cố cuộc đời, từ lúc sinh ra, sống ẩn dật, rao giảng công khai và chết treo trên Thập Giá. Nhờ ngày sinh nhật của Đức Maria, mỗi chúng ta sẽ được đón nhận một niềm hy vọng và ơn cứu độ là Đức Giê-su, Con Chí Thánh của Mẹ. Do đó,
- Bài học gì cho chúng ta trong ngày sinh nhật của Đức Maria
Mừng ngày sinh nhật của Đức Trinh Nữ Maria cũng là dịp để chúng ta nhớ đến ngày sinh nhật của mỗi người, để chúng ta nhìn vào cuộc đời của mình và tự hỏi với lòng mình rằng: Đã bao lần mừng ngày sinh nhật của tôi? Tôi đã có những thay đổi cách sống như thế nào? Cuộc đời tôi đã làm được gì cho Giáo hội, cho Xã hội, cho gia đình, cho bạn bè và cho tha nhân? Tôi sinh ra trên đời này để làm gì? Tôi sinh ra, tôi lớn lên và tôi làm việc, tất cả có thực sự trở nên hữu ích, trở nên niềm vui, niềm hy vọng cho tha nhân không? Nhờ việc sinh ra nơi trần gian, Đức Maria đã trở nên dấu chỉ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Cho nhân loại, tôi thì sao? Tôi được sinh ra và hiện diện trên trần gian này cũng cố gắng trở nên dấu chỉ của sự bình an, niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Như nhờ sự sinh ra của Đức Maria, Mẹ đã trở nên cung lòng cho Đức Giê-su ngự trị và đã mang Đức Giê-su đến cho mọi người, tôi cũng được mời gọi trở nên ‘nhà tạm’ hằng ngày cho Đức Giê-su ngự trị ngang qua việc lắng nghe Lời Chúa và đón nhận Mình Máu Ngài và sẵn sàng mang Đức Giê-su đến cho mọi người ở mọi nơi mọi lúc. Như Đức Maria, tôi đã chu toàn thế nào trong bổn phận của người chồng, người vợ, người cha, người mẹ và người con tại gia đình? Tôi đã sống thế nào để xứng đáng là những người được Thiên Chúa yêu thương, chọn gọi vào trong hàng Giáo Phẩm, hàng linh mục, chủng sinh và tu sĩ trong bối cảnh của xã hội hôm nay?
Lạy Mẹ Maria, con chúc mừng ngày sinh nhật của Mẹ. Trong ngày sinh nhật của Mẹ, con nhận ra được nhiều điều thật kỳ diệu mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại nói chung, và cho bản thân nói riêng ngang qua sự hiện diện của Mẹ. Mẹ đã được chọn để làm Mẹ của Thiên Chúa bằng một hành trình dài với bao nhiêu đời. Để sinh ra Con Thiên Chúa, Mẹ đã được chuẩn bị cung lòng thật xứng đáng với biết bao nhân đức tuyệt vời. Sự khiêm nhường, kiên trì và can đảm của Mẹ đã trở nên bài học quý giá cho cuộc đời ki-tô hữu chúng con. Xin Mẹ hãy tỏ ra Mẹ là Mẹ của chúng con ngay giờ phút cả và nhân loại đang phải đau buồn và hoang mang bởi cơn đại dịch Covd-19. Xin Mẹ cầu cùng Chúa chúc lành, gìn giữ và ban muôn bình an cho toàn thể thế giới. Xin Mẹ tiếp tục đồng hành với chúng con trong mọi biến cố của cuộc đời, nhất là trong lúc này như Mẹ đã đồng hành với Con Chí Ái của Mẹ. Amen.
Linh mục Phaolô Phạm Trọng Phương
Họp báo giới thiệu Văn kiện chuẩn bị Thượng Hội đồng Giám mục
Sáng thứ Ba, 07/9/2021, Đức Hồng y Mario Grech, Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục, sẽ mở cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh để giới thiệu hai văn kiện liên quan đến Thượng Hội đồng Giám mục thế giới thứ XVI, sẽ tiến hành vào tháng Mười năm 2023 về đề tài: “Tiến đến một Giáo hội đồng hành: hiệp thông, tham gia và sứ mạng”.
Hai văn kiện đó gồm tài liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng Giám mục thứ XVI, sẽ được gửi đến các cơ quan liên hệ để tham khảo ý kiến, tiếp đến là chỉ nam về Thượng Hội đồng Giám mục. Hai văn kiện này do Văn phòng Thượng Hội đồng Giám mục soạn thảo để linh hoạt giai đoạn thứ nhất của hành trình công nghị.
Hiện diện tại bàn chủ tọa cuộc họp báo cũng sẽ có hai vị Phó Tổng thư ký, là nữ tu Nathalie Becquart, người Pháp, thuộc dòng Xavier, và cha Luis Marín de San Martí, người Tây Ban Nha, thuộc dòng thánh Augustinô, cùng với hai giáo sư khác.
Tiến trình khai mạc giai đoạn thứ nhất chuẩn bị Thượng Hội đồng Giám mục sẽ được Đức Thánh cha khai mạc vào ngày 9 và 10/10 tới đây, với sự tham dự của đại diện các Hội đồng Giám mục.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Thánh cha sẽ gặp giáo phận Roma ngày 18/9 tới đây
Đức Thánh cha Phanxicô sẽ gặp đại diện các thành phần Dân Chúa của giáo phận Roma, vào thứ Bảy, ngày 18/9/2021 tới đây, tại Đại thính đường Phaolô VI ở nội thành Vatican.
Đức Hồng y Giám quản Angelo De Donatis đã gửi thông báo cho giáo phận và viết thêm rằng: “Tôi xác tín năm nay sẽ là một khúc quanh, một cơ hội đặc biệt để tăng trưởng cho tất cả chúng ta, cho toàn thể giáo phận. Kinh nghiệm đã trải qua ở Fatima, trong cuộc hành hương mới đây của giáo phận, như một dấu ấn khẳng định nhận thức ấy. Tôi tóm gọn tư tưởng của tôi trong 3 từ, như 3 nét vẽ lớn, vạch trên chân trời của năm mà chúng ta chuẩn bị bắt đầu, đó là Công nghị, Lắng nghe và Kerygma, loan báo Tin mừng cứu độ của Chúa. Trong tư cách là Giáo hội tại Roma, chúng ta cần lắng nghe tiếng kêu của thành phố, lợi dụng sự giảm bớt những hoạt động để mở rộng tai lắng nghe về cuộc sống của người khác, với một thái độ tích cực, đón tiếp và thân hữu”.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu